Tải bản đầy đủ (.docx) (17 trang)

bài tập thương mại (1)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (104.39 KB, 17 trang )

MỞ ĐẦU
Phá sản doanh nghiệp là một hiện tượng thông thường
trong nền kinh tế thị trường với sự cạnh tranh khốc liệt, nó tạo
điều kiện loại bỏ các doanh nghiệp, tổ chức kinh doanh hoạt
động kém hiệu quả và thay vào đó bằng các doanh nghiệp có
hiệu quả hơn, làm lành mạnh và minh bạch môi trường kinh
doanh. Tuy nhiêm thực tiễn cho thấy, việc mở thủ tục phá sản
hiện nay ở nước ta còn đang gặp nhiều vướng mắc, chưa tạo
điều kiện thuận lợi cho việc rút lui “có trật tự” của doanh nghiệp
ra khỏi thị trường. Vì vậy cần phải có các hướng dẫn chi tiết luật
phá sản năm 20144 nói chung và các quy định về mở thủ tục
phá sản nói riêng. Để làm được điều đó trước hêt cần nghiên
cứu, tìm hiểu các quy định liên quan, những bất cập trong quy
định củ pháp luật và kiến nghị một số giải pháp để quy định
của pháp luật được hoàn thiện hơn. Chính vì vậy, em xin chọn
đề tài số 14: “Bình luận các quy định pháp luật hiện hành về
chủ thể nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản” làm đề tài cho bài
tập học kỳ của mình.
NỘI DUNGergrhhghNV
I. Khái quát chung.
1. Khái quát lịch sử hình thành pháp luật phá sản.
Luật phá sản được ra đời từ rất lâu trên thế giới tuy nhiên ở
Việt Nam hệ thống pháp luật phá sản hình thành và phát triển
khá muộn so với các nước trên thế giới cũng như trong khu vực.


Khái niệm phá sản chỉ xuất hiện ở nước ta sau thời kỳ đổi
mới cơ chế kinh tế, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI đã thừa
nhận nền kinh tế thị trường với nhiều thành phần kinh tế và có
những chính sách mới thúc đẩy nền kinh tế thị trường phát
triển.



Văn bản pháp lý đầu tiên liên quan đến gải quyết tình
trạng doanh nghiệp thua lỗ không có khả năng thanh toán đó là
Quyết định số 315/HĐBT ngày 01/09/1990 của Hội đồng Bộ
trưởng . Tuy nhiên những doanh nghiệp thuộc diện này chỉ được
phép giải thể theo quyết định trên, khái niệm phá sản lúc này
vẫn chưa được đặt ra . Đến Luật doanh nghiệp tư nhân và Luật
Công ty được Quốc hội thông qua ngày 21/12/1990 thì khái
niệm phá sản mới chính thức được đề cập tới. Các quy định về
phá sản tiếp tục được hoàn thiện hơn trong các văn bản luật
như: Luật phá sản doanh nghiệp được Quốc hội nước Cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa IX, kỳ họp thứ tư thông qua
ngày 30/12/1993, có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/07/1994;
tiếp đó là luật phá sản năm 2004 được Quốc hội thông qua ngày
15/06/2004 và có hiệu lực thi hành từ ngày 15/10/2004; và hiện
nay đang được sử dụng với nhiều điểm hoàn thiện hơn là luật
phá sản năm 2014 được Quốc hội thông qua và có hiệu lực kể
từ ngày 19/06/2014.
2. Khái niệm phá sản.


Phá sản là một hiện tượng hết sức bình thường, tồn tại tất
yếu và phổ biến trong nền kinh tế thị trường nơi có sự cạnh
tranh lẫn nhau luôn tồn tại.
Dưới góc độ kinh tế, phá sản là một hiện tượng tất yếu
khách quan của nền kinh tế thị trường. Doanh nghiệp, hợp tác
xã bị lâm vào tình trạng phá sản do nhiều nguyên nhân khác
nhau và biểu hiện ra như một sự thất bại trầm trọng về kinh tế
mang tính quyết định đến sự tồn tại của doanh nghiệp, doanh
nghiệp ở trong tình trạng bi đát về tài chính đến mức không

thanh toán được các khoản nợ đến hạn.
Dưới góc độ pháp luật, phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã là
việc doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản với
dấu hiệu đặc trưng là mất khả năng thanh toán nợ đáo hạn.
Doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản chỉ được coi là bị phá
sản khi đã tiến hành thủ tục tuyên bố phá sản.
Việc xác định 1 doanh nghiệp bị mất khả năng thanh toán
được dựa vào 1 hoặc cả 2 tiêu chí sau.
+ Căn cứ vào dòng tiền của doanh nghiệp, hợp tác xã : doanh
nghiệp bị coi là lâm vào tình trạng bị phá sản khi không thanh
toán được các khoản nợ đến hạn phải trả.
+ Căn cứ vào bảng cân đối tài chính của doanh nghiệp, hợp tác
xã : doanh nghiệp bị coi là mất khả năng thanh toán nếu tổng
tài sản của nó ít hơn tổng các khoản nợ
3. Đơn yêu cầu và chủ thể nộp đơn yêu cầu mở thủ tục
phá sản:


Đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản: Nộp đơn yêu cầu tuyên bố
phá sản là thủ tục bắt buộc đầu tiên của trình tự giải quyết yêu
cầu tuyên bố phá sản. Đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản là căn
cứ để Tòa án có ra quyết định mở thủ tục phá sản đối với doanh
nghiệp, hợp tác xã đó hay không?. Đây là một loại văn bản
trong đó thể hiện ý chí của chủ thể làm đơn mong muốn Tòa án
xem xét về tình trạng tài chính của doanh nghiệp, hợp tác xã từ
đó xem xét yêu cầu mở thủ tục phá sản.
Chủ thể nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản: là những cá
nhân có liên quan tới doanh nghiệp, hợp tác xã đang lâm vào
tình trạng phá sản có quyền yêu cầu mở thủ tục phá sản.
Thời điểm phát sinh quyền và nghĩa vụ nộp đơn yêu cầu mở

thủ tục phá sản: thời điểm phát sinh quyền và nghĩa vụ nộp đơn
mở thủ tục của các chủ thể sẽ xuất hiện khi doanh nghiệm, hợp
tác xã lâm vào tình trạng phá sản. Viêc xác định thời điểm mở
thủ tục phá sản là rất quan trọng bởi nó ảnh hưởng không nhỏ
đến hoạt động của doanh nghiệp và hợp tác xã. Thời điểm phù
hợp nhất là khi doanh nghiệp, hợp tác xã “không còn khả năng
thanh toán được các khoản nợ đến hạn khi chủ nợ có yêu cầu”.
nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản vào thời điểm này sẽ có lợi
cho cả con nợ, chủ nợ và người lao động.
II. Các chủ thể.
Việc đơn ra trước Tòa để buộc một chủ thể nào đó lâm vào tình
trạng phá sản là rất nghiêm trọng, gây ảnh hưởng đến hoạt
động sản xuất, kinh doanh của chủ thể đó. Tuy vậy trong nền
kinh tế để bảo đảm lợi ích của chủ thể khác mà trước hết là chủ


nợ thì việc quy định rõ ràng và chặt chẽ các chủ thể có quyền
nghĩa vụ nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản là hết sức cần
thiết. Việc nộp đơn yêu cầu là thủ tục bắt buộc đầu tiên để giải
quyết một vụ việc phá sản và cũng là căn cứ để tòa án ra quyết
định mở hay không mở thủ tục phá sản tạo tiền đề cho một loạt
các thủ tục pháp lý sau này. Theo pháp luật Việt Nam Tòa án chỉ
thụ lý để chuẩn bị mở thủ tục phá sản khi có đơn yêu cầu mở
thủ tục phá sản của doanh nghiệp, hợp tác xã mắc nợ, các chủ
nợ, của người lao động, của cổ đông hoặc thành viên công ty.
1. Các chủ thể có quyền nộp đơn.
1.1. Chủ nợ.
Khi một doanh nghiệp hay hợp tác xã lâm vào tình trạng
phá sản, các chủ nợ sẽ rơi vào nguy cơ mất trắng các khoản tín
dụng mà họ đã từng cung cấp cho doanh nghiệp, hợp tác xã để

phục vụ hoạt động sản xuất , kinh doanh. Ngoài ra, do sự phá
sản của một doanh nghiệp có thể tác động dây chuyền, kéo
theo sự đổ vỡ của hàng loạt của các doanh nghiệp khác nên
việc bảo vệ lợi ích chủ nợ cũng đồng nghĩa với việc bảo đảm sự
ổn định của nền kinh tế. Thực chất bản chất pháp lý của tố tụng
phá sản là việc giải quyết mối quan hệ về mặt tài sản giữa con
nợ và các chủ nợ nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho
các chủ nợ nên Luật Phá sản các nước đều dành cho chủ nợ một
địa vị pháp lý hết sức đặc biệt. Chính vì vậy người có quyền đầu
tiên làm đơn yêu cầu Tòa án giải quyết việc phá sản không ai
khác chính là các chủ nợ.


Theo quy định của pháp luật hiện hành có ba loại chủ nợ,đó
là chủ nợ không có bảo đảm, chủ nợ có bảo đảm một phần và
chủ nợ có bảo đảm. Tuy nhiên theo quy định tại khoản 1 điều 5
của luật phá sản năm 2014 thì chỉ có chủ nợ không có bảo đảm
và chủ nợ có bảo đảm một phần mới có quyền yêu cầu mở thủ
tục phá sản: “Chủ nợ không có bảo đảm, chủ nợ có bảo đảm
một phần có quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản khi hết
thời hạn 03 tháng kể từ ngày khoản nợ đến hạn mà doanh
nghiệp, hợp tác xã không thực hiện nghĩa vụ thanh toán.”
Chủ nợ không có bảo đảm là cá nhân, cơ quan, tổ chức có
quyền yêu cầu doanh nghiệp, hợp tác xã phải thực hiện nghĩa
vụ thanh toán khoản nợ không được bảo đảm bằng tài sản của
doanh nghiệp, hợp tác xã hoặc của người thứ ba.
Chủ nợ có bảo đảm một phần là cá nhân, cơ quan, tổ chức
có quyền yêu cầu doanh nghiệp, hợp tác xã phải thực hiện
nghĩa vụ thanh toán khoản nợ được bảo đảm bằng tài sản của
doanh nghiệp, hợp tác xã hoặc của người thứ ba mà giá trị tài

sản bảo đảm thấp hơn khoản nợ đó.
Nguyên nhân của quy định này bắt nguồn từ nhận định cho
rằng chủ nợ có bảo đảm toàn bộ thì không có rủi ro xảy ra với
các khoản cho vay nợ của mình vì trong mọi trường hợp các
khoản nợ đều được bảo đảm bằng tài sản đã được cầm cố, thế
chấp hoặc của ngườ thứ ba; khi con nợ không thực hiện nghĩa
vụ của mình thì chủ nợ chỉ việc bán tài sản đó để thu hồi lại
khoản nợ. Có thể thấy quyền đòi nợ của chủ nợ luôn được bảo
đảm khi doanh nghiệp, hợp tác xã tuyên bố phá sản nên trong
mọi trường hợp lợi ích của họ không bị ảnh hưởng vì vậy pháp


luật cho rằng việc quy định quyền nộp đơn cho họ là không cần
thiết.
Chủ nợ có quyền nộp đơn không ưu tiên lựa chọn việc nộp
đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản trên thực tế. Luật Phá sản năm
2014 vẫn chỉ trao quyền chủ động nộp đơn yêu cầu mở thủ tục
phá sản cho chủ nợ không có bảo đảm hoặc chủ nợ có bảo đảm
một phần. Việc các chủ nợ có bảo đảm không được quyền nộp
đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản là chủ đề bàn luận trên nhiều
diễn đàn nghiên cứu khoa học với các quan điểm trái chiều khác
nhau. Tuy nhiên, có một thực trạng cần ghi nhận là: Đối với
nhóm chủ nợ có quyền nộp đơn (chủ yếu là chủ nợ không có
bảo đảm), họ thường không ưu tiên sử dụng quyền này trên
thực tế. Đến giai đoạn thi hành quyết định tuyên bố phá sản, tài
sản còn lại (tài sản không dùng để bảo đảm) được thanh lý theo
thứ tự thanh toán được luật quy định. Thực tế, chủ nợ không có
bảo đảm gần như không được phân chia hoặc nhận được với số
tiền không đáng kể. Do vậy, họ sẽ ưu tiên lựa chọn hướng
không nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản. Và như vậy, ý nghĩa

của việc nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản không còn mang
tính thực tế.
Việc đảm bảo quyền lợi chủ nợ có bảo đảm khi khoản nợ
của doanh nghiệp, hợp tác xã được bảo đảm bằng tài sản của
bên thứ ba chưa được quy định: Mặc dù pháp luật có quy định
để công nhận tư cách “chủ nợ có bảo đảm” khi khoản nợ của
một chủ nợ được đảm bảo bởi bên thứ ba, nhưng Luật Phá sản
năm 2014 chưa có quy định cụ thể về việc xử lý tài sản bảo
đảm trong trường hợp này. Quyền lợi các chủ nợ có bảo đảm nói


trên có nhiều ảnh hưởng. Đây là vấn đề mà nhiều ngân hàng với
tư cách là chủ nợ của doanh nghiệp, hợp tác xã bị tuyên bố phá
sản có thể gặp phải
1.2. Người lao động.
Theo quy định tai khoản 2 điều 5 luật phá sản năm 2014
quy định: “Người lao động, công đoàn cơ sở, công đoàn cấp trên
trực tiếp cơ sở ở những nơi chưa thành lập công đoàn cơ sở có
quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản khi hết thời hạn 03
tháng kể từ ngày phải thực hiện nghĩa vụ trả lương, các khoản
nợ khác đến hạn đối với người lao động mà doanh nghiệp, hợp
tác xã không thực hiện nghĩa vụ thanh toán.”
Đối với doanh nghiệp mắc nợ, người lao động chất là một
chủ nợ đặc biệt không có bảo đảm, hàng hóa duy nhất họ đem
ra trao đổi là sức lao động và tiền lương là nguồn sống chính
của bản thân và gia đình họ. Người lao động là đối tượng chịu
thiệt thòi nhất từ việc phá sản doanh nghiệp vì họ mất việc làm
và thậm chí không nhận được các khoản lương và doanh nghiệp
đang nợ họ. Vì vậy pháp luật phá sản phải đảm bảo quyền nộp
đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản của đối tượng này cũng như

quyền tham gia vào hoạt động phục hồi, thanh lý tài sản, quyền
ưu tiên thanh toán trước các chủ nợ khác. Pháp luật phá sản
của hết các nước trên thế giới đều quy định trong quá trình giải
quyết yêu cầu mở thủ tục phá sản doanh nghiệp, người lao
động có quyền cử đại diện tham gia để bảo vệ lợi ích của mình,
tiền lương và các khoản lợi ích chính đáng khác của họ bao giờ
cũng thuộc diện ưu tiên trong thứ tự phân chia tài sản của


doanh nghiệp và những người lao động trong doanh nghiệp
thường được tạo cơ hội tìm việc làm mới.
Tuy nhiên người lao động không có quyền trực tiếp đổ đơn
mà yêu cầu thông qua người đại diện hoặc đại diện công đoàn.
Đại diện của người lao động được cử hợp pháp sau khi được quá
nửa số người lao động trong doanh nghiệp, hợp tác xã tán thành
bằng cách bỏ phiếu kín hoặc lấy chữ ký; đối với doanh nghiệp,
hợp tác xã có quy mô lớn, có nhiều đơn vị trực thuộc thì đại diện
cho người lao động được cử hợp pháp phải được quá nửa số
người lao động cử làm đại diện từ các đơn vị trực thuộc tán
thành. Như vậy, quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản
được khẳng định là quyền tập thể của người lao động chứ không
phải của cá nhân người lao động để tránh tình trạng bất kỳ
người lao động nào cũng có thể lực đơn một cách tùy tiện gây
bất lợi cho hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp
hợp tác xã.
Trên thực tế, rất hiếm gặp trường hợp người lao động thực
hiện quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản của mình. Điều
này cũng dễ hiểu bởi khi thủ tục phá sản được tiến hành, doanh
nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán đứng trước hai khả
năng: Một là, phục hồi thành công; hai là, bị tuyên bố phá sản.

Điều đáng buồn trong thực tế là việc mở thủ tục phá sản thường
đồng nghĩa với việc tìm ra cách thức tốt nhất để chia sẻ tổn thất
tài chính chứ không phải là triển vọng phục hồi được hoạt động
kinh doanh. Vì vậy, việc thông qua thủ tục phá sản, doanh
nghiệp, hợp tác xã phục hồi, người lao động tránh được tình
trạng mất việc không được kỳ vọng lớn lao. Theo khoản 7 Điều
36 Bộ luật Lao động năm 2012, khi doanh nghiệp bị tuyên bố


phá sản, đương nhiên các hợp đồng lao động mà doanh nghiệp
đã ký sẽ chấm dứt. Mặc dù, người lao động được ưu tiên thanh
toán song nếu doanh nghiệp, hợp tác xã không còn tài sản sau
khi thanh toán hết cho chủ nợ có bảo đảm, chi phí phá sản thì
nguy cơ người lao động không nhận được thanh toán là rất lớn.
Chính vì vậy, sự quan tâm, hào hứng của người lao động về việc
nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản là không nhiều, còn chưa
kể đến cơ chế người lao động cử đại diện không được quy định
chi tiết.
1.3. Cổ đông, thành viên hợp tác xã.
Theo quy định tại khoản 5 điều 5 luật phá sản năm 2014:
“Cổ đông hoặc nhóm cổ đông sở hữu từ 20% số cổ phần phổ
thông trở lên trong thời gian liên tục ít nhất 06 tháng có quyền
nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản khi công ty cổ phần mất
khả năng thanh toán. Cổ đông hoặc nhóm cổ đông sở hữu dưới
20% số cổ phần phổ thông trong thời gian liên tục ít nhất 06
tháng có quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản khi công
ty cổ phần mất khả năng thanh toán trong trường hợp điều lệ
công ty quy định.”
Theo đó, chủ thể là cổ đông hoặc nhóm cổ đông có quyền
nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản có hai loại:

+ Loại một, cổ đông hoặc nhóm cổ đông sở hữu từ 20% số cổ
phần phổ thông trở lên trong thời gian liên tục ít nhất 06 tháng.
+ Loại hai, cổ đông hoặc nhóm cổ đông sở hữu dưới 20% số cổ
phần phổ thông trong thời gian liên tục ít nhất 06 tháng và được
quy định trong Điều lệ công ty.


Thời điểm phát sinh quyền và nghĩa vụ của chủ thể này là
thời điểm công ty cổ phần mất khả năng thanh toán, tức là công
ty cổ phần không thực hiện nghĩa vụ thanh toán các khoản nợ
trong thời hạn 03 tháng kể từ ngày đến hạn thanh toán.
Theo quy định tại khoản 6 điều 5 luật phá sản năm 2014
quy định: “Thành viên hợp tác xã hoặc người đại diện theo pháp
luật của hợp tác xã thành viên của liên hiệp hợp tác xã có
quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản khi hợp tác xã, liên
hiệp hợp tác xã mất khả năng thanh toán.”
Theo đó, đối tượng áp dụng ở đây chỉ có thể là hợp tác xã
hoặc liên hiệp hợp tác xã vì chỉ có hai đối tượng này mới tồn tại
thành viên hợp tác xã và hợp tác xã thành viên của liên hiệp
hợp tác xã.
Thời điểm phát sinh quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục
phá sản là thời điểm hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã mất khả
năng thanh toán. Tức là thời điểm hợp tác xã, liên hiệp hợp tác
xã không thực hiện nghĩa vụ thanh toán các khoản nợ khi đến
hạn thanh toán.
2. Các chủ thể có nghĩa vụ nộp đơn.
Luật phá sản Việt Nam cũng như hầu hết một tài sản của
các nước trên thế giới đều quy định về nghĩa vụ nộp đơn ra Tòa
yêu cầu và án tuyên bố phá sản với chính mình của các doanh,
nghiệp hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản. Điều này là thiết

yếu bởi lẽ chính doanh nghiệp mới có thể biết chính xác, đầy
đủ, toàn diện về tình trạng tài chính của mình hơn ai hết, nó
góp phần bảo vệ lợi ích của các chủ nợ, nâng cao trách nhiệm


của con lợn đối với cộng đồng xã hội, nhất là cộng đồng thương
nhân. Ngoài ra pháp luật và sản quy định nghĩa vụ nộp đơn của
doanh nghiệp, hợp tác xã cũng là nhằm bảo vệ lợi ích cho chính
doanh nghiệp, hợp tác xã đó; đem lại một cơ hội phục hồi hộp
rút khỏi thương chiều một cách có trật tự.
Khoản 3 và khoản 4 điều 5 luật phá sản năm 2014 quy định:
“3. Người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp, hợp
tác xã có nghĩa vụ nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản khi
doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán.
4. Chủ doanh nghiệp tư nhân, Chủ tịch Hội đồng quản trị
của công ty cổ phần, Chủ tịch Hội đồng thành viên của công ty
trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên, chủ sở hữu công ty
trách nhiệm hữu hạn một thành viên, thành viên hợp danh của
công ty hợp danh có nghĩa vụ nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá
sản khi doanh nghiệp mất khả năng thanh toán.”
Tuy nhiên, với những người điều hành doanh nghiệp, việc
mở thủ tục phá sản có vai trò nhất định như để doanh nghiệp có
thể rút khỏi thị trường đồng thời giảm áp lực thanh toán nghĩa
vụ tài sản hoặc doanh nghiệp có cơ hội được phục hồi. Vậy
nhưng thực tế vẫn tồn tại các doanh nghiệp không muốn nộp
đơn mở thủ tục phá sản. Sở dĩ như vậy là vì nhiều doanh nghiệp
khi thành lập đã kê khai vốn điều lệ lớn nhưng chủ yếu là vốn
ảo hoặc quá trình hoạt động có nhiều giao dịch chuyển tài sản
không rõ ràng. Nếu doanh nghiệp nộp đơn yêu cầu mở thủ tục
phá sản, khả năng cơ quan nhà nước có thẩm quyền tiến hành

kiểm tra lại quá trình hoạt động và phát hiện ra nhiều sai phạm,


thì người góp vốn hay người điều hành phải chịu trách nhiệm
pháp lý hoàn toàn có thể xảy ra. Điều này gây ra tâm lý e ngại
cho phía doanh nghiệp hay đúng hơn là những người đứng đầu
doanh nghiệp trong việc thực thi quyền nộp đơn của mình.
Bên cạnh đó, các chủ nợ có bảo đảm cũng không muốn
doanh nghiệp, hợp tác xã nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản
với muôn vàn lý do: Sẽ bị phát lộ những việc sai phạm trong cho
vay, định giá tài sản trước đây; tài sản bảo đảm bị tẩu tán
không còn… Mặt khác, việc nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá
sản có thể làm cho việc xử lý tàn sản bảo đảm lại phụ thuộc vào
quyền quyết định của các chủ nợ không có bảo đảm. Chính vì
thế, các chủ nợ có bảo đảm như các tổ chức tín dụng, thường
chọn cách xử lý trực tiếp tài sản bảo đảm trước khi doanh
nghiệp, hợp tác xã thực hiện quyền nộp đơn.
3. Trách nhiệm của người nộp đơn yêu cầu mở thủ tục
phá sản.
Để đảm bảo quyền, lợi ích của doanh nghiệp, hợp tác xã,
không để xảy ra tình trạng người có quyền nộp đơn yêu cầu mở
thủ tục phá sản lợi dụng quyền nộp đơn của mình với mục đích
làm giảm hoặc mất uy tín của doanh nghiệp, hợp tác xã đồng
thời bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của chủ nợ và người lao
động, Luật phá sản đã quy định về những chế tài nhất định đối
với trường hợp này.
Người nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản do không khách
quan gây ảnh hưởng xấu đến danh dự, uy tín, hoạt động kinh
doanh của doanh nghiệp, hợp tác xã hoặc có sự gian dối trong



việc yêu cầu mở thủ tục phá sản thì tuỳ theo tính chất, mức độ
mà bị xử lý kỷ luật, xử phạt hành chính hoặc bị truy cứu trách
nhiệm hình sự; nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường theo quy
định của pháp luật.
III.Một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật.
Thứ nhất, pháp luật cần bổ sung quy định để bảo đảm
quyền lợi cho chủ nợ có bảo đảm trong giao dịch bảo đảm với
bên thứ ba. Hiện nay, Luật Phá sản năm 2014 mới chỉ quy định
về việc xử lý tài sản có bảo đảm trong trường hợp doanh
nghiệp, hợp tác xã dùng tài sản của mình đảm bảo với chủ nợ.
Trường hợp doanh nghiệp, hợp tác xã được bên thứ ba dùng tài
sản để đảm bảo với chủ nợ thì chưa có quy định về việc xử lý tài
sản đó. Trong khi Luật công nhận tư cách chủ nợ có đảm bảo khi
khoản nợ của một chủ nợ được bảo đảm với bên thứ ba. Rõ
ràng, Luật Phá sản năm 2014 hiện nay đang thiếu quy định cụ
thể về việc giải quyết các nội dung liên quan đến việc xử lý tài
sản bảo đảm trong trường hợp khoản nợ của doanh nghiệp, hợp
tác xã được bảo đảm bằng tài sản của bên thứ ba.
Thứ hai, Luật Phá sản năm 2014 cần có hướng dẫn cụ thể
về cơ chế người lao động cử đại diện. Luật Phá sản năm 2014
hoàn toàn không đề cập đến cơ chế cụ thể rõ ràng về việc người
lao động cử đại diện, điều đó làm người lao động khó định
hướng trong việc ủy quyền cho chủ thể tham gia hội nghị chủ
nợ. Trong khi đó, khoản 1 Điều 14 Luật Phá sản năm 2004 có
quy định cụ thể về việc người lao động cử đại diện: “Đại diện
cho người lao động được cử hợp pháp sau khi được quá nửa số
người lao động trong doanh nghiệp, hợp tác xã tán thành bằng



cách bỏ phiếu kín hoặc lấy chữ ký; đối với doanh nghiệp, hợp
tác xã quy mô lớn, có nhiều đơn vị trực thuộc thì đại diên cho
người lao động được cử hợp pháp phải được quá nửa số người
được cử làm đại diện từ các đơn vị trực thuộc tán thành”.
Thứ ba, bổ sung quy định quyền nộp đơn của chủ nợ có bảo
đảm, một số chủ thể đặc biệt. Trong nền kinh tế mà quyền tự do
kinh doanh của các chủ thể luôn được tôn trọng, để cao như
hiện nay thì quy định này có thể bị coi như một sự phân biệt đối
xử và sẽ làm cản trở việc doanh nghiệp tiến nhanh đến mở thủ
tục phá sản với hi vọng phục hồi lại hoạt động sản xuất, kinh
doanh.
Thứ tư, đơn giản hóa thủ tục nộp đơn của người lao động. ó
nhiều ý kiến cho rằng chính việc quy định điều kiện về thủ tục
cử người đại diện phức tạp và khó thực thi nêu trên là một rào
cản lớn để người lao động thực hiện quyền yêu cầu mở thủ tục
phá sản của mình.
Cuối cùng, cần có sự đồng bộ giữa Luật Phá sản năm 2014
và Luật Thi hành án dân sự năm 2014 về quyền yêu cầu định
giá lại của chủ nợ. Theo Luật Phá sản năm 2014, chỉ có chấp
hành viên mới có quyền yêu cầu định giá lại, chủ nợ không có
quyền yêu cầu định giá lại tài sản. Tuy nhiên, theo Luật Thi hành
án dân sự năm 2014, chủ nợ có quyền yêu cầu việc định giá lại
tài sản. Để không ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của
người được thi hành án, Luật Phá sản năm 2014 cần bổ sung
quyền được yêu cầu định giá lại tài sản của chủ nợ.


KẾT LUẬN
Nền kinh tế thị trường với sự tác động của quy luật cạnh
tranh, quy luật giá trị tất yếu sẽ dẫn đến tình trạng cùng với các

doanh nghiệp kinh doanh hiệu quả sẽ có những doanh nghiệp
làm ăn thua lỗ, mất khả năng thanh toán nợ. Vì thế, Luật Phá
sản giữ vai trò như là một “công cụ hủy diệt mang tính sáng tạo
”, nó giúp “nhổ đi những cỏ dại trong một vườn hoa đẹp”, loại
bỏ những doanh nghiệp không còn khả năng tồn tại ra khỏi thị
trường. Trong phạm vi đề tài nghiên cứu của mình, em đã cố
gắng chỉ ra những điểm tiến bộ cũng như bất cập trong quy
định về chủ thể nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản nhằm
khắc phục những quy định này, góp phần ngày càng hoàn thiện
hơn Luật Phá sản Việt Nam. Mặc dù hết sức nỗ lực song khó có
thể tránh khỏi những sai sót, vì vậy em rất mong nhận được ý
kiến đóng góp, trao đổi của thầy cô và bạn bè.


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Giáo trình Luật Thương mại Việt Nam. Tập 1 / Trường Đại
học Luật Hà Nội, nxb tư pháp năm 2018.
2. Luật sư Trần Đức Phượng, Đoàn Luật sư Thành phố Hồ Chí
Minh,

“Nghịch



chủ

nợ

sợ


con

nợ”

( truy cập ngày 21/04/2019.
3. Tác động của thủ tục phá sản tới người lao động theo quy
định

mới.

( />
ong-cua-thu-tuc-pha-san-toi-nguoi.html), truy cập ngày
21/04/2019.
4. Đại học quốc gia Hà Nội, mở thủ tục phá sản theo pháp
luật Việt nam, Nguyễn Phương Anh, luận văn thạc sỹ luật
học.
5. Về chủ thể nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản, Vũ Thị
Hồng Vân, tạp chí Kiểm sát. Số 17/2005, tr. 36 - 39, 41.
6. ThS. Nguyễn Ngọc Anh, Khoa Pháp luật Kinh tế, Đại học
Luật Hà Nội, “Thực tiễn thi hành liên quan đến các chủ
thể tham gia vào quan hệ pháp luật phá sản còn có
những

bất

cập,

cần


hoàn

thiện.”

( truy cập ngày 21/04/2014.



Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×