Tải bản đầy đủ (.docx) (13 trang)

chế độ chi tiêu hành chính ở Việt Nam và những nhận xét đánh giá về thực hiện chế độ chi tiêu hành chính ở một đơn vị

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (122.3 KB, 13 trang )

A, MỞ ĐẦU
Các cơ quan hành chính nhà nước là bộ phận cấu thành bộ máy nhà nước, có chức
năng thực thi công tác quản lý nhà nước, hoạch định và thực hiện các chính sách phát triển
kinh tế xã hội. Do đó kinh phí dành cho các đơn vị hành chính chi tiêu hoạt động là một phần
của Ngân sách nhà nước, nó là điều kiện quan trọng để đảm bảo duy trì hoạt động của các cơ
quan hành chính, nâng cao chất lwuongj là hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà nước. Vấn đề
đặt ra là chế độ chi tiêu hành chính công tại các đơn vị này được diễn ra như thế nào, có hợp lý
với thực tiễn hay không. Chính vì vậy, nằm trong phạm vi baì tập học kỳ, tôi xin chọn và tình
bày vấn đề: “Tìm hiểu chế độ chi tiêu hành chính ở Việt Nam và những nhận xét đánh giá
về thực hiện chế độ chi tiêu hành chính ở một đơn vị mà em lựa chọn”

B, NỘI DUNG
I, Chế độ chi tiêu hành chính ở Việt Nam
1, Khái niệm về chế độ chi tiêu hành chính
Chi hành chính là một bộ phận cấu thành quan trọng trong chi tiêu công. Nếu như chi
tiêu công là các khoản chi tiêu của Nhà nước nhằm thực hiện các chức năng vốn có của Nhà
nước thì chi hành chính là một bộ phận của chi tiêu công nhằm duy trì hoạt động của bộ máy
nhà nước trong quá trình thực hiện các chức năng của mình. Đây là khoản chi tiêu mang tính
thường xuyên, duy trì hoạt động hàng ngày của toàn bộ hệ thống bộ máy nhà nước được thành
lập từ trung ương đến địa phương, trên tất cả các ngành, lĩnh vực của đời sống xã hội và là một
bộ phận của chi thường xuyên ngân sách Nhà nước. Trong điều kiện nền kinh tế đổi mới sang
cơ chế thị trường, mục tiêu xây dựng bộ máy hành chính nhà nước gọn nhẹ hiệu quả, các
khoản chi hành chính nhà nước có xu hướng thu hẹp song không vì thế mà mất đi vai trò quan
trọng trong chi thường xuyên nói riêng và trong tổng chi ngân sách nói chung. Vấn đề là phải
tìm các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả các khoản chi chính nhà nước, trong đó, pháp luật là
công cụ không thể bỏ qua.
Ở Việt Nam, việc quản lý và quy định vấn đề chi tiêu của các cơ quan hành chính do
Bộ tài chính chịu trách nhiệm là chủy yếu. Bộ tài chính đã ban hành rất nhiều các văn bản và
liên tịch ban hành cùng với các cơ quan quản lý nhà nước khác. Và các cơ quan hành chính ở
địa phương các cấp cũng ban hành quy định cụ thể cho bộ phận của mình về việc chi tiêu hành
chính.


Các cơ quan hành chính, đơn vị sự nghiệp thuộc bộ máy nhà nước là những đơn vị có
nhiệm vụ cung cấp các dịch vụ công cộng cho xã hội. Nguồn tài chính cho các đơn vị này hoạt
động chủ yếu dựa vào những khoản cấp phát theo chế độ từ Ngân sách nhà nước. Ngoài ra còn
một số khoản chi khác có nguồn gốc từ ngân sách nhà nước, các khoản thu do đơn vị tự khia
thác, hoặc quyên góp, tặng biếu không phải nộp ngân sách nhà nước.
2, Nội dung chế độ chi tiêu hành chính ở Việt Nam
Trên cơ sở hệ thống mục lục chi ngân sách nhà nước ban hành kèm theo Quyết định số
33/2008/QĐ-BTC ngày 02/6/2008 của Bộ trưởng Bộ Tài chính ban hành hệ thống mục lục
ngân sách nhà nước, nội dung chi hành chính gồm các nhóm cơ bản sau:

1


– Nhóm chi thanh toán cho cá nhân như: Tiền lương, tiền công trả cho lao động thường
xuyên theo hợp đồng; phụ cấp lương; sinh hoạt phí cho cán bộ đi học; tiền thưởng; phúc lợi
tập thể, các khoản đóng góp trong đó, chi cho tiền lương là khoản chi chiếm tỷ lệ đáng kể
trong tổng chi ngân sách Nhà nước.
– Nhóm chi về hàng hóa, dịch vụ gồm các mục chi: Thanh toán dịch vụ công cộng
(tiền điện, tiền nước, tiền điện thoại, tiền vệ sinh, môi trường; tiền khoán phương tiện theo chế
độ, tiền khác); Vật tư văn phòng (văn phòng phẩm, vật tư, công cụ văn phòng, khoán văn
phòng phẩm, vật tư văn phòng khác); Thông tin, tuyên truyền, liên lạc (cước phí điện thoại
trong nước, cước phí điện thoại quốc tế, cước bưu chính, Fax, sách, báo, tạp chí v.v..); Hội
nghị; Công tác phí (tiền vé máy bay, tàu xe, phụ cấp công tác phí, tiền thuê phòng nghỉ v.v..);
Chi thuê mướn; chi đoàn ra; chi đoàn vào; Sửa chữa tài sản phục vụ công tác chuyên môn và
duy tu, bảo dưỡng các công trình cơ sở hạ tầng từ kinh phí thường xuyên;
– Nhóm Chi nghiệp vụ chuyên môn của từng ngành;
– Nhóm chi khác: là những mục chi có thời hạn tác động ngắn và phục vụ trực tiếp cho
hoạt động của bộ máy nhà nước.
3, Thực tiễn chế độ tiêu hành chính ở Việt Nam
a, Về hệ thống các văn bản pháp luật điều chỉnh

Pháp luật điều chỉnh chi tiêu hành chính là hệ thống các quy phạm pháp luật quy định
về nguyên tắc, chế độ, chính sách, định mức và cơ chế của chi tiêu hành chính nhà nước. Xuất
phát từ nội dung, mục đích của chi tiêu hành chính,nên pháp luật nước ta có cả một hệ thông
văn bản đồ sộ và phong phú:
– Luật Ngân sách nhà nước năm 2002 và các văn bản hướng dẫn thi hành: Nghị định
số 60/2003/NĐ-CP ngày 06/06/2003 của Chính phủ - Quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành
luật Ngân sách Nhà nước; Thông tư số 59/2003/TT-BTC ngày23/6/2003 - Hướng dẫn thực
hiện Nghị định số 60 của Chính phủ,...;
– Các văn bản quy phạm pháp luật quy định về hệ thống mục lục ngân sách nhà nước
gồm: Quyết định số 33/2008/QĐ-BTC ngày 02/6/2008 của Bộ trưởng Bộ Tài chính về việc
ban hành Hệ thống Mục lục ngân sách nhà nước và các Thông tư của Bộ Tài chính sửa đổi, bổ
sung hệ thống mục lục ngân sách nhà nước;
– Hệ thống các văn bản quy định về các chế độ, định mức cụ thể trong chi tiêu hành
chính như: Quyết định số 59/2007/QĐ-TTg ngày 07 tháng 5 năm 2007 của Thủ tướng Chính
phủ ban hành Quy định tiêu chuẩn, định mức và chế độ quản lý sử dụng phương tiện đi lại
trong các cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp công lập, công ty nhà nước (đã được sửa đổi, bổ
sung tại Quyết định số 184/2007/QĐ-TTg); Thông tư số 01/2010/TT-BTC ngày 06/01/2010
của Bộ Tài chính Quy định chế độ chi tiêu đón tiếp khách nước ngoài vào làm việc tại Việt
Nam, chi tiêu tổ chức các hội nghị, hội thảo quốc tế tại Việt Nam và chi tiêu tiếp khách trong
nước; Thông tư số 97/2010/TT-BTC ngày 06/7/2010 của Bộ Tài chính Quy định chế độ công
tác phí, chế độ chi tổ chức các cuộc hội nghị đối với các cơ quan nhà nước và đơn vị sự nghiệp
công lập;
– Hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật quy định về kiểm soát chi tiêu hành chính
như: Thông tư số 18/2006/TT-BTC ngày 13/3/2006 của Bộ Tài chính Hướng dẫn kiểm soát chi
2


đối với cơ quan nhà nước thực hiện chế độ tự chủ, tự chịu trách nhiệm về biên chế và kinh phí
quản lý hành chính; Thông tư số 81/2006/TT-BTC ngày 06/09/2006 của Bộ Tài chính hướng
dẫn chế độ kiểm soát chi đối với các đơn vị sự nghiệp công lập thực hiện quyền tự chủ, tự chịu

trách nhiệm về thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, biên chế và tài chính (đã được sửa đổi, bổ
sung tại Thông tư số 172/2009/TT-BTC ngày 26/8/2009).
– Hệ thống các văn bản quy định về chế độ tự chủ, tự chịu trách nhiệm về biên chế và
kinh phí quản lý hành chính tại các cơ quan hành chính, đơn vị sự nghiệp như: Nghị định số
130/2005/NĐ-CP ngày 17/10/2005 của Chính phủ quy định chế độ tự chủ, tự chịu trách nhiệm
về sử dụng biên chế và kinh phí quản lý hành chính đối với các cơ quan nhà nước và các văn
bản hướng dẫn thi hành; Nghị định số 43/2006/NĐ-CP ngày 25 tháng 4 năm 2006 của Chính
phủ quy định quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, biên
chế và tài chính đối với đơn vị sự nghiệp công lập và các văn bản hướng dẫn thi hành;
* Những thành tựu của việc bạn hành và triển khai thực hiện hệ thống pháp luật chi
tiêu hành chính
Hệ thống pháp luật về chi tiêu hành chính nhà nước đã và đang được hoàn thiện từng
bước để phù hợp hơn với thực tiễn, nhằm hướng tới mực đích bảo đảm quản lý, sử dụng tiết
kiệm, hiệu quả các khoản chi tiêu hành chính góp phần vào việc duy trì hoạt động và phục vụ
đặc lực cho việc thực hiện các chức năng của bộ máy nhà nước
+ Hệ thống mục, tiểu mục chi hành chính đã được ban hành, sửa đổi, bổ sung trên cơ
sở bao quát đầy đủ hơn với các khoản chi hành chính phát sinh trên thực tế tạo cơ sở pháp lý
thống nhất cho quá trình lập, thực hiện, kiểm soát chi cũng như quyết toán các khoản chi tiêu
hành chính. Bộ Tài chính đã ban hành Quyết định số 33/2008/QĐ-BTC ngày 02/6/2008, về
việc ban hành hệ thống mục lục ngân sách nhà nước thay thế toàn bộ hệ thống mục lục ngân
sách Nhà nước ban hành kèm theo Quyết định số 280 TC/QĐ/NSNN ngày 15/4/1997 của Bộ
trưởng Bộ Tài chính và 23 Quyết định, Thông tư của Bộ Tài chính liên quan đến việc sửa đổi,
bổ sung hệ thống mục lục ngân sách nhà nước. Thông qua đó pháp luật đã tập trung quy định
cơ bản đầy đủ hệ thống mục lục ngân sách nhà nước trong đó có hệ thống mục lục chi hành
chính trong một văn bản thống nhất. Trước đó tình trạng hệ thống mục lục ngân sách Nhà
nước quy định rải rác trong nhiều văn bản dẫn đến tình trạng chắp vá, gây khó khăn trong quá
trình áp dụng hệ thống mục lục ngân sách nhà nước. Có thể thấy hệ thống mục lục ngân sách
nhà nước hiện hành đã và đang tạo ra cơ sở pháp lý thống nhất cho quá trình lập, chấp hành,
kiểm soát và quyết toán thu, chi ngân sách nhà nước trong đó có chi hành chính góp phần tạo
tiền đề quan trọng cho quá trình ứng dụng công nghệ thông tin vào việc quản lý, thống kê và

xử lý số liệu chi hành chính.
+ Hệ thống các quy định pháp luật về nội dung, định mức, tiêu chuẩn chi hành chính
được quy định cụ thể, tạo cơ sở pháp lý thống nhất cho quá trình áp dụng trên thực tiễn.
Theo phân cấp của Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội và Chính phủ, Thủ tướng
Chính phủ và Bộ Tài chính đã ban hành nhiều văn bản quy phạm pháp luật quy định cụ thể về
tiêu chuẩn, định mức chi tiêu hành chính trong các cơ quan Nhà nước như: tiêu chuẩn, định
mức trang bị, sử dụng ô tô; tiêu chuẩn, định mức trang bị thiết bị phục vụ công tác; tiêu chuẩn,
định mức sử dụng điện thoại, chế độ công tác phí, chế độ chi hội nghị, tiếp khách v.v..Nội
dung, định mức, tiêu chuẩn chi hành chính về cơ bản phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế –
xã hội cũng như thực lực nguồn ngân sách nhà nước.

3


Để phù hợp với điều kiện thực tế của các Bộ, ngành và địa phương, nhìn chung các
định mức chi tiêu được ban hành ở dạng khung, trên cơ sở đó phân cấp cho Bộ trưởng, Thủ
trưởng cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ và Hội đồng nhân dân các tỉnh, thành phố
trực thuộc trung ương căn cứ vào điều kiện thực tế của ngành, địa phương mình quy định mức
chi cụ thể trên cơ sở phù hợp với định mức khung chung đã được ban hành. Như vậy, hệ thống
các văn bản về chi hành chính nhà nước một mặt bảo đảm tính thống nhất chung có tính đến
điều kiện thực tiễn của mỗi Bộ, ngành và địa phương trên nguyên tắc bảo đảm chi hành chính
tiết kiệm, hiệu quả. Việc quy định khá đầy đủ về nội dung và định mức chi hành chính trong
hệ thống pháp luật hiện nay đã và đang góp phần vào việc:
+ Tạo điều kiện cho các đơn vị được giao ngân sách chủ động trong chi tiêu thông qua
định mức, tiêu chuẩn, chế độ đã được Nhà nước quy định, thông qua đó phục vụ đắc lực cho
việc thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của cơ quan, đơn vị được giao;
+ Làm cơ sở cho cơ quan tài chính các cấp tham mưu cho cơ quan nhà nước có thẩm
quyền xác định định mức chi, định mức giao ngân sách trên biên chế được giao tại các đơn vị
dự toán đồng thời là cơ sở để cơ quan tài chính cũng như kho bạc nhà nước kiểm soát, thẩm
tra cũng như quyết toán các khoản chi hành chính của các cơ quan, đơn vị;

+ Là cơ sở cho việc thực hiện chế độ công khai, minh bạch chế độ tài chính trong đó có
chế độ chi tiêu quản lý hành chính tại các cơ quan, đơn vị.
* Những hạn chế của việc bạn hành và triển khai thực hiện hệ thống pháp luật chi
tiêu hành chính
Ngoài những kết quả tích cực đã đạt được như trên, hệ thống pháp luật điều chỉnh về
chi hành chính hiện hành vẫn còn gặp rất nhiều những vướng mắc và bất cập, dẫn đến nhiều
ảnh hưởng không tốt cho hiệu quả quản lý, sử dụng tài chính công nói chung trong đó có hiệu
quả quản lý, sử dụng các khoản chi tiêu hành chính nói riêng. Hệ thống các văn bản điều chỉnh
thiếu tính ổn định, hay phải sửa đổi, bổ sung; hệ thống các định mức, tiêu chuẩn được ban
hành khi triển khai thực hiện không phù hợp với thực tiễn cuộc sống;
- Thứ nhất, hệ thống mục lục ngân sách nhà nước về cơ bản đã khắc phục được tình
trạng quy định rải rác ở quá nhiều văn bản dẫn đến hệ thống mục lục ngân sách nhà nước
mang tính chắp vá, gây khó khăn cho quá trình áp dụng trên thực tiễn trước đây. Tuy nhiên, hệ
thống mục lục ngân sách nhà nước hiện hành qua quá trình triển khai thực hiện để bảo đảm
yêu cầu phản ánh đầy đủ các khoản thu, chi phát sinh trên thực tế, đáp ứng yêu cầu quản lý
nhà nước về thu, chi tài chính công, hệ thống mục lục ngân sách nhà nước ban hành kèm theo
Quyết định số 33/2008/QĐ-BTC của Bộ Tài chính tính đến thời điểm hiện nay đã qua 06 lần
sửa đổi, bổ sung tại 06 Thông tư của Bộ Tài chính chỉ trong vòng chưa đầy 03 năm từ nửa cuối
năm 2008 đến hết năm 2010. Điều này gây những khó khăn nhất định trong quá trình lập, chấp
hành và quyết toán ngân sách nhà nước trong đó có nguồn chi kinh phí quản lý hành chính.
- Thứ hai, hệ thống chế độ, định mức, tiêu chuẩn chi kinh phí quản lý hành chính mặc
dù đã được hoàn thiện theo hướng phù hợp với thực tiễn cuộc sống, song nhìn chung chế độ,
định mức, tiêu chuẩn được ban hành thường không phù hợp với thực tiễn. Điều này dẫn đến
những tác động tiêu cực:
+ Văn bản thường xuyên phải sửa đổi, bổ sung, gây khó khăn cho quá trình lập, chấp
hành dự toán cũng như quyết toán kinh phí chi hành chính;
4


+ Để bảo đảm phù hợp với định mức chi theo quy định của pháp luật, trong khi mức

chi thực tế thường chênh lệch cao hơn so với mức chi quy định, các cơ quan, đơn vị phải ‘chế
biến” hóa đơn, chứng từ để hợp lý hóa các khoản chi trên thực tế;
+ Gây khó khăn trong quá trình triển khai thực hiện. Ví dụ pháp luật hiện hành quy
định khi tổ chức Hội nghị chỉ chi hỗ trợ tiền ăn cho đại biểu không hưởng lương từ ngân sách
nhà nước. Điều này gây khó khăn cho cơ quan tổ chức hội nghị nếu chỉ tổ chức ăn cho các đại
biểu không hưởng lương từ ngân sách nhà nước hoặc trường hợp tổ chức ăn cho tất cả các đại
biểu theo quy định hiện hành sẽ phải thu tiền ăn từ tiền công tác phí của đại biểu hưởng lương
từ ngân sách nhà nước. Trên thực tế, các cơ quan tổ chức hội nghị khi tổ chức ăn cho đại biểu
thường không áp dụng cả hai phương án trên mà sẽ phải linh hoạt vận dụng các khoản chi để
tổ chức ăn cho tất cả các đại biểu không phân biệt đại biểu hưởng lương hay không hưởng
lương từ ngân sách nhà nước;
b, Về thực trạng thực hiện các chế độ chi tiêu ở các đơn vị hành chính
Chế độ tự chủ, tự chịu trách nhiệm về biên chế và kinh phí hành chính đã và đang góp
phần quan trọng vào việc sử dụng tiết kiệm, hiệu quả các nguồn chi hành chính, tăng thu nhập
cho cán bộ, công chức, người lao động
Trong những năm qua, kinh phí chi hành chính ngày càng tăng, nhưng vẫn còn khoảng
cách so với nhu cầu chi tiêu thực tế phát sinh tại các cơ quan nhà nước. Để giải quyết mâu
thuẫn này không thể chỉ thực hiện các biện pháp tăng chi ngân sách nhà nước, mà vấn đề đặt
ra là phải xây dựng được cơ chế quản lý và sử dụng hợp lý, có hiệu quả nguồn lực dành cho
các cơ quan nhà nước để đảm bảo mục tiêu, yêu cầu tăng cường hiệu lực, hiệu quả hoạt động
của bộ máy nhà nước, đồng thời thực hiện tiết kiệm, chống lãng phí. Nhà nước đã tiến hành rà
soát các khoản chi hành chính trên tinh thần đảm bảo chi tiết kiệm, hiệu quả, chống lãng phí.
Năm 2001, Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 136/2001/QĐ-TTg ngày
17/9/2001 ban hành Chương trình tổng thể cải cách hành chính Nhà nước giai đoạn 2001
-2010, theo Chương trình này, cải cách hành chính nhà nước được tiến hành đồng bộ, toàn
diện trên cả bốn bộ phận cấu thành của nền hành chính nhà nước gồm: Cải cách thể chế hành
chính, cải cách tổ chức bộ máy hành chính nhà nước; đổi mới, nâng cao chất lượng đội ngũ
cán bộ, công chức và cải cách tài chính công. Trong nội dung về cải cách tài chính công,
chương trình đổi mới cơ chế quản lý tài chính đối với cơ quan hành chính, đơn vị sự nghiệp
được đề ra, trong đó thực hiện chế độ khoán chi trong cơ quan hành chính và chế độ tự chủ về

kinh phí đối với đơn vị sự nghiệp nhằm giảm dần chi từ ngân sách nhà nước tiến tới thực hiện
chế độ tự quản tài chính là những nội dung mang tính giải pháp quan trọng. Để tạo cơ sở pháp
lý cho việc thực hiện từng bước chế độ tự chủ tài chính, ngày 17/12/2001, Thủ tướng Chính
phủ ban hành Quyết định số 192/QĐ-TTg về mở rộng thí điểm khoán biên chế và kinh phí
quản lý hành chính đối với các cơ quan hành chính nhà nước. Trên cơ sở kết quả áp dụng thí
điểm chế độ tự chủ, tự chịu trách nhiệm tại một số cơ quan, đơn vị, Chính phủ đã ban hành
một số nghị định quan trọng như: Nghị định số 10/2002/NĐ-CP ngày 16/1/2002 về chế độ tài
chính áp dụng cho đơn vị sự nghiệp có thu; Nghị định số 130/2005/NĐ-CP ngày 17/10/2005
của Chính phủ quy định chế độ tự chủ, tự chịu trách nhiệm về sử dụng biên chế và kinh phí
quản lý hành chính đối với các cơ quan nhà nước; Nghị định số 43/2006/NĐ-CP ngày 25
tháng 4 năm 2006 của Chính phủ quy định quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về thực hiện
nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, biên chế và tài chính đối với đơn vị sự nghiệp công lập;

5


Theo Nghị định số 130/2005/NĐ-CP ngày 17/10/2005 của Chính phủ, các cơ quan
thực hiện chế độ tự chủ được giao kinh phí quản lý hành chính hàng năm trên cơ sở biên chế
được cấp có thẩm quyền giao, kể cả biên chế dự bị (nếu có) và định mức phân bổ ngân sách
nhà nước tính trên biên chế; các khoản chi hoạt động nghiệp vụ đặc thù theo chế độ quy định.
Căn cứ vào tình hình thực hiện nhiệm vụ được giao, Thủ trưởng cơ quan thực hiện chế độ tự
chủ tự quyết định bố trí số kinh phí được giao vào các mục chi cho phù hợp; được quyền điều
chỉnh giữa các mục chi nếu xét thấy cần thiết. Kinh phí tiết kiệm được từ nguồn kinh phí tự
chủ, cơ quan, đơn vị được quyền sử dụng để bổ sung thu nhập tăng thêm cho cán bộ, công
chức, người lao động của cơ quan, đơn vị và chi khen thưởng hoặc phúc lợi xã hội. Trong
trường hợp xét thấy khả năng tiết kiệm kinh phí không ổn định, cơ quan thực hiện chế độ tự
chủ có thể trích lập quỹ dự phòng để ổn định thu nhập cho cán bộ, công chức. Số kinh phí tiết
kiệm được, cuối năm chưa sử dụng hết được chuyển sang năm sau tiếp tục sử dụng. Chuyển
sang cơ chế thị trường, trong bối cảnh chuyển đổi cơ chế hoạt động của các cơ quan nhà nước,
đơn vị sự nghiệp … cần phải đổi mói cơ chế quản lý tài chính bằng việc thực hiện khoán chi

hành chính. Thực hiện khoán chi hành chính nhằm tạo thế chủ động cho các cơ quan hành
chính nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động. Về nội dung của chế độ khoán chi hành
chính, các cơ quan được giao quyền tự chủ trong công tác điều hành tổ chức công việc, tự chủ
trong việc sử dụng ngân sách nhà nước dành cho đơn vị của mình. Nhàm thực hiện yêu cầu
tiết kiệm, hiệu quả trong chi tiêu ngân sách các đơn vị sử dụng ngân sách được phân định theo
các đối tượng, Mục tiêu của khoán chi hành chính là tiết kiệm, đơn vị thực hiện sẽ được dùng
số kinh phí tiết kiệm được cho sáu mục đích: tăng thu nhập cho cán bộ, công chức; chi khen
thưởng; chi phúc lợi; để nâng cao hiệu quả chất lượng công việc; chi them cho nhưng người
thực hiện tinh giản biên chế và lập quỹ ổn định thu nhập.
Như vậy, thực hiện chế độ tự chủ về kinh phí hành chính trong các cơ quan theo Nghị
định 130/2005/NĐ-CP đã góp phần quan trọng vào việc:
– Xóa bỏ cơ chế ‘Xin – cho” trong cấp kinh phí hành chính, việc cấp kinh phí hành
chính bảo đảm tính khách quan trên cơ sở số lượng biên chế của cơ quan, đơn vị được duyệt
và định mức phân bổ kinh phí trên một đầu biên chế do cơ quan có thẩm quyền quy định. Việc
để cho các đơn vị hành chính chủ động trong chi tiêu hành hành chính giúp xóa bỏ sự bình
quân chủ nghĩa, xóa bỏ sự thiên vị trong quá trình phân bổ ngân sách. Các cơ quan hành chính
nhà nước xác định rõ khả năng bố trí ngân sách nhà nước cho đon vị mình qua các năm nên
chủ động hơn trong công tác quản lý và phân bổ ngân sách của Bộ ngành mình khắc phục
được tư tưởng cả nệ, ngại va chạm nhiều có bất đồng ý kiến trong việc phân bổ ngân sách
xuống cơ quan cấp dưới. Từ đó tiết kiệm được thời gian và kinh phí phục vụ cho chương trình
lập và thẩm định dự toán, tiện cho công tác quản lý, theo dõi quyết toán
– Tạo ra tính chủ động trong quản lý, sử dụng kinh phí khoán chi trong các cơ quan,
đơn vị, thông qua đó nguồn kinh phí hành chính được sử dụng một cách tiết kiệm, hiệu quả,
tạo nguồn thu nhập tăng thêm cho cán bộ, công chức, người lao động. Thông qua xây dựng
quy chế chi tiêu nội bộ, tọa điều kiện cho cán bộ, công chức cơ quan, đơn vị hành chính tham
gia vào quá trình sử dụng ngân sách của đơn vị mình, góp phần cải thiện tình trạng công khai
tài chính chỉ mang tính hình thức nhưu hiện nay. Thực hiện khoán chi hành chính khuyến
khích tiết kiệm chi tiêu ngân sách, cán bộ, công chức, người lao động nâng cao trách nhiệm,
lòng nhiệt tình trong việc thực thi các nhiệm vụ được giao – đây được coi là một trong những
giải pháp quan trọng nâng cao hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà nước;


6


– Giảm bớt các thủ tục cấp phát rườm rà của các cơ quan quản lý tài chính ở các bộ
ngàng, đơn giản hóa thủ tục trong quá trình xây dựng, chấp hành, quyết toán ngân sách nhà
nước.
Từ những tác động tích cực nêu trên, có thể khẳng định chế độ tự chủ, tự chịu trách
nhiệm về sử dụng biên chế và kinh phí chi hành chính là phù hợp với yêu cầu thực tiễn hiện
nay, nâng cao trách nhiệm của thủ trưởng và tăng cường sự giám sát của cán bộ, công chức
trong việc sử dụng biên chế, kinh phí để hoàn thành nhiệm vụ được giao; từng bước khắc phục
tình trạng cấp trên can thiệp quá sâu vào công việc của cấp dưới, cấp dưới chờ sự chỉ đạo cụ
thể của cấp trên; gắn việc sử dụng kinh phí với chất lượng và hiệu quả công việc, thúc đẩy cải
cách thủ tục hành chính trong các khâu phân bổ, chấp hành và quyết toán ngân sách nhà nước
tạo tiền đề đổi mới cơ chế quản lý tài chính theo kết quả đầu ra. Cơ chế tự chủ, tự chịu trác
nhiệm đã góp phần thúc đẩy các cơ quan sắp xếp lại tổ chức bộ máy, tinh giản biên chế, nâng
cao hiệu suất làm việc, hoàn thành tốt hơn nhiệm vụ được giao, tiết kiệm kinh phí, tạo điều
kiện tăng cường cơ sở vật chất, từng bước hiện đại hóa công nghệ quản lý, tăng thu nhập cho
cán bộ, công chức, người lao động.
Xuất phát từ đặc thù hoạt động của các đơn vị sự nghiệp là cung cấp các dịch vụ công
cho xã hội, do đó yêu cầu về tính chủ động trong thực hiện nhiệm vụ được giao, tổ chức bộ
máy, biên chế và tài chính đối với đơn vị sự nghiệp công lập có ý nghĩa hết sức quan trọng
nhằm nâng cao tính chủ động cũng như hiệu quả hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập.
Đứng ở góc độ quản lý tài chính công trong đó có nội dung chi kinh phí hành chính, việc thực
hiện chế độ tự chủ về tài chính đối với đơn vị sự nghiệp góp phần quan trọng vào việc giảm
bao cấp từ nguồn ngân sách nhà nước cho các đơn vị sự nghiệp công lập. Về cơ bản đơn vị sự
nghiệp công lập hiện nay được phân thành 03 loại: Đơn vị sự nghiệp tự chủ toàn bộ về kinh
phí; đơn vị sự nghiệp tự bảo đảm một phần chi phí hoạt động và đơn vị sự nghiệp do ngân
sách nhà nước bảo đảm toàn bộ chi phí hoạt động. Tương ứng với mỗi loại hình sẽ có cơ chế
quản lý tài chính phù hợp, song nhìn chung cơ chế tự chủ về tài chính tại các đơn vị sự nghiệp

đã tạo điều kiện cho đơn vị chủ động sử dụng nguồn lực tài chính, chủ động phân bổ nguồn
lực tài chính của đơn vị theo nhu cầu chi tiêu đối với từng lĩnh vực trên tinh thần tiết kiệm,
thiết thực, hiệu quả. Bên cạnh đó thu nhập bình quân của công chức, viên chức, người lao
động trong đơn vị sự nghiệp được cải thiện, việc chi trả lương được gắn với hiệu suất công tác
của từng cá nhân, hạn chế việc chi trả bình quân, góp phần thu hút được lao động có trình độ
vào làm việc tại các đơn vị, hạn chế nạn ‘chảy máu” chất xám của các đơn vị sự nghiệp công.
Như vậy, có thể thấy việc triển khai thực hiện chế độ tự chủ, tự chịu trách nhiệm về
biên chế và kinh phí quản lý hành chính đối với cơ quan nhà nước; chế độ tự chủ, tự chịu trách
nhiệm về tổ chức bộ máy, biên chế và tài chính theo quy định của pháp luật hiện hành đã và
đang góp phần quan trọng vào việc sử dụng tiết kiệm, hiệu quả nguồn chi hành chính trong hệ
thống các cơ quan nhà nước và đơn vị sự nghiệp công lập – một trong những mục tiêu, yêu
cầu quan trọng trong quản lý tài chính công ở Việt Nam hiện nay.
Tuy nhiên, Chế độ tự chủ, tự chịu trách nhiệm về kinh phí hành chính bên cạnh những
kết quả đã đạt được còn có những tồn tại, hạn chế cần tiếp tục hoàn thiện như:
– Kinh phí quản lý hành chính giao cho các cơ quan nhà nước thực hiện chế độ tự chủ
hiện nay được xác định trên cơ sở số lượng biên chế của cơ quan, đơn vị đã được cơ quan có
thẩm quyền duyệt, trong khi đó đối với các cơ quan hành chính nhà nước hiện nay vẫn chưa có
một căn cứ xác đáng để quy định tỉ lệ giữa khối lượng công việc chuyên môn của mỗi cơ quan
7


so với số lượng biên chế như thế nào là phù hợp. Do đó, kinh phí hành chính khoán tự chủ trên
thực tế chưa tỷ lệ thuận với chức năng, nhiệm vụ của cơ quan, đơn vị được giao. Điều này có
thể minh chứng qua một thực tế ở Việt Nam hiện nay, do quá trình tổ chức, sắp xếp lại tổ chức
bộ máy nhà nước, một số cơ quan nhà nước có khối lượng nhiệm vụ chuyên môn vừa phải
nhưng có số lượng biên chế nhiều, trong khi đó một số cơ quan nhà nước khác phải đảm
đương một khối lượng công việc lớn nhưng biên chế lại thấp và vì vậy ở những cơ quan này
nhu cầu chi kinh phí hành chính không hoàn toàn tỉ lệ thuận với số lượng biên chế.
– Một trong những mục tiêu cơ bản của chế độ tự chủ, tự chịu trách nhiệm về sử dụng
kinh phí quản lý hành chính đối với các cơ quan nhà nước là thực hiện quyền tự chủ đồng thời

gắn với trách nhiệm của Thủ trưởng đơn vị. Tuy nhiên, quyền tự chủ của các cơ quan được
giao quyền tự chủ lại bị bó hẹp trong một số quy định của pháp luật. Việc xây dựng Quy chế
chi tiêu nội bộ của cơ quan, đơn vị vẫn phải căn cứ chế độ, tiêu chuẩn, định mức chi hiện hành
do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành; mức chi, chế độ chi, tiêu chuẩn định mức trong
Quy chế chi tiêu nội bộ không được vượt quá chế độ, định mức, tiêu chuẩn do cơ quan nhà
nước có thẩm quyền ban hành. Trường hợp Quy chế chi tiêu nội bộ cơ quan xây dựng vượt
quá chế độ, tiêu chuẩn, định mức do cơ quan có thẩm quyền ban hành thì cơ quan quản lý cấp
trên hoặc cơ quan tài chính có trách nhiệm yêu cầu cơ quan ban hành Quy chế chi tiêu nội bộ
điều chỉnh lại cho phù hợp. Về sử dụng kinh phí được giao, cơ quan thực hiện chế độ tự chủ
được vận dụng các chế độ chi tiêu tài chính hiện hành để thực hiện, nhưng không được vượt
quá mức chi tối đa do cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định. Về sử dụng kinh phí tiết
kiệm, cơ chế quy định được sử dụng cho các nội dung gồm: Bổ sung thu nhập cho cán bộ,
công chức theo hệ số tăng thêm quỹ tiền lương tối đa không quá 1,0 lần so với mức tiền lương
cấp bậc, chức vụ do nhà nước quy định; chi khen thưởng định kỳ hoặc đột xuất cho tập thể, cá
nhân; chi cho các hoạt động phúc lợi tập thể, trợ cấp khó khăn, chi thêm cho người lao động
thực hiện tinh giản biên chế; trích lập quỹ dự phòng để ổn định thu nhập cho cán bộ, công
chức. Thực hiện chi kinh phí phải bảo đảm có chứng từ, hoá đơn hợp pháp, hợp lệ theo quy
định (trừ thanh toán khoán tiền công tác phí, cước phí sử dụng điện thoại công vụ tại nhà riêng
và điện thoại di động của các cán bộ có tiêu chuẩn).
– Theo quy định của cơ chế, kinh phí quản lý hành chính giao thực hiện chế độ tự chủ
ngoài phục vụ các nội dung chi hoạt động thường xuyên như: tiền lương, tiền công, phụ cấp
lương, thanh toán dịch vụ công cộng, vật tư văn phòng, thông tin, tuyên truyền, liên lạc, hội
nghị… còn có cả chi phí mua sắm, sửa chữa thường xuyên tài sản cố định. Tuy nhiên, cơ chế
không quy định rõ các tài sản cố định nào được giao trong dự toán trong kinh phí tự chủ dẫn
đến trường hợp cơ quan nhà nước không mua tài sản cố định thì số dự toán kinh phí tự chủ
được giao mua tài sản cố định có thể vẫn được coi là kinh phí tiết kiệm của đơn vị.
Với quy định như trên, thủ trưởng cơ quan nhà nước mặc dù được giao quyền tự chủ
nhưng cũng không thể phê duyệt, quyết định các nội dung, mức chi vượt quy định hiện hành,
không thể quyết định khoán các nội dung chi hoạt động thường xuyên ngoài quy định của Nhà
nước, kể cả từ nguồn kinh phí tiết kiệm của cơ quan. Điều này có thể gây bị động trong công

tác tổ chức thực hiện nhiệm vụ chuyên môn của cơ quan nhà nước.
II, Nhận xét, đáng giá về việc thực hiện chế độ chi tiêu hành chính tại Ủy ban nhân dân
tỉnh Thái Nguyên
Căn cứ vào nghị định 130/2005/NĐ-CP của chính phủ quy định chế độ tự chủ, tự chịu
trách nhiệm về sử dụng biên chế và kinh phí quản lý hành chính đối với cơ quan nhà nước,
8


UBND tỉnh Thái Nguyên đã xây dựng quy chế chi tiêu nội bộ và thực hiện theo đúng nguyên
tắc, quy định của quy chế đó đối với việc chi tiêu hành chính ở đơn vị của mình.
Căn cứ vào chế độ, tiêu chuẩn, định mức chi tiêu tài chính hiện hành của cơ quan nhà
nước có thẩm quyền quy định, căn cứ vào tình hình thực hiện qua các năm về chi tiêu và sử
dụng tài sant tại đơn vị, căn cứ vào chương trình, kế hoạch các nhiệm vụ được giao trong năm
và dự toán ngân sách được giao thực hiện chế độ tự chủ, quy chế chi tiêu nội bộ được xây
dựng, chế đọ chi tiêu hành chính của Sở bao gồm:
- Tiền lương, tiền công: Căn cứ vào Nghị định số 204/2004/NĐ-CP ngày 14/12/2004
của Chính phủ về chế độ tiền lương đối với cán bộ, công chức, viên chức và lực lượng vũ
trang; Nghị định số 14/2012/NĐ-CP ngày 07/3/2012; Nghị định số 17/2013/NĐ-CP ngày
19/02/2013 của Chính phủ về sửa đổi bổ sung một số điều của Nghị định số 204/2004/NĐ-CP,
Nghị định số 43/2006/NĐ-CP ngày 25/4/2006 của Chính phủ quy định về quyền tự chủ, tự
chịu trách nhiệm về thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, biên chế và tài chính đối với đơn vị
sự nghiệp công lập, Quyết định số 01/2015/QĐ-UBND tỉnh Thái Nguyên về việc ban hành
quy định phân cấp quản lý tổ chức bộ máy, biên chế, tiền lương, cán bộ, công chức, viên chức
và lao động hợp đồng trong các cơ quan, đợn vị thuộc tỉnh Thái Nguyên và quy định ban hành
kèm theo của quyết định trên; Căn cứ vào quyết định số 04/2014/QĐ-UBND về số lượng,
chức danh, mức phụ cấp, đối với những người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã và ở
xóm, tổ dân phố trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên, UBND đã đảm bảo chi 100% tiền lương, tiền
công và các khoản đóng góp theo lương theo đúng chế độ hiện hành cho số cán bộ, công chức,
viên chức và các lao đọng khác làm việc ở Ủy ban nhân dân.
- Công tác phí: Căn cứ vào thông tư số 97/2010/TT-BTC của bộ tài chính về quy định

chế độ công tác phí, chế độ chi tổ chức các cuộc hội nghị đối với các cơ quan nhà nước và đơn
vị sự nghiệp công lập, Nghị quyết số 32/2010/NQ-HĐND về quy định mức chi chế độ công
tác phí, chế độ chi tổ chức các cuộc hội nghị đối với các cơ quan nhà nước và đơn vị sự nghiệp
công lập, do đặc thù nghiệp vụ nên vấn đề các cán bộ, công chức, viên chức, lao động khác
của ủy ban nhân dân thường xuyên được cử đi công tác. Một phần trong quỹ chi tiêu của Ủy
ban nhân dân để chi cho công tác phí – là khoản chi phí để trả cho người đi công tác. Việc
thanh toán công tác phí được thực hiện thao đúng nguyên tắc người đi công tác phải thực hiện
đúng nhiệm vụ được giao, có đủ chứng từ thanh toán theo quy định. Tuy nhiên, do sự lỏng lẻo
về công tác quản lý và kiểm soát nên vẫn còn xảy ra nhiều trường hợp, cán bộ, công chức viên
chức cố tình làm giả chứng từ để chuộc lợi tư, nhằm tham ô, thâm hụt ngân quỹ, gây ra nhiều
lãng phí đối với tiền ngân sách. Đối vơi chi tiêu hội nghị, tùy thuộc vào quy mô và tính chất
của từng hội nghị mà Chủ tịch UBND quyết định mức chi tiêu dụa trên khả năng và nguồn tài
chính của mình. Hằng năm UBND phải thường xuyên tổ chức các hội nghị sơ kết và tổng kết,
hội nghị tập huấn… Một số mức chi cụ thể như chi hỗ trợ tiền ăn ở cho đại biểu, chi tiền uống
nước,…
- Chi tiếp khách: Căn cứ vào Thông tư số: 01/2010/TT-BTC ngày 06/01/2010 của Bộ
Tài chính Quy định chế độ chi tiêu đón tiếp khách nước ngoài vào làm việc tại Việt Nam, chi
tiêu tổ chức các hội nghị, hội thảo quốc tế tại Việt Nam và chi tiêu tiếp khách trong nước,
Công văn số 16/HĐND-TH ngày 04/3/2008 của Thường trực Hội đồng nhân dân tỉnh về việc
xác định đối tượng được chi mời cơm thân mật, Nghị quyết 04/2010/NQ-HĐND quy định chế
độ chi tiếp khách trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên do Hội đồng nhân dân tỉnh Thái Nguyên,
Quyết định số 10/2010/QĐ-UBND của UBND tỉnh Thái Nguyên về quy định chế độ chi tiếp

9


khách trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên. Việc tiếp khách bao gồm chi nước uống, chi mời cơm
thân mật. Ủy ban nhân dân là cơ quan có nhiều mối quan hệ với các bộ, ban ngành trung ương
và các tỉnh bạn do vậy các mối quan hệ khác rộng và đa dạng cho nên việc tiếp khách được
quy định ở các định mức khác nhau xong không quá 200000 đồng/suất. Đối tượng khách mời

là: Lãnh đạo Đảng, Nhà nước; cán bộ thuộc các Bộ, Ngành ở Trung ương; các đoàn khách tỉnh
bạn; các doanh nghiệp, các nhà đầu tư, các nhà tài trợ, viện trợ đến thăm và làm việc với địa
phương để triển khai, thực hiện dự án đầu tư, tài trợ, viện trợ. Các đối tượng khách mời khác
do thủ trưởng cơ quan, đơn vị, tổ chức căn cứ vào yêu cầu nhiệm vụ, xem xét quyết định và
phải được quy định trong quy chế chi tiêu nội bộ của đơn vị, đảm bảo tiết kiệm, phù hợp với
khả năng kinh phí của cơ quan, đơn vị, tổ chức.
- Sử dụng điện thoại: Căn cứ vào quyết định số 78/2001/QĐ-TTg ngày 16/5/2001 ban
hành quy định tiêu chuẩn định mức sử dụng điện thoại công vụ tại nhà riêng và điện thoại di
động đối với cán bộ lãnh đạo trong các cơ quan hành chính, đơn vị sự nghiệp, tổ chức chính
trị, các tổ chức chính trị - xã hội, việc thanh toán cước phí sử dụng điện thoại công vụ tại nhà
riêng và điện thoại di động được ấp dụng đối với lãnh đoaọ UBND theo đó: Chủ tịch UBND,
phó chủ tịch, đối với điện thoại cô định tại công sở được thanh toán theo hóa đơn thực tế
nhưng không quá 300.000đồng/tháng/máy đối với các phòng ban trong đơn vị, riêng với các
phòng giao dịch hành chính, phòng KHTC vì đăc thù nên không quá 500.000đồng/tháng/máy
- Sử dụng máy vi tính, điều hòa nhiệt độ và điện thắp sang: thục hiện tiết kiệm.
- Sử dụng văn phòng phẩm, in ấn, photo tài liệu: hang tháng các phòng và cá nhân
được cấp vật tư văn phòng phục vụ cho hoạt động chuyện môn nghiệp vụ thường xuyên bao
gồm giấy, bút, sổ, sách theo định mức cụ thể như sổ tay làm việc trưởng phó phòng 1 quyển/
năm; bút bi lãnh đạo UBND 5 chiếc/ tháng; cán bộ công chức 1 chiếc/tháng, chè khô lãnh đạo
5 lạng/tháng; trưởng phòng 3 lạng/tháng, phó phòng 2 lạng/tháng, cán bộ công hức 1
lạng/tháng, … tuy nhiên quy định trên có phần k phù hợp vì giá cả và số lượng chi tiêu luôn
thay đổi theo thời gian.
- Sử dụng xăng dầu: là một đơn vị quản lý nhà nước và chỉ đạo hoạt động chung trong
toàn tỉnh vì vậy việc sử dụng xăng dầu được tính theo lịch trình công tác của lãnh đạo tỉnh,
cuối tháng thanh toán 1 lần vơi cửa hang cung ứng xăng dầu theo mức khoán.
- Các khoản chi khác như chi hỗ trợ hoạc phí cho lãnh đạo từ phó phòng trở lên theo
quy định của chủ tịch UBND, thanh toán nghỉ phép năm, chi tổ chức kỷ niệm các ngày lễ lớn
trong năm thì thường căn cứ vào tình hình thức tế nguồn kinh phí hang năm được duyệt,…
- Chi mua sắm tài sản, trang thiết bị, vật tư sửa chữa thường xuyên tài sản cố định.
- Các khoản chi phục vụ cho công tác thu phí, lệ phí theo quy định

Chế độ chi tiêu hành chính của Ủy ban nhân dân tỉnh Thái Nguyên đã đảm bảo được
những quy định, hướng ẫn về chế độ chi tiêu hành chính của pháp luật. UBND đã chi tiêu phù
hợp với các đặc thù hoạt động của đơn vị nhằm tăng cường công tác quản lý, chủ động trong
quản lý và chi tiêu. Nhìn chung việc chi tiêu được thực hiện trên tinh thần tiết kiệm, hiệu quả.
Việc chi tiêu còn dựa trên thực tế nguồn kinh phí của UBND, thực tế hoạt động hàng năm,…
UBND đã thực hiện theo đúng chế độ tự chủ, tự chịu trách nhiệm về sử dụng biên chế và kinh
phí chi hành chính là phù hợp với yêu cầu thực tiễn hiện nay, nâng cao trách nhiệm của cá cán
bộ công, viên chức và các lao động, tăng cường sự giám sát của cans bộ công, viên chức, từng
10


bước khắc phục tình trạng cấp trên can thiệp quá sâu, lạm quyền vào công việc của cấp dưới.
Tuy nhiên, trên thực tế, có nhiều bộ phận các cán bộ, công nhân viên chức còn có thái độ lãng
phí, tham ô, tham nhũng tư lợi riêng, cho nên UBND cần có kế hoạch và tổ chức giám sát,
kiểm soát chặt chẽ hơn, hợp lý hơn nhằm tránh tình trạng lãng phí, tư tưởng “ của công” cần
được loại bỏ nhất là trong các việc chi đối với công tác phí, chi tiêu hội nghị, …
III, Một số đề xuất nhằm khắc phục các hạn chế tồn động trong chi tiêu hành chính ở
nước ta
- Tiếp tục hoàn thiện hệ thống mục lục ngân sách nhà nước trong đó có các mục, tiểu
mục chi hành chính bảo đảm các yêu cầu phản ánh đầy đủ các nhu cầu chi hành chính trên
thực tế và quy định tập trung, thống nhất trong một văn bản của cơ quan nhà nước có thẩm
quyền, hạn chế việc phải sửa đổi, bổ sung nhiều lần.
- Tiếp tục hoàn thiện chế độ tự chủ, tự chịu trách nhiệm về kinh phí hành chính trong
các cơ quan hành chính nhà nước theo hướng: Nghiên cứu, điều chỉnh căn cứ giao kinh phí tự
chủ ngoài căn cứ theo số lượng biên chế được phê duyệt cần phải có thêm các căn cứ khác
như: chức năng, nhiệm vụ quản lý nhà nước được giao, quy mô, cơ cấu tổ chức bộ máy của
mỗi cơ quan, hệ thống công sở, trang thiết bị… ; Để đảm bảo quyền tự chủ, đồng thời gắn với
trách nhiệm của thủ trưởng đơn vị trong quản lý, sử dụng kinh phí và thực hiện nhiệm vụ
chuyên môn, nên ban hành quy định pháp luật, trong đó, giao cho thủ trưởng đơn vị; Để đảm
bảo thống nhất trong việc đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ của các cơ quan nhà nước từ

trung ương đến địa phương, Nhà nước cần ban hành các tiêu chí khung đánh giá các nội dung
cơ bản như: khối lượng, chất lượng công việc thực hiện, thời gian giải quyết công việc, tình
hình chấp hành chính sách, chế độ và quy định về tài chính. Dựa vào tiêu chí khung, các cơ
quan chủ quản cấp trên, UBND các cấp có cơ sở ban hành được tiêu chí cơ bản là căn cứ đánh
giá kết quả thực hiện nhiệm vụ của các cơ quan trực thuộc.
- Xây dựng chế độ, định mức, tiêu chuẩn trong chi hành chính bảo đảm phù hợp với
điều kiện phát triển kinh tế – xã hội, trong đó đặc biệt lưu ý tới các khoản chi cho cá nhân như
chế độ tiền lương của cán bộ, công chức, viên chức; chế độ công tác phí, chế độ tiền ăn đại
biểu hội nghị…

C, KẾT LUẬN
Những năm gần đầy, Chính phủ , Bộ tài chính và các cơ quan ban ngành đã cố gắng
ban hành nhiều các văn bản pháp luật để hướng dẫn việc thực hiện chi tiêu hành chính ở Việt
Năm, nhằm nâng cáo chất lượng và hiệu quả hoạt động của bộ máy hành chính công nước ta.
Góp phần giảm gánh nwnajg cho ngân sách nhà nước. Bước đầu đã đạt được nhiều hiệu quả
và thành tựu nhất định. Tuy nhiên vẫn còn tồn đọng nhieeuc vướng mắc bất cập trong quá
trình triển khai thực hiện các quy phạm pháp luật đó. Để vấn đề chi tiêu hành chính hợp lý
hơn, cần yêu cầu tăng cường hiệu quả các hoạt động hành chính của bộ máy nhà nước., xây
dựng các cơ chế, đồng thời thực hiện các kế hoạch tiết kiệm, chống lãng phí, tăng cương vai
trò lãnh đạo của thủ trưởng các đơn vị trong chính sách tự chủ chi tiêu hành chính.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
11


1, Giáo trình luật ngân sách nhà nước trường Đại Học Luật Hà Nội
2, Đề tài khoa học cấp trường “Nghiên cứu Pháp luật Tài chính công Việt Nam”, Chủ nhiệm:
TS.Phạm Thị Giang Thu, Đại học Luật Hà Nội, 2011, tr.139 – 154
3, Các văn bản pháp luật được ghi trong tiểu luận
4, />5, “ Đánh giá thực trạng, định hướng hoàn thiện pháp luật điều chỉnh khoán chi Việt Nam” –

Th.s Phạm Nguyệt Thảo, ĐH Luật Hà Nội.

MỤC LỤC
Trang
A, MỞ ĐẦU……………………………………………………………………..1
12


B, NỘI DUNG…………………………………………………………………...1
I, Chế độ chi tiêu hành chính ở Việt Nam………………………………….….1
1, Khái niệm về chế độ chi tiêu hành chính………………………………….…1
2, Nội dung chế độ chi tiêu hành chính ở Việt Nam…………………….…..…1
3, Thực tiễn chế độ tiêu hành chính ở Việt Nam…………………………....….3
a, Về hệ thống các văn bản pháp luật điều chỉnh………………………………..3
b, Về thực trạng thực hiện các chế độ chi tiêu ở các đơn vị hành chính…….…..5
II, Nhận xét, đáng giá về việc thực hiện chế độ chi tiêu hành chính tại Ủy
ban nhân dân tỉnh Thái Nguyên……………………………………………….9
III, Một số đề xuất nhằm khắc phục các hạn chế tồn động trong chi tiêu
hành chính ở nước ta………………………………………………………….11
C, KẾT LUẬN…………………………………………………………………11

13



×