Tải bản đầy đủ (.pdf) (40 trang)

DÀN Ý TẤT CẢ CÁC TÁC PHẨM VĂN HỌC 12

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (551.1 KB, 40 trang )

ÔN THI TỐT NGHIỆP – ĐẠI HỌC

DÀN Ý TẤT CẢ CÁC TÁC PHẨM VĂN HỌC 12


RỪNG XÀ NU (Nguyễn Trung Thành)
I. KIẾN THỨC CƠ BẢN
1. Hoàn cảnh sáng tác
– Tác phẩm được viết năm 1965 khi giặc Mĩ đổ quân ào ạt vào bãi biển Chu Lai – Quảng Nam . Đó
là lúc nhà văn muốn viết một bài ―Hịch tướng sĩ‖ thời đánh Mĩ để động viên, cổ động nhân dân
bước vào cuộc kháng chiến chống Mĩ.
– Truyện được đăng trên tạp chí Văn nghệ quân giải phóng miền Trung Trung Bộ, sau đó được in
trong tập Trên quê hương những anh hùng Điện Ngọc.
2. Tóm tắt
Mở đầu truyện là cảnh rừng xà nu bạt ngàn đứng trong ―tầm đại bác ‖của giặc đang ưỡn tấm ngực
lớn ra che chở cho làng Xôman. Sau 3 năm đi lực lượng, Tnú được cấp trên cho phép về thăm làng
một đêm. Bé Heng nay đã trở thành một giao liên chững chạc, nhanh nhẹn. Dít nay đã trở thành bí
thư chi bộ kiêm chính trị viên xã đội vững vàng. Đêm hôm đó, cụ Mết đã kể cho cả dân làng nghe
về cuộc đời Tnú. Hồi đó Mĩ Diệm khủng bố gắt gao, được anh Quyết dìu dắt Tnú cùng Mai tham
gia nuôi giấu cán bộ cách mạng từ nhỏ. Giặc bắt anh, sau 3 năm anh lại vượt ngục Kontum trở về.
Lúc này anh Quyết đã hi sinh, Tnú lấy Mai. Anh tiếp tục cùng dân làng mài giáo mác chuẩn bị
chiến đấu. Giặc nghe tin, chúng về làng càn quét, khủng bố. Kẻ thù bắt vợ con anh, tra tấn tàn bạo
ngay trước mắt anh. Căm hờn cháy bỏng, anh đã nhảy xổ ra giữa bọn lính nhưng cũng không cứu
được mẹ con Mai. Giặc bắt anh, quấn giẻ tẩm nhựa xà nu đốt mười đầu ngón tay anh. Cụ Mết cùng
thanh niên trong làng đã nổi dậy giết sạch bọn lính cứu Tnú. Sau đó anh gia nhập lực lượng quân
giải phóng. Câu chuyện kết thúc bằng cảnh cụ Mết và Dít tiễn Tnú trở lại đơn vị, trước mắt họ là
những cánh rừng xà nu nối tiếp đến tận chân trời.
3. Nhan đề
-Nhan đề là một sáng tạo nghệ thuật độc đáo của nhà văn. Hình ảnh rừng xà nu là linh hồn của tác
phẩm. Cảm hứng chủ đạo và dụng ý nghệ thuật của nhà văn được khơi nguồn từ hình ảnh này.
– Rừng xà nu là hình ảnh trung tâm có vẻ đẹp riêng, gắn bó mật thiết với cuộc sống vật chất và tinh


thần của người dân Tây Nguyên, biểu tượng cho những phẩm chất cao đẹp của con người Tây
Nguyên: sức sống mãnh liệt, kiên cường, bất khuất, khao khát tự do.
– Nhan đề còn gợi chủ đề, cảm hứng sử thi cho truyện ngắn.
II. KIẾN THỨC CƠ BẢN
1. Hình tượng cây xà nu
* Vị trí xuất hiện : nhan đề, đầu và cuối tác phẩm, xuất hiện trong sự đối chiếu so sánh với các nhân
vật ở trong truyện.
* Nghĩa thực : Đây là một loài cây có thật ở vùng đất Tây Nguyên.
* Nghĩa biểu tượng :
– Cây xà nu gắn bó với cuộc sống con người Tây Nguyên:


+ Cây xà nu có mặt trong đời sống hằng ngày của người dân làng Xôman.
+ Cây xà nu tham dự vào những sự kiện trọng đại của dân làng Xôman.
+ Cây xà nu gắn với cuộc sống của người dân làng Xôman đến mức nó đã thấm sâu vào nếp suy
nghĩ và cảm xúc của họ, cụ Mết nói về cây xà nu với tất cả tình cảm yêu thương, gần gũi xen lẫn tự
hào ―không có gì mạnh bằng cây xà nu đất ta‖. Cây xà nu đã trở thành một phần máu thịt trong đời
sống vật chất và tinh thần của mảnh đất này.
– Cây xà nu tượng trưng cho số phận và phẩm chất của con người Tây Nguyên trong chiến tranh
cách mạng.
+ Thương tích mà rừng xà nu phải gánh chịu do đại bác của kẻ thù tượng trưng cho những mất mát,
đau thương vô bờ mà dân làng Xôman nói riêng (anh Xút, bà Nhan, mẹ con Mai…) và đồng bào
Tây Nguyên nói chung đã phải trải qua trong cuộc chiến đấu.
+ Đặc tính ham ánh sáng của cây xà nu tượng trưng cho niềm khát khao tự do, lòng tin vào lý tưởng
cách mạng của người dân Tây Nguyên, của đồng bào miền Nam trong cuộc kháng chiến.
+ Khả năng sinh sôi mãnh liệt của cây xà nu gợi nghĩ đến sự tiếp nối của nhiều thế hệ người dân
Tây Nguyên (cụ Mết, Tnú, Mai, Dít, Heng) đoàn kết bên nhau trong cuộc kháng chiến chống đế
quốc Mĩ.
+ Sự tồn tại kỳ diệu của rừng xà nu qua những hành động hủy diệt của kẻ thù tượng trưng cho sức
sống bất diệt, sự bất khuất, kiên cường và sự vươn lên mạnh mẽ của con người Tây Nguyên trong

cuộc chiến mất còn với kẻ thù.
– Nghệ thuật miêu tả:
+ Kết hợp miêu tả cụ thể lẫn khái quát, khi dựng lên hình ảnh cả rừng xà nu, khi đặc tả cận cảnh
một số cây
+ Phối hợp cảm nhận nhiều giác quan trong việc miêu tả những cây xà nu với vóc dáng tràn đầy sức
lực, tràn trề mùi nhựa thơm, ngời xanh giữa ánh nắng
+ Hình tượng cây xà nu vừa hiện thực lại vừa mang đậm ý nghĩa biểu tượng. Miêu tả cây xà nu
trong sự so sánh đối chiếu thường xuyên với con người. Các hình thức ẩn dụ, nhân hóa, tượng trưng
đều được vận dụng nhằm thể hiện sống động, hùng vĩ, khoáng đạt của thiên nhiên đồng thời gợi ra
nhiều suy tưởng sâu xa về con người, về đời sống.
+ Hình ảnh cây xà nu xuất hiện ở đầu tác phẩm rồi kết thúc tác phẩm lại hiện ra cánh rừng xà nu bạt
ngàn. Đây là một kết cấu vòng tròn. Kết cấu ấy cho phép ta nghĩ : cây xà nu không chỉ là tượng
trưng cho một làng Xô Man nhỏ bé hay cho một vùng núi rừng Tây Nguyên. Có thể đó còn là biểu
tượng của cả miền Nam, của cả dân tộc Việt Nam trong những tháng năm chống đế quốc Mĩ.
2. Hình tượng nhân vật Tnú
– Tnú là người có tính cách trung thực, gan góc, dũng cảm, mưu trí:
+ Giặc giết bà Nhan, anh Xút nhưng Tnú (lúc bấy giờ còn nhỏ) không sợ. Tnú vẫn cùng Mai xung
phong vào rừng nuôi giấu cán bộ.
+ Học chữ thua Mai, Tnú đập vỡ bảng, lấy đá đập vào đầu đến chảy máu.
+ Khi đi liên lạc không đi đường mòn mà ―xé rừng mà đi‖, không lội chỗ nước êm mà ―lựa chỗ thác
mạnh vượt băng băng như con cá kình‖. Bởi theo Tnú những chỗ nguy hiểm giặc ―không ngờ‖ đến.
+ Bị giặc phục kích bắt, bị tra tấn dã man nhưng Tnú quyết không khai. Khi bọn giặc kéo về làng,
bắt Tnú khai cộng sản ở đâu anh đặt tay lên bụng dõng dạc nói ―cộng sản ở đây này‖.
– Tnú là người có tính kỷ luật cao, tuyệt đối trung thành với cách mạng
+ Tham gia lực lượng vũ trang, nhớ nhà, nhớ quê hương nhưng khi được phép của cấp trên mới về
thăm.
+ Tính kỉ luật cao trong mối quan hệ với cách mạng biểu hiện thành lòng trung thành tuyệt đối: khi


bị kẻ thù đốt mười đầu ngón tay, ngọn lửa như thiêu đốt gan ruột nhưng Tnú không kêu nửa lời, anh

luôn tâm niệm lời dạy của anh Quyết : ―người cộng sản không thèm kêu van‖.
– Một trái tim yêu thương và sục sôi căm giận
+ Tnú là một người sống rất nghĩa tình : Tnú đã tay không xông ra cứu vợ con. Động lực ghê gớm
ấy chỉ có thể được khơi nguồn từ trái tim cháy bỏng ngọn lửa yêu thương và ngọn lửa căm thù. Tnú
là con người tình nghĩa với buôn làng: anh lớn lên trong sự đùm bọc yêu thương của người dân làng
Xôman.
+ Lòng căm thù ở Tnú mang đậm chất Tây Nguyên: Tnú mang trong tim ba mối thù : Thù của bản
thân; Thù của gia đình; Thù của buôn làng
– Ở Tnú, hình tượng đôi bàn tay mang tính cách, dấu ấn cuộc đời
+ Khi lành lặn : đó là đôi bàn tay trung thực, nghĩa tình (bàn tay cầm phấn viết chữ anh Quyết dạy
cho ; bàn tay cầm đá đập vào đầu mình để tự trừng phạt vì học hay quên chữ …
+ Khi bị thương : đó là chứng tích của một giai đoạn đau thương, của thời điểm lòng căm hận sôi
trào ―Anh không cảm thấy lửa ở mười đầu ngón tay nữa. Anh nghe lửa cháy trong lồng ngực, cháy
trong bụng‖. Đó cũng là bàn tay trừng phạt, bàn tay quả báo khi chính đôi bàn tay tàn tật ấy đã bóp
chết tên chỉ huy đồn giặc trong một trận chiến đấu của quân giải phóng.
– Hình tượng Tnú điển hình cho con đường đấu tranh đến với cách mạng của người dân Tây
Nguyên làm sáng tỏ chân lí của thời đại đánh Mĩ : ―chúng nó đã cầm súng mình phải cầm giáo‖.
+ Bi kịch của Tnú khi chưa cầm vũ khí là bi kịch của người dân STrá khi chưa giác ngộ chân lý (bà
Nhan, anh Xút). Tnú là người có thừa sức mạnh cá nhân nhưng anh vẫn thất bại đau đớn khi không
có vũ khí. Với bàn tay không có vũ khí trước kẻ thù hung bạo anh đã không bảo vệ được vợ con và
bản thân.
+ Tnú chỉ được cứu khi dân làng Xôman đã cầm vũ khí đứng lên. Cuộc đời bi tráng của Tnú là sự
chứng minh cho chân lí : phải dùng bạo lực cách mạng để tiêu diệt bạo lực phản cách mạng.
+ Con đường đấu tranh của Tnú từ tự phát đến tự giác cũng là con đường đấu tranh đến với cách
mạng của làng Xôman nói riêng và người dân Tây Nguyên nói chung.
Tóm lại, câu chuyện về cuộc đời và con đường đi lên của Tnú mang ý nghĩa tiêu biểu cho số phận
và con đường của các dân tộc Tây Nguyên trong cuộc kháng chiến chống đế quốc Mĩ. Vẻ đẹp và
sức mạnh của Tnú là sự kết tinh vẻ đẹp và sức mạnh của con người Tây Nguyên nói riêng và người
Việt Nam nói chung trong thời đại đấu tranh cách mạng.
3. Cụ Mết, Dít, bé Heng

– Cụ Mết : ―Pho sử sống‖ của làng Xô man; Người giữ lửa truyền thống của cả bộ tộc, người kết
nối quá khứ và hiện tại, hôm qua và hôm nay; ―thủ lĩnh‖ tinh thần, người định hướng con đường đi
theo cách mạng cho cả bộ tộc; nhân vật tiêu biểu cho tính cách quật cường, bất khuất của dân làng
Xô Man nói riêng, người Tây Nguyên nói chung, thâm chí rộng ra là cả dân tộc.
Nếu ví làng Xôman như một khu rừng Xà nu đại ngàn, thì cụ Mết chính là cây đại thụ.
– Dít : một cô bé gan dạ, dũng cảm, sớm tiếp bước các thế hệ đi trước khi đến với cách mạng; tiêu
biểu thế hệ trẻ của làng Xô man trưởng thành trong cuộc kháng chiến; Cùng với Tnú, Dít là lực
lượng chủ chốt của cuộc đấu tranh ngày hôm nay, đó là sự tiếp nối tự giác và quyết liệt.Cũng như
Tnú, Mai và nhiều thanh niên khác trong làng, Dít là một trong ―những cây xà nu đã trưởng thành‖
của ―đại ngàn Xô man‖ hùng vĩ.
– Bé Heng: Một cậu bé hồn nhiên, ngộ nghĩnh đáng yêu; Sớm tham gia vào cuộc kháng chiến
chung của cả làng; Là hình ảnh tiêu biểu về một thế hệ đánh Mĩ mới, sẽ tiếp bước một cách mạnh
mẽ những Tnú, Mai, Dít; Trong ―Rừng xà nu‖, bé Heng chính là một trong những ―cây xà nu con‖
―mới mọc lên‖.


4. Biểu hiện của khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn
+ Đề tài: Viết về cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc của nhân dân Việt Nam trong cuộc kháng
chiến chống đế quốc Mĩ; số phận và con đường giải phóng của dân làng Xôman) không chỉ là vấn
đề sinh tử của một ngôi làng ở Tây Nguyên mà còn là của cả dân tộc Việt Nam.
+ Hệ thống nhân vật mà điển hình là Cụ Mết, Tnú, Dít: đều là những cá nhân anh hùng kết tinh cao
độ vẻ đẹp và phẩm chất của cả cộng đồng các dân tộc Tây Nguyên, thậm chí của con người Việt
Nam trong chiến đấu (yêu nước, căm thủ giặc sâu sắc, gan dạ, dũng cảm, kiên cường, trung thành
với cách mạng…
+ Không gian nghệ thuật: rộng lớn.
+ Cách kể chuyện: Chuyện được kể bên bếp lửa qua lời kể của một già làng, đông đảo dân làng từ
già đến trẻ đều đang quây quần bên bếp lửa để lắng nghe, không khí rất trang nghiêm
+ Xây dựng thành công những hình tượng nghệ thuật độc đáo – hình tượng cây xà nu, rừng xà nu
không chỉ thể hiện tư tưởng chủ đề, đem lại chất sử thi mà còn tạo nên giá trị lãng mạn bay bổng
cho thiên truyện.

+ Giọng điệu: ngợi ca chủ nghĩa anh hùng cách mạng; ngôn ngữ trang trọng, hào hùng.
III. TỔNG KẾT
+ Tô đậm không khí, màu sắc đậm chất Tây Nguyên (bức tranh thiên nhiên; ngôn ngữ, tâm lí, hành
động của nhân vật)
+ Xây dựng thành công hai tuyến nhân vật đối lập gay gắt: giữa kẻ thù (thằng Dục) với lực lượng
cách mạng, đại diện là các thế hệ nối tiếp nhau vừa có những nét cá tính sống động vừa mang
những phẩm chất có tính khái quát, tiêu biểu (cụ Mết, Tnú, Dít,…)
+ Khắc họa thành công hình tượng cây xà nu vừa hiện thực vừa mang đậm ý nghĩa biểu tượng, đem
lại chất sử thi và lãng mạn, bay bổng cho thiên truyện.
+ Nghệ thuật trần thuật sinh động (đan cài câu chuyện về cuộc đời Tnú và cuộc nổi dậy của dân
làng Xô Man; xen kẽ thời gian kể chuyện và thời gian của các sự kiện; phối hợp các điểm nhìn,…)
tạo nên giọng điệu, âm hưởng phù hợp với không gian Tây Nguyên.

VỢ CHỒNG A PHỦ (Tô Hoài)
I. KIẾN THỨC CHUNG
1. Tác giả Tô Hoài
– Nguyễn Sen (1920). Quê nội ở Thanh Oai- Hà Đông. Viết văn từ trước Cách mạng – sáng tác với
nhiều thể loại Số lượng tác phẩm đạt kỷ lục trong nền văn học Việt Nam hiện đại. Ông là người có
vốn hiểu biết phong phú về các phong tục tập quán, văn hóa của các vùng miền trên đất nước.
– Một số tác phẩm tiêu biểu: Dế Mèn phiêu lưu ký (1941), O chuột (1942), Truyện Tây Bắc
(1953)…
b. Tác phẩm
– Hoàn cảnh sáng tác: Trong chuyến đi thực tế dài 8 tháng cùng bộ đội và giải phóng Tây Bắc.
– ―Vợ chồng A Phủ‖ In trong tập ―Truyện Tây Bắc―- Giải nhất Hội Văn nghệ Việt Nam 1954-1955.
II. KIẾN THỨC CƠ BẢN


1. Nhân vật Mị
* Lai lịch – xuất thân: Là một người nông dân bình thường. Mị vốn là cô gái xinh đẹp, hiếu thảo, có
lòng tự trọng và có tài ―thổi lá hay như thổi sáo‖ và được nhiều trai làng theo.

* Cuộc đời làm dâu gạt nợ:
– Thời gian: ―Đã mấy năm‖, nhưng ―từ năm nào cô không nhớ …‖ => không còn ý thức về thời
gian, không còn ý thức về cuộc đời làm dâu gạt nợ.
– Không gian: tảng đá trước cửa, cạnh tàu ngựa…khe suối…
+ Căn buồng kín mít: Không gian hẹp, cố định, quen thuộc, tăm tối, gợi cuộc đời tù hãm, bế tắc,
luẩn quẩn…
– Hành động, dáng vẻ bên ngoài:
+ Cúi mặt, buồn rười rượi, đêm nào cũng khóc …
+ Trốn về nhà, định tự tử …
+ Cúi mặt, không nghĩ ngợi … vùi vào làm việc cả ngày và đêm.
– Suy nghĩ: Tưởng mình là con trâu, con ngựa nghĩ rằng ―mình sẽ ngồi trong cá lỗ vuông ấy mà
trông ra đến bao giờ chết thì thôi…‖.
+ Ngày Tết: chẳng buồn đi chơi…
=> Nghệ thuật miêu tả sinh động, cách giới thiệu khéo léo, hấp dẫn, nghệ thuật tả thực, tương phản
(giữa nhà thống lý giàu có với cô con dâu luôn cúi mặtkhông gian căn guồng chật hẹp với không
gian thoáng rộng bên ngoài).
=> Cuộc đời làm dâu gạt nợ là cuộc đời tôi tớ. Mị sông tăm tối, nhẫn nhục trong nỗi khổ vật chất
thể xác, tinh thần…không hy vọng có sự đổi thay.
* Sức sống tiềm tàng:
– Thời con gái: Vốn là một cô gái trẻ đẹp, có tài thổi sáo, có nhiều người say mê – có tình yêu đẹp.
– Khi xuân về:
+ Nghe – nhẩm thầm-hát.
+ Lén uống rượu-lòng sống về ngày trước.
+ Thấy phơi phới – đột nhiên vui sướng.
+ Muốn đi chơi (nhắc 3 lần).
=> Khát vọng sống trỗi dậy
– Bị A Sử trói đứng:
+ Như không biết mình bị trói.



+ Vẫn nghe tiếng sáo …
+ Vùng đi – sợ chết.
=> Khát vọng sống vô cùng mãnh liệt.
Khi cởi trói cho A Phủ:
+ Lúc đầu: vô cảm ‖ A Phủ có chết đó cũng thế thôi ―.
+ Thấy nước mắt của A Phủ: thương mình, thương người.
=> Mị cởi trói cho A Phủ – giải phóng cho A Phủ là giải phóng cho chính mình.
=> Hành động có ý nghĩa quyết định cuộc đời Mị-là kết quả tất yếu của sức sống vốn tiềm tàng
trong tâm hồn người phụ nữ tưởng suốt đời cam chịu làm nô lệ.
=> Cuộc đời Mị là cuộc đời nô lệ điển hình của người phụ nữ dưới chế độ cũ.
b. Nhân vật A Phủ
* Cuộc đời:
– Lúc nhỏ: Mồ côi, sống lang thang => Bị bắt bán – bỏ trốn.
– Lớn lên: Biết làm nhiều việc. Khoẻ mạnh, không thể lấy nổi vợ vì nghèo.
+ Dám đánh con quan => Bị phạt vạ => làm tôi tớ cho nhà thống lý.
+ Bị hổ ăn mất bò => Bị cởi trói, bị bỏ đói…
* Sức sống mãnh liệt:
Bị trói: Nhay đứt 2 vòng dây mây quật sức vùng chạy => Khát khao sống mãnh liệt.
=> Cuộc đời A Phủ cũng là một cuộc đời nô lệ điển hình.
2. Cảnh xử kiện
– Diễn ra trong khói thuốc phiện mù mịt tuôn ra từ các lỗ cửa sổ như khói bếp …
– Người đánh, người quỳ lạy, kể lể, chửi bới. Xong một lượt đánh, kể chửi lại hút. Cứ thế từ trưa
đến hết đêm
– A Phủ gan góc quỳ chịu đòn chỉ im lặng như tượng đá…
– Cảnh cho vay tiền: Kỳ quặc…Biểu hiện đậm nét sự tàn ác dã man của bọn thống trị miền núi.
=> Hủ tục và pháp luật nằm trọn trong tay bọn chúa đất nên kết quả: A Phủ trở thành con ở trừ nợ
đời đời kiếp kiếp cho nhà thống lý Pá Tra.
=> Cha con thống lý Pá Tra điển hình cho giai cấp thống trị phong kiến miền núi ở Tây Bắc nước ta
trước Cách mạng.



3.. Vài nét nghệ thuật
+ Nghệ thuật xây dựng nhân vật, miêu tả tâm lí: nhân vật sinh động, có cá tính đậm nét (Với Mị, tác
giả ít miêu tả hành động, dùng thủ pháp lặp lại có chủ ý một số nét chân dung gây ắn tượng sâu
đậm, đặc biệt tác giả miêu tả dòng ý nghĩ, tâm tư, nhiều khi là tiềm thức chập chờn…Với A Phủ,
tác giả chủ yếu khắc hoạ qua hành động, công việc, những đối thoại giản đơn).
+ Nghệ thuật miêu tả phong tục tập quán của Tô Hoài rất đặc sắc với những nét riêng (cảnh xử kiện,
không khí lễ hội mùa xuân, những trò chơi dân gian, tục cướp vợ, cảnh cắt máu ăn thề,…).
+ Nghệ thuật miêu tả thiên nhiên miền núi với những chi tiết, hình ảnh thấm đượm chất thơ.
+ Nghệ thuật kể chuyện tự nhiên, sinh động, hấp dẫn.
+ Ngôn ngữ tinh tế, mang đậm màu sắc miền núi.
III. TỔNG KẾT
Qua việc miêu tả cuộc đời, số phận của Mị và A Phủ, nhà văn đã làm sống lại quãng đời tăm tối, cơ
cực của người dân miền núi dưới ách thống trị dã man của bọn chúa đất phong kiến, đồng thời
khẳng định sức sống tiềm tàng, mãnh liệt không gì huỷ diệt được của kiếp nô lệ, khẳng định chỉ có
sự vùng dậy của chính họ, được ánh sáng Cách mạng soi đường đến một cuộc đời tươi sáng. Đó
chính là giá trị hiện thực sâu sắc, giá trị nhân dạo lớn lao, tiến bộ của Vợ chồng A Phủ. Những giá
trị này đã giúp cho Tô Hoài, tác phẩm của Tô Hoài đứng vững trước thử thách của thời gian và
được nhiều thế hệ bạn đọc yêu thích.

VỢ NHẶT ( Kim Lân)
I. KIẾN THỨC CƠ BẢN
1. Đôi nét về Kim Lân
– Kim Lân (1920 – 2007). Trước CMT8: Ông chủ yếu viết về nông thôn, đề tài người nông dân.
Sau CMT8: Làm báo, viết văn. Một số tác phẩm tiêu biểu: Nên vợ nên chồng (1955), Con chó xấu
xí (1962)…
– Phong cách sáng tác: Cây bút chuyên viết truyện ngắn, chủ yếu viết về đề tài nông thôn, người
nông dân.
2. Đôi nét về ―Vợ nhặt‖
– Hoàn cảnh sáng tác: Truyện Vợ nhặt có tiền thân là tiểu thuyết Xóm ngụ cư – tác phẩm được viết

ngay sau Cách mạng tháng Tám nhưng còn dở dang và bị mất bản thảo. Hoà bình lập lại (1954),
dựa trên một phần cốt truyện cũ, Kim Lân đã viết truyện Vợ nhặt.
– Xuất xứ: Tác phẩm được in trong tập Con chó xấu xí (1962).
3.Tóm tắt truyện ―Vợ nhặt‖
Truyện lấy bối cảnh là nạn đói năm 1945. Tràng – một thanh niên nghèo, lại là dân ngụ cư, trong
một lần đẩy hàng đã tình cờ có được vợ. Cô vợ nhặt đã tình nguyện theo Tràng chỉ sau một câu nói
đùa và bốn bát bánh đúc. Tràng đưa ―thị‖ về giữa cảnh đói khát đang tràn đến xóm ngụ cư. Bà cụ
Tứ thấy con có vợ thì vừa mừng vừa tủi cho thân phận nghèo khó của mình và thương con, thương
nàng dâu đói khổ. Họ sống với nhau trong cảnh đói nghèo nhưng hạnh phúc và tin rằng: Việt Minh
về làng, họ sẽ đi phá kho thóc Nhật, lấy lại thóc gạo để cứu sống mình.
4. Ý nghĩa nhan đề
– Nhan đề gợi tình huống éo le, kích thích trí tò mò người đọc. Thông thường, người ta có thể nhặt
thứ này, thứ khác, chứ không ai ―nhặt‖ ―vợ‖. Bởi dựng vợ gả chồng là việc lớn, thiêng liêng, có ăn


hỏi, có cưới xin theo phong tục truyền thống của người Việt, không thể qua quýt, coi như trò đùa.
– ―Vợ nhặt‖ là điều trái khoáy, oái ăm, bất thường, vô lí. Song thực ra nó lại rất có lí. Vì đúng là
anh Tràng đã nhặt được vợ thật. Chỉ một vài câu bông đùa của Tràng mà có người đã theo về làm
vợ. Điều này đã thực sự khiến một việc nghiêm túc, thiêng liêng trở thành trò đùa và ngược lại, điều
tưởng như đùa ấy lại chính là sự thực. Từ đây, bản thân nhan đề tự nó đã gợi ra cảnh ngộ éo le, sự
rẻ rúng của giá trị con người. Chuyện Tràng nhặt được vợ đã nói lên tình cảnh thê thảm và thân
phận tủi nhục của người nông dân nghèo trong nạn đói khủng khiếp năm 1945.
II. KIẾN THỨC CƠ BẢN
1.Tình huống truyện
– Tình huống truyện : Anh Tràng vừa nghèo, vừa xấu lại là dân ngụ cư thế mà lấy được vợ ngay
giữa lúc đói khát, ranh giới giữa sự sống và cái chết hết sức mong manh.
– Tình huống lạ, độc đáo : người như Tràng mà lấy được vợ, thậm chí có vợ theo ! Thời buổi đói
khát này, người như Tràng nuôi thân chẳng xong mà dám lấy vợ ! Chẳng phải thế mà việc Tràng có
vợ đã tạo ra sự lạ lùng, ngạc nhiên với tất cả mọi người trong xóm ngụ cư, với bà cụ Tứ, thậm chí
đã có những thời điểm chính Tràng cũng chẳng thể nào tin được vào điều đó.

– Tình huống truyện không chỉ tạo ra một hoàn cảnh ―có vấn đề‖ cho câu chuyện mà còn nén trong
đó ý đồ nghệ thuật của nhà văn đồng thời gợi mở các khía cạnh giá trị hiện thực và nhân đạo của tác
phẩm.
2. Nhân vật
2.1. TRÀNG
*Tràng là người dân lao động nghèo, ―nhặt‖ được vợ trong thời buổi đói khát:
– Bản thân anh là dân ngụ cư, dân ăn nhờ, ở đậu.
– Tràng sống với mẹ già trong một căn nhà xiêu vẹo trên bãi đất hoang mọc lổn nhổn những búi cỏ
dại.
Hoàn cảnh xuất thân : khó lấy được vợ.
– Tuy nhiên, giữa cái khung cảnh tối sầm lại vì đói khát, Tràng bỗng nhiên ―nhặt‖ được vợ.Cuộc
gặp gỡ giữa Tràng và người đàn bà không tên diễn ra thât chóng vánh chỉ qua hai lần gặp mà chỉ
gặp ở đường và chợ để rồi ―nên vợ, nên chồng‖:
+ Lần gặp thứ nhất : Trên đường kéo xe thóc lên tỉnh, Tràng hò chơi cho đỡ mệt ―Muốn….‖. Không
ngờ, thị ra đẩy xe cho anh và còn liếc mắt cười tít nữa. Tràng thích lắm vì từ khi cha sinh mẹ đẻ đến
giờ mới có một người con gái cười với hắn tình tứ đến như thế.
+ Lần gặp thứ 2, ở quán nước ngoài chợ. Ban đầu, Tràng không nhận ra vì thị khác quá, trên khuôn
mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn hai con mắt. Khi nhận ra rồi, trong lời đáp ―ăn gì thì ăn, chả ăn giầu‖
Tràng sẵn sàng đãi thị bốn bát bánh đúc. Trong bối cảnh mà người ta lo thân không xong, ai cũng
đứng trên miệng vực thẳm của cái chết hành động mà Tràng đãi thị bốn bát bánh đúc chứng tỏ rằng
Tràng là một người khá tốt bụng và cởi mở. Chính sự tốt bụng và cởi mở của Tràng đã đem đến cho
Tràng hạnh phúc, Tràng nói đùa với thị ―Này … rồi cùng về‖, nhưng thị đã theo Tràng về thật. Khi
quyết định ―đèo bòng‖ Tràng cảm thấy ―chợn‖ nhưng ―chậc kệ‖
* Niềm hạnh phúc khi có vợ :
– Tràng khi đưa vợ về qua xóm ngụ cư : tâm trạng của anh hôm nay phớn phở, cười tủm tỉm, hai
con mắt thì sáng lên lấp lánh, trước ánh mắt nhìn đầy tò mò và ngạc nhiên của người dân trong
xóm, trước những lời xì xào bàn tán của người dân trong xóm, Tràng rất hãnh diện, rất đắc ý, mặt
cứ vênh lên như thể chứng tỏ với mọi người- Tràng đã có vợ.
– Tràng khi đưa vợ về đến nhà : Hành động: xăm xăm nhấc tấm phên rách ra và câu nói ―Không có
người đàn bà nhà cửa ra thế đấy‖ ta hiểu rằng có vợ rồi người đàn ông ăn nói cục cằn kia bỗng văn

hóa hẳn lên. Ánh mắt của anh đã để ý đến cô vợ nhặt và thắc mắc với lòng mình ―Quái, sao nó lại
buồn thế nhỉ?‖ Tràng sốt ruột mong ngóng mẹ về để còn ra mắt cô vợ nhặt.Khi mẹ về, sau lời giới
thiệu, Tràng cũng hồi hộp, lo lắng đợi chờ câu trả lời của mẹ, và chỉ khi người mẹ nói ―Các con
phải duyên phải kiếp với nhau u cũng mừng lòng‖ Tràng mới thở đánh phào một cái.


Có thể nói, Kim Lân đã rất chú ý miêu tả diễn biến tâm trạng của Tràng từ khi có vợ. Có rất nhiều
lần Kim Lân nhắc đến nụ cười của Tràng để nhấn mạnh đến niềm khát khao hạnh phúc, khát khao
mái ấm gia đình để thách thức với cái đói đang tung lưới bủa vây.
– Tràng trong buổi sáng ngày hôm sau :
+ Tràng thấy mình như bước ra từ một giấc mơ, trong người ―êm ái lửng lơ‖.
+ Trước mặt anh mọi thứ đều thay đổi: nhà cửa sân vườn hôm nay đều được quét tước sạch sẽ; mấy
chiếc quần áo rách như tổ đỉa vẫn vắt ở góc nhà đã thấy đem ra sân hong; hai cái ang nước vẫn để
khô cong duới gốc cây ổi giờ đã kín nước đầy ăm ắp. Rõ ràng những cảnh tượng rất đỗi bình
thường ấy cũng đã làm cho anh cảm động, hạnh phúc với anh thật giản dị.
+ Từ buổi sáng đó, anh mới thấy mình nên người. Anh nghĩ đến tương lai, đến sự sinh sôi nảy nở
của hạnh phúc để rồi vui sướng, phấn chấn tràn ngập trong lòng.
+ Và người vợ nhặt của Tràng hôm nay cũng khác lắm – đó là một người đàn bà hiền hậu, đúng
mực, không có vẻ gì chao chát, chỏng lỏn nữa.
+ Tràng thấy ―thương yêu gắn bó với cái nhà của hắn lạ lùng. Hắn đã có một gia đình. Hắn sẽ cùng
vợ sinh con đẻ cái ở đấy. Cái nhà như cái tổ ấm che mưa che nắng. Một nguồn vui sướng, phấn
chấn tràn ngập trong lòng. Bây giờ hắn mới thấy hắn nên người, hắn thấy hắn có bổn phận phải lo
lắng cho vợ con sau này‖. Nguồn vui ấy như tia nắng, như ánh bình minh đem sinh khí đến cho
cuộc sống vốn đang ngập tràn sự chết chóc của cái đói tung lưới bủa vây.
+ Và trong bữa cơm đầu tiên, bữa cơm của 3 con người đang khốn khổ vì cái đói, tràn ngập sự đầm
ấm, hoà hợp.
– Hình ảnh khép lại tác phẩm trong óc Tràng là hình ảnh lá cờ đỏ và đoàn người đói đi trên đê Sộp,
gợi cho người đọc nghĩ về Việt Minh, về Cách mạng tháng Tám vĩ đại, về sự vùng dậy của những
người dân khốn khổ, đập tan xiềng xích, giành lại cơm áo, giành lại sự sống cho bản thân, giành lại
độc lập tự do cho dân tộc. Vì thế, kết thúc của tác phẩm đã gieo vào lòng người đọc một niềm tin

mãnh liệt, gieo một hạt giống hi vọng mãnh liệt vào tâm hồn Tràng, gia đình anh và tất cả bạn đọc
chúng ta.
2.2. THỊ - NGƯỜI VỢ NHẶT
– Cũng giống như Tràng, khung cảnh Kim Lân để cho nhân vật này xuất hiện là một không gian tối
sầm vì đói khát. Cũng giống như bao người khác, thị ngồi vêu cùng với mấy chị em gái nơi cửa nhà
kho. Chị không có tên, không tuổi tác, không cha mẹ, không gia đình… môt con số không tròn trĩnh
đang bao trùm lên lá số tử vi của chị. Cái đói đã cướp đi của thị tất cả.
– Khi chưa theo Tràng về làm vợ cái đói đã để lại ―dấu tích‖ ghê gớm trên dáng hình và tính cách
của chị:
+ Lần gặp thứ nhất: có vẻ táo tợn, ăn nói mạnh mẽ ―Có khối cơm trắng mấy giò mà ăn đấy! ―Này
nhà tôi ơi! Nói thật hay nói khoác đấy‖
+ Lần gặp thứ 2: chân dung của thị khiến Tràng không nhận ra, gầy (dẫn chứng)…Thị cong cớn
trong lời nói, vô duyên trong hành động ―sà xuống đánh… cắm đầu ăn một chặp bốn bát bánh
đúc… ăn xong cầm đôi đũa quệt ngang miệng, thở: Hà ngon! Về chị thấy hụt tiền thì bỏ bố‖. Tuy
nhiên, ẩn đằng những lời nói và hành động ấy là khát vọng về hạnh phúc và sự sống.
– Kim Lân không có ý chê bai người vợ nhặt kia, dù thực tế cũng có những người phụ nữ không
đẹp. Điều mà nhà văn muốn nhấn mạnh ở đây là: sức hủy hoại khủng khiếp của cái đói đối với hình
hài và tính cách của con người. Vì đói mà thị cố tạo ra cái vẻ cong cớn, chao chát, chỏng lỏn như là
để thách thức với số phận. Vì đói mà thị quên đi cả sĩ diện của mình, quên đi cả lòng tự trọng theo
không một người đàn ông về làm vợ trong khi chẳng biết tí gì về anh ta. Vì đói mà thị đánh liều
nhắm mắt đưa chân, đánh liều với hạnh phúc cả đời mình. Thị thật đáng thương. Nhưng đằng sau sự
liều lĩnh ấy của thị, người đọc hiểu rằng, thị là người có ý thức bám lấy sự sống mãnh liệt.
– Miêu tả nhân vật thị, Kim Lân không chú trọng nhiều đến diễn biến tâm trạng bên trong mà Kim
Lân chú ý nhiều đến hành động:
+ Thị bước sau Tràng chừng 3-4 bước, cái nón rách tàng nghiêng nghiêng che đi nửa mặt, mặt cúi
xuống, chân nọ bước díu cả vào chân kia. Thị đã ý thức được về bản thân, cái dáng cúi mặt kia phải
chăng đó là sự tủi phận
+ Về đến nhà, trông nếp nhà rẹo rọ của Tràng, thị nén tiếng thở dài, tiếng thở dài chấp nhận bước



vào cuộc đời của Tràng.
+ Hành động khép nép, tay vân vê tà áo khi đứng trước mặt bà cụ Tứ, thị thật đáng thương
– Tuy nhiên, ở sâu thẳm bên trong con người này vẫn có một niềm khát khao mái ấm gia đình thực
sự. Thị đã trở thành một con người hoàn toàn khác khi là một người vợ trong gia đình. Hạnh phúc
đã làm cho thị thay đổi từ một người phụ nữ cong cớn, đanh đá bỗng trở thành một người đàn bà
hiền hậu đúng mực, mái ấm gia đình đã đủ sức mạnh làm thay đổi một con người.
– Hình tượng chị vợ nhặt thể hiện rất rõ tư tưởng nhân đạo của Kim Lân
+ Một mặt nhà văn đã lên án tội ác dã man của phát xít Nhật và TDP. Nạn đói do chúng gây ra đã
cướp đi mọi giá trị của con người, và biến người con gái như một thứ đồ rẻ rúng có thể nhặt được
+ Mặt khác vợ Tràng đã nói lên một sự thật ở đời đó là trong đói khổ, hoạn nạn, kề bên cái chết
nhưng con người vẫn khát khao được sống, vẫn sống ngay khi cả cuộc đời không thể chịu được
nữa. Những con người nghèo khổ vẫn thương yêu đùm bọc, và cùng nhau vun đắp hạnh phúc để
vượt qua những thử thách khắc nghiệt.
2.3. BÀ CỤ TỨ
– Nhà văn Kim Lân tâm sự: ― Phần gây xúc động lớn nhất cho tôi khi đọc lại truyện ngắn Vợ nhặt
đó là đoạn bà cụ Tứ- mẹ Tràng trở về‖. Thông điệp nghệ thuật về bản chất nhân đạo trong tâm hồn
người Việt ở hình tượng nhân vật bà cụ Tứ đã được Kim Lân thể hiện thành công qua diến biến tâm
trạng của người mẹ nghèo ấy khi nhìn thấy chị vợ nhặt xuất hiện trong nhà mình cho đến buổi sáng
ngày hôm sau.
– Ngạc nhiên và bất ngờ là tâm trạng đầu tiên ở người mẹ nghèo khi lật đật theo con từ ngõ vào
nhà. Từ trước đến giờ có bao giờ Tràng mong ngóng mẹ về đến thế đâu, nhất định là phải chuyện gì
quan trọng, khác thường. Chân bước theo con nhưng lòng bà đang phấp phỏng. Rồi ―đứng sững lại‖
khi bà nhìn thấy một người phụ nữ đứng ở đầu giường con trai bà , mà lại chào bà bằng u. Ngạc
nhiên đã làm cho bà lão không còn tin vào cảm giác của bà nữa, tự dưng bà lão thấy mắt mình
nhoèn đi thì phải. Nhưng thực sự mắt bà không nhoèn, và tai bà cũng không đến mức điếc lác như
chị vợ nhặt nghĩ ban đầu. Bà chưa thể tin, không thể tin rằng con mình lại có người theo và lại chưa
bao giờ hình dung nhận dâu trong một tình cảnh trớ trêu, tội nghiệp đến thế.
– Bà lão cúi đầu nín lặng, đằng sau cái cúi đầu nín lặng ấy là dòng cảm xúc tuôn trào, là cơn bão
lòng đang cuộn xoáy với tình thương con vô bờ bến. Bây giờ thì bà không chỉ biết sự việc ―Nhà tôi
nó mới về làm bạn với tôi đấy u ạ‖ như lời Tràng thưa gửi mà bà còn hiểu ra biết bao nhiêu cơ sự,

vừa ai oán vừa xót thương cho số kiếp của con trai mình. Bà tủi thân, tủi phận, bà so sánh người ta
với mình ―người ta dựng vợ gả chồng cho con những lúc nhà ăn lên làm nổi, còn mình thì…‖. Bà
lão chua chát, tự trách bản thân mình, càng thương con bao nhiêu bà lại càng tủi phận bấy nhiêu. Bà
lão đã khóc, những giọt nước mắt hiếm hoi của người già dưới ngòi bút nhạy cảm của Kim Lân đã
gieo vào lòng người đọc biết bao thương xót, tủi buồn.
Bà đã chấp nhận nàng dâu không phải chỉ bằng tình mẫu tử mà lớn hơn đó là tình người, là sự cảm
thông với chị vợ nhặt từ cái nhìn của người cùng giới, cùng là phụ nữ. Câu nói đầu tiên mà bà cụ Tứ
dành cho chị vợ nhặt ―Ừ thôi các con phải duyên phải kiếp với nhau, u cũng mừng lòng‖, lời nói
của bà như trút đi biết bao gánh nặng tâm trạng đang đè nặng trong Tràng, lời nói ấy như một sự
chiêu tuyết cho giá trị của cô vợ nhặt. Câu nói ấy của bà làm cuộc hôn nhân của Tràng và thị không
còn là chuyện nhặt nhau ở đường và chợ nữa mà là duyên phận. Cách nói giản dị mà chan chứa tình
người quả thực đã làm ấm lòng những số phận tội nghiệp. Thị và Tràng dường như cũng sẽ ấm lòng
hơn khi kinh nghiệm của một người mẹ từng trải nói ―ai giàu ba họ, ai khó ba đời‖. Bà động viên an
ủi con trai và con dâu cùng nhau bước qua khó khăn đói khổ trước mắt mà lòng đầy thương xót.
– Nhưng sau những lời động viên ấy ta lại thấy Kim Lân để nhân vật bà cụ Tứ quay về với chính
cuộc đời mình để mà lo lắng cho hạnh phúc thực tại của hai con. Điều mà bà lo không phải là ―sự
hợp nhau hay không hợp nhau‖ giữa hai người mà điều mà người mẹ ấy lo lắng đó là, cái đói đang
đe dọa hạnh phúc của con bà. Trong bóng tối, bà nghĩ về cuộc đời dài dằng dặc của đời mình, cuộc
đời của những người thân để mà thấu hiểu, thương xót rồi ―nghẹn lời‖ chỉ có dòng nước mắt chảy
xuống ròng ròng.
– Hạnh phúc mới của con làm bà cụ Tứ được vui lây, bà động viên an ủi các con, nghĩ về một tương
lai tươi sáng phía trước:


+ Khuôn mặt của bà nhẹ nhõm, tươi tỉnh khác ngày thường, bà xăm xắn quét dọn, giẫy những búi
cỏ dại nham nhở trong vườn, thu dọn nhà cửa cho quang quẻ với hy vọng đời sẽ có cơ khấm khá.
+ Trong bữa ăn đầu tiên, mâm cơm ngày đói sao thảm hại: chỉ có một lùm rau chuối thái rối, một
đãi muối, một niêu cháo lõng bõng toàn nước và món chính là chè khoán – cháo cám nhưng không
khí gia đình thật ấm áp, tình chồng vợ, tình mẹ con- những nguồn động lực lớn lao ấy giúp họ tăng
thêm sức mạnh để vượt qua thực tại.

+ Bà cụ Tứ toàn nói chuyện của tương lai, toàn chuyện vui, chuyện sung sướng về sau. Bà lão bàn
với con tính chuyện nuôi gà, ngoảnh đi ngoảnh lại sẽ có đàn gà cho mà xem. Câu chuyện của bà lão
bất giác làm cho ta nhớ lại bài ca dao miền Trung- mười cái trứng. Cũng giống như tất cả những
người bình dân xưa, bà lão đang gieo vào lòng các con bà niềm lạc quan, niềm tin và hi
vọng. Từ đàn gà mà có tất cả. Khát vọng sống bật lên ngay cả trong hoàn cảnh khốn cùng nhất ―chớ
than phận khó ai ơi- Còn da lông mọc, còn chồi nảy cây‖.
– Song niềm vui của bà cụ Tứ cũng thật tội nghiệp. Miếng cháo cám đắng chát và tiếng trống thúc
thuế dồn dập vội vã đưa bà cụ Tứ trở về với thực tại với tiếng nói xen lẫn cả hơi thở dài trong lo
lắng: ―Đằng thì nó bắt giồng đay, đằng thì nó bắt đóng thuế. Giời đất này không chắc đã sống được
qua được đâu các con ạ‖! Và bà lại khóc, tình thương con lại hiện hình qua những giọt nước mắt
lặng lẽ tuôn rơi.
Với sự thấu hiểu, với sự đồng cảm, Kim Lân đã dựng lên hình ảnh bà cụ Tứ- người mẹ thương con,
nhân hậu, bao dung. Trong hoàn cảnh đói nghèo, bà vẫn dang rộng cánh tay đón nhận người con
dâu mặc dù trong lòng còn nhiều xót xa, tủi cực, vẫn gieo vào lòng các con ngọn lửa sống trong
hoàn cảnh tối tăm của xã hội lúc bấy giờ.
3. GÍA TRỊ HIỆN THỰC VÀ NHÂN ĐẠO
3.1. Giá trị hiện thực:
– Truyện đã dựng lại một cách chân thực những ngày tháng bi thảm trong lịch sử dân tộc, đó là
khoảng thời gian diễn ra nạn đói năm 1945 :
+ Cái chết đeo bám, bủa vây khắp mọi nơi.
+ Dòng thác người đói vật vờ như những bóng ma.
+ Cái đói đã tràn đến xóm ngụ cư từ lúc nào.
+ Âm thanh của tiếng quạ gào lên từng hồi thê thiết.
+ Xóm ngụ cư, với những khuôn mặt hốc hác, u tối.
+ Cái đói hiện lên trong từng nếp nhà rúm ró, xẹo xệch, rách nát.
+ Cái đói hiện hình trên khuôn mặt của chị vợ nhặt.
+ Bữa cơm ngày đói trông thật thảm hại.
– Truyện phơi bày bản chất tàn bạo của thực dân Pháp và phát xít Nhận đã gây ra nạn đói năm
1945.
– Tuy nhiên, còn có một hiện thực được phản ánh trong tác phẩm: hiện thực mang tính xu thế, đó là

tấm lòng của người dân khi đến với cách mạng.
3.2. Giá trị nhân đạo
+ Thái độ đồng cảm xót thương với số phận của người lao động nghèo khổ.
+ Lên án tội ác dã man của thực dân Pháp và phát xít Nhật đã gây ra nạn đói khủng khiếp.
+ Trân trọng tấm lòng nhân hậu, niềm khao khát hạnh phúc bình dị những người lao động nghèo.
+ Dự báo cho những người nghèo khổ con đường đấu tranh để đổi đời, vươn tới tương lai tươi sáng.
III. TỔNG KẾT
1. Nghệ thuật
– Xây dựng tình huống truyện độc đáo.
– Lối trần thuật tự nhiên, hấp dẫn làm nổi bật sự đối lập giữa hoàn cảnh và tính cách nhân vật.
– Tạo không khí và dựng thoại rất hấp dẫn, ấn tượng.
– Nhân vật được khắc hoạ sinh động đặc biệt là ngòi bút miêu tả tâm lý nhân vật tinh tế.
– Ngôn ngữ : Bình dị, đời thường nhưng có chắt lọc kỹ lưỡng, có sức gợi và đậm chất Bắc Bộ.
2. Chủ đề
Qua truyện ―Vợ nhặt‖, Kim Lân muốn khẳng định : trong những hoàn cảnh khó khăn nhất, ngay cả


khi cái chết liền kề, những người dân lao động nghèo khổ, lương thiện vẫn yêu thương, đùm bọc lấy
nhau, vẫn khát khao mái ấm hạnh phúc gia đình và hy vọng vào một cuộc sống mới tốt đẹp hơn

CHIẾC THUYỀN NGOÀI XA (Nguyễn Minh Châu)
I. KIẾN THỨC CHUNG
1.. Tác giả Nguyễn Minh Châu (1930 -1989):
Là người mở đường xuất sắc cho công cuộc đổi mới văn học từ sau năm 1975. Ở giai đoạn trước,
ông là ngòi bút có khuynh hướng lãng mạn, sử thi. Ở thời kì sau, ngòi bút của ông chuyển sang đề
tài thế sự, quan tâm tới đời sống của con người trong đời thường với những vấn đề về đạo đức, về
triết lí nhân sinh.
Tập truyện ngắn Những vùng trời khác nhau (1970), tiểu thuyết Dấu chân người lính (1972) , tiểu
thuyết Miền cháy (1977), Lửa từ những ngôi nhà (1977) ,Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành,
Bến quế, Khách ở quê ra, Bức tranh. Năm 2000, Nguyễn Minh Châu được Nhà nước trao tặng Giải

thưởng Hồ Chi Minh về văn học và nghệ thuật.
2. Văn bản đoạn trích truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa (8 - 1983), rút từ tập truyện ngắn Chiếc
thuyền ngoài xa (1-987).
Thể loại - phương thức biểu đạt:
Truyện ngắn; tự sự - (miêu tả - biểu cảm); ngồi kể thứ nhất, đặt vào nhân vật nghệ sĩ nhiếp ảnh
Phùng - người chứng kiến và tham gia vào cậụ chuyện.
Bố cục đoạn trích:
+Phùng chớp được cảnh đẹp trời cho: chiếc thuyền lưới vó đang từ ngoài biển chèo thẳng vào bờ
trong buổi sớm mai sương mù.
+Ngay, sau đó Phùng lại chứng kiến cảnh bạo hành dã man của gia đình thuyền chài.
+Câu chuyện với người đàn bà thuyền chài ở toà án huỵện.
+Đoạn kết: suy nghĩ của Phùng về bức ảnh lịch và ngưòi đàn bà vùng biển. I
->>Cũng có thể chia gọn 2 đoạn như SGV: 1. Hai phát hiện của nghệ sĩl Phùng. 2. Câu chuyện của
người đàn bà vùng biển.
Nhưng cách chia này không thật rành mạch về ý. Vì câu chuyện của nguòil đàn bà đã bắt đầu từ
phát hiện thứ hai (đoạn 1).
II. KIẾN THỨC CƠ BẢN
1.. Hai phát hiện của nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng.
a. Phát hiện thứ nhất: Bức danh hoạ mực Tàu thời cổ.
Đoạn văn : Lúc bấy giờ... mang lại.


Theo yêu cầu của trưởng phòng, nghệ sỹ nhiếp ảnh Phùng tìm đến vùng ven biển miền Trung
(Trung trung bộ), nơi vốn là chiến trường cũ của anh, để chụp những tấm ảnh phục vụ cho chủ đề
thuyền và biển của bộ lịch năm sau. Về lại mảnh đất một thời gắn bó trong cuộc sống đời thường,
người nghệ sỹ đi tìm vẻ đẹp bí ẩn của cuộc sống của người dân làng chài. Sau bao ngày săn ảnh,
Phùng đã chớp được một cảnh kì diệu về chiếc thuyền ngoài xa đang thu lưới trong biển sớm mờ
sương: ‖ mũi thuyền in một nét mơ hồ, lòe nhòe vào bầu sương mù trắng như sữa…đang hướng mặt
vào bờ‖. Với Phùng đây là khoảnh khắc kì diệu trong đời cầm máy của mình. Bởi từ khung cảnh
sông nước đến con người ngư phủ, từ đường nét, màu sắc, ánh sáng tất cả đều hài hòa tuyệt đẹp.

Trong con mắt Phùng, cảnh tượng đó giống như một bức tranh mực tàu của một danh họa thời cổ.
Cảnh đẹp bất ngờ xuất hiện trước mắt Phùng như một phần thưởng cao quý trời cho để thưởng cho
người nghệ sĩ kiên trì dày công mai phục (như Nguyễn Tuân mấy chục năm trước đã hơn hai tuần
phục cảnh mặt trời lên trên biển Cô Tô).
Ngòi bút đặc tả vẻ đẹp vừa cổ kính vừa mơ màng đúng như mong ước trong tưởng tượng của nghệ
sĩ về cảnh thuyền và biển trong sương mù nhạt nhoà. Vẻ đẹp giản dị và toàn bích của thiên nhiên
mà người nghệ sĩ may mắn chớp được khoảnh khắc hiếm hoi.
Cảm xúc của người nghệ sĩ sáng tạo: bối rối, trong tim như có cái gì bóp thắt vào, cảm thấy niềm
vui của sự khám phá chân lí toàn thiện, khọảnh khắc trong ngần của tâm hồn. Tất nhiên là anh vội,
không tiếc phim, bấm máy liên tục để vĩnh cửu hoá cảnh tuyệt vời
Ý nghĩa chi tiết: với nhà nghệ sĩ chân chính, không niềm vui nào bằng khám phá được vẻ đẹp bất
ngờ của thiên nhiên nhiên và cuộc sống. Nhưng để có được khoảng khắc hiếm hoi ấy, phải kiển trì,
phải vượt khó, phải ham mê, hết mình vì nghệ thuật. Và cái đẹp kì diệu có khi lại đến với người
nghệ sĩ vào lúc không ngờ nhất. Đó là cái đẹp tự nhiên, hoà hợp kì lạ giữa cảnh vật và con người
đơn giản và hoàn mĩ.
b. Phát hiện thứ hai: Cảnh bạo hành gia đình người đàn bà mặt rỗ.
Nhưng đó mới là vẻ đẹp bên ngoài của bức tranh chiếc thuyền ngoài xa. Tình cờ, Phùng lại phát
hiện được một bức tranh sinh hoạt của con người xảy ra bên bờ biển ấy.
Đoạn từ: Ngay lúc ấy... thuyền lưới vó đã biến mất.
Phát hiện thứ nhất của nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng thật bất ngờ, lí thú nhưng phát hiện thứ hai ngay
sau đó còn bất ngờ hơn nhưng chẳng lí thú chút nào mà khó hiểu và buồn đau, căm giận. Phát hiện
bất ngờ, trớ trêu như trò đùa quái ác của cuộc sống. Từ trong con thuyền đẹp như mơ ấy bước ra hai
người đàn ông và đàn bà quái lạ. Và tiếp theo là cảnh bạo hành trong gia đình thuyền chài xảy ra vô
tình trước sự chứng kiến từ đầu đến cuối của nhà nghệ sĩ - người lính chiến năm xưa.
Gã đàn ông thô lỗ, hung bạo, vũ phu, cục súc, với sức khoẻ như gấu, hình dáng cổ quái, hắn trút sự
căm giận điên cuồng vào việc đánh đập người vợ của mình bằng chiếc thắt lưng to bận như đánh kẻ
thù, hàm răng nghiên ken két, vừa đánh vừa chửi, nguyền rủa rên rỉ, đau đớn
Chúng ta đồng cảm với sự ngạc nhiên cao độ và hành động cứu ứng kịp thời của nghệ sĩ Phùng, khi
―anh há mồm ra nhìn rồi vứt máy ảnh lao tới định cứu người đàn bà nạn nhân của sự bạo hành man
rợ‖.

Nhưng trong cách tả của tác giả đã hé ra phần nào cái nguyên nhân sâu xa khiến gã đàn ông nọ trở
nên thô bạo tàn ác đến thế với vợ mình: gã gịân dữ và đau đớn vì bế tắc, hay vì một cái gì đó mà
chính gã cũng không hiểu.


Còn người đàn bà, hành động và cử chỉ của mụ càng làm Phùng ngạc nhiên, khó hiểu hơn, khi mụ
nhẫn nhịn chịu đánh, lại chắp tay vái lạy con trai vừa cứu mẹ bằng cách giật cái thắt lưng trong tay
bố và chịu hai cái tát của người bố hung bạo.
Người mẹ sợ con, xin con đừng chống lại cha mình? Người mẹ sợ con bị cha đánh chết? Người me
quá thương con, lo cho con, sợ con phạm tội với người đã sinh ra mình? Tất cả đều mới chỉ là ức
đoán, chưa có căn cứ làm sáng tò nhưng đã hiện ra trước mắt người đọc một chú bé vùng biển gan
góc, lầm lì, dũng cảm, hết lòng thương mẹ.
Và đó là là mặt trái của bức ảnh mơ màng, lãng mạn đẹp tuyệt vời kia. Nhưng đó cũng mới là một
phần bên ngoài của sự thật. Tình cờ, lại tình cờ mà may mắn, Phùng có dịp chứng kiến và tham gia
vào câu chuyện để tự mình khám phá thêm chiều sâu và bản chất của sự thật đau buồn mà dữ dội
ấy. Là người lính cũ, Phùng không thể làm ngơ trước sự bạo hành của cái ác. Phùng cay đắng nhận
ra những ngang trái, xấu xa, bi kịch gia đình nhà chài kia lại chính là thứ thuốc rửa quái đản lộn trái
những thước phim anh đã dày công mới chụp được.
Qua phát hiện thứ hai này Nguyễn Minh Châu cho chúng ta thấy đằng sau bức tranh thuyền và biển
tuyệt diệu là cuộc đời đầy khắc nghiệt với những mảnh đời tội nghiệp. Nhà văn muốn thể hiện cái
đẹp của nghệ thuật dễ nắm bắt hơn cái đẹp của cuộc sống. Vì cái đẹp của cuộc sống cần có thêm
hạnh phúc và tình thương. Và đôi cánh khi cái đẹp của ngoại cảnh làm khuất lấp cái xấu tồn tại ở
đời sống. Cuộc đời không đơn giản xuôi chiều mà chứa đựng nhiều nghịch lí với những mảng sáng
tối, xấu đẹp, thiện ác, thật giả… Quan trọng là chúng ta đừng nhầm lẫn giữa hình thức bên ngoài và
bản chất bên trong, chúng ta phải có cái nhìn đa diện, đa chiều về cuộc sống. Nghệ thuật vốn nảy
sinh từ cuộc đời nhưng cuộc đời không phải bao giờ lúc nào cũng đẹp như nghệ thuật.
2. Câu chuyện ở toà án huyện.
+ Cuộc gặp gỡ giữa vị chánh án và người đàn bà làng chài
Tác giả cố ý không đặt tên cho nhân vật của mình để tỏ rằng mụ cũng là một trong bao nhiêu người
phụ nữ vùng biển khác mà thôi. Đây không phải là một số phận, một cá tính quá cá biệt. Người đàn

bà trung niên, lam lũ, vất vả, thầm lặng, tự nguyện chịu đựng đòn đánh của chồng như một lẽ đương
nhiên, tất yếu đến vồ lí với người ngoài nhưng lại vì lí do thật đơn giản: bà cần sức mạnh của một
người đàn ông trong cuộc mưu sinh và tồn tại gia đình đánh cá trên biển. Bà sẵn sàng chịu đựng tất
cả vì đàn con đông đúc, bà chỉ mong chúng được ăn no, khoẻ mạnh và lớn lên. Vì thế bà cay đắng
và tự nguyện để lão chồng ba ngày, năm ngày hai trận đòn nhục nhã, chỉ để hắn không bỏ đi, không
rời bỏ gia đình. Đó là sự cam chịu nhẫn nhục đầy hi sinh, đáng cảm thông, chia sẻ. Thấp thoáng
trong người đàn bà ấy là bóng dáng của người phụ nữ Việt Nam nhân hậu, vị tha, giàu đức hi sinh
cao cả.
Đó là câu chuyện về sự thật cuộc đời, giúp Đẩu và Phùng hiểu nguyên nhân thật sự những điều
tưởng chừng như vô lí vừa xảy ra. Và họ - một đại diện cho công lí, một đại diện cho lương tâm
nghệ sĩ mới nhận rõ điều này: Không thể dễ dãi, đơn giản khi nhìn nhận, đánh giá mọị sư việc, hiện
tượng cuộc sống. \
Với tư cách là một chánh án toà án nhân dân huyện, đại diện cho chính quyền và pháp luật, một cựu
binh thời đánh Đẩu có quan điểm dứt khoát, rõ ràng, bênh vực nạn nhân, giúp chị tìm con đường
giải thoát, răn đe và trừng trị kẻ ác phạm tội. Quan điểm đó là đúng, nhưng trong trường hơp cụ thể
này lại tỏ ra cực đoan và rõ ràng chưa được người bị hại tán thành chứ đừng nói gì đến tâm phục
khẩu phục. Khi nghe tâm sự thật lòng của người đàn bà, khi hiểu ra vấn đề, phức tạp hơn anh tưởng,
nhiều, Đẩu thấy hiện tại chỉ có cách theo cách của nạn nhân, vẫn đề họ sống với nhau, và gọi lão
chồng lên huyện răn đe nghiêm khắc. Nhưng với gã đàn ông thô bạo, cục súc, đánh vợ như trò giải
trí ấy, mấy lời thuyết giáo của vị chánh án oai nghiêm nhưng xa vời kia liệu có phải như nước đổ lá
khoai? Đó là cái khó của vị quan toà chân chính thời nay.


LÃO ĐÀN ÔNG:
Cuộc sống nghèo đói, quanh năm vất vả đã biến chàng trai biển lành nhưng cục thành gã đằn ông
vũ phu, lão chồng độc ác, coi vợ như cái bao tải, để trút
nỗi bực dọc, đau khổ, buồn phiền của riêng mình. Lạ, lão lại không nghiện rượu như nhiều người
đàn ông khác! Tự cho mình cái quyền được hành hạ người khác để thoả mãn lòng ích kỉ, bản thân
lão vừa là thủ phạm vừa là nạn nhân gây nên nỗi khổ cho vợ con mình, gia đình mình. Đối xử vói
loại người này, cần phải kết hợp nhiều biện pháp lí tình, cương nhu, tác động từ nhiều phía mới hi

vọng cải tạo y từ gốc để trở lại là người chồng, người cha tốt như xưa.
NHÂN VẬT THẰNG PHÁC
Trong những gia đình như thế này, đáng thương nhất là những đứa con. Chúng bị đẩy vào tình thế
thật khó xử: làm thế nào để trọn đạo hiếu? đứng về phía ai? Thương mẹ nhưng không thể ngăn
được bố, càng không thể chống lại bố... Với tính cách giống cha như lột, phản ứng của thằng Phác
là dữ dội, quyết liệt kiểu trẻ con xốc nổi, nghĩ sao làm vậy hết mình. Nó hết sức xông thẳng .vào
người cha hung bạo, giật được cái thắt lưng từ tay gã, nghiến răng chịu hai cái tát nảy lửa. Và lần
sau còn thủ sẵn một con dao găm để đâm bố, cứu mẹ. Tình thương mẹ vô hạn đã khiến đứa con trai
quyết lòng bảo vệ mẹ. Trong mắt thằng Phác, bố nó đâu còn là một người cha mà chỉ là lão già độc
ác, lúc nào cũng chỉ muốn hành hạ mẹ nó. Chị thằng Phác là đứa con gái can đảm mà biết nghĩ hơn
nhiều. Nó vật nhau với em để tước con dao găm, tránh cho em một việc làm hết sức dại dột, Nó
chăm sóc mẹ khi lên toà án huyện... Nguyễn Minh Châu không hướng trọng tâm vào các nhân vật
trẻ con, nhưng hai đứa bé này vẫn để lại trong người đọc không chỉ lòng thương cảm mà còn mến
yêu và xúc động.
NGHỆ SĨ PHÙNG
Là nhân vật, là người kể chuyện xưng tôi, là người chứng kiến trực tiếp và trực tiếp tham gia vào
câu chuyện, nhân vật Phùng là nơi gửi gắm quan điểm và suy tư của chính tác giả. Đó là một nghệ
sĩ có tài, say mê nghề nghiệp vẫn còn mang trong mình dòng máu người lính chiến sôi nổi, chân
thành. Qua chuyến đi săn tìm ảnh lịch theo yêu cầu của
vị trưởng phòng tinh khôn và khó tính, anh đã đạt kết quả mĩ mãn về chuyên môn, nhưng sâu sắc
hơn anh hiểu
biết thêm được bao nhiêu sự thật cay đắng, nghịch lí của cuộc sống đời thường. Hơn nữa anh còn
thức nhận sâu sắc hơn một điều, rằng, trước khi là một nghệ sĩ biết rung động trước cái đẹp hãy là
người biết yêu ghét, buồn vui, đồng cảm chia sẻ và đấu tranh bằng hành động chống lại cái ác, cái
xấu để có cuộc sống xứng đáng với con người. Và cuộc sống bao giờ cũng cần được khám phá, lí
giải với tất cả nhận thức và tình cảm, cái nhìn đa diện, nhiều chiều mới mong hiểu thấu diện mạo
muôn màu và bản chất thực của nó.
3. Người đàn bà làng chài
+ Về tên gọi : Cũng giống như nhân vật người vợ nhặt ( truyện ngắn Vợ Nhặt- Kim Lân ), người
đàn bà trong Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh châu cũng không được đặt tên. Nhân vật

được gọi bằng những cái tên phiếm chỉ : Người đàn bà, chị ta, mụ ,...Đây là nhân vật tiêu biểu cho
những người đàn bà vô danh ở những vùng biển khác nhau nhưng cùng chung số phận đau thương.
+Ngoại hình: xấu xí , thô kệch, mặt rỗ vì hồi nhỏ bị đậu mùa, mụ trạc ngoài 40, khuôn mặt mệt mỏi
sau một đêm thức trắng kéo lưới, quần áo rách rưới bạc phếch, thân người ướt sũng ...
-Hoàn cảnh gia đình, số phận


+Nghèo khổ lam lũ, đông con, gia đình làm nghề chài lưới, sống chen chúc trên cái thuyền chật
hẹp.
+ Mụ xấu xí từ nhỏ, lại bị rỗ mặt
+Có mang với một anh hàng chài, đến mua bả về đan lưới, rồi thành vợ chồng. Cuộc sống mưu sinh
trên biển cực nhọc, vất vả
+Bị chồng thường xuyên đánh đập, hành hạ: ba ngày một trận nhẹ, năm ngàymột trận nặng. Cứ khi
nào lão thấy khổ quá là lại xách chị ra đánh, nhưlà để trút giận, như đánh 1 con thú, với lời lẽ cay
độc" Mày chết đi cho ông nhờ, chúng mày chết hết đi cho ông nhờ". Khi bị đánh chị không hề kêu
một tiếng, không chống trả, không tìm cách chạy trốn mà coi đólà một lẽ đương nhiên. Người đàn
bà ấy nhẫn nhục, cam chịu, thầm lặng chịu đựng mọi đau đớn tất cả vì những đứa con.
- Phẩm chất, tính cách:
+ Nhẫn nhục, chịu đựng: Bị chồng trút dây thắt lưng quật tới tấp , chị vẫn nhẫn nhịn, không hề khóc
lóc kêu van, không chạy trốn, không tìm cách chống trả. Chị coi việc mình bị đánh đó như 1 phần
đã rất quen thuộc của cuộc đời mình. Khi được Phùng và Đẩu góp ý, đề nghị giúp đỡ thì : "Quý tòa
bắt tội con cũng được, phạt tù con cũng đượcnhưng đừng bắt con bỏ nó" Chị cam chịu đến tội
nghiệp.
Được mời lên tòa án để giải quyết chuyện gia đình, lúc đầu chị ta lúng túng, rụt rè tìm một góc
tường để ngồi. Chị thấy sợ hãi Khi đến một không gian lạ và cảm thấy mình thật nhỏ bé giữa chốn
công đường. Cái thế ngồi của chị như cố thu mình lại để tự vệ, cho dù đã được Đẩu, Phùng chia sẻ
và cảm thông.
Nguyên nhân nỗi cam chịu : Vì con cái, vì hạnh phúc gia đình. Chị hiểu cơ cực của của cuộc sống
mưu sinh trên biển không có người đàn ông.
+Người đàn bà ấy cũng rất tự trọng. Sau khi biết hành động vũ phu của chồng mình đã bị đứa con

trai và người khách lạ (nghệ sĩ Phùng) chứng kiến, chị thấy đau đớn, vừa đau đớn vừa vô cùng xấu
hổ, nhục nhã. Chắc chắn đây không chỉ là sự đau đớn về thể xác. Giọt nước mắt đau khổ của người
đàn bà đã ứa ra. Đó là giọt nước mắt của nhọc nhằn và chịu đựng. Chị không muốn bất cứ ai chứng
kiến và thương xót cho tình cảnh trớ trêu của mình, kể cả thằng Phác, đứa con trai mà chị quý nhất.
Thân thể bị chà đạp, nhân phẩm bị xúc phạm nhưng người đàn bà ấy không hề để ý, không hề bận
tâm. Đúng là sự nhẫn nhục của một người có nhân cách, có lòng tự trọng và thấu hiểu lẽ đời.
+ Yêu thương con tha thiết(" phải sống cho con chứ không thể sống cho mình")
Nguyên nhân sâu xa của sự cam chịu chính là tình thương con vô bờbến của chị. Sự cần thiết của
việc có người đàn ông làm chỗ dựa, đểchèo chống khi phong ba bão táp, cùng nuôi dạy các con "
Đàn bà trên thuyền chúng tôi phải sống cho con, không thể sống cho mình như trên đấtđược".
Vì thương con, chị gửi nó lên rừng, chị đau xót khi thấy nó vì thương mẹ mà hận bố,....Chị không
muốn các con nhìn thấy cảnh bạo hành gia đình. Và niềm hạnh phúc lớn nhất của chị là nhìn những
đứa con chúng được ăn no,...
=> Tình mẫu tử vút lên, trên cái nền của 1 cuộc sống cơ cực, ngang trái, đau đớn đầy xót xa .
+ Người đàn bà vị tha, lạc quan :
Trong khổ đau triền miên, người đàn bà ấy vẫn chắt chiu niềm hạnhphúc nhỏ nhoi trong cuộc đời
bình dị ( "...nhìn con được ăn no, có khi vợ chồng, con cái sống vui vẻ, hoà thuận") .Chị tự động
viên mình, và sống vì các con. Đặc biệt, chị không hề hận chồng mặc dù thường xuyên bị chồng
đánh đạp chửi rủa, trái lại, chị còn biết ơn lão. Chỉ Phùng, Đẩu, và người đọc cảm thấy ngột ngạt
trước cuộc sống quá ư khổ cực của chị, còn bản thân chị thì thấy đó là sự việc rất đỗi bình thường.
Chị lí giải nguyên nhân dẫn đến tính khí hung bạo của chồng và cảm thông, tha thứ cho lão.Nghệ sĩ
Phùng và chánh án Đẩu nhìn người chồng là kẻ vũ phu, thô bạo, đáng lên án. Nhưng qua cái nhìn
của người vợ, lão từng là: ―anh con trai cục tính nhưng hiền lành lắm, không bao giờ đánh đập
tôi‖.Thậm chí bà còn sẵn sàng nhận lỗi về mình, coi mình là nguyên nhân khiến cuộc sống của
chồng trở nên khốn khổ. Đây quả là người phụ nữ có cái nhìn sâu sắc, đa chiều, bao dung, độ lượng
với chồng


+Người đàn bà thất học nhưng lại rất sắc sảo, thấu hiểu lẽ đời
Ý thức được thiên chức của người phụ nữ ("Ông trời sinh ra người đàn bà là để đẻ con và nuôi con

cho đến khi khôn lớn"). Chị lí giải nguyên nhân dẫn tới nỗi khổ của gia đình mình, lí giải vì sao
mình không thể, và không muốn li hôn. Câu chuyện của chị đã khiến Phùng và Đẩu đi từ ngạc
nhiên này tới ngạc nhiên khác. Sau khi nghe câu chuyện của chị, Phùng và Đẩu mới vỡ lẽ , và rút ra
bài học sâu sắc về cách nhìn đời, nhìn người. Qua câu chuyện của người đàn bà, ta càng thấy rõ:
Không thể dễ dãi,đơn giản trong việc nhìn nhận mọi sự vật, hiện tượng của cuộc sống,không thể có
cái nhìn một chiều, phiến diện với con người và cuộc sống.
4.Nghệ thuật
(Cốt truyện đơn giản, tình huống bất ngờ, dẫn dắt khéo léo, càng về sau càng bất ngờ và hấp dẫn:
bất ngờ khi thấy cảnh lạ, đẹp —» bất ngờ chứng kiến chuyện lạ nghịch lí —> bất ngờ hiểu cái lí
buồn của nghịch lí; Xây dựng nhân vật chọn lấy vài nét ngoại hình lạ, ngôn ngữ và hành động phù
hợp tính cách, nhưng vẫn gây sự khó hiểu và bất ngờ (người đàn bà, thằng Phác)...)
Lối kết cấu vòng tròn: Mở đầu là đi tìm ảnh, kết là nhìn ảnh mà ngẫm nghĩ, nhấn mạnh tính triết lí
của truyện

NHỮNG ĐỨA CON TRONG GIA ĐÌNH (Nguyễn Thi)
I. KIẾN THỨC CƠ BẢN
1. Vài nét về tác gác Nguyễn Thi:
Nguyễn Thi gắn bó với nhân dân miền Nam và thực sự xứng đáng với danh hiệu: Nhà văn của
người dân Nam Bộ. Nhân vật của Nguyễn Thi có cá tính riêng nhưng tất cả đều có những đặc điểm
chung "rất Nguyễn Thi". Đó là:Yêu nước mãnh liệt, thủy chung đến cùng với Tổ quốc, căm thù
ngùn ngụt bọn xâm lược và tay sai của chúng, vô cùng gan góc và tinh thần chiến đấu rất caonhững con người dường như sinh ra để đánh giặc ;Tính chất Nam bộ: thẳng thắn, bộc trực, lạc quan,
yêu đời, giàu tình nghĩa. Tác phẩm tiêu biểu của ông là : Người mẹ cầm súng , Những đứa con
trong gia đình,…
2. Vài nét về tác phẩm
Tác phẩm được viết ngay trong những ngày chiến đấu ác liệt khi ông công tác với tư cách là một
nhà văn- chiến sĩ ở Tạp chí Văn nghệ Quân giải phóng năm 1966. Sau được in trong Truyện và kí
NXB Văn học Giải phóng, 1978. Là một trong những truyện ngắn xuất sắc nhất của Nguyễn Thi.
3. Tóm tắt
Việt là một chiến sĩ Giải phóng quân, xuất thân từ một gia đình nông dân có mỗi thù sâu nặng với
Mĩ-nguỵ: ông nội và bố Việt đều bị giặc giết hại; mẹ Việt vừa phải vất vả nuôi con vừa phải đương

đầu với những đe doạ, hạch sách của bọn giặc, cuối cùng cũng chết vì bom đạn. Gia đình chỉ còn lại
Việt, chị Chiến, thằng Út em, chú Năm, và một người chị nuôi đi lấy chồng xa. Truyền thống gia
đình Việt đều được chú Năm ghi chép vào một cuốn sổ của gia đình. Việt và Chiến hăng hái tòng
quân đi giết giặc. Việt nhỏ tuổi, đồng đội gọi thân mật là câu Tư. Anh rất gắn bó với đơn vị . Trong
trận chiến đấu ác liệt tại một khu rừng cao su, Việt đã hạ được một xe bọc thép của địch nhưng bị
thương nặng và lạc đồng đội. Việt ngất đi tỉnh lại nhiều lần. Mỗi lần tỉnh lại, dòng hồi ức lại đưa
anh trở về với những kỉ niệm thân thiết đã qua: kỉ niệm về má, chị Chiến, chú Năm, về đồng đội và
anh Tánh,... Tánh cùng tiểu đội đi suốt ba ngày mới tìm được Việt trong một lùm cây rậm và suýt


nữa thì bị ăn đạn của ―câu Tư‖ . Việt được đưa về điều trị tại một bệnh viện dã chiến. Anh Tánh
giục Việt viết thư cho chị Chiến kể lại chiến công của mình. Việt nhớ chị chiến, muốn viết thư
nhưng không biết viết sao vì tự thấy chưa thấm gì với thành tích của đơn vị và những ước mong của
má. Chủ đề : Truyện kể về những đứa con trong một gia đình nông dân Nam Bộ có truyền thống
yêu nước, căm thù giặc và khao khát chiến đấu, son sắt với cách mạng. Sự gắn bó sâu nặng giữa
tình cảm gia đình với tình yêu nước, giữa truyền thống gia đình với truyền thống dân tộc đã làm nên
sức mạnh tinh thần to lớn của con người Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước.
II. KIẾN THỨC CƠ BẢN
1. Tình huống truyện
Câu chuyện gia đình của anh giải phóng Việt rơi vào tình huống đặc biệt: bị thương nặng trong một
trận đánh, phải nằm lại giữa chiến trường: Nhiều lần ngất đi rồi tỉnh lại. Truyện kể theo dòng nội
tâm nhân vật: khi đứt (ngất đi) khi nối (tỉnh lại). Cách trần thuật theo dòng ý thức nhân vật.
2. Cách trần thuật
Những đứa con trong gia đình: kể theo phương thức: theo ngôi thứ ba của người kể chuyện tự giấu
mình nhưng điểm nhìn, lời kể lại theo giọng điệu của nhân vật > lời nửa trực tiếp.
3. Hình ảnh gia đình
+ Ba Má, Chú Năm
Người mẹ: (đọc toàn bộ truyện để có sự phân tích khái quát)
- Qua kí ức đứa con: rất phụ nữ, vị tha, nhân hậu nhưng không mềm yếu.
- Có cuộc sống cơ cực, lam lũ, nhọc nhằn, khổ đau (bốc chồng và chồng bị giặc giết, một thân một

mình nuôi ba đứa con nhỏ)
- Tính cách phi thường trong những biểu hiện tình cảm bình thường:
o Với chồng: đi đòi đầu chồng > gan góc.
o Với con:
 Thương con hết mực nhưng rất nghiêm khắc (trong hồi ức chập chờn của Chiến, Má hiện lên đầu
tiên: ghé lại, xoa đầu, đánh thức, lấy cơm cho Việt ăn…)
 Luôn luôn nhắc nhở con về truyền thống gia đình và mối thù dân tộc.
 Hun đúc, nuôi dưỡng ở con ý chí chiến đấu không mệt mỏi.
 Cả Chiến và Việt luôn tạc dạ lời dặn của mẹ > hình bóng của người mẹ đầy yêu thương và có sức
mạnh cổ vũ mãnh liệt với hai chị em. Má in dấu trong mỗi câu nói, mỗi hành động của từng đứa
con.
+ Chú Năm:
- Khắc họa qua giọng hò:
―Câu hò nổi lên giữa ban ngày, bắt đầu cất lên như một hiệu lệnh dưới ánh nắng chói chang, rồi kéo
dài, từng tiếng một vỡ ra, nhắn nhủ, tha thiết, cuối cùng ngắt lại như một lời thề dữ dội‖ > so sánh
tiếng hò như ―một hiệu lệnh‖, ―một lời thề dữ dội‖ > Tiếng hò hút tất cả tâm lực của Chú Năm >
vừa nhắc nhớ về truyền thống, thắp lên niềm tự hào về quê hương khó nghèo nhưng giàu có và bất
khuất, vừa như lời hiệu triệu, một tiếng trống quân thúc giục động viên thanh niên ra trận.
- Giữ cuốn sổ gia đình, ghi từng ngày thay cho Việt và Chiến.
 Người giữ lửa yêu nước truyền cho các thế hệ.
 Những con người có chung phẩm chất: yêu nước, gắn bó với quê hương tha thiết, căm thù giặc,
gan góc, kiên cường, chiến đấu hết mình vì Tổ quốc.
+ Cuốn sổ gia đình
- Chi chi tiết những việc xảy ra với gia đình > bằng chứng sống về tội ác của kẻ thù, lưu giữ, nuôi
dưỡng truyền thống gia đình.
- Trao cho Việt và Chiến > hành động ý nghĩa: trao cho thế hệ con cháu trách nhiệm giữ gìn truyền
thống.
- Cuốn sổ như một con sông > Con sông tích tụ nước từ bao đời, luôn luôn chảy (như các thế hệ tiếp
nối nhau), đổ vể biển rộng (hòa quyện vào truyền thống bất khuất của dân tộc, hướng tới tương lai
tươi sáng) > dòng chảy truyền thống gia đình bền bỉ, liên tục và bất tử.

Nhận xét:
• Hình ảnh gia đình, gắn với nhan đề tác phẩm, là môi trường khắc họa hình ảnh những đứa con.


• Tiêu biểu cho hình ảnh những gia đình miền Nam giàu truyền thống yêu nước trong kháng chiến
chống Mĩ.
d. Hình ảnh những đứa con
+ Chiến:
- Tính cách trẻ con:
• Tranh đi bộ đội với em
• Tranh bắt ếch.
- Mang những phẩm chất của Má
• Đảm đang, tháo vát: Thu xếp nhà cửa gọn gàng trước khi đi.
• Tiềm ẩn bản năng chăm lo của một người phụ nữ: thương và lo cho em, nghĩ ngợi việc nhà…
• Bộc trực, quyết liệt, gan góc, không đội trời chung với kẻ thù: ―Nếu giặc còn thì tao mất‖.
 Chiến là hình ảnh tiếp nối của Má: 3 lần được so sánh với má (nói in như má vậy, giống hệt như
má vậy, nói nghe in như má vậy) > sự tiếp nối truyền thống gia đình >dòng chảy truyền thống dạt
dào qua các thế hệ.
+ Việt:
- Tính cách trẻ con, hồn nhiên, vô tư:
• Tranh đi bộ đội, tranh bắt ếch với chị.
• Trong khi chị Chiến lo toan thu xếp việc gia đình thì Việt ―lăn kềnh ra ván cười‖, vừa nghe vừa
―chụp một con đom đóm úp trong lòng tay‖ rồi ngủ quên lúc nào không biết
• Đi đánh giặc vẫn đeo ná thun.
• Không sợ giặc nhưng lại sợ ma.
- Yêu thương, gắn bó với gia đình
• Thương má:
o Hình dung về má qua hồi ức của Việt dịu dàng, tha thiết.
o Chuyển bàn thờ má: nhắn nhủ, tâm sự với má về quyết tâm trả thù.
• Thương chú Năm, thương chị: ―Chị Chiến khiêng bịch bịch phía sau. Nghe tiếng chân chị, Việt

thấy thương chị lạ‖
- Chiến sĩ giải phóng gan góc, quả cảm:
• Diệt được xe bọc thép của giặc.
• Bị thương nặng, lạc đồng đội, trong hồi ức đứt nối nhưng luôn thường trực nung nấu: tìm về với
anh em, để tiếp tục đấu tranh.
- Căm thù giặc sâu sắc và quyết tâm chiến đấu đến cùng:
• Thể hiện sâu sắc qua chi tiết cảm động: chuyển bàn thờ mẹ cùng chị Chiến
• Đưa má sang ở tạm bên nhà chú, chúng con đi đánh giặ trả thù cho ba má, đến chừng nước nhà
độc lập con lại đưa má về > lời nhắn nhủ, tâm tình cũng là lời thế, lời hứa với Má.
• Mối thù thằng Mĩ thì có thể rờ thấy được, vì nó đang đè nặng ở trên vai > mối thù trừu tượng tụ
thành hình thành khối như máu bầm không tan.
 Việt và Chiến vừa là khúc sau của dòng sông truyền thống gia đình vừa tiêu biểu cho thế hệ trẻ
miền Nam chống Mĩ: bộc trực, thẳng thắn, gan dạ, dũng cảm, căm thù giặc sâu sắc, yêu nước tha
thiết và quyết tâm chiến đấu vì độc lập.
4. Một vài nét đặc sắc về nghệ thuật
+ Xây dựng nhân vật: am hiểu và diễn tả chân xác, sâu sắc tâm lí nhân vật > cá thể hóa tính cách.
+ Ngôn ngữ: đậm chất Nam Bộ, từ cách xưng hô, cách dùng từ, cách nói… (Việt đá trái dừa rụng
xuống mương cái đùng, việc thỏn mỏn, nói in như má…)

HỒN TRƯƠNG BA, DA HÀNG THỊT (Lưu Quang Vũ)
I. KIẾN THỨC CHUNG
1. Cuộc đời và sự nghiệp của Lưu Quang Vũ
Lưu Quang Vũ (1948-1988), quê gốc ở Đà Nẵng. Ông là một cây bút tài hoa đã để lại dấu ấn trong


nhiều thể loại : thơ, văn xuôi, đặc biệt là kịch. Thiên hướng và năng khiếu nghệ thuật của LQV sớm
bộc lộ từ nhỏ và vùng quê Bắc Bộ đã in dấu nhiều trong sáng tác của ông sau này. Ở thể loại nào
người đọc cũng bắt gặp một LQV với tâm hồn nổi gió, sức sống mãnh liệt và khả năng sáng tạo
miệt mài. Năm 2000, Lưu Quang Vũ được truy tặng giải thưởng Hồ Chí Minh về nghệ thuật sân
khấu. Các tác phẩm chính : Thơ : Hương cây, Mây trắng, Bầy ong trong đêm sâu Kịch : Sống mãi

tuổi 17, Mùa hạ cuối cùng, Hồn Trương Ba da hàng thịt, Tôi và chúng ta, Nàng Si-ta,…
2. Tóm tắt tác phẩm
Trương Ba là một người là vườn và giỏi đánh cờ đã bị Nam Tào bắt chết nhầm. Vì muốnsửa sai,
nên Nam Tào và Đế Thích cho Hồn Trương Ba sống lại và nhập vào xác hàng thịt mới chết. Trú
nhờ trong xác anh hàng thịt, Trương Ba gặp rất nhiều phiền toái : lý tưởng sách nhiễu, chị hàng thịt
đòi chồng, gia đình Trương Ba cũng cảm thấy xa lạ,… mà bản thân Trương Ba thì đau khổ vì phải
sống trái tự nhiên và giả tạo. Đặc biệt thân xác hàng thịt làm Trương Ba nhiễm một số thói xấu và
những nhu cầu vốn không phải chính bản thân ông. Trước nguy cơ tha hóa về nhân cách và sự
phiền toái do mượn thân xác của kẻ khác, Trương Ba quyết định trả lại xác cho hàng thịt và chấp
nhận cái chết.
3. Nhan đề
Nhan đề Hồn Trương ba, da hàng thịt gợi cảm giác về độ vênh lệch của hai yếu tố quan trọng trong
một con người. Hồn là phần trừu tượng, da thịt thân xác là cái cụ thể, là cái bình có thể chứa linh
hồn, hồn nào xác ấy. Nhưng ở đây hồn người người này lại ở trong xác người kia. Hồn và xác lại
không tương hợp ; tính cách, hành động, lối sống của Trương Ba và anh hàng thịt trái ngược nhau.
Tên gọi của vở kịch đã thâu tóm được những mâu thuẫn, xung đột bên trong của một con người.
4. Xuất xứ của vở kịch Hồn Trương Ba da hàng thịt
– Lưu Quang Vũ viết vở kịch Hồn Trương Ba da hàng thịt năm 1981, đến năm 1984 thì ra mắt công
chúng. Vở kịch dựa vào câu chuyện dân gian, nhưng đã có những thay đổi cơ bản.
– Điểm khác biệt :
+ Trong truyện dân gian, nhân vật Trương Ba tiếp tục sống bình thường, hạnh phúc khi được nhập
hồn vào thân xác anh hàng thịt. Ngắn gọn và đơn giản, truyện dân gian mang một tư tưởng triết học
có phần cơ bản đúng, nhưng chỉ đề cao linh hồn, tuyệt đối hóa linh hồn, không để ý đến mối quan
hệ giữa thể xác và linh hồn.
+ Vở kịch của Lưu Quang Vũ tại tập trung diễn tả tình cảnh trớ trêu, nỗi đau khổ, giày vò của
Trương Ba từ khi ―bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo‖. Từ đó đưa đến những tư tưởng mới :
sự tồn tại độc lập của thân xác đối với linh hồn và khẳng định một quan niệm đúng đắn về cách
sống.
.5 Thông điệp
– Được sống làm người thật là quý giá ; nhưng được sống đúng là mình, sống trọn vẹn với những

giá trị mình muốn có và theo đuổi còn quý giá hơn.
– Cuộc sống chỉ thực sự có ý nghĩa khi người ta được sống tự nhiên với sự hài hoà giữa tâm hồn và
thể xác.
II. KIẾN THỨC CƠ BẢN
1. Phân tích nhân vật Trương Ba
a. Mở bài – Lưu Quang Vũ là một trong những cây bút tài hoa để lại những dấu ấn trong nhiều thể
loại : thơ, văn xuôi và đặc biệt là kịch. Ông là một trong những nhà soạn kịch tài năng nhất của nền
văn học nghệ thuật Việt Nam hiện đại.
– Hồn Trương Ba, da hàng thịt là một trong những tác phẩm xuất sắc nhất, đánh dấu sự vượt trội
trong sáng tác của Lưu Quang Vũ.
– Nhân vật Trương Ba – một nhân vật bi kịch
b. Thân bài
* Giới thiệu chung
– Hoàn cảnh ra đời, xuất xứ
– Đây là một vở kịch mà Lưu Quang Vũ đã dựa vào cốt truyện dân gian, tuy nhiên chiều sâu của vở
kịch chính là phần phát triển sau của tuyện dân gian.
* Phân tích


– Hoàn cảnh éo le, bi đát của ông Trương Ba
+ Trương Ba là người làm vườn yêu cây cỏ, yêu thương mọi người, sống nhân hậu, chân thực, chưa
tới số chết, nhưng vì sự tắc trách của quan nhà trời mà Trương Ba phải chết.
+ Hồn Trương Ba phải trú nhơ vào xác anh hàng thịt, một người thô lỗ,… Tính cách Trương Ba
ngày càng thay đổi. à Bi kịch của sự oan trái
– Cuộc đối thoại giữa hồn và xác
+ Hồn là biểu tượng cho sự thanh nhã, cao khiết, trong sạch, đạo đức nhưng tất cả hoàn toàn trái
ngược qua phần đối thoại với xác. Hồn Trương Ba để lại trong mắt xác hàng thịt là một kẻ phàm ăn,
tục uống ; mê rượu và háo sắc ; cư xử thô bạo với mọi người,…
+ Những biểu hiện ngay trong đối thoại khi Hồn Trương Ba không còn là chính mình : cư chỉ, điệu
bộ lúng túng, khổ sở ; giọng điệu có khi yếu ớt, lời thoại ngắn ; khi đuối lý lại dùng lời lẽ thô bạo để

trấn áp ―Ta… Ta… đã bảo mày im đi‖ à Bi kịch của sự tồn tại riêng rẽ : con người không thể chỉ
sống bằng thân xác mà cũng không thể sống bằng tinh thần.
– Nỗi đau khổ của Hồn Trương Ba khi tìm về những người thân trong gia đình
+ Người vợ vừa hờn ghen vừa dằn dỗi chồng, có cảm giác ông là người sống xa lạ với mọi người. +
Đứa con trai cả quyết định bán khu vườn để đầu tư vào sạp thịt.
+ Cái Gái, đứa cháu nội mà ông yêu quý nhất, không thừa nhận ông là ông nội, thậm chí nó còn cự
tuyệt đến quyết liệt ―Nếu ông nội tôi hiện về được, hồn ông nội tôi sẽ bóp cổ ông‖. Trong mắt nó,
Hồn Trương Ba chỉ là một tên đồ tể, tay chân vụng về, luôn phá hoại.
+ Con dâu tỏ ra thông cảm, hiểu và đau cho nỗi đau sống nhờ và sự thay đổi của Hồn Trương Ba. à
Bi kịch bị người thân xa rời, khước từ cuộc sống.
– Khát vọng giải thoát khỏi thân xác người khác. + Trương Ba tự ý thức bi kịch của mình : ―Không
thể bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo được. Tôi muốn được là tôi toàn vẹn‖. à Bi kịch sống
nhờ vào thân xác người khác – Trương Ba trước cái chết của cu Tị
+ Trước đề nghị đổi thân xác của Đế Thích, tính cách TB từ chỗ lưỡng lự, suy nghĩ rồi quyết định
dứt khoát.
+ Trương Ba muốn chết thật là để cho mình được sống mãi hoài nhớ của mọi người. à Giải thoát bi
kịch của một sự giả tạo trong con người Hồn Trương Ba.
* Đánh giá
– Hồn Trương Ba là một nhân vật quá chú trọng đời sống tinh thần mà coi nhẹ thân xác.
– Bi kịch của nhân vật Hồn Trương Ba là bi kịch về nỗi đau của sự vênh lệch giữa thể xác và tâm
hồn trong một con người.
– Nghệ thuật xây dựng tính cách nhân vật, nghệ thuật tạo tình huống và diễn tiến kịch kích độc đáo.
c. Kết luận
– Đánh giá chung về nhân vật.
– Khẳng định tài năng viết kịch của Lưu Quang Vũ và sức sống của tác phẩm.
2. THÔNG ĐIỆP “KHÔNG THỂ SỐNG BÊN TRONG MỘT ĐĂNG, BÊN NGOÀI MỘT
NẺO
a. Mở bài
– Giới thiệu tác giả (con người và phong cách)
– Giới thiệu tác phẩm (giá trị của tác phẩm)

– Tác phẩm có rất nhiều lời thoại mang tính triết lý, trong đó lời nói của Trương Ba ―Không thể bên
trong một đằng, bên ngoài một nẻo được. Tôi muốn được là tôi trọn vẹn‖ đã gợi lên tình huống éo
le của nhân vật.
b. Thân bài
* Giới thiệu chung
– Hồn Trương Ba, da hàng thịt là một trong những truyện hay trong kho tàng truyện cổ tích Việt
Nam. Lưu Quang Vũ đã dựa vào cốt truyện này để viết thành vở kịch nói cùng tên vào năm 1981 và
được trình diễn lần đầu tiên vào năm 1984.
– Vở kịch đặt ra vấn đề, đó là bi kịch sống nhờ của Hồn Trương Ba trong xác anh hàng thịt.
– Lời thoại trên là lời của Hồn Trương Ba nói với Đế Thích, có ý nghĩa triết lý về sự thống nhất, hài
hòa giữa hồn và xác trong một con người. b. Phân tích tình huống éo le của nhân vật Hồn Trương


Ba trong xác anh hàng thịt
+ Tình huống éo le, bi đát – Nguyên nhân dẫn đến tình huống éo le : việc gạch tên chết người vô
trách nhiệm của quan nhà trời và ―thiện ý sửa sai‖ của Đế Thích. – Nỗi khổ của Hồn Trương Ba khi
phải sống nhờ vào xác anh hàng thịt : vợ con nghi ngờ, xa lánh ; do sự xui khiến của thân xác hàng
thịt, Hồn Trương Ba có những hành vi, cử chỉ thô lỗ, vụng về.
– Hồn Trương Ba cương quyết không sống trong xác anh hàng thịt. Khát vọng giải thoát khỏi thân
xác người khác khiến Hồn Trương Ba gọi Đế Thích lên để nói rõ bi kịch sống nhờ, sống không
đúng mình.
+ Ý nghĩa của lời thoại
– Lời thoại này thể hiện rõ quan niệm về hạnh phúc của nhà viết kịch. Hồn Trương Ba đã có một
thân xác để tồn tại, để tiếp tục sống, ngỡ đó là hạnh phúc. Nhưng hóa ra hạnh phúc ở đời không
phải là được sống mà sống như thế nào.
– Bức thông điệp mà Lưu Quang Vũ muốn nhắn gửi qua bi kịch của Trương Ba: con người phải
được sống như chính mình, sống hòa hợp giữa hồn và xác – tâm hồn trong sạch như thân xác được
khỏe mạnh. ―Tôi muốn là tôi toàn vẹn‖, đấy mới là hạnh phúc.
* Đánh giá
– Tình huống éo le của vở kịch là nét đặc sắc tạo nên sự khác biệt giữa truyện dân gian và vở kịch.

– Thông qua lời thoại của nhân vật, Lưu Quang Vũ đã thể hiện quan niệm sống giàu giá trị nhân
văn.
– Nhà văn đã dựng lên được những kịch tính thông qua cử chỉ, hành động, đặc biệt là lời thoại của
nhân vật sinh động có tầm khái quát cao.
c Kết luận
– Lời thoại của Trương Ba ―Không thể bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo được. Tôi muốn
được là tôi trọn vẹn‖ là một câu nói giàu tính triết lý, cũng lại là bi kịch cho số phận của một con
người.
– Khẳng định tài năng của Lưu Quang Vũ và sức sống của tác phẩm.
3. GÍA TRỊ NHÂN VĂN CỦA TÁC PHẨM
a. Mở bài
– Giới thiệu tác giả (con người và phong cách)
– Giới thiệu tác phẩm (giá trị của tác phẩm)
– Giới thiệu vấn đề nghị luận : giá trị nhân văn
b Thân bài
* Giới thiệu chung Tham khảo một số đề trên
* Giải nghĩa giá trị nhân văn: Giá trị nhân văn của một tác phẩm là sự lột tả mâu thuẫn tâm lý của
các nhân vật trong đời sống, hay chính mâu thuẫn trong từng con người, trong cái trong sáng có sự
sa ngạ, lầm lạc và trong ánh sáng có bóng tối. Nó là cuộc đấu tranh giữa thiện và ác, giữa đẹp và
xấu, giữa hy vọng và tuyệt vọng của con người.
* Phân tích
– Hoàn cảnh trớ trêu của Hồn Trương Ba khi phải sống nhờ thân xác anh hàng thịt.
– Nỗi đau đớn giày vò của Hồn Trương Ba khi phải sống nhờ, sồng khác mình, qua các chi tiết : +
Lời dẫn kịch : ngồi ôm đầu một hồi lâu, bịt tai lại, như tuyệt vọng, bần thần nhập lại xác anh hàng
thịt,…
+ Lời của nhân vật : Ta… ta đã bão là mày im đi, Trời,…
+ Lời độc thoại nội tâm : Mày đã thắng thế rồi, cái thân xác không phải là của ta ạ… à Ý nghĩa
nhân văn của tác phẩm :
– Ý nghĩa nhân văn của vở kịch là ở chỗ Lưu Quang Vũ đã khẳng định, tôn trọng cái cá thể, khẳng
định vị trí, vai trò của cá nhân trong xã hội. Qua lời thoại đầy chất triết lý, nhà văn gửi bức thông

điệp kêu gọi con người như sống chính mình. ―Tôi muốn được là tôi toàn vẹn‖, câu nói đơn giản
của nhân vật Hồn Trương Ba chính là chìa khóa mở ra giá trị nhân văn của tác phẩm. – Ý nghĩa
nhân văn của vở kịch còn là ở chỗ nhà văn đã đấu tranh cho sự hoàn thiện vẻ đẹp nhân cách con
người. Để cho nhân vật Hồn Trương Ba khước từ cuộc sống vay mượn thân xác người khác, Lưu
Quang Vũ đã mở hướng cho nhân vật vươn tới một lẽ sống đích thực, dẫu thân xác có trở về hư vô.


* Đánh giá
– Cảnh VII, của vở kịch giàu giá trị nhân văn :
+ Cần tạo cho con người có được sự hài hòa giữa hai mặt tinh thần và vật chất ; không được kỳ thị
những đòi hỏi vật chất của con người ; cần tôn trọng quyền tự do cá nhân ; cần biết rút kinh nghiệm
về những sai lầm để hướng tới tương lai. – Giá trị nhân văn mà Lưu Quang Vũ đặt ra đến nay vẫn
còn nguyên vẹn và vẫn còn mang tính thời sự.
c. Kết luận
– Khẳng định giá trị của tác phẩm (nội dung, nghệ thuật).
– Khẳng định tài năng của Lưu Quang Vũ.

AI ĐÃ ĐẶT TÊN CHO DÕNG SÔNG (Hoàng Phủ Ngọc Tường)
I. KIẾN THỨC CƠ BẢN
1. Tác giả Hoàng Phủ Ngọc Tường
- Sinh năm 1937 tại t.p Huế
- Là một người con của xứ Huế.
- Là một trong những nhà văn chuyên về bút ký.
- Văn phong: ―Nét đặc sắc … tài hoa‖ (tr197)
- Tác phẩm tiêu biểu: (Sgk)
2. Tác phẩm:
- Xuất xứ, hoàn cảnh sáng tác: Là bài bút kí đặc sắc, viết tại Huế (1981), in trong tập sách cùng tên
- Kết cấu: Tác phẩm gồm ba phần
+ Phần 1: Sông Hương ở thượng nguồn
+ Phần 2: Sông Hương ở ngoại vi thành phố Huế

+ Phần 3: Sông Hương giữa lòng thành phố Huế.
- Vị trí văn bản: chỉ là một đoạn trích trong bài bút kí dài về dòng sông Hương thơ mộng của xứ
Huế.
II. Phân tích:
1: Ý nghĩa nhan đề ― Ai đã đặt tên cho dòng sông‖
- ―Ai đã đặt tên cho dòng sông‖ Câu hỏi tu từ đặt ra ―Với trời, với đất‖ đưa nhà văn và độc giả về
với hành trình lịch sử tìm về cuội nguồn văn hoá dân tộc. Từ đó dòng sông Hương hiện ra trên
nhiều phương diện địa lí, lịch sử, văn hoá, thơ ca… Kết thúc tuỳ bút là một huyền thoại rất đẹp, bộc
lộ cái tôi trữ tình suy tư: ― Con người ở hai bờ đã nấu nước trăm loài hoa đổ xuống sông, đẻ làn
nước thơm tho mãi‖. Tác giả gửi gắm vào đấy tất cả ước vọng muốn đem cái đẹp và tiếng thơm để
xây đắp văn hoá lịch sử.
- Nhan đề và kết thúc tác phẩm thể hiện rõ chủ đề và phong cách bút kí của tác giả giàu sức gợi cảm
thấm đẫm chất thơ.Qua đó tác giả ca ngợi tính chất sông Hương – con sông gắn bó với lịch sử, văn
hoá Huế của dân tộc ta. Tác phẩm thể hiện long yêu mến say mê cảnh vật, văn hoá đất nước. Hình
ảnh dòng sông đất nước được thể hiện bằng tài năng của một cây bút giàu chất chí tuệ, chất văn hoá
và ngôn ngữ trong sáng, chọn lọc, tinh tế.
2. Chứng minh vẻ đẹp của sông Hương qua các góc nhìn khác nhau :
Mở bài: - Ai đã đặt tên cho dòng sông là tác phẩm bút kí kiệt xuất của Hoàng Phủ Ngọc Tường
-Đoạn trích thể hiện vẻ đẹp, chất thơ từ cảnh sác thiên nhiên của song Hương
Thân bài:
* Từ thượng nguồn:


- Khi qua dãy Trường Sơn hùng vĩ:
+ Sông Hương là bản tình ca của rừng già; Rầm rộ và mãnh liệt…Dịu dàng và say đắm….
+ Sông Hương như một cô gái Di-gan phóng khoáng man dại.
+ Rừng già đã hun đúc cho nó 1 bản tính gan dạ, 1 tâm hồn tự do, phóng khoáng.
=> Vẻ đẹp của một sức sống trẻ trung, mãnh liệt và hoang dại.
- Khi ra khỏi rừng già:
+ Đóng kín phần tâm hồn sâu thẳm của mình ở cửa rừng…

+ Mang sắc đẹp dịu dàng và trí tuệ, trở thành người mẹ phù sa của một vùng văn hoá xứ sở.
=> Vẻ đẹp đầy bí ẩn, sâu thẳm của dòng sông.
Tiểu kết:
Bằng óc quan sát tinh tế và trí tưởng tượng phong phú, bằng việc sử dụng nghệ thuật so sánh, nhân
hoá tài hoa, táo bạo, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã phát hiện và khắc hoạ vẻ đẹp mạnh mẽ, trẻ trung
đầy cá tính của dòng sông, gợi lên ở người đọc những liên tưởng kì thú, gợi cảm, đầy sức hấp dẫn.
* Về châu thổ:
- Sông Hương trên đường tìm đến Huế:
+ Chuyển dòng một cách liên tục, uốn mình theo những đường cong thật mềm, như một cuộc tìm
kiếm có ý thức.
+ Vẻ đẹp của dòng sông trở nên biến ảo, đa dạng trong nhiều thời gian và không gian khác nhau
(dẫn chứng...). Vẻ đẹp của Huế như trở thành vẻ đẹp của sông Hương.
=> Sông Hương qua cái nhìn đầy lãng mạn của Hoàng Phủ Ngọc Tường như 1 cô gái dịu dàng mơ
mộng đang khao khát đi tìm thành phố tình yêu của nó.
- Sông Hương gặp gỡ Huế:
+ Uốn 1 cánh cung rất nhẹ... > Vẻ e lệ, ngượng ngùng khi gặp người trong mong đợi, sự thuận tình
mà không nói ra.
+ Các nhánh sông toả đi khắp thành phố như muốn ôm trọn Huế vào lòng. Sông Hương và Huế hoà
lẫn vào nhau.
+ Sông Hương giảm hẳn lưu tốc, xuôi đi thực chậm (điệu slow)… thực yên tĩnh như niềm say mê,
như khát vọng được gắn bó, lưu lại mãi với mảnh đất nơi đây.
+ Liên tưởng với những dòng sông khác > Niềm tự hào của Hoàng Phủ Ngọc Tường về dòng sông
quê hương.
=> Được nhìn từ góc độ tâm trạng, nên cuộc gặp gỡ của Huế và Sông Hương như cuộc hội ngộ của
tình yêu với nhiều cung bậc cảm xúc.
- Sông Hương tạm biệt Huế để ra đi:
+ Rời khỏi kinh thành, sông Hương ôm lấy đảo Cồn Huế, lưu luyến ra đi…
+ Đột ngột rẽ ngoặt lại để gặp thành phố yêu dấu một lần cuối.
=> Quyến luyến, ngập ngừng, bịn rịn không nỡ rời xa.
Tiểu kết:

- Cách tiếp cận đối tượng bằng nhiều ngành nghệ thuật như hội họa, âm nhạc; nghệ thuật nhân hóa,
so sánh đầy mới lạ, bất ngờ làm cho sông Hương, xứ Huế trở nên có linh hồn, có sự sống. Đó là
cuộc trở về, gặp gỡ của cô gái si tình - sông Hương - đang say đắm trong tình yêu.
- Nhà văn: Tâm hồn đa cảm, lãng mạn; cách viết tài hoa.
Vẻ đẹp văn hoá của dòng sông:
- Dòng sông âm nhạc:
+ Là người tài nữ đánh đàn lúc đêm khuya.
+ Là nơi sinh thành ra toàn bộ nền âm nhạc có điểm của Huế.
+ Là cảm hứng để Nguyễn Du viết lên khúc đàn của nàng Kiều.
- Dòng sông thi ca:
+ Là vẻ đẹp mơ màng Dòng sông trắng lá cây xanh trong thơ Tản Đà.
+ Vẻ đẹp hùng tráng như kiếm dựng trời xanh của Cao Bá Quát.
+ Là nỗi quan hoài vạn cổ trong thơ bà Huyện Thanh Quan.
+ Là sức mạnh phục sinh tâm hồn trong thơ Tố Hữu
=> Sông Hương luôn đem đến nguồn cảm hứng mới mẻ, bất tận cho các nghệ sĩ.
- Dòng sông gắn với những phong tục, với vẻ đẹp tâm hồn của người dân xứ Huế.
+ Màn sương khói trên sông Hương là màu áo điền lục, 1 sắc áo cưới của các cô dâu trẻ trong tiết


×