Tải bản đầy đủ (.docx) (19 trang)

49. Thực tiễn hòa giải tranh chấp thương mại tại Thái Bình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (144.33 KB, 19 trang )

0

MỤC LỤC
Lời nói đầu
Phần 1: Giới thiệu chuyên đề nghiên cứu
Phần 2: Quá trình tìm hiểu thu thập thông tin về thực tiễn hòa giải

1
2
4

tranh chấp thương mại ở Thái Bình
2.1. Quá trình tìm hiểu thu thập thông tin về thực tiễn hòa giải tranh chấp

4

thương mại ở Thái Bình
2.2. Thực tiễn hòa giải tranh chấp thương mại tại Thái Bình
Phần 3: Nhận xét và kiến nghị
Những ưu điểm của việc giải quyết tranh chấp bằng hoà giải
Một số nhược điểm của việc giải quyết tranh chấp thông qua hoà giải
Một số biện pháp hạn chế phòng ngừa tranh chấp thương mại
Lời kết
Tài liệu tham khảo

LỜI NÓI ĐẦU

6
9
9
9


10
18
19


1

Việc Việt Nam được kết nạp vào Tổ chức Thương mại Thế giới WTO là một
sự kiện trọng đại, một bước ngoặt lớn của nền kinh tế. Cùng với những cơ hội
được giao thương với những nền kinh tế lớn của thế giới, Việt Nam cũng phải đối
mặt với nhiều thách thức khó khăn khi tham gia vào một sân chơi lớn trong khi
nhiều doanh nghiệp Việt Nam không hiểu được rõ luật chơi.
Một trong những khó khăn thách thức lớn mà các doanh nghiệp ở Thái Bình
phải đối mặt trong thời gian tới đó là những tranh chấp thương mại sẽ phát sinh
nhiều khi mở rộng các quan hệ thương mại quốc tế. Hầu hết, các doanh nghiệp đều
không muốn có tranh chấp nảy sinh trong hoạt động sản xuất kinh doanh, tuy
nhiên, dù muốn hay không thì tranh chấp thương mại vẫn cứ phát sinh vì nó tồn tại
khách quan trong đời sống kinh tế của nền kinh tế thị trường. tranh chấp thương
mại gây ra rất nhiều khó khăn cho doanh nghiệp như: cản trở hoạt động sản xuất
kinh doanh, làm giảm hình ảnh, thương hiệu và làm tổn hại uy tín của doanh
nghiệp trên thị trường, doanh nghiệp phải chi phí tiền bạc, thời gian để giải quyết
các vụ việc tranh chấp… thậm chí, có doanh nghiệp phải lâm vào tình trạng phá
sản khi gặp phải những vụ kiện lớn kéo dài.
Để giúp các doanh nghiệp ở Thái Bình phần nào hiểu được những nét cơ bản
nhất của tranh chấp thương mại và những biện pháp phòng tránh giảm thiểu, tranh
chấp thương mại, em xin mạnh dạn nghiên cứu chuyên đề “Thực tiễn hòa giải
tranh chấp thương mại tại Thái Bình”.
Kết cấu của Chuyên đề gồm có:
- Phần 1: Giới thiệu chuyên đề nghiên cứu;
- Phần 2: Quá trình tìm hiểu thu thập thông tin về thực tiễn hòa giải

tranh chấp thương mại ở Thái Bình;
- Phần 3: Nhận xét và kiến nghị;

Phần 1: Giới thiệu chuyên đề nghiên cứu


2

Nền kinh tế thế giới đang trên đà phát triển mạnh mẽ, có nhiều ngành nghề,
lĩnh vực mới ra đời, nền kinh tế đang dần được chuyên môn hóa. Cùng với sự phát
triển kinh tế là sự gia tăng các vụ việc tranh chấp thương mại. Tranh chấp thương
mại là tranh chấp phát sinh do việc không thực hiện, thực hiện không đúng, không
đầy đủ các nghĩa vụ của các chủ thể kinh doanh được thể hiện trong hợp đồng
thương mại.
Như đã trình bày, trước tiên tranh chấp thương mại là một tranh chấp nảy sinh
trong lĩnh vực thương mại, trao đổi, mua bán hàng hóa nhằm tìm kiếm lợi nhuận.
Tranh chấp thương mại phát sinh khi một hoặc nhiều bên tham gia hợp đồng
thương mại vi phạm hợp đồng (không thực hiện/thực hiện không đúng/thực hiện
không đầy đủ/thực hiện không kịp thời những quyền và nghĩa vụ được quy định
trong hợp đồng thương mại) và đã gây thiệt hại cho bên bị vi phạm.
Các yếu tố cấu thành của tranh chấp thương mại:
- Có quan hệ thương mại và được thiết lập trên cơ sở của hợp đồng thương
mại;
- Có sự vi phạm hợp đồng thương mại;
- Sự vi phạm hợp đồng thương mại không phải là kết quả của sự kiện bất khả
kháng hay nói cách khác bên vi phạm hợp đồng thương mại không phải vì nguyên
nhân bất khả kháng.
- Bên bị vi phạm bị thiệt hại hoặc có thể bị thiệt hại về tiền, uy tín kinh doanh;
- Bên bị vi phạm có sự phản ứng đối với bên vi phạm và yêu cầu bên vi phạm
phải thực hiện đúng những cam kết trong hợp đồng thương mại hoặc bồi thường

thiệt hại;
- Bên vi phạm từ chối thực hiện yêu cầu của bên bị vi phạm.
Khi có đủ những yếu tố kể trên thì tranh chấp thương mại đã phát sinh.
Cơ sở lý luận: Tranh chấp thương mại là một sự tất yếu trong đời sống kinh
tế của các nước, có hoạt động thương mại là có tranh chấp thương mại. Tranh chấp
thương mại tồn tại một cách độc lập khách quan
Trong kinh doanh phải có đối tác, phải có khách hàng, trong số khách hàng và
đối tác đó thì có người tốt có người xấu; có người thì có đạo đức kinh doanh có
người thì không; trong số người có đạo đức kinh doanh thì có người kinh doanh


3

thuận lợi, có người gặp rủi ro … tất cả những yếu tố đó đã làm phát sinh tranh chấp
thương mại.
Có chủ thể kinh doanh do thiếu đạo đức kinh doanh cố tình vi phạm cam
kết, vi phạm pháp luật kinh doanh dẫn tới phát sinh tranh chấp thương mại nhưng
cũng có chủ thể đã vô tình vi phạm do nhận thức không đầy đủ về pháp luật hoặc
cũng có những chủ thể buộc phải vi phạm cam kết, gây tranh chấp thương mại do
những yếu tố khách quan, do bất khả kháng.
Cơ sở pháp lý: Do hoạt động kinh doanh có ảnh hưởng rất lớn đến đời sống
xã hội nên tất cả các quốc gia trên thế giới đều ban hành những văn bản luật để
điều chỉnh vấn đề này. Tuy nhiên, do hoạt động kinh doanh ngày càng phát triển và
đa dạng nên nhiều khi pháp luật không kịp điều chỉnh hoặc do kỹ thuật lập pháp
(nhất là ở các nước kém phát triển) không tốt đã tạo ra những kẽ hở của pháp luật
từ đó tạo điều kiện cho những chủ thể kinh doanh vận dụng, luồn lách và làm phát
sinh tranh chấp thương mại.
Mặt khác, cũng vì lý do pháp luật không theo kịp hoạt động kinh doanh nên
những chế tài đối với những người vi phạm không đủ mạnh, không đủ sức răn đe
nên họ vẫn cố tình vi phạm để nhằm tối đa hóa lợi nhuận.

Tranh chấp thương mại đã gây tổn hại rất nhiều nguồn lực của xã hội nói
chung và làm ảnh hưởng nặng nề tới hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp nói
riêng.
Có nhiều cấp độ tranh chấp thương mại khác nhau như tranh chấp thương mại
giữa các quốc gia với nhau; tranh chấp thương mại giữa các chủ thể kinh tế trong
cùng một quốc gia… trong khuôn khổ hạn hẹp của Chuyên đề này, em chỉ xin đề
cập tới một khía cạnh nhỏ, đó là Một số vấn đề cơ bản về giải quyết tranh chấp và
và phòng ngừa tranh chấp thương mại ở Thái Bình.

Phần 2
Quá trình tìm hiểu thu thập thông tin
về thực tiễn hòa giải tranh chấp thương mại ở Thái Bình


4

2.1.

Quá trình tìm hiểu thu thập thông tin về thực tiễn hòa giải tranh

chấp thương mại ở Thái Bình
Từ khi các doanh nghiệp được chủ động trong việc tìm kiếm đối tác, chủ
động thỏa thuận các nội dung hợp tác và chủ động ký kết hợp đồng thì cũng đồng
nghĩa với việc các tranh chấp thương mại phát sinh và tăng mạnh. Theo báo cáo
tổng kết năm 2017 có 643 vụ tranh chấp thương mại đã được tòa án các cấp để giải
quyết theo trình tự sơ thẩm (đó là chưa kể nhiều vụ tranh chấp không được khởi
kiện ra tòa án hoặc được các bên giải quyết tại Trung tâm Trọng tài thương mại).
Năm 2018, số vụ kiện thương mại được Tòa án nhân dân các cấp thụ lý giải quyết
ước tính hơn một nghìn vụ.
2.1.1. Các loại tranh chấp thương mại

Hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực nào cũng có thể phát sinh tranh chấp,
căn cứ vào các lĩnh vực kinh doanh hiện tại ở Thái Bình có thể phân loại một số
dạng tranh chấp chính như sau:


Tranh chấp trong khối các doanh nghiệp sản xuất và thương mại:

Những tranh chấp này phát sinh do một trong các bên trong hợp đồng thương mại
vi phạm các lỗi chủ yếu như lỗi của bên bán là: giao hàng không đủ số lượng; giao
hàng kém chất lượng; giao hàng không đúng thời hạn; lỗi của bên mua là: không
thanh toán tiền; thanh toán không đủ tiền hoặc chậm thanh toán tiền. Những tranh
chấp trong khối doanh nghiệp sản xuất và thương mại còn có thể phát sinh do
những vi phạm như từ chối thực hiện nghĩa vụ giao hàng hoặc từ chối nghĩa vụ
nhận hàng. Những vi phạm này phát sinh đặc biệt nhiều khi có sự biến động về giá
cả hàng hóa là đối tượng hợp đồng.


Tranh chấp trong khối các doanh nghiệp dịch vụ: Những tranh chấp

này phát sinh chủ yếu do các bên tham gia hợp đồng vi phạm các cam kết như lỗi
của nhà cung cấp: không cung cấp dịch vụ; cung cấp dịch vụ kém chất lượng; cung
cấp dịch vụ không đúng như các cam kết; không đúng thời hạn… lỗi của bên nhận
dịch vụ là không thanh toán tiền; thanh toán không đủ tiền hoặc chậm thanh toán
tiền.


5




Tranh chấp trong khối các doanh nghiệp kinh doanh tiền tệ: Trong

khối các doanh nghiệp kinh doanh tiền tệ thì lỗi chủ yếu thuộc về bên đi vay đó là
không trả nợ (cả nợ gốc và nợ lãi); trả nợ không đúng thời hạn. Một dạng tranh
chấp khá phổ biến trong khối các doanh nghiệp kinh doanh tiền tệ đó là tranh chấp
liên quan đến bên thứ ba trong việc xử lý các tài sản đảm bảo cho nghĩa vụ trả nợ
(tài sản được cầm cố thế chấp). khi xảy ra những tranh chấp dạng này thường thì
thời gian đẻ xử lý kéo dài rất lâu và gây nhiều tổn hại về chi phí cho doanh nghiệp.
2.1.2. Nguyên nhân phát sinh tranh chấp
Nguyên nhân chủ quan: Do bối cảnh của nền kinh tế hiện nay, có nhiều
doanh nghiệp (nhất là những doanh nghiệp nhỏ) được ra đời và hoạt động dưới sự
điều hành bởi những ông chủ không có trình độ về quản lý kinh tế, không am hiểu
về kinh doanh nên khi vào chơi trong một sân chơi lớn đã không đủ trình độ để
phân biệt được đâu là cơ hội kinh doanh và đâu là cạm bẫy do vậy đã đưa ra những
quyết sách sai lầm hoặc tham gia vào những giao dịch có nhiều rủi do.
Một nguyên nhân nữa là các nhà quản trị điều hành doanh nghiệp rất thiếu
kiến thức về pháp luật nói chung và kiến thức pháp luật có liên quan tới hoạt động
kinh doanh của doanh nghiệp nói riêng. Mặc dù vậy nhưng doanh nghiệp lại không
có ý thức sử dụng những dịch vụ tư vấn pháp luật, tức là không có ý thức tự phòng
bệnh, nên nhiều khi trong các hợp đồng có nhiều khe hở để đối tác có thể lợi dụng
để vi phạm dẫn tới phát sinh tranh chấp. Và khi phát sinh tranh chấp (khi bệnh đã
phát) thì rất khó để giải quyết hoặc phải chi phí rất nhiều để giải quyết.
Đây là những tranh chấp phát sinh do nguyên nhân chủ quan là năng lực yếu
kém của các nhà quản trị điều hành doanh nghiệp.
- Nguyên nhân khách quan: Do cơ chế thị trường khắc nghiệt, nhiều doanh
nghiệp đã gặp phải rất nhiều rủi ro trong kinh doanh tới mức nhiều khi không tự
vượt qua được dẫn tới bị phá sản. Khi một doanh nghiệp bị phá sản thì cũng đồng
nghĩa với việc một số doanh nghiệp đối tác khác bị doanh nghiệp phá sản vi phạm
hợp đồng dẫn tới phát sinh tranh chấp thương mại.
Khi đàm phán, ký kết hợp đồng, các bên thường chỉ bàn bạc tới những vấn đề

thuận lợi hoặc những vấn đề không gây mất lòng cho đối tác. Còn những vấn đề
“khó nói” hoặc “nhạy cảm” như cơ chế, biện pháp giải quyết tranh chấp; chế tài


6

phạt vi phạm hợp đồng thì các bên lại kiêng kỵ không tiện nói ra vì nể nang, e ngại
và vì tâm lý chưa làm đã lo hỏng hóc, đổ vỡ. Và tâm lý chung này đã bị nhiều chủ
doanh nghiệp thiếu đạo đức kinh doanh lợi dụng trong các phi vụ làm ăn. Khi đàm
phán, giao kết hợp đồng thì dùng tình để giải quyết, tới khi có tranh chấp phát sinh,
không thể dùng tình để giải quyết tranh chấp thì phải dùng tới lý nhưng tới lúc đó
thì lý không thấy thể hiện trong hợp đồng.
2.2.

Thực tiễn hòa giải tranh chấp thương mại tại Thái Bình

Giải quyết tranh chấp bằng thương lượng, đàm phán, trung gian hòa
giải:
Một câu ngạn ngữ của phương Tây rất có ý nghĩa đó là: “Một thoả hiệp tồi
còn hơn một bản án tốt” đã cho thấy khi có tranh chấp xảy ra, nếu các doanh
nghiệp tự thoả thuận giải quyết được với nhau thì vấn tốt hơn so với việc kiện nhau
ra cơ quan tài phán (Trọng tài hoặc Toà án).
Đưa một tranh chấp ra cơ quan tài phán tất nhiên sẽ tốn kém tiền bạc và thời
gian của cả hai bên. Mặt khác hệ thống toà án hiện nay là quá tải, đồng thời với nó
là chất lượng của các thẩm phán chuyên về thương mại còn thấp, những thẩm phán
kinh nghiệm và đủ khả năng giải quyết các tranh chấp lớn hợp tình hợp lý chỉ tính
tập trung chủ yếu ở hai thành phố lớn Hà Nội và Hồ Chí Minh, còn các địa phương
khác và toà án cấp huyện nhìn chung đội ngũ thẩm phán có đủ năng lực và kinh
nghiệm để giải quyết các tranh chấp thương mại là không nhiều. Như vậy khi có
tranh chấp thương mại xảy ra thì các bên tốt nhất nên ngồi lại thương lượng, hoà

giải với nhau để tìm ra một phương án giải quyết tối ưu cho vấn đề của mình. Chỉ
trong truờng hợp không thể thương lượng, hoà giải được nữa, thì các bên mới nên
đưa tranh chấp đó ra giải quyết tại một cơ quan tài phán..
Hoà giải là hình thức giải quyết tranh chấp xuất hiện sớm nhất trong lịch sử
loài người. Bản chất của hình thức giải quyết tranh chấp này là các bên tranh chấp
cùng nhau bàn bạc, thoả thuận để đi đến thống nhất một phương án giải quyết bất
đồng giữa họ và tự nguyện thực hiện phương án đó.
Ở Thái Bình, việc hoà giải các tranh chấp trong đó có cả các tranh chấp
thương mại luôn được coi trọng. Khi tranh chấp phát sinh các bên thường tự
thương lượng, hoặc nhờ một cá nhân, tổ chức trung gian hoà giải cho việc tranh


7

chấp. Nếu không hoà giải được các bên mới lựa chọn phương án ra Toà án hoặc
Trọng tài để giải quyết vụ việc. Tuy nhiên trong quá trình giải quyết vụ án (từ khi
khởi kiện đến trước khi hoàn thành việc thi hành án) các bên vẫn có quyền thương
lượng để giải quyết vụ án (thoả thuận không trái pháp luật) và thực tế là trên 50%
tổng số vụ việc mà Toà án thụ lý hàng năm được giải quyết thông qua thương
lượng trong quá trình tố tụng.
Việc hoà giải có thể được thể hiện:
- Tự hoà giải: Là việc các bên tranh chấp tự bàn bạc đi đến thống nhất
phương án giải quyết tranh chấp mà không cần tới sự tác động hay giúp đỡ của
người thứ ba
- Trung gian hoà giải: là việc các bên tranh chấp tiến hành hoà giải với nhau
dưới sự hỗ trợ, giúp đỡ của người thứ ba, gọi là người trung gian hoà giải. Người
trung gian hoà giải có thể là cá nhân, cơ quan hay tổ chức, ngay cả Toà án, Trọng
tài khi các cơ quan này tiến hành giải quyết vụ tranh chấp.
- Hoà giải ngoài thủ tục tố tụng: Là việc hoà giải được các bên tiến hành
trước khi đưa đơn khởi kiện ra Toà án hoặc Trọng tài.

- Hoà giải trong thủ tục tố tụng: là việc hoà giải được tiến hành tại Toà án,
Trọng tài khi các cơ quan này thụ lý giải quyết các tranh chấp. Khác với hoà giải
ngoài tố tụng thì hoà giải trong tố tụng được sự giúp đỡ của Toà án hay Trọng tài,
khi các bên hoà giải được với nhau thì Toà án hay Trọng tài sẽ ra quyết định công
nhận sự thoả thuận và quyết định này sẽ được bảo đảm thi hành bằng các biện pháp
cưỡng chế.
 Kết luận: Để thương lượng có thể thành công thì tốt nhất bên bị vi phạm
nên dùng thêm các biện pháp khác để làm sức ép cho việc đàm phán: khởi kiện ra
Tòa án hoặc Trọng tài. Và tốt nhất để kết quả của việc thương lượng có thể được
bảo đảm thi hành thì nên dùng Toà án hay Trọng tài là trung gian hoà giải (trong
quá trình khởi kiện)
Những điểm lưu ý giải quyết tranh chấp giữa các bên bằng thương lượng
hoặc trung gian hoà giải có hiệu quả:
Do hậu quả pháp lý của việc thương lượng/hoà giải thành giữa các bên
thường không có một chế tài hay bị cưỡng chế thực hiện ngoài ý thực tự giác của


8

phía bên kia (chỉ thương lượng/hoà giải trong tố tụng mới có thể được cưỡng chế
thực hiện), nên khi giải quyết các tranh chấp thương mại bằng hoà giải/thương
lượng thì chúng ta cần chú ý một số điểm sau:
- Do việc tranh chấp thường gắn với sự mâu thuẫn/không thống nhất về các
lợi ích kinh tế của các bên tranh chấp, do vậy để có thể tiến hành hoà giải/thương
lượng thành công mỗi bên phải tự tìm ra được giới hạn của điểm điều hòa lợi ích
của mình và xem xét đến điểm điều hoà lợi ích của phía bên kia để có thể tìm ra
điểm điều hoà lợi ích chung giữa các bên. Hiểu được điểu này thì mỗi bên có thể
giải thích/tập trung và nhận biết được ngay việc thương lượng với phía bên kia sẽ
có kết quả và đạt được những gì mình mong muốn hay không, trong nhiều trường
hợp việc hiểu rõ này cũng giúp mỗi bên tự xác định nên kết thức sớm thương

lượng, nếu thấy bên kia không thiện chí và không thể đạt được quyền lợi đặt ra.
- Để có thể xác định được điểm điều hoà trên thì mỗi bên cần xác định rõ tình
trạng pháp lý, nguyên nhân cũng như bản chất của các tranh chấp, bất đồng giữa
các bên. Các bên cũng phải tự nhận thức về trách nhiệm pháp lý của mình khi
thương lượng/hoà giải không thành từ đó đưa ra quyết định phù hợp trên cơ sở so
sánh những “cái được” so với những “cái mất” khi thương lượng không thành.
- Trong quá trình tư vấn lựa chọn thương lượng/hoà giải mỗi bên và cả hai
bên nên phối hợp/lấy ý kiến tư vấn của các chuyên gia chuyên môn kinh tế - kỹ
thuật để giúp mình hiểu rõ hơn bản chất của sự việc.
- Trong suốt quá trình thương lượng/hoà giải để bảo đảm an toàn mỗi bên nên
ghi lại các kết quả hoà giải bằng hình thức văn bản.

Phần 3
Nhận xét và kiến nghị
3.1. Những ưu điểm của việc giải quyết tranh chấp bằng hoà giải:


9

- Thứ nhất: Đây là phương thức giải quyết tranh chấp đơn giản, nhanh gọn và
ít tốn kém. Tiết kiệm được cả thời gian (Toà án thường phải trải qua các cấp xét xử
như: sơ thẩm, phúc thẩm và nhiều trường hợp bản án/quyết định còn bị xem xét lại
bởi thủ tục đặc biệt là giám đốc thẩm/tái thẩm, sau đó là thi hành án quá trình này
thường kéo dài có khi đến vài năm, còn Trọng tài tuy có ngắn hơn nhưng nếu bị
phía bên kia cố tình dây dưa làm khó dễ dấn đến phán quyết Trọng tài bị huỷ nên
vụ việc sẽ bị kéo dài). Tiết kiệm được chi phí: án phí, phí trọng tài, phí thuê luật sư,
phí thi hành án……..
- Thứ hai: Việc hoà giải thành có thể giúp các bên duy trì được mối quan hệ
làm ăn gắn bó và sự tin tưởng từ trước. Như vậy sẽ bảo vệ được uy tín của đối tác
và uy tín của chính mình.

- Thứ ba: Khả năng thu hồi tài sản cao hơn và đồng vốn quay vòng trong kinh
doanh sẽ nhanh hơn, vì thương lượng hòa giải thành công thì khả năng tự nguyện
thực hiện nghĩa vụ của bên vi phạm sẽ cao hơn.
- Thứ tư: Việc giải quyết tranh chấp bằng hoà giải, các bên có thể kiểm soát
được việc cung cấp chứng cứ và sử dụng chứng cứ qua đó giữ được các bí mật
kinh doanh và uy tín của các bên, bởi vì việc thương lượng trực tiếp chỉ có hai bên
tham gia (Trung gian hoà giải có thêm bên thứ ba nhưng bên thứ ba thường là tổ
chức, cá nhân mà cả hai bên đều tin tưởng và có uy tín cao) nên nội dung vụ tranh
chấp không được công khai và không tiết lộ ra bên ngoài.
- Thứ năm: Hoà giải xuất phát từ sự tự nguyện của các bên bởi vậy khi đạt
được phương án hoà giải các bên thường nghiêm túc thực hiện
3.2. Một số nhược điểm của việc giải quyết tranh chấp thông qua hoà giải
- Thứ nhất: Việc hoà giải rất dễ dẫn đến đổ vỡ nếu chỉ cần một trong hai bên
không thiện chí hoặc hai bên không thể thống nhất được cách thức giải quyết vụ
việc.
- Thứ hai: trong nhiều trường hợp việc hoà giải chỉ là cái cớ để bên vi phạm
kéo dài thời gian thực hiện nghĩa vụ làm cho bên kia nản chí hoặc đôi khi cả mất
quyền khởi kiện vì hết thời hạn nhưng nếu bên bị vi phạm khéo léo trong thương
lượng thì có thể thu hồi được tài sản


10

- Thứ ba: Việc hoà giải thành không có nghĩa là kết quả hoà giải sẽ được các
bên thực thi một cách nghiêm túc bởi vì không có một biện pháp cưỡng chế nào để
thi hành nếu bên có nghĩa vụ không tự nguyện thực hiện nghĩa vụ. Đây chính là
hạn chế lớn nhất của phương pháp này làm cho nó kém hiệu quả. (Trừ trường hợp
hoà giải trong tố tụng)
3.3. Một số biện pháp hạn chế phòng ngừa tranh chấp thương mại:
3.3.1. Thẩm định tư cách, năng lực đối tác

Khi có nhu cầu thực hiện một hợp đồng thương mại, doanh nghiệp cần phải
lựa chọn kỹ lưỡng bạn hàng thông qua việc thẩm định về tư cách pháp lý và năng
lực thực hiện hợp đồng của bạn hàng. Cần phải xác định được các vấn đề liệu bạn
hàng tương lai có đủ tư cách hay không; có đăng ký kinh doanh những ngành nghề
mà hai bên dự định hợp tác hay không; cơ sở vật chất và tiềm lực tài chính có đủ
để thực hiện hợp đồng hay không; trình độ, cách thức quản lý và năng lực của đội
ngũ nhân viên có đáp ứng được yêu cầu đặt ra hay không… những vấn đề này cần
phải giải quyết trước khi quyết định có nên hợp tác với bạn hàng đó không. Nếu
không tìm hiểu kỹ những vấn đề này thì có thể sẽ dẫn tới tranh chấp thương mại
như đối tác không có chức năng kinh doanh những ngành nghề mà hai bên dự định
hợp tác. Hoặc đối tác không đủ năng lực về tài chính, về cơ sở vật chất, về con
người để tiếp tục thực hiện hợp đồng dẫn tới hợp đồng bị gãy, bị đổ bể gây ra vi
phạm dây chuyền hoặc những thiệt hại khác cho doanh nghiệp.
Việc xác định tư cách thực hiện hợp đồng của đối tác có thể kiểm tra trong
Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, trong đó có thể hiện đầy đủ các ngành nghề
đối tác được kinh doanh. Tuy nhiên, cần phải thẩm định kinh nghiệm của đối tác
trong lĩnh vực đó thông qua nghiên cứu các tài liệu khác của đối tác để biết được
doanh số thu về trong lĩnh vực này của đối tác các năm vừa qua là bao nhiêu, từ đó
biết được kinh nghiệm của đối tác trong lĩn vực ngành nghề kinh doanh mà hai bên
dự kiến hợp tác.
Việc thẩm định năng lực tài chính, trình độ quản lý, năng lực của đội ngũ
nhân viên được thực hiện thông qua xem xét các tài liệu như tình hình nộp ngân
sách, Báo cáo tài chính hàng năm đã được kiểm toán, xem xét thực địa cơ sở vật
chất, xem xét các giấy tờ để xác định quyền sở hữu các tài sản mà đối tác đang


11

quản lý, đánh giá tính chuyên nghiệp của đội ngũ nhân viên thông qua những cuộc
đàm phán, tiếp xúc trực tiếp hoặc qua quan sát hoạt động hàng ngày của đối tác.

3.3.2. Đàm phán và ký kết hợp đồng
Sau khi thẩm định được tư cách và năng lực của đối tác, thấy đối tác có thể
hợp tác được để thực hiện một thương vụ hoặc dự án thì doanh nghiệp cần phải
thực hiện giai đoạn thương lượng đàm phán và ký kết hợp đồng với đối tác.
Quá trình đàm phán thương lượng hợp đồng, các bên cần phải thảo luận rõ
từng điểm, từng điều khoản của hợp đồng. Kinh nghiệm cho thấy rằng, để tiết kiệm
thời gian và các chi phí khác, thường thì các bên gửi trước cho nhau nội dung của
bản dự thảo hợp đồng. Các bên sẽ thể hiện ý chí, nguyện vọng, yêu cầu của mình
trong bản dự thảo hợp đồng đó và chuyển cho nhau. Khi tiếp nhận được ý chí của
nhau, mỗi bên sẽ phản hồi lại cho bên kia quan điểm của mình. Những vấn đề các
bên đã thống nhất được sẽ được thông qua, các bên sẽ gặp nhau để thảo luận và
thuyết trình cho nhau về những quan điểm còn đang tranh cãi. Trong quá trình thảo
luận, kết thúc mỗi lần đàm phán, các bên cần có những văn bản ghi lại những thỏa
thuận đã đạt được và có lịch trình cho lần đàm phán tiếp theo để thảo luận những
vấn đề chưa thống nhất được.
Những vấn đề các bên cần phải thảo luận hết sức rõ ràng, cụ thể, đó là:
(i) Điều khoản về đối tượng hợp đồng: Các bên cần phải quy định chi tiết
với nhau và thể hiện rõ trong hợp đồng về đối tượng của hợp đồng. Đối với hợp
đồng mua bán hàng hóa thì cần mô tả rõ mua cái gì, bán cái gì, số lượng bao nhiêu,
chất lượng như thế nào, đặc tính kỹ thuật ra sao … tóm lại là bên mua cần phải thể
hiện được rõ trong hợp đồng việc mô tả hàng hóa phù hợp với nhu cầu mình muốn
mua. Ví dụ, khi đàm phán để mua một lô hàng giấy in thì cần phải mô tả rõ trong
hợp đồng về nước sản xuất, hãng sản xuất, khổ giấy, độ trắng bao nhiêu phần trăm,
độ dày là bao nhiêu cm/gram … Hoặc đối với loại hợp đồng dịch vụ thì bên sử
dụng dịch vụ cần phải mô tả được đó là dịch vụ gì, chất lượng của dịch vụ ra sao.
Ví dụ khi đàm phán một hợp đồng quảng cáo thì cần phải mô tả được bên cung cấp
dịch vụ phải làm những công việc gì, quảng cáo trên chất liệu gì, sử dụng phương
tiện truyền thông gì để quảng cáo….



12

Tóm lại, đối tượng hợp đồng cần được thể hiện càng chi tiết, cụ thể càng tốt;
càng mô tả rõ ràng càng tốt để tránh sự hiểu lầm hoặc cố tình hiểu lầm để trục lợi
dẫn tới gây tranh chấp hợp đồng. Một ví dụ kinh điển về ý nghĩa của việc phải mô
tả chi tiết cụ thể đối tượng của hợp đồng đó là một doanh nghiệp ký hợp đồng nhập
khẩu một số lượng lớn giày thể thao. Trong hợp đồng các bên đã định nghĩa một
đôi giày được hiểu là hai chiếc giày. Chính vì quy định không đầy đủ như vậy nên
bên bán đã giao hàng cho bên mua lô hàng giày da toàn bộ là một bên chân trái
(mỗi đôi gồm 02 chiếc chân trái) mà không có chiếc giày chân phải nào. Ở đây,
bên bán đã lợi dụng việc quy định không rõ ràng về đối tượng hợp đồng để trục lợi,
bắt ép bên mua phải ký tiếp một hợp đồng mua một số lượng giày da gồm toàn
những chiếc chân phải với một giá đắt hơn thì mới bán được. Nếu trong hợp đồng
mô tả rõ: một đôi giày được hiểu là có hai chiếc, một chiếc chân phải, một chiếc
chân trái có cùng kích cỡ (size), có cùng màu sắc, hình dáng… thì có lẽ câu chuyện
kia sẽ không xảy ra. Có thể câu chuyện này chỉ là hư cấu nhưng cũng thể hiện
được sự quan trọng của việc phải mô tả rõ đối tượng của hợp đồng.
(ii) Điều khoản về thời hạn: Điều khoản về thời hạn thực hiện nghĩa vụ
cũng phải được các bên quy định hết sức rõ trong hợp đồng. Bên nhận hàng hóa,
dịch vụ cần thể hiện rõ được thời gian, tiến độ mà mình phải nhận được hàng hóa
hoặc dịch vụ là đối tượng của hợp đồng. Có nhiều trường hợp, việc nhận được
hàng hóa và dịch vụ đúng hạn có ý nghĩa rất quan trọng, đặc biệt là mua hàng hóa
để bán lại cho bên thứ ba, nhất là để xuất khẩu đi nước ngoài. Nhiều doanh nghiệp
do không nhận được hàng hóa trong nước đúng thời hạn nên đã vi phạm thời hạn
giao hàng cho đối tác nước ngoài và đã bị phạt vi phạm hợp đồng. Còn phía cung
cấp hàng hóa dịch vụ cũng cần thể hiện rõ trong hợp đồng thời hạn và tiến độ
thanh toán tiền của bên mua hàng hóa dịch vụ. Vấn đề này cần thể hiện rõ thanh
toán tiền hàng hóa dịch vụ làm mấy lần, mỗi lần bao nhiêu tiền, thời gian nào thì
phải thanh toán.
(iii) Điều khoản về các biện pháp bảo đảm thực hiện hợp đồng: Đây là

một thỏa thuận hết sức quan trọng nhằm bảo đảm rằng mỗi bên sẽ nghiêm túc thực


13

hiện các cam kết của mình. Đối với hợp đồng mua bán, bên nhận hàng hóa dịch vụ
cần có một khoản tiền đặt cọc hoặc bảo lãnh thanh toán của một tổ chức tài chính
trung gian để đảm bảo rằng mình sẽ thực hiện nghĩa vụ tiếp nhận hàng hóa dịch vụ
là đối tượng của hợp đồng và thanh toán tiền đúng hạn. Ngược lại, trong nhiều
trường hợp, bên cung cấp hàng hóa dịch vụ cũng cần ký quỹ hoặc sự bảo lãnh của
một tổ chức tài chính trung gian để đảm bảo nghĩa vụ giao hàng đúng số lượng,
chất lượng, đúng thời hạn và các điều kiện giao hàng khác.
Đối với các hợp đồng tín dụng thì điều khoản bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trả
nợ là đặc biệt quan trọng. Phía ngân hàng có thu được gốc và lãi hay không phụ
thuộc rất lớn vào điều khoản này. Các ngân hàng hiện nay đang áp dụng các biện
pháp đảm bảo là dùng tài sản của người đi vay hoặc người thứ ba để thế chấp hoặc
cầm cố đảm bảo cho khoản nợ. Ngoài hợp đồng tín dụng là hợp đồng chính, ngân
hàng còn có hợp đồng thế chấp hoặc cầm cố tài sản riêng. Ở đây có một vấn đề
ngân hàng cần hết sức chú ý đó là cần xác minh rõ về quyền tài sản của người
mang tài sản đi thế chấp/cầm cố. Có nhiều trường hợp, ngân hàng đã nhận thế chấp
quyền sử dụng đất gắn liền với tài sản trên đất. Hợp đồng thế chấp tài sản chỉ có
những người có tên trong Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ký tên và sau đó đã
phát sinh tranh chấp về tài sản trên đất vì một số người khác trong gia đình đó cho
rằng họ có công sức và tiền của trong việc tạo ra khối tài sản trên đất đó nên ngân
hàng gặp nhiều khó khăn trong việc xử lý tài sản bảo đảm.
(iv) Điều khoản phạt vi phạm và bồi thường thiệt hại: Đây là một thỏa
thuận nhằm phòng ngừa sự vi phạm hợp đồng của mỗi bên. Các bên cần phải thẳng
thắn bàn bạc kỹ lưỡng về vấn đề này. Ví dụ bên nhận hàng hóa dịch vụ chậm tiếp
nhận hàng hóa dịch vụ hoặc chậm thanh toán tiền thì bị phạt bao nhiêu. Ngược lại
bên cung cấp hàng hóa dịch vụ nếu chậm giao hàng hóa dịch vụ thì bị phạt như thế

nào. Mức phạt vi phạm và bồi thường thiệt hại cần nằm trong khung khổ của pháp
luật và đủ sức để răn đe sự vi phạm của mỗi bên. Nếu mức phạt hoặc bồi thường
thiệt hại nhẹ quá sẽ không có tác dụng vì một bên sẵn sàng vi phạm hợp đồng nếu
sự vi phạm đó đem lại lợi ích cho họ lớn hơn mức phạt hợp đồng. Hoặc nếu mức


14

phạt vi phạm và bồi thường thiệt hại quá cao, vượt ngoài khuôn khổ pháp luật cho
phép thì thỏa thuận đó lại không có ý nghĩa vì bị vô hiệu.
(v) Điều khoản bất khả kháng: Trong rất nhiều hợp đồng thương mại ở
Thái Bình, nhất là hợp đồng thương mại giữa các doanh nghiệp có vốn trong nước
với nhau thì điều khoản bất khả kháng được thể hiện rất mờ nhạt qua loa và thậm
chí còn không có. Tuy nhiên, đây là một thỏa thuận hết sức quan trọng, nó có ý
nghĩa loại trừ trách nhiệm của bên vi phạm hợp đồng do gặp phải sự kiện bất khả
kháng. Các bên cần phải mô tả hết sức cụ thể những sự kiện nào được coi là sự
kiện bất khả kháng và khi gặp sự kiện bất khả kháng thì phải hành xử như thế nào
mới được miễn trừ nghĩa vụ. nếu trong hợp đồng quy định cụ thể những vấn đề
này, thì khi xuất hiện sự kiện bất khả kháng, các bên sẽ tự nguyện chia xẻ cho nhau
những rủi ro, thiệt hại, tránh được những tranh chấp phát sinh không đáng có. Ví
dụ, trong thời gian vừa qua, ở Miền Trung nước ta có lũ lụt rất nặng, đường sá bị
sạt lở, giao thông bị cản trở. Nhiều doanh nghiệp vận tải không thể không vi phạm
hợp đồng vận chuyển, và kéo theo đó là nhiều doanh nghiệp khác cũng phải vi
phạm hợp đồng vì không có hàng hóa để giao choi bên thứ ba đúng thời hạn,
không có nguyên liệu đầu vào để sản xuất nên chậm giao hàng… đây là những sự
kiện bất khả kháng mà đã được quy định trong hợp đồng thì sẽ tránh được những
tranh cái không cần thiết.
(vi) Điều khoản giải quyết tranh chấp: Cùng với điều khoản phạt vi
phạm/bồi thường thiệt hại, đây là điều khoản mà các bên tham gia đàm phán
thương lượng không được “kiêng kỵ” mà ngược lại phải quy định hết sức cụ thể, rõ

ràng. Theo như trình bày tại phần Thực tiễn hòa giải tranh chấp thương mại tại
Thái Bình nói trên đây thì các bên nên lựa chọn phương án giải quyết tranh chấp
bằng con đường Trọng tài thương mại. Các bên cần thỏa thuận rõ sẽ chọn Trung
tâm Tọng tài thương mại nào, vụ việc sẽ được giải quyết theo quy tắc tố tụng của
Trung tâm Trọng tài thương mại nào và áp dụng luật nào. Các bên cũng cần quy
định về chi phí để giải quyết vụ kiện theo hình thức mỗi bên phải chịu khoản chi
phí tương ứng với phần lỗi gây ra tranh chấp.


15

(vii) Những điều khoản khác: Ngoài những điều khoản cơ bản trên đây, các
bên cũng nên thỏa thuận rõ ràng những cam kết khác. Tùy từng loại hợp đồng mà
có những cam kết khác nhau, ví dụ như đối với hợp đồng vận chuyển hàng hóa thì
cần quy định rõ về địa điểm vận chuyển nơi đi và nơi đến (cần quy định cụ thể đến
số nhà, thôn xóm, phố phường ….); điều kiện và trách nhiệm bảo quản hàng hóa
trên đường vận chuyển; tính hợp pháp của hàng hóa thuê vận chuyển; chi phí bốc
xếp … Đối với hợp đồng thuê trụ sở kho bãi với thời gian dài thì cần quy định
thêm về những điều khoản như duy tu bảo dưỡng định kỳ, điều kiện sử dụng diện
tích thuê, mục đích thuê, sự điều chỉnh giá thuê theo sự biến động của giá cả thị
trường…Hợp đồng thuê xây dựng thì nên quy định rõ ràng về bên có trách nhiệm
mua bảo hiểm công trình, an toàn lao động, thời gian bảo hành… Đối với hợp đồng
mua bán hàng hóa thì trách nhiệm bảo hành, sửa chữa hoặc đổi những hàng hóa có
khuyết tật là những quy định cần thiết.
Nói tóm lại là các bên cần phải thỏa thuận với nhau và đưa vào hợp đồng
những điều khoản với nguyên tắc càng rõ ràng, cụ thể và chi tiết càng tốt. Những
cam kết nếu định lượng được thì nên định lượng tránh định tính chung chung dễ
gây ra những tranh chấp về sau. Ví dụ khi thỏa thuận về chất lượng gạo thì không
nên dùng những từ ngữ như là “gạo ngon” hay gạo “trắng” mà cần phải mô tả rõ là
gạo bao nhiêu phần trăm tấm, gạo do nơi nào sản xuất, đã được đánh bóng hay

chưa …
Sau khi đã thống nhất về nội dung như đã nêu trên, các bên tiến hành giai
đoạn ký kết hợp đồng. Để tránh hợp đồng bị vô hiệu do vi phạm pháp luật dẫn tới
bên kia có thể trục lợi, gây ra tranh chấp thì mỗi bên phải lưu ý về hình thức hợp
đồng ở những điểm sau:
-

Thẩm quyền ký hợp đồng: Pháp luật quy định rằng người có thẩm

quyền ký hợp đồng là người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp hoặc người
được người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp ủy quyền bằng văn bản. Ở
đây chúng ta cần phân biệt một điều là người đại diện theo pháp luật của doanh
nghiệp không nhất thiết phải là người chủ sở hữu doanh nghiệp. Chủ sở hữu doanh
nghiệp có thể thuê những nhừng khác có trình độ, kinh nghiệm để làm đại diện
theo pháp luật của doanh nghiệp. Một vấn đề nữa là đại diện của doanh nghiệp


16

không nhất thiết là Giám đốc (Tổng giám đốc) của doanh nghiệp mà có thể là Chủ
tịch công ty (đối với Công ty TNHH một thành viên); Chủ tịch Hội đồng quản trị
(đối với Công ty cổ phần) hoặc Chủ tịch Hội đồng thành viên (đối với Công ty
TNHH có hai thành viên trở lên).
Để xác định chính xác ai là đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp thì mỗi
bên tham gia ký hợp đồng cần phải xem Giấy chứng nhận đăng ký kinh
doanh/Giấy chứng nhận đầu tư của bên/các bên khác. Ở đây có một lưu ý là cần
phải kiểm tra bản gốc những giấy loại giấy tờ trên bởi vì nhiều trường hợp bản sao
có công chứng/chứng thực không có giá trị pháp lý nguyên nhân là một số địa
phương (Ví dụ như ở Hà Nội), mỗi lần doanh nghiệp thay đổi nội dung đăng ký
kinh doanh (thay đổi người đại diện theo pháp luật cũng là một nội dung trong thay

đổi nội dung đăng ký kinh doanh) thì Phòng đăng ký kinh doanh thu lại bản chính
cũ để cấp lại bản chính mới. vì vậy có tình trạng doanh nghiệp sử dụng bản sao có
công chứng/chứng thực của Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh cũ. Tất cả những
công việc trên đầu nhằm mục đích là phòng ngừa khả năng hợp đồng thương mại
bị vô hiệu do người không có thẩm quyền ký hợp đồng.
-

Ký hợp đồng: Các công ty Việt Nam đều có dấu và hợp đồng được đóng

dấu giáp lai. Nhưng có một lời khuyên, đó là hợp đồng nên được ký đầy đủ ở trang
cuối và được ký tắt trong từng trang còn lại. Đây là một kinh nghiệm được học hỏi
từ các doanh nghiệp nước ngoài.
-

Đăng ký hợp đồng: Trường hợp đối tượng của hợp đồng mua bán, thuê

tài sản là những tài sản phải đăng ký quyền sở hữu (ví dụ như nhà, quyền sử dụng
đất, phương tiện vận tải) thì các bên phải thực hiện thủ tục công chứng hợp đồng
và tiến hành thủ tục chuyển quyền sở hữu từ người bán sang người mua. Đối với
hượp đồng thế chấp quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất cũng vậy, các bên phải
tiến hành công chứng hợp đồng thế chấp và tiến hành đăng ký giao dịch bảo đảm
thì quyền lợi của tổ chức tín dụng đã cấp tín dụng mới được bảo đảm.
3.3.3. Giám sát đối tác trong quá trình thực hiện hợp đồng


17

Mặc dù các bên đã thỏa thuận tất cả những điều khoản hết sức rõ ràng, cụ thể,
chi tiết và tiến hành ký hợp đồng theo đúng các quy định của pháp luật. Tuy nhiên,
các bên vẫn phải giám sát việc thực hiện hợp đồng đối với đối tác. Giám sát đối tác

trong việc thực hiện hợp đồng nhằm kịp thời phát hiện những dấu hiệu của những
vi phạm hợp đồng có thể dẫn tới tranh chấp để có những ứng xử kịp thời. Công
việc này đặc biệt quan trọng trong những quan hệ thương mại như tín dụng, cho
thuê tài sản, thuê mua tài sản, mua bán hàng hóa với thời gian dài, số lượng lớn.
Trong hoạt động cấp tín dụng, tài trợ vốn có một quy trình bắt buộc đó là kiểm tra
mục đích sử dụng vốn, kiểm tra tình trạng của tài sản dùng để bảo đảm nghĩa vụ trả
nợ. Việc cấp tín dụng thông thường được giải ngân theo tiến độ thực hiện dự
án/phương án kinh doanh của người vay. Việc thường xuyên kiểm tra sẽ phát hiện
được sớm nếu người vay sử dụng vốn vay sai mục đích có thể dẫn tới khả năng
ngân hàng sẽ không thu hồi được vốn hoặc tài sản dùng để bảo đảm trả nợ của
người vay bị giảm giá trị do khai thác quá mức hoặc do không được bảo quản ở
mức cần thiết hoặc thậm chí tài sản đó không còn do được chuyển gia trái phép.
Khi phát hiện những vấn đề trên thì ngân hàng sẽ yêu cầu người vay phải giải
trình, sửa chữa khắc phục hậu quả hoặc kịp thời ngừng giải ngân giảm thiểu được
thiệt hại phát sinh. Đối với những hợp đồng thuê tài sản, thuê mua tài sản hoặc hợp
đồng mua bán hàng hóa cũng vậy, khi phát hiện đối tác có dấu hiệu vi phạm như sử
dụng trái mục đích tài sản thuê, vi phạm cam kết thanh toán hoặc những cam kết
khác thì doanh nghiệp có thể thu hồi lại tài sản, ngừng cung cấp hàng hóa để hạn
chế đến mức thấp nhất những rủi ro.
Việc thường xuyên giám sát đối tác trong quá trình thực hiện hợp đồng ngoài
ý nghĩa phát hiện sớm và phòng nghừa rủi ro thì còn có ý nghĩa các bên kịp thời có
biện pháp tháo gỡ những vướng mắc, chia sẻ những khó khăn để tránh những tranh
chấp về sau.

Lời kết


18

Trên đây là một số vấn đề hết sức cơ bản về hòa giải tranh chấp thương mại

ở Thái Bình. Em hy vọng rằng qua bài viết này, các doanh nghiệp có thể hình dung
ra phần nào những rủi ro, những thiệt hại do tranh chấp thương mại mang lại, từ đó
có những biện pháp để hạn chế tới mức thấp nhất những thiệt hại có thể xảy ra
trong hoạt động kinh tế hàng ngày.
Một lần nữa, em xin chân thành cảm ơn các thầy cô Khoa đào tạo từ xa,
Khoa Luật trường Đại học Mở Hà Nội đã hướng dẫn em hoàn thành chuyên đề
này.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Luật Thương mại
2. Bộ luật Dân sự 2015
3. Giáo trình Luật Thương mại, Trường Đại học Luật Hà Nội
4. Giáo trình Luật Kinh tế Việt Nam, Trường Đại học Mở Hà Nội



×