Tải bản đầy đủ (.docx) (31 trang)

Một vài biện pháp giúp học sinh viết một đoạn văn ngắn theo gợi ý ở lớp 2a2 trường tiểu học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (365.36 KB, 31 trang )

I.PHẦN MỞ ĐẦU
1.Lí do chọn đề tài
Tiếng Việt là môn học quan trọng trong chương trình giảng dạy bậc Tiểu
học. Môn học cung cấp cho học sinh những cơ sở ban đầu làm công cụ để khám
phá các môn học khác. Bên cạnh đó, Tiếng Việt còn có nhiệm vụ rèn cho học
sinh kỹ năng thực hành ngôn ngữ, tư duy văn học. Có thể nói học Tiếng Việt là
môn học chìa khoá giúp học sinh mở kho tàng kiến thức ở Tiểu học nói riêng và
cả quá trình nhận thức nói chung.
Trong Tiếng Việt phân môn Tập làm văn có vị trí đặc biệt quan trọng. Nó
mang tính chất thực hành tổng hợp các kiến thức từ các phân môn Tập đọc,
Chính tả, Luyện từ và câu. Tập làm văn là kết tinh nhiều mặt của năng lực sử
dụng Tiếng Việt. Tập làm văn 2 dạy các em thực hiện nghi thức lời nói gắn tình
huống giao tiếp hàng ngày. Kỹ năng kể tả đơn giản về những sự vật gần gũi, gắn
bó với đời sống các em. Chính điểm đổi mới này đã tạo điều kiện phát huy tính
tích cực, chủ động sáng tạo của học sinh trong việc rèn kỹ năng đơn giản về
những sự vật gần gũi, gắn bó với đời sống các em. phát huy tính tích cực, chủ
động sáng tạo của học sinh trong việc rèn kỹ năng nói và viết
Tôi đã từng dạy lớp 2 theo mô hình VNEN tôi luôn tự hỏi và đi tìm cho
mình những lời giải: Làm thế nào để giúp các em thực hiện tốt mục tiêu của
môn học Tập làm văn? Học sinh biết viết một đoạn văn ngắn đủ ý, đúng yêu
cầu? biết dùng từ đặt câu phù hợp?... Dạy học Tiếng Việt là dạy học tiếng mẹ đẻ.
Qua môn học giúp các em hình thành 4 kỹ năng cơ bản: nghe, nói, đọc, viết.
phân môn Tập làm văn trong môn Tiếng Việt hội đủ 4 kỹ năng đó.
Chương trình Tiếng Việt lớp 2 các em đựơc làm quen với cách kể, tả viết
đoạn văn từ 3 đến 5 câu theo gợi ý. Trong quá trình làm dạy bài, tôi nhận thấy
các em còn lúng túng, nhiều em làm bài chưa đạt yêu cầu. Các em thường lặp lại
câu đã viết, dùng từ sai, có em viết không đúng yêu cầu của đề bài hoặc có
những bài làm đảm bảo về số câu nhưng viết không đủ ý, sử dụng câu, từ chưa
rõ ý...
1



Từ những tiết học thực tế của môn học tôi đã tìm ra một vài biện pháp
giúp học sinh viết một đoạn văn ngắn theo gợi ý ở lớp 2. Nhằm nâng cao chất
lượng viết văn của học sinh giúp các em có ý thức về dùng từ, đặt câu viết văn
đủ ý đạt yêu cầu, đảm bảo đạt chuẩn kiến thức kĩ năng đây là điều cần thiết và
quan trọng nhất... Qua đó hình thành nhân cách, sự phát triển của trẻ: kĩ năng
giao tiếp, biết yêu quý mọi việc xung quanh, rèn tính sáng tạo, cẩn thận, lòng
say mê, sự kiên trì mà mỗi học sinh cần hội đủ.
Đối với học sinh lớp 2 phân môn Tập làm văn là một môn học mới, khó.
Bởi lứa tuổi các em còn non trẻ, vốn kiến thức, hiểu biết còn hạn hẹp, điều kiện
hoàn cảnh sống của học sinh ở địa bàn phường Bình Tân phụ huynh hầu hết đều
làm nông, họ ít có điều kiện quan tâm con em, nên việc diễn đạt ngôn ngữ của
các em có phần hạn chế, tiếp thu kiến thức còn khá chậm, học sinh ít vốn từ
ngữ…Điều này ảnh hưởng nhiều đến việc học tập nói chung, học phân môn Tập
làm văn nói riêng.
Chính vì những lí do đó tôi chọn và nghiên cứu nhóm đề tài với sự giúp
đỡ của ban giám hiệu và đồng nghiệp tôi chọn và nghiên cứu áp dụng đề tài"Một
vài biện pháp giúp học sinh viết một đoạn văn ngắn theo gợi ý ở lớp 2A2 trường
tiểu học Lê Quý Đôn năm học 2018 – 2019” tôi rất mong được sự giúp đỡ, góp
ý để đề tài được ứng dụng trong giảng dạy mang lại kết quả cao
2. Mục tiêu nhiệm vụ của đề tài:
Hình thành và phát triển ở học sinh các kĩ năng sử dụng tiếng Việt (nghe,
nói, đọc, viết) để để giúp học sinh biết viết một đoạn văn theo gợi ý ở lớp 2. Qua
đó rèn luyện thao tác tư duy, phát triển ngôn ngữ để học sinh biết những kiến
thức về xã hội, tự nhiên và con người đã học. Qua đó học sinh biết ứng dụng bài
đã học để áp dụng vào cuộc sống “Học đi đôi với hành”.
Bồi dưỡng tình yêu tiếng Việt và hình thành thói quen giữ gìn sự trong
sáng, giàu đẹp cuả tiếng Việt góp phần hình thành con người Việt Nam xã hội
chủ nghĩa.
2



Thông qua môn tiếng Việt trang bị cho học sinh các kiến thức về xã hội,
cuộc sống. Từ đó có thái độ, cách ứng xử đúng đắn, xây dựng cho mình kĩ
năng,ý thức trách nhiệm, giá trị nhân văn, tính thẩm mỹ, biết đối xử thông minh,
trong mọi tình huống của cuộc sống.
3. Đối tượng nghiên cứu
Học sinh lớp 2A2, trường Tiểu học Lê Quý Đôn – phường Bình Tân - thị
xã Buôn Hồ - tỉnh Đắk Lắk.
Về nội dung nghiên cứu: "Một vài biện pháp giúp học sinh viết một đoạn
văn ngắn theo gợi ý ở lớp 2A2 trường tiểu học Lê Quý Đôn năm học 2018 –
2019”
4. Giới hạn phạm vi nghiên cứu
Thời gian: Từ tháng 9 đến hết tháng 12 trong vòng 4 tháng thuộc năm học
2018 – 2019; Tìm hiểu một số nguyên nhân, biện pháp giúp học sinh học lớp 2
biết viết viết một đoạn văn ngắn theo gợi ý có sẵn.
5. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp quan sát hỏi đáp; phương pháp trực quan; phương pháp kiểm
tra, đánh giá; phương pháp điều tra; phương pháp thực hành; phương pháp
nghiên cứu tài liệu; một số phương pháp khác.
II. PHẦN NỘI DUNG
1. Cơ sở lý luận
Thực hiện việc chỉ đạo của chuyên môn dạy học theo chuẩn kiến thức, kĩ
năng và định hướng phát triển năng lực học sinh; Giáo viên điều chỉnh nội dung
bài học phù hợp với đối tượng người học. Giáo viên là người chủ động sáng tạo,
biết khai thác các hình thức dạy học phù hợp trong không gian lớp học, tạo không
khí học thoải mái trong hình thức dạy học mang lại hiệu quả cao. Tăng cường
kiểm tra đánh giá; tăng cơ hội tiếp cận giáo dục cho trẻ gặp khó khăn trong lớp
với học sinh khuyết tật tự kỉ; từ đó khuyến khích sự sáng tạo và đề cao trách
nhiệm của giáo viên tiếp cận định hướng theo hướng đổi mới của giáo dục


3


Chương trình giáo dục phổ thông mới; đổi mới phương pháp dạy, phương
pháp học và đánh giá học sinh tiểu học; vận dụng phù hợp những thành tố tích
cực của các mô hình, phương thức giáo dục tiên tiến trong nước và quốc tế
nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả giáo dục; chuẩn bị cho việc thực hiện
chương trình giáo dục phổ thông mới.
Nâng cao chất lượng giáo dục; tạo cơ hội thuận lợi để trẻ em có hoàn cảnh
khó khăn tiếp cận với giáo dục tiểu học; tiếp tục tăng cường tiếng Việt cho học
sinh; nâng cao chất lượng xây dựng trường chuẩn quốc gia gắn với chương trình
mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2015-2020.
Tiếp tục tận dụng thời lượng giảng dạy 9 buổi trên tuần để nâng cao về số
lượng và chất lượng dạy học 2 buổi/ngày; từ đó giáo dục đạo đức, kĩ năng sống;
Đổi mới mạnh mẽ công tác quản lí, chỉ đạo, xây dựng đội ngũ giáo viên và cán
bộ quản lí giáo dục, đề cao trách nhiệm, khuyến khích sự sáng tạo của giáo viên
và cán bộ quản lí giáo dục. Đẩy mạnh việc ứng dụng công nghệ thông tin trong
dạy học và quản lí. Tiến tới xây dựng một xã hội “Học tập suốt đời”; học để biết;
học để làm; học để chung sống với nhau; học để làm người.". Giúp người học
nắm được một số kĩ năng cơ bản và biết giải quyết các tình huống trong cuộc
sống.
Lê nin đã nói “Ngôn ngữ vốn là phương tiện giao tiếp quan trọng nhất của
loài người”. Luận điểm này khẳng định ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp mà nó
còn là phương tiện giao tiếp quan trọng nhất, đặc trưng nhất của loài người.
Không có ngôn ngữ, xã hội không thể tồn tại. Mục đích dạy viết văn là phải giúp
học sinh có thể sử dụng ngôn ngữ làm phương tiện sắc bén để giúp học sinh giao
tiếp. Phát triển lời nói là nhiệm vụ quan trọng nhất của việc dạy học tiếng Việt
trong nhà trường. Dạy Tiếng Việt dạy đọc, viết, kể chuyện, luyện từ và câu…
đều phải theo khuynh hướng này. Học sinh được sử dụng ngôn ngữ, nắm vững

các phương tiện lời nói, sử dụng ngôn ngữ chính xác, rõ ràng, đúng đắn, dễ hiểu.
Trên quan điểm của Bộ Giáo dục và Đào Tạo dạy cách làm người, dạy cho các

4


em biết giữ gìn bản sắc văn hóa của dân tộc, giữ gìn sự trong sáng của Tiếng
Việt, yêu tiếng Việt là yêu tiếng mẹ đẻ của chúng ta.
Với nội dung: "Một vài biện pháp giúp học sinh viết một đoạn văn ngắn
theo gợi ý ở lớp 2A2 trường tiểu học Lê Quý Đôn năm học 2018 – 2019”. Từ đó
tôi muốn làm thế nào để dạy phân môn tập làm văn cho học sinh lớp 2 dạng bài
viết một đoạn văn ngắn có gợi ý, hoặc không có gợi nhưng có đề bài. Để học
sinh viết được đoạn văn giáo viên cần phải tìm tòi suy nghĩ đưa ra một số gợi ý
cốt lõi nhất, nhằm giúp học sinh trong lớp tiếp cận được nội dung cần đạt của
bài học. Giáo viên hình thành phân hóa các đối tượng ra thành nhiều loại “tốt,
hoàn thành, cần cố gắng”; đối học sinh đạt ở mức nào thì khi xây dựng, thiết kế
bài học dựa trên dạng văn có gợi ý như thế. Ta cần tính đến các yếu tố cần để từ
đó học sinh có thêm điểm tựa viết đúng, đủ nội dung bài văn yêu cầu. Qua gợi ý
tạo thêm hứng thú tiết học, không gây nhàm chán đối với các em vốn gặp khó
khăn về dùng từ đặt câu?. Giúp học sinh tiếp cận nội dung bài học một cách chủ
động, hiệu quả? Làm thế nào để nội dung các bài học đến với học sinh một cách
tự nhiên, gần gũi?. Học sinh có thể vận dụng mọi hiểu biết của mình sau khi
được học để viết văn có hiệu quả tốt nhất? Nhiệm vụ môn học hình thành và
phát triển ở học sinh kỹ năng sử dụng Tiếng Việt (nghe, nói, đọc, viết) để học
tập và giao tiếp trong môi trường học tập. Kĩ năng giao tiếp, kỹ năng nhận thức,
bao gồm nhận thức thế giới xung quanh, tự nhận thức, ra quyết định.
Căn cứ vào việc rèn luyện kỹ năng cho học sinh viết đoạn văn ngắn theo
gợi ý cho học sinh đây là việc cần thiết, xuất phát từ thực tế giảng dạy ở lớp 2,
tôi thấy việc rèn cho học sinh viết đoạn văn ngắn có ý nhĩa vô cùng quan trọng.
Việc làm ấy có tác dụng cụ thể, thiết thực đối với học sinh khi còn ngồi trên ghế

nhà trường nó còn có tác dụng quan trọng trong việc rèn kĩ năng dùng từ, đặt
câu sao cho có nghĩa là một việc làm cực kỳ khó khăn. Đòi hỏi người giáo viên
phải có lòng kiên trì, yêu nghề, mến trẻ, tâm huyết với công việc mình làm. Việc
làm này phải thường xuyên, phải đồng bộ. Rèn cho học biết được."Tiên học lễ,
hậu học văn". Chúng ta đều bắt gặp câu câu khẩu hiệu "Tiên học lễ, hậu học
5


văn" có ý nghĩa khuyên chúng ta nên học lễ nghĩa, đạo đức, cách sống làm
người trước rồi mới học văn hóa sau. Đó là việc làm quan trọng vào việc giữ gìn
sự trong sáng, nét đẹp vốn có của tiếng Việt.
Đáp ứng mục tiêu giáo dục nhằm phát triển toàn diện con người Việt Nam
có đạo đức, tri thức, văn hóa, sức khỏe, thẩm mỹ và nghề nghiệp, có lòng yêu
nước, tinh thần dân tộc và ý thức công dân toàn cầu; trung thành với lý tưởng
độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; hình thành và bồi dưỡng nhân cách, phẩm
chất và năng lực của công dân; phát huy tiềm năng, khả năng sáng tạo của mỗi
cá nhân, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc và hội nhập
quốc tế.
2. Thực trạng của vấn đề nghiên cứu
Trong Tiếng Việt lớp 2 chương trình VNEN đầu năm học, các em đựơc
làm quen viết đoạn văn ngắn theo gợi ý. Để học sinh viết một đoạn văn ngắn
trình bày theo đúng yêu cầu giáo viên cần tạo cơ hội cho học sinh khám phá qua
những lời gợi ý. Từ đó học sinh phát huy vốn kiến thức văn học qua các bài tập
đọc, cùng vốn hiểu biết xã hội để vận dụng những kiến thức luyện từ và câu, kể
chuyện…. đã học để trình bày, diễn đạt nội dung một bài văn cần nói đến. Qua
bài văn các em nói lên những suy nghĩ, tình cảm của mình trước sự vật đó.
Những tiết học đầu năm tôi thấy học sinh lớp 2A2 còn gặp một số vấn đề
khó khăn hoàn cảnh sống của học sinh ở địa phương hầu hết là dân lao động
nghèo, gia đình không có điều kiện để quan tâm đến các em, việc diễn đạt ngôn
ngữ kém, tiếp thu kiến thức khá chậm, học sinh nghèo vốn từ ngữ điều này ảnh

hưởng nhiều đến việc học tập nói chung, học phân môn Tập làm văn nói riêng.
Các bài văn các em viết thường ngắn, cộc lốc, giọng văn khô cứng, câu văn lủng
cũng rập khuôn, từ ngữ lặp đi lặp lại nhiều lần, các bài văn na ná giống nhau.
Bài văn không có đầu có cuối. Chữ đầu câu đầu đoạn không biết viết hoa, không
biết kết thúc câu như thế nào cho đúng. Chưa biết sắp xếp câu theo thứ tự trong

6


bài. Câu văn chưa đủ bộ phận, nội dung bài đọc không có nghĩa. Dẫn tới các em
viết bài văn khô khan, rườm rà thậm chí nhạt nhẽo.
Vì kĩ năng nói, viết của các em chưa lưu loát, Có em còn bí từ, các ý trong
bài thường xuyên lặp đi, lặp lại. Câu văn chưa phù hợp, nên chưa có bài văn hay
hoặc viết văn hay rất khó. Giáo viên gợi ý thì học sinh viết được đôi ba câu rời
rạc. Đây là một vấn đề khó khăn trong việc rèn luyện kĩ năng viết đoạn văn theo
gợi ý cho học sinh lớp 2. Phần do trí tưởng tượng của học sinh còn nhỏ, viết văn
chưa có hình ảnh so sánh. Đặc biệt không biết dùng biện pháp so sánh, nhân hoá
để viết văn câu văn nên câu văn còn vụng về, chưa có tính chặt chẻ, khúc triết
nên kết quả bài viết chưa cao.
Khi giảng bài giáo viên còn lệ thuộc vào sách dù rằng bài văn có đề, có
câu hỏi gợi ý, câu mẫu, đoạn văn mẫu, tranh ảnh, nhưng không phù hợp với
quan sát của học sinh. Vì thế làm giảm khả năng tư duy sáng tạo và làm cho học
sinh lười suy nghĩ, ít tìm tòi khám phá. Giáo viên còn áp đặt học sinh làm theo
khuôn mẫu của cô, yêu cầu học sinh nhớ, bắt chước để theo. Học sinh để đối
phó thi cử các em còn học thuộc bài mẫu để khi gặp đề tương tự là chép. Tình
trạng trên, làm cho cả cô và trò lệ thuộc vào mẫu, không thoát ra khỏi bài mẫu.
Chính vì thế, học sinh yêu thích học môn văn rất ít. Đây là nguyên nhân dẫn đến
kĩ năng viết văn chưa tốt ở các em. Giáo viên chưa tạo được đối tượng giao tiếp
và tình huống giao tiếp mà điều này rất quan trọng khi dạy học sinh viết văn. Ta
cần rèn kĩ năng nói cho học sinh để thu hút sự chú ý của các em, khơi dậy hứng

thú khi học văn.
Đứng trước thực trạng đó là giáo viên có kinh nghiệm dạy lớp 2 nhiều
năm liền tôi cũng đưa ra một số biện pháp nhằm giúp các em học sinh lớp 2 biết
viết một đoạn văn ngắn theo câu hỏi gợi ý. Để làm được điều đó giáo viên cần
yêu cầu học sinh phải hiểu vấn đề và vận dụng để viết thạo một số yêu cầu như
khi viết văn em cần đọc kỹ gợi ý, gợi ý hỏi về cái gì?. Chúng ta phải bám vào
gợi ý để viết, khi viết văn cần xem câu gợi ý nào là mình cần khai thác nội dung
7


nhiều nhất?, và khai thác theo kiểu câu gì?. Đó mới là vấn đề mấu chốt của dạng
văn gợi ý. Tất nhiên những em học tốt, lời văn chặt chẽ chỉ cần bám vào gợi ý
có thể viết được một bài văn theo gợi ý đủ ý đúng yêu cầu. Vấn đề đặt ra ở đây
là viết như thế nào cho đúng, hay, đủ ý thì giáo viên cần phải đầu tư nghiên cứu
để phù hợp với các đối tượng học sinh của lớp.
Tôi đã tiến hành khảo sát trên học sinh Bài Tiếng Việt 4C Bạn bè luôn
bên nhau (T3) ở lớp 2A2 trên tổng số có 26 em qua khảo sát học sinh mới học
được 4 tuần. Yêu cầu của cô:
Một bạn nói 3-4 câu về nội dung mỗi bức tranh thứ nhất, một bạn nói 3-4
câu về bức tranh thứ hai dưới đây. Học sinh cả lớp cùng nhìn tranh và nói theo
mình hiểu 5 phút theo từng tranh mà mình thích.

Nhiệm vụ 7 sau khi nói nội dung từng tranh thì giáo viên yêu cầu dựa vào
điều đã nói để viết đoạn văn đó thành 3-4 câu. Đối với học sinh khá, giỏi cho
các em viết cả hai nội dung tranh vừa cảm ơn, vừa xin lỗi. Sau đó tôi tiến hành
đánh giá nhận xét nội dung của bài nói và viết của học sinh kết quả như sau
Tổn
g số

Bài nói và viết hoàn

Bài nói và viết hoàn Bài nói và viết
thành tốt
thành
chưa hoàn thành
SL
%
SL
%
SL
%
26
2
7.7
13
50.0
11
42.3
Trước kết quả trên tôi nghĩ rằng với học sinh lớp 2 tranh thôi là chưa đủ.
Nếu giáo viên kết hợp tranh và câu hỏi gợi ý thì đây chính là thành công của tiết
học. Tôi đã quyết định trải nghiệm lần hai với 13 em có bài nói và viết ở mức độ
hoàn thành và 11 em bài nói và viết chưa đạt để thực hiện rèn cho học sinh quan
sát tranh kết hợp câu hỏi gợi ý
8


Tranh vẽ cảnh gì? Mẹ thường tặng quà

Tranh vẽ cảnh gì? Mẹ và

cho mình vào những dịp nào nhỉ? Khi nhận cậu bé đang nói gì với nhau? Khi

món quà từ mẹ chúng ta nên nói lời gì? Để làm vỡ lọ hoa của mẹ, cậu bé nói
người tặng vui vẻ hơn, người nhận nên nói như thế nào? Để lần sau không
thêm những lời như thế nào về món quà mẹ mắc lỗi nữa em nên hứa với mẹ
tặng? Con gấu bông rất đẹp, con rất thích thế nào?
món quà này, con cảm ơn mẹ nhiều lắm.
Với yêu cầu bài học như vậy giáo viên nên cho các em chọn tình huống
nói với bạn về nội dung từng tranh. Thích tranh nào nói theo tranh đó (nv6) chứ
không nhất nhất bắt học sinh nói tranh 1 hay tranh 2. Sang nhiệm vụ 7 thì giáo
viên cần dạy theo hướng phân hóa đối tượng là cho học sinh cùng viết về hai hai
tranh nếu thấy thích, còn không chọn tranh em thích để viết. Nhờ phát huy tính
sáng tạo mà giáo viên tìm ra được những cái hay, cái đẹp trong bài văn của các
em.
Khi dạy VNEN giáo viên không đứng trên lớp giảng mà giáo viên đi
xuống lớp tiếp cận, gần gũi với từng học sinh, chia sẻ các câu hỏi gợi ý mình đã
chuẩn bị trước. Ta đến bên các em yếu, lúng túng đưa ra câu hỏi bổ sung cho
từng nội dung tranh. Chỉ vào từng tranh và hỏi nhỏ ở mỗi nhóm. Với những câu
hỏi tưởng chừng như đơn giản ấy, chính là chìa khóa hướng học sinh mở ra được
bao nhiêu điều bổ ích từ cánh cửa gợi ý đó khi viết văn nhất là với học sinh lớp
2 các em còn quá nhỏ.
Khi nói, viết được nội dung tranh 1 tranh 2 thành thạo học sinh có kĩ năng
nói lời cảm ơn, xin lỗi phù hợp với mỗi tình huống. Lần này kết quả học sinh
hoàn thành xuất sắc bài nói và viết 5 em, hoàn thành bài nói và viết tốt có 18
em, chưa hoàn thành có 3 em chưa hoàn bài nói và viết: hầu hết các em đều nói
9


được lời cảm ơn, xin lỗi. Nhưng để học sinh biết diễn đạt được tốt hơn trong các
bài văn và biết viết văn hay, tôi đã mạnh dạn chọn đề tài: “Một số biện pháp
giúp học sinh viết một đoạn văn ngắn theo gợi ý ở lớp 2A1 trường Tiểu học Lê
Quý Đôn” như sau.

3. Nội dung và hình thức của giải pháp
a. Mục tiêu của giải pháp
Qua sáng kiến đưa ra một số giải pháp giúp học sinh biết viết một đoạn
văn ngắn theo gợi ý có sẵn hay chưa câu hỏi gợi ý. Giáo viên là người đưa ra
câu gợi ý như nội dung đề bài yêu cầu. Từ đó rèn cho các em khả năng vận dụng
kiến thức môn Tiếng Việt vào thực tiển. Giúp học sinh có khả năng giao tiếp,
trình bày, tranh luận từ đó tự chiếm lĩnh nội dung bài học, tự chủ, tự tin khi giải
quyết các nhiệm vụ học tập và các tình huống trong cuộc sống.
Rèn kỹ năng nghe và nói, quan sát, viết được đoạn văn nói lời chia vui
(chúc mừng); xin lỗi hợp tình huống giao tiếp; biết được những tình cảm đẹp đẽ
trong gia đình kể về anh, chị, em. Hiểu được tình cảm tốt đẹp trong gia đình,
mối quan hệ xung quanh như trường học, bạn bè, cây cối con vật hay xa hơn nữa
quan sát về cảnh biển, Bác Hồ...; Từ đó biết quan tâm và chia sẽ cảm thông, xác
định giá trị, tự nhận thức về bản thân. Có ý thức trân trọng tình cảm yêu quý anh
chị em trong gia đình, cũng như các sự vật hiện tượng xung quanh.
Giáo viên cần bám sát vào mục tiêu chuẩn kiến thức, kĩ năng trong dạy
phân môn tập làm văn để hình thành kĩ năng nói, viết văn đối với các em học
sinh lớp 2 theo gợi ý câu hỏi được quy định trong chương trình. Giúp học sinh
viết đoạn văn ngắn kể, tả ở mức độ đơn giản có độ dài khoảng từ 3 đến 5 câu
bằng cách trả lời câu hỏi gợi ý.
b. Nội dung và cách thực hiện giải pháp
* Kết hợp kĩ năng giữa quan sát và hỏi đáp: Kỹ năng quan sát rất cần
cho học sinh khi viết văn: Quan sát trên lớp theo gợi ý, hướng dẫn của giáo viên
hoặc tự quan sát khi chuẩn bị bài ở nhà. Giáo viên cần khai thác kỹ tranh ảnh,
hình ảnh, tập trung quan sát đặc điểm nổi bật của đối tượng, mục đích là giúp
10


học sinh tránh được kiểu kể theo liệt kê. Bên cạnh đó, tôi cũng hướng dẫn học
sinh cách quan sát bằng các giác quan để cảm nhận một cách có cảm xúc về sự

vật.
* Kĩ năng thực hành giao tiếp: Thông qua phương pháp quan sát, giáo
viên rèn cho học sinh kỹ năng nói, trình bày miệng bài nói, trước khi làm bài
viết. Trên cơ sở đó, giáo viên điều chỉnh giúp học hoàn thiện bài viết. Với
phương pháp này, tôi thường tổ chức cho học sinh luyện nói cá nhân, luyện nói
trong nhóm. (học sinh có thể kết nhóm theo ý thích, để có sự thoải mái tự nhiên,
tự tin khi tham gia làm việc trong nhóm).
* Kĩ năng phân tích ngôn ngữ: Học sinh lớp 2 chưa được học về lý
thuyết, ngữ pháp, các khái niệm từ và câu được hình thành thông qua thực hành
luyện tập. Chính vì vậy, việc tăng cường sử dụng phương pháp phân tích ngôn
ngữ rất cần thiết trong giờ học Tập làm văn. Sử dụng phương pháp này để giáo
viên có cơ sở giúp học sinh nhận ra cấu tạo câu, nhằm giúp các em viết
câu đúng, đủ bộ phận. * Ví dụ: Dựa vào các mẫu câu được học trong phân môn
Luyện từ và câu: “ Ai – là gì?”, “ Ai – làm gì?”, “ Ai –thế nào?”, giáo viên
hướng dẫn học sinh nhận biết những vấn đề sau:
- Câu văn của em viết ra đã đủ hai bộ phận chưa: Bộ phận trả lời cho câu
hỏi Ai?(hoặc cái gì?/con gì)?, bộ phận trả lời cho câu hỏi Là gì (hoặc làm gì?/
thế nào? (Đó chính là đảm bảo về hình thức cấu tạo của một câu văn đúng đủ ý).
- Người đọc, người nghe có hiểu nội dung chưa? (đảm bảo về mặt nghĩa)
Trên cơ sở đó, tôi hướng dẫn học sinh viết dấu chấm khi hết câu văn.
*Kĩ năng sử dụng từ ngữ trong câu: Với lứa tuổi của các em học sinh
lớp 2, việc sử dụng từ ngữ trong bài tập làm văn còn nhiều hạn chế. Hầu hết học
sử dụng từ ngữ chưa phù hợp, chưa chính xác. Vì vậy, giáo viên cần cung cấp
giúp các em lựa chọn, phân tích để sử dụng từ ngữ cho hợp lý. Bên cạnh đó, ta
cũng cần giới thiệu, cung cấp thêm các từ đồng nghĩa phù hợp với bài văn.
*Vận dụng phương dạy học phát huy tính tích cực của học sinh:
11


Ví dụ: Khi viết đoạn văn kể về người thân thì học sinh sẽ có nhiều bài làm

khác nhau, ta cần giúp học sinh chọn lựa từ ngữ cho phù hợp, khi kể về bố là
thầy giáo thì từ ngữ sử dụng phải khác với bài viết bố là bộ đội; viết về tình cảm
của em đối với với cha mẹ, ông bà thì từ dùng phải khác với viết về tình cảm của
mình đối với bạn bè; viết về cảnh biển buổi sáng có thể dùng các từ đồng nghĩa
như: bình minh, hừng đông, sớm mai; viết về gia đình có các từ như đoàn tụ,
sum họp, quây quần…; để diễn tả mặt trời mùa hè có các từ: chói chang, gay
gắt, đỏ rực, như mâm lửa khổng lồ, như quả cầu lửa…ta cần chuẩn bị kỹ với
mỗi bài để hướng dẫn cho học sinh vận dụng các từ ngữ thích hợp vào bài viết.
Về kỹ năng: Để học sinh không làm được bài hoặc viết lan man quá
nhiều câu dẫn đến lạc đề, giáo viên giúp học sinh cần biết làm như thế nào để
viết được một đoạn văn và cần phải viết những gì trong đoạn văn ấy. Giáo viên
giúp học sinh có một hệ thống câu hỏi gợi ý rõ ràng. Trong chương trình, hầu hết
các bài văn đều có câu hỏi gợi ý rõ, đầy đủ. Giáo viên có thể tranh thủ thời gian
rảnh những tiết ôn tập, tăng buổi hỗ trợ chiều ở các tiết hướng dẫn học sinh
chuẩn bị, đọc câu hỏi gợi ý, suy nghĩ bài viết cho tiết sau. Hoặc chuẩn bị phần tự
học khi ở nhà, tập viết dựa trên gợi ý câu hỏi vào giấy nháp lên lớp cô kiểm tra
giúp đỡ chỉnh sửa câu từ thêm để có bài văn hoàn chỉnh. Đối với những bài
không có câu hỏi gợi ý, giáo viên có thể soạn, cung cấp cho các em hệ thống gói
câu hỏi gợi ý để các em biết cách đặt câu viết văn như thế nào cho đúng yêu cầu.
Ví dụ: Bài viết về một người thân: Người thân của em là ai?; Năm nay
người ấy bao nhiêu tuổi?; Làm công việc gì?; Tình cảm của người ấy đối với em
ra sao?; Em sẽ làm gì để đền đáp lại sự quan tâm của người ấy dành cho em?.
Bài viết về một loại quả mà em thích: Tên loại quả ấy là gì?; Em đã nhìn
thấy nó ở đâu?; Hình dáng bên ngoài quả đó ra sao?; Bên trong quả đó có vị như
thế nào?; khi chín quả có gì đặc biệt? Vì sao em thích loại quả ấy?.
Bài viết về một loài hoa: Loài hoa em biết tên là gì?; Em đã thấy ở đâu?;
Hoa có những đặc điểm gì (màu sắc, cánh hoa, nhụy, hương thơm…); Vì sao em
thích loài hoa ấy?.
12



Ví dụ: Viết về một con vật: Con vật em định kể là con vật gì?; Nó sống ở
đâu?; Hình dáng nó như thế nào?; Hoạt động của nó có gì nổi bật?; Vì sao em
thích con vật đó?;
* Giúp học sinh nắm được trình tự các bước khi viết một đoạn văn:
- Viết câu mở đầu: Giới thiệu đối tượng cần viết. (Có thể diễn đạt bằng
một câu)
- Phát triển đoạn văn: Kể về đối tượng: Có thể dựa theo gợi ý, mỗi gợi ý
có thể diễn đạt 2 đến 3 câu tùy theo năng lực học sinh.
- Câu kết thúc: Có thể viết một câu thường là nói về tình cảm, suy nghĩ ,
mong ước của em về đối tượng được nêu trong bài hoặc nêu ý nghĩa, ích lợi của
đối tượng đó đối với cuộc sống, với mọi người.
Ví dụ: Nv 6 trang 43 tập 1A: Sắp xếp các câu sau cho đúng thứ tự.
a)Chim Gáy đậu trên cây, thấy Kiến bị nạn, vội bay đi gắp một cành
khô thả xuống dòng suối để cứu.
b) Một hôm, Kiến khát quá bèn bò xuống suối uống nước.
c) Kiến bám vào cành cây, thoát chết.
d) Chẳng may trượt ngã, Kiến bị dòng nước cuốn đi.
Ta thấy đây là một đoạn văn đã hoàn chỉnh song nó đang sắp xếp chưa
đúng trình tự nội dung một bài văn. Giáo viên cần yêu cầu học sinh đọc các câu
văn trên. Rồi sắp xếp cho phù hợp nội dung của câu chuyện Kiến và Chim Gáy.
Học sinh đọc 4 câu văn trên nhiều lần. Giáo viên tung câu hỏi mang tính chất
gợi ý trong bốn câu trên câu nào là câu mở đầu của bài văn. Câu mở đầu cũng là
câu giới thiệu. Lần lượt các học sinh sẽ đọc và tìm ra câu giới thiệu là b) Một
hôm, Kiến khát quá bèn bò xuống suối uống nước. Tiếp tục gợi ý để học sinh
tìm ra câu tiếp. Khi uống nước Kiến đã gặp chuyện gì? d)Chẳng may trượt ngã,
Kiến bị dòng nước cuốn đi.Đây cũng chính là nguyên nhân Kiến gặp nạn. Trước
hoàn cảnh đó Kiến sẽ phải làm gì? a) Chim Gáy đậu trên cây, thấy Kiến bị nạn,
vội bay đi gắp một cành khô thả xuống dòng suối để cứu. Câu kết bài thường có
13



nội dung thế nào?, học sinh sẽ tìm ra câu kết là câu có nội dung thường có cái
kết đẹp. c) Kiến bám vào cành cây, thoát chết.
Ví dụ: Đọc thầm các câu văn tả Chim Gáy dưới đây:
-Cổ chú điểm những đốm cườm trắng rất đẹp.
-Một chú chim gáy sà xuống chân ruộng vừa gặt.
-Thỉnh thoảng, chú cất tiếng gáy “cúc cu...cu”, làm cho cánh đồng quê
thêm yên ả.
-Chú nhẩn nha nhặt thóc bên từng gốc rạ.
b. Dựa vào các câu hỏi gợi ý, sắp xếp các câu cho đúng thứ tự để tạo
thành đoạn văn:
Câu giới thiệu sự xuất hiện của chú chim gáy là câu nào?
Câu tả hình dáng của chú chim gáy là câu nào?
Câu tả hoạt động của chú chim gáy là câu nào?
Câu kết là câu nào?
Dựa vào các câu hỏi gợi ý đó học sinh bắt đầu đọc các câu văn và câu hỏi
gợi ý để có thể sắp xếp các câu văn theo thứ tự xuất hiện đúng với nội dung bài
văn yêu cầu. Học sinh có thể sắp xếp các câu văn đúng xuất hiện như sau:
Giới thiệu sự xuất hiện của chú Chim Gáy: Một chú chim gáy sà xuống
chân ruộng vừa gặt.
Câu tả hình dáng của chú chim gáy: Cổ chú điểm những đốm cườm trắng
rất đẹp. Câu tả hoạt động của chú chim gáy: Chú nhẩn nha nhặt thóc bên từng
gốc rạ. Câu kết:Thỉnh thoảng, chú cất tiếng gáy “cúc cu...cu”, làm cho cánh
đồng quê thêm yên ả.
Về kiến thức tổ chức ôn tập cho học sinh: Giáo viên phải nắm các dạng
đề Tập làm văn ở lớp 2 để tổ chức ôn tập cho học sinh. Có thể tập hợp từ
chương trình một số đề bài sau đây.
Viết một đoạn văn ngắn theo gợi ý về: viết gia đình; viết về một người
thân; viết về cô giáo; (hoặc thầy giáo) của em.


14


Dạng viết văn ngắn về các mùa yêu thích trong năm; viết về một loài
chim; viết một con vật.
Dạng viết văn ngắn theo gợi ý về tả về biển, tả về một loài cây, về một
loài hoa, tả về Bác Hồ, tả về một em bé.
Dạng viết văn ngắn theo gợi kể một việc làm tốt
Khi học sinh được ôn tập tốt, kiến thức được hệ thống hóa một cách chắc
chắn, phân biệt rõ đặc điểm của các đối tượng sẽ giúp các em tránh được những
nhầm lẫn đáng tiếc, ảnh hưởng đến chất lượng bài viết của các em. Giáo viên
cần giúp cho học sinh hiểu có nhiều cách diễn đạt để bài làm được phong phú,
tránh tình trạng dạy học sinh làm văn mẫu. Cần chủ động hình thành kỹ năng
từng bước ở từng thời điểm thích hợp. Không nên áp đặt và đòi hỏi các em phải
thể hiện được ngay những kỹ năng mới được hình thành. Giáo viên nên đánh giá
trên sự tiến bộ của học sinh trong quá trình làm bài. Giáo viên phải kiên nhẫn
luôn tái hiện và lặp lại kiến thức cho học sinh trong suốt năm học, giúp học sinh
có được nền móng tốt cho việc học tập môn Tập làm văn ở các lớp trên.
Tăng cường củng cố, mở rộng kiến thức cho học sinh:
Trong quá trình giảng dạy, giáo viên cần liên hệ những nội dung kiến thức
có liên quan đến các chủ đề học tập trong các phân môn Tập đọc, Luyện từ và
câu, với phân môn Tập làm văn, để cung cấp thêm vốn hiểu biết, vốn từ ngữ về
sự vật, hiện tượng xoay quanh các chủ đề để học sinh có kiến thức, không bỡ
ngỡ khi gặp những đề bài mới chưa được luyện tập trên lớp. Giúp học sinh có
hiểu biết về đề tài, vận dụng kỹ năng thực hành để bài viết đạt kết quả cao hơn.
Ví dụ: Khi học về chủ đề “Gia đình” (từ tuần 10 đến tuần 16) nhiều bài
đọc thắm đượm tình cảm thương yêu trong gia đình, cùng với những tiết học
phân môn Luyện từ và câu cung cấp, mở rộng vốn từ ngữ cho học sinh, ngoài
việc giúp học sinh hiểu rõ và nắm chắc người thân của mình là những ai, ngoài

việc khai thác và giáo dục tình cảm cho học sinh thông qua các nhân vật trong
bài Tập đọc, nhấn mạnh cái hay, cái đẹp của nội dung bài, hướng cho học sinh
liên hệ đến bản thân, gia đình, người thân của mình, giáo viên còn cung cấp
thêm từ ngữ, hướng dẫn các em hệ thống lại, lựa chọn, ghi nhớ các từ ngữ phù
15


hợp với đề tài (ông bà, cha mẹ, anh em...), tình cảm mọi người dành cho nhau:
yêu thương, thương yêu, giúp đỡ, quan tâm, chia sẽ, đùm bọc, chiều chuồng... để
chuẩn bị cho bài làm văn viết về người thân, giáo viên dạy các em biết lựa chọn
lời nói, ngôn ngữ để vận dụng vào bài tập làm văn nhằm khơi gợi, kích thích
tinh thần học tập của các em.
*Hướng dẫn học sinh hình thành đoạn văn trên cơ sở của các câu hỏi
gợi ý. Giáo viên có thể tiến hành các bước như sau:
+Hướng dẫn học sinh làm miệng, trả lời miệng từng câu hỏi. Gợi ý cho
học sinh trả lời bằng nhiều ý kiến khác nhau. Khen những em có câu trả lời cảm
thụ văn học tốt
+Nhận xét, sửa chữa những câu trả lời chưa đúng; cung cấp và gợi ý để
các em có thể chọn từ đồng nghĩa thay thế cho từ cũ, có thể hướng dẫn mẫu các
câu văn có hình ảnh nhân hóa hoặc so sánh để bài văn sinh động hơn (khuyến
khích học sinh khá giỏi vận dụng, không bắt buộc tất cả các đối tượng học sinh
thực hiện vì đây là phần kiến thức chưa học, giáo viên hướng dẫn mẫu và cung
cấp các thành ngữ so sánh, cách nhân hóa nhưng không đưa những thuật ngữ
này ra với đối tượng học sinh lớp 2.
+Hướng dẫn học sinh sắp xếp các câu trả lời đó theo một trật tự hợp lý để
hoàn chỉnh bài làm miệng.
+Cũng không nhất thiết phải trả lời các câu hỏi gợi ý theo theo thứ tự của
bài văn miễn sao các ý xâu chuỗi lại phù hợp với nội dung yêu cầu.
+Cho một số học sinh làm miệng cả bài. Sau đó hướng dẫn học sinh viết
liền mạch các câu trả lời thành một đoạn văn.

+Giới thiệu những bài văn hay của học sinh ở năm học trước nhằm kích
thích tinh thần học tập của học sinh.
Thực hiện đánh giá, nhận xét và chữa bài kịp thời cho học sinh:
Đây là việc làm cần thiết, giúp học sinh nhận ra lỗi sai để điều chỉnh, sửa
chữa, hoàn chỉnh bài văn. Học sinh lớp 2 chưa được học và luyện tập nhiều về
16


từ ngữ, ngữ pháp, chắc chắn trong bài viết của các em sẽ rất nhiều lỗi sai. Trong
quá trình chấm bài, giáo viên phát hiện, giúp học sinh khắc phục, biết lựa chọn,
thay thế các từ ngữ cho phù hợp. Đối với những bài làm có ý hay, giáo viên giúp
học sinh gọt giũa, trau chuốt thêm cho bài văn được hay hơn. Cho học sinh đọc
bài hay nhất tiết học đọc để nhận xét. Ngoài ra cần nhận xét các bài chưa đạt ở
mức độ động viên các em nhẹ nhàng để có sự cố gắng.
Khi sửa bài, giáo viên nên giới thiệu những bài làm hay ở năm học trước,
hoặc những bài hay của học sinh trong lớp cho các em tham khảo, từ đó nhận
thấy sự khác nhau về cách diễn đạt trong cùng một đề tài để các em hiểu rằng
những bài làm thể hiện suy nghĩ độc lập của cá nhân luôn được khích lệ và tôn
trọng.
Kĩ năng viết đoạn văn, chủ yếu được rèn luyện thông qua hình thức học cá
nhân, học sinh tự viết đoạn văn, văn bản theo yêu cầu. Vì vậy, giáo viên cần
kiểm soát được kết quả hoạt động viết đoạn, bài của học sinh, sao cho học sinh
nào cũng làm việc, cũng hiểu đúng và viết đúng với yêu cầu của đề bài. Trong
quá trình tổ chức hoạt động trước hết tôi yêu cầu học sinh đọc kĩ yêu cầu bài.
Em sẽ viết về ai?; viết về cái gì?; “người” hay“cái”; mà em viết có đặc điểm như
thế nào?; điều gì làm em thích nhất ở “người”, “cái” đó?. Tùy theo đề bài, đối
tượng học sinh để tôi có thể đưa ra câu gợi ý đúng phù hợp nhất. Đối với học
sinh yếu ít về vốn từ, kĩ năng dùng từ đặt câu còn hạn chế. Khi đánh giá sửa lỗi
bài viết, ở lớp 2 học sinh chưa có thể đọc bài và có kĩ năng góp ý, sửa chữa kết
quả bài viết của bạn. Cho nên mỗi hoạt động viết đoạn văn, bài, tôi đã lựa chọn

một bài viết của học sinh đặc biệt là những em viết chưa tốt tôi đã kịp thời uốn
nắn, điều chỉnh, sửa lỗi cho các em. Qua đó cũng tránh tình trạng chỉ khen ngợi
mà vô tình đã khiến cho học sinh mặc cảm, nản chí, không có hứng thú học tập,
vì thế tôi luôn luôn giám sát học sinh cần giúp đỡ để động viên các em kịp thời
khích lệ các em cố gắng, tiến bộ dù là nhỏ nhất.
*Điều chỉnh trong quá trình dạy học viết đoạn văn theo gợi ý
17


Nội dung dạy học viết văn ở lớp 2 trong chương trình VNEN đa số được
diễn ra ở hoạt động thực hành, hoạt động ứng dụng và cả ở 2 bài bài B, bài C
chủ yếu là:Viết văn bản đơn giản, thông thường để phục vụ cuộc sống hằng
ngày. Viết đoạn văn kể, tả sơ lược về người và vật xung quanh theo gợi ý bằng
tranh ảnh, bằng câu hỏi gợi ý. Hoạt động này phong phú và nhiều hình thức thể
hiện. Các câu hỏi gợi ý có thể nêu trực tiếp trong nội dung hoạt động. Để học
sinh có thể viết văn được đoạn văn ngắn các câu hỏi gợi ý có thể đưa ra theo
hình thức khác nhau.
Ví dụ: nhiệm vụ 4 - Bài 13C: Kể về những người thân trong gia đình theo
gợi ý sau: Nhà em có những ai?; Cha, mẹ anh hoặc chị, em của em thường làm
gì cho em?; Em yêu quý ai nhất?
Ví dụ: Nhiệm vụ 5 viết vào vở một đoạn văn ngắn từ 4 đến 5 câu nói
về người thân trong gia đình em theo lời đã kể ở hoạt động 4.
Các câu hỏi gợi ý có thể nêu từ một tình huống giao tiếp ở hoạt động
trước đó
Ví dụ: nhiệm vụ 2 - Bài 10 C: Cùng đưa ra ý kiến xem ông bà của các bạn
cần cháu làm gì trong mỗi tình huống sau:
Tình huống 1: Bà mệt nằm nghỉ trong nhà, các cháu đang chơi bóng và
reo hò ngoài sân.
Tình huống 2: Ông đi nắng về, vừa nóng, vừa khát nước.
Tình huống 3: Bà đang nhặt rau ở ngoài vườn dưới trời nắng.

Ở hoạt động này giáo viên tổ chức cho học sinh trao đổi các tình huống cá
nhân, trao đổi với bạn bên cạnh, làm việc với cả nhóm. Em chọn một tình huống
ở hoạt động 2, viết vào vở đoạn văn ngắn từ 3 đến 5 câu nói về việc em giúp đỡ
bà theo gợi ý sau:
Ông hoặc bà đang làm gì?Em đã làm những gì để giúp đỡ ông bà?Ông
hoặc bà tỏ ý hài lòng thế nào?Em cảm thấy thế nào khi giúp được ông bà?
Cách thức thực hiện viết một bài văn bản ngắn thông thường như khi dạy
nhiệm vụ 5 Bài 1 giáo viên tổ chức hoạt động cá nhân giáo viên quan sát học
sinh viết và hỗ trợ các em tại chỗ.
18


Phương pháp, cách thức tổ chức dạy học cho học sinh viết, kể tả một đoạn
văn ngắn theo gợi ý ở lớp 2 nhằm luyện cho học sinh cách sử dụng vốn từ đặt
câu, viết đoạn kể hoặc tả ngắn phù hợp với chủ điểm, qua đó hình thành dần cho
học sinh kĩ năng tạo lập văn bản với những yêu cầu đơn giản. Viết đoạn văn kể,
tả đoạn văn ngắn thường được tôi tổ chức theo cá nhân, từng học sinh viết bài
của mình vào vở, hoặc viết ra giấy nháp, tôi hướng dẫn học sinh đặc biệt là học
sinh yếu, khi nào con phải bám vào câu hỏi gợi ý hay dựa vào tranh minh họa,
đoạn văn mẫu (nếu có). Còn nếu không có tôi gợi ý tôi sẽ đến cạnh hỏi em
những câu hỏi gợi ý mang tính súc tích, dể hiểu để học sinh hoàn thiện bài văn
ngắn đủ ý, rõ ràng. Đặc biệt không yêu cầu học sinh viết bài văn theo ba phần
(mở bài, thân bài, kết luận); với học sinh khá, giỏi tôi khuyến khích các em viết
tự do, không nhất thiết phải theo hệ thống câu hỏi nhưng vẫn đảm bảo bài văn
liền mạch. Khi học sinh viết xong tự đổi vở cho bạn cùng góp ý cho nhau. Trong
quá trình quan sát, hỗ trợ học sinh viết bài, tôi phát hiện ra những điểm yếu của
từng học sinh trong lớp gặp khó khăn khi viết văn em Ly, Dân, Phương những
em này thông thường khi viết tôi cho các em viết nháp sau đó hỗ trợ chỉnh sửa
để hoàn thiện bài văn nên cuối tiết học em nào củng hoàn thành bài văn của
mình. Khi đánh giá hoạt động này tôi lắng nghe học sinh đọc nhận xét bài của

bạn rồi cả nhóm bình chọn bạn viết văn hay nhất. Ban học tập mời 2 đến 3 bạn
đọc bài văn trước lớp nhận xét, bình chọn bài văn hay. Cho cả lắng nghe lại bài
văn hay mà lớp đã chọn.
Ví dụ: Em viết 2- 3 câu kể về anh (chị) em của em. Đối với hoạt động
này, học sinh tự viết theo yêu cầu của hoạt động. Vì không có câu hỏi gợi ý nên
tôi hỗ trợ học sinh yếu bằng cách nêu một số câu hỏi gợi ý để làm điểm tựa cho
học sinh dễ viết. Học sinh nên xác định mình viết về anh hay chị?
Ví dụ: Anh của em tên gì?; Năm nay bao nhiêu tuổi?; Hiện nay anh đang
học hay đã đi làm?; Anh thường làm gì cho em?; Tình cảm anh dành cho em như
thế nào? Điều gì ở anh làm em thích nhất?.
19


Để học sinh có thể viết đúng đoạn văn, bài văn theo yêu cầu của bài mà
tôi có thể dự kiến nội dung bài dạy gặp những khó khăn, thuận lợi của học sinh
khi viết đoạn văn để tôi có thể điều chỉnh nội dung bài dạy cho phù hợp với tiết
dạy. Lưu ý khi điều chỉnh nên chú ý các yếu tố sau:
Mục tiêu của bài học; trình độ tiếng Việt của học sinh; vốn sống, kinh
nghiệm của học sinh; đặc điểm văn hóa của địa phương có liên quan đến yêu cầu
của bài viết (nếu có); đồ dùng tranh ảnh, tài liệu thao khảo đã có trong góc học
tập môn tiếng Việt hoặc trong thư viện lớp
Trong quá trình hướng dẫn học sinh viết bài văn ngắn ở lớp 2, bước đầu
bao giờ giáo viên củng phải hình thành cho học sinh một thói quen, bước một
luyện nói bằng cách bám vào gợi ý trả lời các câu hỏi từ câu đầu đến câu kết
thúc, khi nói được em dựa vào bài nói đểluyện viết vào vở nháptừ đó giúp cho
các em nhiều kiến thức thực tiễn đã được giải quyết bằng những lý thuyết đã học
trong sách vở. Muốn làm được điều này, quá trình tiếp xúc, tương tác giữa thầy
và trò là không thể thiếu. Quá trình này không chỉ giúp học sinh dễ dàng tiếp cận
với kiến thức mà còn giúp học sinh cảm nhận được tình cảm, sự khích lệ, động
viên của thầy cô. Cũng thông qua quá trình tương tác này, sự uốn nắn của giáo

viên đối với học sinh từ những hành động nhỏ nhất như: Tư thế ngồi, cách viết,
cách đọc, cách tìm hiểu các vấn đề thực tiễn trong cuộc sống quanh ta,…sẽ được
thực hiện. Với vai trò quan trọng này của người giáo viên là khơi gợi, định
hướng cho học sinh là không thể thay thế được. Chính vì vậy người giáo viên
phải xác định được vai trò của việc vận dụng kiến thức trong quá trình nhận thức
và học tập.
Kiểu bài nói rèn luyện cho học sinh kĩ năng độc thoại trước một tập thể
một đề tài được xác định. Tuy nhiên có thể thống nhất đó là những thông tin về
nét nổi bật, nét riêng biệt, nét đặc sắc về đề tài rèn kĩ năng nói trong phân môn
Tập làm văn,làm kiểu bài này các em cần lưu ý những vấn đề sau:

20


Qua đây các em được rèn luyện cả 4 kĩ năng nghe nói, đọc, viết ở hầu hết
các tiết học, học sinh đều được rèn luyện cả hình thức nói và viết, thường là tập
nói trước, tập viết sau. Từ các hình thức này học sinh được hình thành từng bước
kĩ năng tạo lập văn bản qua từng công đoạn, từ yêu cầu đơn giản như điền từ
hoặc cụm từ vào chỗ trống, quan sát tranh và trả lời câu hỏi đến việc nói hay viết
một đoạn văn theo một đề tài nhất định. Một điều quan trọng đòi hỏi các em là
bài làm không phải là sự lặp lại của người khác mà đòi hỏi sự sáng tạo của chính
các em qua những kiểu bài tập cụ thể. Ngoài ra để học sinh hoàn thiện một bài
văn viết giáo viên cần phải thực hiện được các bước quan trọng sau đây.
*Rèn kĩ năng chọn chi tiết: Hướng dẫn học sinh chọn các chi tiết dựa
theo yêu cầu đề bài và câu hỏi gợi ý
Ví dụ:Quan sát tranh và trả lời câu hỏi: Tôi đặt những câu hỏi khô khan,
sơ lược về nội dung bức tranh, chưa phải là những câu văn hay, có hình ảnh.
Giáo viên cần hướng các em đến những câu trả lời mở rộng, sử dụng từ ngữ
phong phú hơn.
Ví dụ: Bài viết về một người thân: Hướng dẫn: Để làm được đề bài này

cần đọc kĩ đề mà nắm nội dung mà đề yêu cầu và ghi lại những nội dung chính
có liên quan đến hệ thống câu hỏi gợi ý, trình tự trả lời câu hỏi. Cuối cùng em
liên kết nội dung các câu trả lời lại bằng những từ ngữ chuyển tiếp hình thành
một bài văn hoàn chỉnh.
Gợi ý: Người thân của em là ai?; Năm nay người ấy bao nhiêu tuổi?; Làm
công việc gì?; Tình cảm của người ấy đối với em ra sao?; Em sẽ làm gì để đền
đáp lại sự quan tâm của người ấy dành cho em?.
Bài viết:“Mẹ em năm nay 30 tuổi, người dong dỏng cao. Nước da trắng
mịn, tóc dài đến ngang lưng. Mẹ là một giáo viên tiểu học ở trường làng. Hằng
ngày, mẹ phải đi dạy tham gia công tác đoàn thể, tối về mẹ soạn bài đến tận đêm
khuya, công việc rất bạn rộn. Tuy vậy mẹ vẫn dành thời gian dạy cho em học.
Mỗi lần em được cô giáo khen mẹ vui lắm. Em sẻ học thật giỏi để không phụ
lòng mẹ”.
21


* Nhận xét: Bài làm đã có sáng tạo, biết viết về mẹ đủ ý, câu văn chặt chẽ
và nổi bật lên những nét riêng biệt.
Hướng dẫn học sinh quan sát tranh và trả lời câu hỏi, giáo viên đã bước
đầu hình thành cho học sinh năng lực quan sát ở mức độ đơn giản, tập quan sát
có thứ tự đi đôi với việc rèn luyện cho học sinh kĩ năng nghe-nói để có những
câu miêu tả gãy gọn, sinh động. Thứ tự cách thức làm bài. Hướng dẫn học sinh
làm theo trình tự hợp lý: viết câu mở đầu: giới thiệu đối tượng cần viết. (Có thể
diễn đạt bằng một câu); phát triển đoạn văn: kể về đối tượng: Có thể dựa theo
gợi ý, mỗi gợi ý có thể diễn đạt 2 đến 3 câu tùy theo năng lực học sinh; Câu kết
thúc: Có thể viết một câu thường là nói về tình cảm, suy nghĩ, mong ước của em
về đối tượng được nêu trong bài hoặc nêu ý nghĩa, ích lợi của đối tượng đó đối
với cuộc sống, với mọi người.
Ví dụ:Viết về một con vật: Con vật em định kể là con vật gì?; Nó sống ở
đâu?; Hình dáng nó như thế nào?; Hoạt động của nó có gì nổi bật?; Vì sao em

thích con vật đó?.
Câu mở đầu: Giới thiệu về con vật gì. con vật đó sống ở đâu?; Phát triển:
con vật đó có những đặc điểm gì?; Hình dáng của nó như thế nào?; Nó có ích lợi
gì?; Câu kết thúc: Nói lên tình cảm của em đối với con vật mà em thích.
Tôi đã giúp cho học sinh hiểu có nhiều cách diễn đạt để bài làm các em
được phong phú, tránh tình trạng dạy học sinh làm văn mẫu. Cần chủ động hình
thành kỹ năng từng bước ở từng thời điểm thích hợp. Không nên áp đặt và đòi
hỏi các em phải thể hiện được ngay những kỹ năng mới được hình thành. Trong
quá trình giảng dạy, tôi phải kiên nhẫn luôn tái hiện và lặp lại kiến thức cho học
sinh trong suốt năm học, giúp học sinh có được nền móng tốt cho việc học tập
môn Tập làm văn ở các lớp trên câu mở, câu kết.
*Rèn kĩ năng dùng từ đặt câu: Với học sinh lớp 2, sử dụng từ ngữ trong
bài tập làm văn còn nhiều hạn chế. Hầu hết học sử dụng từ ngữ chưa phù hợp,
chưa chính xác. Vì vậy, giáo viên cần cung cấp giúp các em lựa chọn, phân tích
22


để sử dụng từ ngữ cho hợp lý. Bên cạnh đó, giáo viên cũng cần giới thiệu, cung
cấp thêm các từ đồng nghĩa phù hợp với bài văn.
Hướng dẫn học sinh nắm vững yêu cầu bài tập. Lưu ý học sinh có thể viết
đoạn văn tả ngắn với số lượng câu văn nhiều hơn yêu cầu nêu trong đề bài, nếu
có khả năng. Cần viết chân thực, đủ ý, đặt câu đúng, biết kết nối các câu thành
một đoạn văn ngắn theo các gợi ý đã cho (bài tập làm văn viết vì thế có yêu cầu
cao hơn bài nói).
Giáo viên không cần bước làm mẫu vì học sinh đã được đọc kĩ đề bài và
phần gợi ý, đã học cách tạo câu trong giờ luyện từ và câu. Đề bài có câu hỏi gợi
ý, giáo viên yêu cầu học sinh viết đoạn văn bằng cách bám theo các câu hỏi, hết
mỗi ý nên kết thúc bằng dấu chấm, các ý giống nhau ngăn cách bằng dấu phẩy,
nhưng ta có thể bổ sung thêm những ý mới.
Nếu đề bài không có câu hỏi gợi ý, giáo viên cần chuẩn bị các câu hỏi gợi

ý sơ qua về đối tượng miêu tả mà đề bài yêu cầu. Tuy nhiên, hướng dẫn của giáo
viên cũng chỉ nên mang tính gợi ý để học sinh tham khảo chứ không buộc các
em phải tuân thủ một cách máy móc theo gợi ý của cô.
Ví dụ: Bài 10C nhiệm vụ 5 yêu cầu: Được tin quê nhà bị bão, bố mẹ em
về thăm ông bà. Em hãy viết 2 đến 3 câu hỏi ông bà.
Gợi ý: Em sẽ viết thư cho ai?; vì sao em viết thư cho người đó?; biết tin
quê bị bão, em sẽ hỏi thăm và an ủi người đó như thế nào?
Nhờ vào những gợi ý hết sức cụ thể, khúc chiết như thế, giáo viên có thể
khai thác triệt để các đối tượng học sinh trong lớp. Học sinh khá, giỏi dựa vào
đó viết bài văn hay hơn. Riêng học sinh trung bình và cần cố gắng dựa vào gợi ý
bước đầu biết viết một bức thư đủ ý.
*Rèn kĩ năng diễn đạt: Để tổ chức cho học sinh làm tốt các dạng bài tập
rèn kĩ năng viết văn kể, miêu tả theo hướng tích cực hoá cá nhân hoá hoạt động
của mỗi em, giáo viên cần giúp học sinh nắm vững yêu cầu của bài tập (bằng
23


phương pháp đàm thoại, hỏi đáp, bằng lời giải thích, pháp trực quan,…). Chọn
cách tổ chức hoạt động phù hợp với từng bài, có khả năng kích thích hứng thú
học tập của học sinh (làm việc độc lập, làm việc theo nhóm, thi nói trước lớp,
…).Khuyến khích học sinh thể hiện, bộc lộ khả năng nói trước đám đông của
mình. Thông qua nói thực hành luyện viết đoạn văn ngắn được tốt hơn.
*Rèn kĩ năng cảm thụ văn học: Khi dạy giáo viên cần liên hệ những nội
dung kiến thức có liên quan đến các chủ đề học tập trong môn Tiếng Việt để
cung cấp thêm vốn hiểu biết, vốn từ ngữ về sự vật, hiện tượng xoay quanh các
chủ đề để học sinh có kiến thức, không bỡ ngỡ khi gặp những đề bài mới chưa
được luyện tập trên lớp. Giúp học sinh có hiểu biết về đề tài, vận dụng kỹ năng
thực hành để bài viết đạt kết quả.
Ví dụ: Khi học về chủ đề ông bà, cha mẹ, anh em (từ tuần 10 đến tuần
16), với rất nhiều những bài đọc thắm đượm tình cảm thương yêu trong gia đình,

cùng với những tiết học phân môn Luyện từ và câu cung cấp, mở rộng vốn từ
ngữ cho học sinh, ngoài việc giúp học sinh hiểu rõ và nắm chắc người thân của
mình là những ai, ngoài việc khai thác và giáo dục tình cảm cho học sinh thông
qua các nhân vật trong bài Tập đọc, nhấn mạnh cái hay, cái đẹp của nội dung
bài, hướng cho học sinh liên hệ đến bản thân, gia đình, người thân của mình, tôi
còn cung cấp thêm từ ngữ, hướng dẫn các em hệ thống lại, lựa chọn, ghi nhớ các
từ ngữ phù hợp với đề tài (ông bà, cha mẹ, anh em) để chuẩn bị cho bài làm văn
sắp tới (viết về người thân), giáo viên luôn nói với các em sự cần thiết phải học
thuộc và lựa chọn những từ ngữ đã học để các em vận dụng vào bài tập làm văn,
khơi gợi và kích thích tinh thần học tập của các em.
* Hướng dẫn thực hiện một số đề bài: Ví dụ: viết một đoạn văn ngắn 23 câu kể về thầy cô giáo (hoặc thầy giáo) cũ của em.
Gợi ý: Thầy (hoặc cô) tên là gì, dạy em lớp mấy?;Thầy (hoặc cô) đã dạy
em, giúp em những gì để em tiến bộ?; Em muốn làm gì để tỏ lòng biết ơn thầy
(hoặc cô)?
24


* Giáo viên hướng: Bài văn gồm 2 phần: Phần một kể;+ Phần hai viết.
-Phần kể: Dưạ vào hệ thống câu hỏi giúp học sinh kể về cô giáo hoặc thầy
giáo cũ của em.
-Phần viết: Dựa vào các câu hỏi trả lời để viết thành một đoạn văn cô giáo
(thầy giáo) cũ dạy em thời lớp 1.
Giáo viên hướng dẫn đây là bài văn dạng kể về thầy hoặc cô các em nên
kể với giọng văn giới thiệu theo mẫu câu Ai là gì?; dựa trên hệ thống câu hỏi gợi
ý? Năm nay em học lớp 2 thầy, cô nào đã dạy em? ai là người em muốn kể?
Thầy, cô đó tên gì? Đã từng dạy em lớp mấy? Thầy cô đã dạy em và giúp em
tiến bộ như thế nào? Em muốn làm gì để tỏ lòng biết ơn thầy, cô?
Bài viết: Năm nay em đã học lớp 2 nhưng người cô mà em nhớ nhất là cô
Trần Thị Mai. Cô Mai hiền lành tốt bụng lại yêu thương chúng em hết mực. Một
kỉ niệm đáng nhớ có lần cô dạy viết chữ E hoa nhưng vì chữ khó viết nên em

viết sai mãi cô đã không trách phạt mà chỉ bảo cho em rất tận tình. Cô cuối
xuống chỉ tỉ mĩ cho em có lẽ chẵng bao giờ em quên được những nét chữ của cô
cầm tay em viết từng chữ cho đẹp. Em thầm hứa sẻ học thật giỏi để đền đáp
công ơn của cô đã dành cho chúng em.
Đề 2: Viết một đoạn văn ngắn kể về con vật mà em yêu thích
*Hướng dẫn học sinh làm: Để làm bài này các em cần đọc các câu hỏi
gợi ý trong sách, trả lời nội dung từng câu, xem như em đã thực hiện được yêu
cầu cơ bản đề ra. Sau đây là câu hỏi gợi mở để các em tham khảo giúp các em
hiểu được cách viết đoạn văn hay.
- Con vật em định kể là con vật gì?; con vật đó sống ở đâu?; con vật đó có
những đặc điểm gì nổi bật khiến bạn thích nhất? (Hình dáng con vật như thế
nào?; con vật đó có những hoạt động gì nổi bật?); Vì sao em thích con vật đó?;
* Bài viết em Giáng My: Trong các loài vật mà em biết thỏ chó mèo
gấu... em thích nhất là chú chó Béc dê nhà em. Bố em bảo năm nay nữa là nó 4
tuổi. Chú là con vật rất thông minh, nhanh nhẹn lại sống rất tình cảm. Khi nghe
tiếng động chú chạy tót ra ngoài sủa vang “gâu gâu” làm cho người lạ ai cũng
khiếp sợ. Mỗi khi em đi học về, chú chậy ra tận cổng vẩy đuôi mừng rối rít, liếm
25


×