Tải bản đầy đủ (.doc) (14 trang)

Một vài biện pháp giúp học sinh phát triển kỹ năng tự học và ghi nhớ kiến thức lịch sử ở nhà trường phổ thông

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (159.13 KB, 14 trang )

I. MỞ ĐẦU
1. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Trong thời gian gần đây, các cơ quan truyền thông đang nêu lên một
thực trạng mà cả xã hội quan tâm, đó là sự xuống cấp của bộ môn lịch sử
trong ngành giáo dục: Thái độ thờ ơ của học sinh đối với môn lịch sử và kết
quả trong các kì tuyển sinh quá thấp, hàng ngàn bài thi môn lịch sử của học
sinh không có điểm (điểm 0), những bài thi “cười ra nước mắt” Thực trạng
đó, khiến tôi suy nghĩ nhiều, làm sao để khắc phục tình trạng đó và nâng cao
nhận thức, kết quả học tập môn lịch sử.
Qua kinh nghiệm công tác giảng dạy môn lịch sử và tìm hiểu thực tế,
tôi mạnh dạn quyết định viết đề tài: “Một vài biện pháp giúp học sinh phát
triển kỹ năng tự học và ghi nhớ kiến thức lịch sử ở nhà trường phổ
thông”, nhằm tạo cảm hứng học tập cho học sinh, có biện pháp giúp đỡ các
em phát triển kĩ năng tự học và ghi nhớ kiến thức lịch sử một cách hiệu quả,
từ đó nâng cao chất lượng giáo dục và vị trí của môn lịch sử trong xã hội.
2. ĐỐI TƯỢNG, PHẠM VI NGHIÊN CỨU
Tên đề tài đã nói rõ phần nào về đối tượng, phạm vi nghiên cứu của
đề tài. Đề tài trình bày những vấn đề về vai trò của giáo viên trong dạy học
môn lịch sử và những biện pháp giúp học sinh phát triển kĩ năng tự học và
ghi nhớ kiến thức lịch sử. Người giáo viên phải xác định được đối tượng
người học và tìm hiểu cũng như nắm bắt, phân tích được thực trạng để từ đó
có những cách thức, biện pháp trong đổi mới phương pháp dạy học, tránh
nhàm chán trong tiết học, tạo hứng thú học tập bộ môn. Ngoài ra đề tài còn
đề cập một số cách thức biện pháp bồi dưỡng phát triển kĩ năng tự học và dễ
dàng ghi nhớ kiến thức lịch sử.
3. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
1
Trong việc thực hiện nghiên cứu một vấn đề - đề tài, một sự vật hiện
tượng chúng ta cần thực hiện nhiều phương pháp, trong đề tài này tôi cũng
sử dụng nhiều phương pháp nghiên cứu như: Tìm hiểu, điều tra thực tế,
thống kê, phân tích, đánh giá…


Những phương pháp này đã góp phần rất lớn cho tôi hoàn thành đề tài này.
II. NỘI DUNG
1. THỰC TRẠNG
1.1. Thuận lợi
Hiện nay, cùng với sự phát triển chung của xã hội người giáo viên
cũng như học sinh có điều kiện tiếp thu nhiều nguồn thông tin truyền hình
báo chí, Internet, các tư liệu lịch sử phong phú, đa dạng và các phương tiện
bổ trợ cho công tác dạy và học.
Trong quá trình dạy học ở nhà trường phổ thông, được sự quan tâm
của các cấp lãnh đạo, đặc biệt là phía nhà trường đã tạo nhiều điều kiện
thuận lợi cho người giáo viên hướng dẫn, truyền đạt kiến thức cho học sinh.
Đa số học sinh, phụ huynh cũng thấy được tầm quan trọng của việc học tập
để phục vụ cho tương lai, cho nên 1 số học sinh cũng có ý thức cao trong
việc học tập và phụ huynh cũng lo lắng quan tâm đến việc học của con cái
nhiều hơn.
1.2. Khó khăn
Cùng với những thuận lợi như đã nói ở trên, thì trong công tác giảng
dạy tôi cũng nhận thấy được nhiều khó khăn-bất cập, nguyên nhân dẫn đến
chất lượng của bộ môn lịch sử ngày càng sa sút.
Tuy nhiên, trong đề tài này tôi chỉ trình bày một cách ngắn gọn một số
nguyên nhân cơ bản nhất dẫn đến tình trạng đó.
2
Thứ nhất, trong nhận thức chung, chúng ta còn xem nhẹ môn học lịch
sử, coi môn lịch sử là “môn phụ”- cho nên học sinh chưa thật sự ý thức
trong việc học tập môn học này.
Thứ hai, chương trình học và việc giảng dạy bộ môn LS còn nhiều
vấn đề tồn tại: chúng ta thấy rằng từ sau đổi mới chương trình và sách giáo
khoa được áp dụng từ năm học 2006-2007 của Bộ Giáo dục và đào tạo thì
“dung lượng” kiến thức nhiều mà “thời lượng” thì quá ít dẫn đến phương
pháp giảng dạy thiên về đọc chép mà ít chú ý đến rèn luyện phát triển khả

năng tư duy độc lập của học sinh.
Thứ ba, nhiều giáo viên bộ môn lịch chưa thập sự tâm huyết với nghề
hoặc năng lực chuyên môn còn hạn chế
Thứ tư, từ những nguyên nhân dẫn đến học sinh “ngán” - không hứng
thú với môn lịch sử, học lịch sử chỉ là để đối phó trong thi cử, nên đa số học
sinh, học lịch sử theo phương pháp “thuộc lòng” “máy móc” và còn nhiều
nguyên nhân khác nữa.
Chính những vấn đề đó mà có những bài thi của học sinh “cười ra
nước mắt”, những bài thi điểm Zéro (0)
2. CƠ SỞ LÍ LUẬN
2.1. Khái niệm
2.1.1. Khái niệm kỹ năng:
Kỹ năng là khả năng ứng dụng tri thức khoa học vào thực tiễn {Từ
điển tiếng Việt}. Có nhiều định nghĩa khác nhau về kỹ năng. Các định nghĩa
thường bắt nguồn từ góc nhìn chuyên môn và quan niệm của mỗi cá nhân .
Tuy nhiên hầu hết chúng ta đều thừa nhận rằng kỹ năng được hình thành khi
chúng ta áp dụng tri thức khoa học vào thực tiễn. Kỹ năng học được do quá
trình lặp đi lặp lại một hoặc một nhóm hành động nhất định nào đó. Kỹ năng
luôn có chủ đích và định hướng rõ ràng.
3
Vậy, Kỹ năng là năng lực hay khả năng của chủ thể thực hiện thuần thục
một hay một chuỗi hành động trên cơ sở hiểu biết (kiến thức hoặc kinh
nghiệm) nhằm tạo ra kết quả mong đợi.
2.1.2. Khái niệm tự học:
Người ta cũng có nhiều quan niệm về tự học, có người cho rằng: Tự
học là học riêng một mình ? Trong quá trình học tập bao giờ cũng có tự
học, nghĩa là tự mình học tập hoặc hợp tác với bạn (nhóm) học, không có sự
giảng dạy một cách trực tiếp của giáo viên tự bản thân tìm tòi, lao động
bằng tri óc để nắm bắt, hiểu một vấn đề, một sự vật hiện tượng
Vậy, Tự học là quá trình tự mình lao động trí óc để chiếm lĩnh tri thức.

2.1.3. Khái niệm kỹ năng tự học:
Từ hai khái niệm trên, chúng ta thấy rằng kỹ năng tự học là khả năng
làm chủ các hoạt động học tập của bản thân người học một cách đúng
đắn khoa học để đạt hiệu quả mong đợi, như kỹ năng lập được kế hoạch tự
học- thời gian địa điểm học hợp lý, kỹ năng đọc sách, nghe giảng, ghi chép
bài người học xác định được mục tiêu, mục đích, phương pháp học tập
một cách hợp lý và đạt hiệu quả cao.
2.1.4. Khái niệm nhớ:
Nhớ là “ghi vào trong trí óc cho khỏi quên” [Từ điển Tiếng Việt, NXB Văn
hoá thông tin, 2001, tr. 524]. Có nhiều nguyên nhân làm người ta nhớ: Lặp
đi lặp lại nhiều lần, thấu hiểu vấn đề, có tình cảm, tình yêu, có ấn tượng
mạnh
2.2. Sự cần thiết phải phát triển kỹ năng tự học của học sinh trong
nhà trường phổ thông
Trong xu thế phát triển của thời đại và công cuộc cải cách giáo dục
của Bộ Giáo dục và đào tạo, ngành giáo dục hiện nay xác định học sinh là
4
trung tâm, là người chủ động tích cực và sáng tạo, người giáo viên chỉ
đóng vai trò là người điều khiển hướng dẫn học sinh học tập
Cùng với những bất cập mà tôi đã trình bày ở phần thực trạng về chương
trình trình học lịch sử hiện nay (“dung lượng” kiến thức nhiều mà “thời
lượng” thì quá ít)
Chính vì thế mà người giáo viên dạy học môn lịch sử không thể
truyền đạt cho học sinh một lượng kiến thức “khổng lồ” được mà chỉ có
một trong hai cách:
-Một là, giáo viên đọc cho học sinh ghi chép toàn bộ kiến thức cho
học sinh- theo chuẩn kiến thức kỹ năng của Bộ Giáo dục ban hành.
-Hai là, giáo viên giữ vai trò là người hướng dẫn học sinh tự học-tự
tìm hiểu là chính; chỉ giảng giải phân tích một số nội dung trọng tâm cần
thiết.

Tuy nhiên cách thứ nhất là đi ngược lại với xu thế phát triển của khoa
học giáo dục hiện đại và hướng dẫn chỉ đạo của Bộ Giáo dục, vậy nên người
giáo viên phải luôn xác định học sinh là trung tâm còn mình là người hướng
dẫn học sinh tự tìm hiểu chiếm lĩnh tri thức. Nhà giáo dục học Usinxki nói
rằng: “nhiệm vụ chủ yếu của thầy giáo không phải là truyền đạt kiến thức
mà dạy cho học sinh biết suy nghĩ ”.
Như vậy, vấn đề tự học của học sinh là rất quan trọng vì đó là một
khâu trong một quá trình thống nhất của việc dạy học, nhằm phát huy năng
lực độc lập tư duy của các em trên lớp cũng như ở nhà. Điều này xuất phát
từ nguyên lý giáo dục gắn nhà trường với đời sống.
Với việc xác định học sinh là trung tâm, giáo viên là người điều khiển,
hướng dẫn học sinh thì người giáo viên đóng vai trò hết sức quan trọng, đó
là người giáo viên phải nắm vững kiến thức của toàn bộ chương trình và
5
phải lập được kế hoạch giảng dạy khoa học mang tính bao quát và cụ thể-
đặc biệt là giáo án trong từng tiết dạy
2.3. Một số lưu ý khi học sinh tự học
Việc tự học của học sinh là rất quan trọng và đóng vai thành bại kết
quả học tập của người học. Tuy nhiên, khi mới áp dụng cách học này học
sinh còn gặp nhiều khó khăn, bỡ ngỡ và nhiều khi cảm thấy không hiệu quả
bằng cách học truyền thống là thầy đọc- trò chép và về nhà chỉ việc học
thuộc lòng những gì thầy cô cho ghi tại lớp. Cho nên, trong quá trình tự học,
học sinh cần lưu ý một số vấn đề.
- Trước hết, học sinh cần nắm rõ thế nào là tự học; tự học là một chu
trình 3 giai đoạn: Tự nghiên cứu, tìm tòi- Tự thể hiện- Tự kiểm tra và điều
chỉnh. Chu trình này thực chất là con đường phát hiện vấn đề, định hướng
cách giải quyết và giải quyết vấn đề học tập.
- Thứ hai, học sinh cần xác định mục tiêu, nội dung học tập. Mục tiêu
là cái đích chúng ta muốn đạt được, từ đó chúng ta mới xác định được nội
dung cần học và xây dựng phương pháp học tập. Chỉ khi nào xác định được

mục tiêu-mục đích thì học mới hiệu quả.
- Thứ ba, học sinh cần xây dựng được kế hoạch học tập một cách khoa
học rõ ràng và cố gắng thực hiện đúng kế hoạch.
- Thứ tư, học sinh phải có phương pháp, cách học hiệu quả. Phương
pháp đúng đắn là chìa khóa đi tới thành công trong học tập.
3. BIỆN PHÁP
Trong đề tài này tôi xin đưa ra một vài biện pháp (phương pháp học
tập) giúp học sinh phát triển kỹ năng tự học và ghi nhớ kiến thức lịch sử.
3.1. Tìm ý cơ bản và tập diễn đạt các ý bằng ngôn ngữ của mình
Khi học bài học sinh không nên học nguyên văn trong sách giáo khoa,
hoặc nội dung bài học mà giáo viên chép ở lớp Cách học như vậy mang
6
tính “máy móc” còn gọi là học “thuộc lòng”, dẫn đến nặng nề, khó hiểu và
khó nhớ. Để nhớ được kiến thức cơ bản, các em nên kết hợp sách giáo khoa,
bài giảng của giáo viên, vở ghi Trước hết, học sinh cần phải nhớ các phần,
mục chính rồi sau tìm xem mỗi phần, mục gồm mấy ý chính rồi diễn đạt
bằng ngôn ngữ của mình để học. Học sinh chỉ cần nhớ “ý” chứ không cần
thiết nhớ “văn” (có nghĩa học sinh không nhất thiết phải diễn đạt nói và viết)
giống hệt như sách giáo khoa hoặc như lời giảng của thầy cô, miễn sao đúng
là được).
Ví dụ, khi học diễn biễn một cuộc chiến tranh, một quá trình lịch sử
thì nhất thiết phải nhớ mốc mở đầu, đỉnh cao, kết thúc và một số sự kiện tiêu
biểu khác để nhớ. Cụ thể, khi học Cách mạng tư sản Pháp cuối XVIII: Sự
kiện mở đầu 14/7/1789 nhân dân Pari nổi dậy phá ngục Baxti; đỉnh cao:
2/6/1793 phái Giacobanh lên nắm quyền; sự kiện thoái trào- kết thúc:
27/7/1794- tháng Técmiđo (tháng Nóng) Để dễ học dễ nhớ hơn, nội dung
này chúng ta có thể sơ đồ hóa kiến thức.
Ý nghĩa thắng lợi của mỗi cuộc cách mạng lớn, mỗi cuộc kháng chiến
lớn thường có ý nghĩa dân tộc và quốc tế, ý nghĩa dân tộc thường có hai ý
nhỏ là kết thúc cái gì và mở ra cái gì; ý nghĩa quốc tế cũng có hai ý nhỏ là

tác động đến thù và bạn như thế nào. Cụ thể, khi học về ý nghĩa thắng lợi
của cuộc mạng tháng Tám 1945, cuộc kháng chiến chống Pháp (1945-1954)
hay cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước (1954-1975) chúng ta đều nhận
thấy những điểm chung như vậy.
Trên cơ sơ các ý cơ bản đã chọn, học sinh tập diễn đạt theo ngôn ngữ
của mình. Khi mới học theo phương pháp này học sinh sẽ gặp nhiều khó
khăn như trình bày dài dòng, vấp váp và có khi thiếu chính xác, có thể diễn
đạt sai kiến thức Tuy nhiên, khi đã tập học theo cách này nhiều, thuần thục
trở thành kỹ năng thì rất dễ học, dễ nhớ và nhớ lâu. Khi học tập bằng
7
phương pháp này học sinh cũng cần tự tổ chức các buổi học nhóm- chỉ cần
hai học sinh truy bài cho nhau để kiểm tra nhau và tự điều chỉnh.
3.2. Sơ đồ
Trong phương pháp học Tìm ý cơ bản và tập diễn đạt theo ngôn ngữ
của mình, học sinh tìm ý cơ bản sau đó có thể sơ đồ hóa, công thức hóa
đơn vị kiến thức cho ngắn gọn, đơn giản tránh gây nhiễu giữa những đơn
vị nội dung kiến thức gần giống nhau. Khi sử dụng học bài bằng phương
pháp này người giáo viên đóng vai trò hết sức quan trọng, cần hướng dẫn cụ
thể cho học sinh lập sơ đồ Những nội dung phức tạp hoặc các giai đoạn
lịch sử thì giáo viên có thể cung cấp sẵn cho học sinh rồi hướng dẫn học sinh
tự nghiên cứu và phát biểu
Ví dụ, bài Các quốc gia cổ đại phương đông- Lịch sử 10, khi dạy về
các giai cấp, tầng lớp trong xã hội chúng ta có thể lập sơ đồ:
Sơ đồ xã hội cổ đại phương Đông

Quan sát sơ đồ học sinh kết hợp sách giáo khoa và lời giảng của giáo
viên học sinh có thể biết được xã hội cổ đại phương Đông phân hóa thành
các tầng lớp:
- Nông dân công xã: là tầng lớp đông đảo nhất và có vai trò to lớn; nhận
đất canh tác và nộp tô thuế.

- Quý tộc: vua, quan, tăng lữ là tầng lớp bóc lột có nhiều của cải và
quyền thế.
- Nô lệ: Số lượng không nhiều, chủ yếu phục vụ, hầu hạ tầng lớp quý
tộc.
Bên cạnh việc lập sơ đồ, công thức chúng ta còn có thể lập dàn ý theo
dạng cành cây, lập niên biểu, biểu đồ Có thể nói rằng, áp dụng phương
pháp dạy học này giúp học sinh có thể độc lập tư duy và từng bước rèn luyện
kỹ năng tự học ngày càng hiệu quả hơn.
8
Quý tộc
NDCX
Nô lệ
Vua
3.3. So sánh :
So sánh cũng là cách học hiệu quả để ghi nhớ kiến thức, trong lịch sử
có những đơn vị nội dung kiến thức tương đồng hoặc tương phản Học sinh
có thể so sánh về đơn vị nội dung kiến thức, về sự kiện, số liệu, các nhân vật
lịch sử, so sánh về thuật ngữ gần giống nhau nhưng nội dung hoàn toàn khác
nhau so sánh theo cặp phạm trù hoặc lập bảng và điều đó giúp học sinh
tránh tình trạng nhầm lẫn kiến thức trong quá trình học tập. Với cách học
này, chúng ta đưa các nội dung kiến thức lại gần với nhau từ đó nhận rõ hai
nội dung đơn vị kiến thức đó có điểm gì chung nhất và điểm khác biệt nào
cần nhớ rõ, từ đó học sinh có thể học một mà biết được hai và đạt hiệu quả
cao hơn.
Tìm hiểu về đơn vị- nội dung kiến thức tương đồng hoặc tương phản,
ví dụ: Đường lối cứu nước của Phan Bội Châu và Phan Châu Trinh (đầu thế
kỷ XX), học sinh cần lập bảng so sánh điểm giống nhau và khác nhau về xu
hướng cách mạng của hai vị lãnh tụ này. Cụ thể, chúng ta có thể lập bảng
như sau:
Bảng so sánh xu hướng hai xu hướng cách mạng bạo động và cải

cách đầu thế kỷ XX
Xu hướng
cách mạng
PHAN BỘI CHÂU
Xu hướng bạo động
PHAN CHÂU TRINH
Xu hướng cải cách
Giống nhau - Xuất phát từ lòng yêu nước, muốn giành độc lập cho quê
hương đất nước;
- Dùng sách báo để tuyên truyền thức tỉnh đồng bào
=> Đó là xu hướng cách mạng tiến bộ theo khuynh hướng
dân chủ tư sản.
9
Khác nhau
*Chủ trương
*Phương pháp
-Thành lập Hội Duy tân,
phát động phong trào
Đông Du, nhờ Nhật giúp
đỡ
-Sử dụng bạo lực cách
mạng để đánh thực dân
Pháp
- Nhờ Pháp giúp đỡ để khai
thông dân trí, phát triển đất
nước
- Tiến hành cải cách duy tân
trên các lĩnh vực KT-GD-VH

Trong quá trình học và tự học chúng ta cần có sự so sánh để dễ dàng

chiếm lĩnh tri thức; ví dụ: Cương lĩnh chính trị (2/1930) với Luận cương
(10/1930); Hiệp định Giơnevơ (21/7/1954) với Hiệp định Pari (27/1/1973),
Tổ chức Liên Hợp quốc với tổ chức ASEAN
Học lịch sử có rất nhiều số liệu và ngày tháng khó nhớ, nhưng chúng
ta nếu biết vận dụng tìm những điểm chung tương đối và đưa ra so sánh thì
một số sự kiện ghi nhớ rất đơn giản. Trong thực tế có rất nhiều đơn vị kiến
thức nội dung có mà chúng ta có thể áp dụng đưa vào so sánh để học một
cách hiệu quả.
3.4. Sử dụng tranh ảnh, lược đồ-bản đồ:
Sử dụng tranh ảnh, lược đồ thường gây ấn tượng mạnh cho học sinh,
ấn tượng mạnh là một trong những nguyên nhân giúp học sinh ghi nhớ kiến
thức một cách sâu sắc hơn, là phương tiện dạy và học, là một kênh thông tin
hết sức quan trọng, là hình ảnh trực quan sinh động giúp học sinh hứng thú
hơn trong học tập và góp phần rất quan trọng trong việc ghi nhớ kiến thức
của học sinh.
Ví dụ, bức tranh biếm hoạ: “Tình cảnh người nông dân Pháp trước
cách mạng” sẽ giúp học sinh nhớ ngay đến nỗi thống khổ của người nông
dân Pháp trước cách mạng 1789, đó cũng là một nguyên nhân dẫn đến bùng
10
nổ cách mạng tư bản Pháp. Hình ảnh “Quyết tử quân Hà Nội ôm bom ba
càng đón đánh xe tăng Pháp”, sẽ làm học sinh hiểu sâu sắc sự “cảm tử” anh
dũng hi sinh của các Trung đoàn thủ đô trong những ngày đầu kháng Pháp ở
Hà Nội. Sử dựng lược đồ: “Cuộc chiến đấu của ta ở các đô thị phía bắc vĩ
tuyến 16”, học sinh sẽ dễ dàng nhớ kiến thức và xác định các đô thị: Hà Nội,
Hải Phòng, Bắc Giang, Bắc Ninh, Nam Định, Vinh, Huế, Đà Nẵng
3.5. Thực hành, luyện tập:
Thực hành luyện tập được ví như chiếc cầu “đưa tri thức chuyển tới
năng lực” vì nó không chỉ giúp học sinh hiểu sâu mà còn nhớ lâu kiến thức.
Bác Hồ kính yêu của chúng ta từng nói “Học đi đôi với hành” “lý luận gắn
liền với thực tiễn” Thành ngữ Trung Quốc cũng có câu “Tôi nghe, thì tôi

quên. Tôi thấy, thì tôi nhớ. Tôi làm , thì tôi hiểu ”. Từ “học tập” là gồm hai
động từ “học” và “tập” ; “học” là quá trình ở lớp giáo viên hướng dẫn học
sinh tìm hiểu kiến thức mới, “tập” là thực hành, luyện tập ở nhà của học
sinh. Trong đó “tập” bao gồm nhiều hoạt động khác nhau của học sinh: tập
tìm các ý cơ bản, tập diễn đạt, làm bài tập, vẽ lược đồ, sơ đồ, lập bảng so
sánh, tìm tài liệu, đọc sách tham khảo, trao đổi với ban Trong các môn
khoa học tự nhiên thì luyện tập là công việc thường xuyên, nhưng trong các
môn khoa học xã hội, đặc biệt là môn lịch sử thì rất hiếm, mà có yêu cầu học
sinh thì giáo viên cũng không có thời gian để kiểm tra sữa chữa nên cũng
chưa thật hiệu quả Như vậy, học tập thì học sinh cần phải tự thực hành
luyện tập nhiều, đấy là điều tối quan trọng để học sinh nhớ lâu kiến thức,
nâng cao hiểu quả học tập.
Ngoài ra còn nhiều cách ghi nhớ khác nữa như: chuyện kể, bài hát,
bài thơ
4. KẾT QUẢ THỰC HIỆN
11
Qua thực tiễn dạy học lịch sử ở trường phổ thông, tôi nhận thấy rằng
cách học của đa số học sinh trong môn học lịch sử là hết sức thụ động, thầy
cô giảng dạy như thế nào là về nhà học thuộc lòng “máy móc” như thế, ít
chịu nghiên cứu tìm tòi, dẫn đến những kết quả không mong đợi- học sinh
ngày càng ngán học môn lịch sử và kết quả học tập, thi cử ngày càng thấp.
Với tình hình như vậy, trong dạy học tôi đã vận dụng nhiều phương pháp
nhằm tạo hứng thú học tập cho học sinh cũng như hướng dẫn đổi mới
phương pháp học tập cho học sinh. Qua nghiên cứu tài liệu, học hỏi và rút
kinh nghiệm từ bản thân tôi thấy rằng việc tự giác học tập của học sinh là rất
quan trọng, đồng thời tự học cũng phải có phương pháp, khi tôi đưa những
phương pháp đã nêu trên hướng dẫn học sinh tự học thì học sinh rất hứng
thú và kết quả ngày càng đáng khích lệ.
III. KẾT LUẬN
Có thể nói rằng, việc phát triển kỹ năng tự học cho học sinh đóng vai

trò tối quan trọng, góp phần nâng cao hiệu quả học tập, là ngọn đèn lớn soi
sáng người đi trong đêm tối. Trong học tập hay bất kỳ một công việc gì đều
phải ứng dụng các cách thức phương pháp phù hợp mới dẫn bạn đi đến
thành công và mình phải là người chủ động tìm tòi nghiên cứu. Cho nên, học
sinh phải luôn phải tự trau dồi kiến thức, tìm kiếm cho mình những phương
pháp đúng và bồi dưỡng rèn luyện thuần thục trở thành kỹ năng cơ bản, nhất
là “kỹ năng tự học và ghi nhớ kiến thức lịch sử”.
Việc tự học của học sinh phải được tiến hành với sự hứng thú say mê
và ý thức trách nhiệm tinh thần lao động cần cù. Trong việc tự học, điều
quan trọng đối với học sinh không chỉ là ghi nhớ, nắm vững, hiểu sâu kiến
thức mà còn hình thành ở các em tư cách, phẩm chất của người lao động-
kiên nhẫn, độc lập, tự tin và sáng tạo.

12
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. “Một số kỹ năng cần thiết dành cho học sinh trung học phổ thông”.
NXB GD - Ths: Trần Minh Quốc và Ths: Bùi Ngọc Diệp.
2. “Nghiên cứu, giảng dạy lịch sử trong bối cảnh hội nhập quốc tế ”
Tiến sĩ Tưởng Phi Ngọ.
3. “Phương pháp dạy học lịch sử”. NXB GD - Phan Ngọc Liên và
Trần Văn Trị.
4. “Đổi mới dạy học theo khoa học giáo dục hiện đại”. NXB ĐHSP
Hồ Chí Minh – Lê Vinh Quốc.
5. Lịch Sử 10 - SGK, SGV, Chuẩn KT-KN
6. Lịch Sử 11 - SGK, SGV, Chuẩn KT-KN
7. Lịch Sử 12 - SGK, SGV, Chuẩn KT-KN
13
MỤC LỤC
I. Mở đầu Trang 1
1. Lý do chọn đề tài 1

2. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu 1
3. Phương pháp nghiên cứu 1
II. Nội dung 2
1.1. Thực trạng 2
1.2. Khó khăn 2
2. Cơ sở lí luận 3
2.1. Khái niệm 3
2.1.1 Khái niệm kĩ năng 3
2.1.2. Khái niệm tự học 4
2.1.3. Khái niệm kĩ năng tự học 4
2.1.4. Khái niệm nhớ 4
2.2. Sự cần thiết phải phát triển kĩ năng 4
2.3. Một số lưu ý khi học sinh tự học 6
3. Biện pháp 6
3.1. Tìm ý cơ bản và tập diễn đạt các ý 6
3.2. Sơ đồ 8
3.3. So sánh 9
3.4. Sử dụng tranh ảnh, lược đồ, bản đồ 10
3.5 Thực hành, luyện tập 11
4. Kết quả 11
III. Kết luận 12
Tài liệu tham khảo 13
Mục lục 14
14

×