Tải bản đầy đủ (.docx) (28 trang)

Đặc điểm, hình thái và vi phẫu của các loài thuộc chi momordica (mướp đắng)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.49 MB, 28 trang )

CHƯƠNG I. MỞ ĐẦU
I.ĐẶT VẤN ĐỀ:
Thực vật xuất hiện khi trái đất còn rất sơ khai. Nó trải qua quá trình tiến hóa lâu
dài theo điều kiện tự nhiên của trái đất, nó đóng vai trò quan trọng đối với sự sống trên
trái đất và nhất là đối với con người, nó cung cấp những sản phẩm quý giá nhất như:
tinh bột, dầu béo, vitamin, đường và các loại thuốc chữa bệnh .Ngoài ra nó còn cung
cấp các nguyên liệu trong công nghiệp như: cao su, gỗ, tinh dầu, nhựa ….
Dù trực tiếp hay gián tiếp thì nó để góp phần xây dựng, cải thiện đời sống con
người.
Ngày nay, để khai thác nguồn lợi thực vật con người đã và đang đi sâu vào nghiên
cứu, khám phá các giá trị của các loài thực vật vào đời sống. Theo điều tra của các nhà
khoa học, cho đến nay đã có trên 2000 loài thực vật đã được con người sử dụng làm
thực phẩm làm thuốc chữa bệnh, làm cây cảnh phục vụ cho đời sống và phát triển kinh
tế, tạo ra hang loạt các dược phẩm có nguồn gốc nhân tạo với tính năng chữa bệnh rất
công hiệu và mang lại kết quả rất nhanh chóng. Nhưng đằng sau đó còn có những hạn
chế, tác dụng phụ … gây ảnh hưởng đến sức khỏe con người. Do vậy khuynh hướng
quay về với thiên nhiên sử dụng những loài thực vật có giá trị dinh dưỡng và dược tính
chữa bệnh đang ngày càng được quan tâm trong đó có các loài thuộc họ bầu bí
(Cucurbitaceae) như: bầu, bí, mướp, gấc, mướp đắng và đặc biệt là các loài thuộc chi
Momordica (mướp đắng) như: cây gấc (Momordica Cochinchinensis), mướp đắng
(Momordica Charantia L), cây khổ qua rừng (momordica Charantia)
Momordica là một chi của khoảng 80 cây thân thảo dạng dây leo sống một năm
hay lâu năm có nguồn gốc ở vùng nhiệt đới Châu Phi và miền nam Châu Á.
Nước ta ở vùng nhiệt đới, thực vật phát triển quanh năm nên việc nghiên cứu các
loài thuộc chi Momordica (mướp đắng) có nhiều triển vọng loài này được con người
sử dụng như một loại thực phẩm thông dụng gần như không thể thiếu trong mỗi gia
đình. Trong y học dược tính của mướp đắng được ứng dụng điều trị các loại bệnh như:
tiểu đường, viêm phổi, sốt cao…, theo nghiên cứu gần đây thì thành phần trong trái
mướp đắng còn có tính diệt khuẩn cao và có cả hiệu lực chống ung thư. Vào năm
1990, Liên Hiệp Quốc đã chọn mướp đắng là một trong sáu cậy thuốc trị bệnh tiêu
biểu trên thế giới ngoài ra còn có cây gấc dầu gấc dung làm thuốc bồi bổ cơ thể, chữa


bệnh khô mắt, dùng bôi lên các vết thương, vết loét, vết bỏng…., cây khổ qua rừng
điều trị trúng nắng, sốt nóng mất nước, hội chứng lỵ…
Ở các địa phương vùng ngoại ô Thành phố Cần Thơ nhân dân ở đây cũng đã quy
hoạch cũng như trồng trong vườn nhà rất nhiều loài cây thuộc họ bầu bí nhằm phục vụ
đời sống song việc nghiên cứu về chúng còn ít phần lớn các nhà nghiên cứu chỉ mới
mô tả về hình thái và dựa vào những đặc điểm về hình thái để phân biệt các chi , về
mặt vi phẫu còn hạn chế chỉ lựa chọn vài cây làm đại diện trên cơ sở đó nên tôi tiến
hành đề tài:’’ Đặc điểm, hình thái và vi phẫu của các loài thuộc chi Momordica
(mướp đắng)’
1


II.MỤC TIÊU ĐỀ TÀI:
-Tìm hiểu những đặc điểm, hình thái, cấu tạo vi phẫu các loài thuộc chi Momordica
(mướp đắng).
-Phát hiện những đặc điểm thích ứng sinh thái của các loài thuộc chi Momordica, từ
đó đề xuất về kỹ thuật gieo trồng các loài có giá trị kinh tế cao.

2


CHƯƠNG II
LƯỢC KHẢO TÀI LIỆU (TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
Ở VIỆT NAM VÀ TRÊN THẾ GIỚI)
I.TRÊN THẾ GIỚI:
Họ bầu bí (Cucurbitaceae) có tới 120 chi và trên 1000 loài. Đây là họ tương đối lớn
và được các tác giả đề cập đến song chưa được nghiên cứu kỹ về giải phẫu bên trong,
mới chỉ mô tả về hình thái bên ngoài.
Trong sách cổ của Trung Quốc như: “Hạ Tiểu Chính” (cách đây hơn 3000 năm) đã
mô tả hình thái và các giai đoạn sống của nhiều loại cây.

Suscơruta viết vào thế kỷ XI trước công nguyên đã mô tả hình thái của 760 loài cây
thuốc.
Théopharaste (371-286) trước công nguyên viết nhiều sách về thực vật như: “lịch sử
thực vật”, “nghiên cứu về cây cỏ”…trong đó lần đầu tiên có đề cập đến các dẫn liệu có
hệ thống về hình thái, cấu tạo cơ thể thực vật cùng với cách sống, cách trồng cũng như
công dụng của nhiều loại cây. Ông đã chia cây ra thành các bộ phận thường xuyên
như: rễ, thân, lá, còn các bộ phận tạm thời là hoa, quả ông còn chú ý đến sự tạo thành
vòng hang năm của gỗ. Nhiều kiến thức về sự phân biệt trong cơ quan dinh dưỡng và
cơ quan sinh sản cũng được nêu lên trong tác phẩm của Théopharaste.
Rober Hook (thế kỷ thứ XVII) đã phát minh ra kính hiển vi. Đây là bước ngoặc lớn
trong khoa học đã mở đầu cho một giai đoạn mới về nghiên cứu cấu trúc bên trong của
cơ thể thực vật.
Debarry vào năm 1877 cho xuất bản cuốn sách “giải phẫu, so sánh các cơ quan dinh
dưỡng. Nhờ sự phát minh ra kính hiển vi điện tử người ta nghiên cứu được cấu trúc
siêu vi của tế bào.
Kết quả nghiên cứu giải phẫu của nhiều tác giả trên thế giới đã được tập hợp lại
trong một cuốn sách: “Giải phẫu các cây hai lá mầm và một lá mầm” của Met Campơ
và Sancơ, “gải phẫu thực vật”, của Esâu.
II.Ở VIỆT NAM
Việc nghiên cứu hình thái, vi phẫu thực vật học còn ít. Có một số tác giả đã nghiên
cứu và đề cập đến như: Lê Khả Kế đã đề cập trong cuốn sách “Thực vật đại cương”,
tiếp đến là công trình nghiên cứu hình thái-giải phẫu thực vật của Hoàng Thị Sản và
Trần Văn Ba, ngoài ra còn có các công trình nghiên cứu thực vật học của Vũ Văn
Chuyên (1970), Cao Thúy Chung (1975) và Nguyễn Bá (1974-1975). Nhìn chung các
công trình nghiên cứu mới dừng lại ở mức tổng thể, đại cương về lý luận.

3


III.Ở CẦN THƠ

Tại trường Đại Học Tây Đô các công trình nghiên cứu về thực vật đã được tiến hành
nhiều năm nay. Các đề tài của giáo viên, sinh viên và các học viên cao học hàng năm
phục vụ nghiên cứu và đào tạo.
Tuy vậy, việc nghiên cứu cụ thể của một họ quan trọng như họ bầu bí và các loài cụ
thể trong một chi thì chưa có tác giả nào đề cập đến.

4


CHƯƠNG III
ĐỐI TƯỢNG, ĐỊA ĐIỂM, THỜI GIAN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN
CỨU
I.ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU:
Đề tài có đối tượng nghiên cứu như sau:
Nghiên cứu đặc điểm hình thái và giải phẫu các cơ quan như thân, rễ, lá, các cây
trưởng thành (hoa, quả) của một số cậy đặc trưng như: cây gấc, cây mướp đắng, cây
khổ qua rừng …ở Thành Phố Cần Thơ và các vùng phụ cận.
II.ĐỊA ĐIỂM NGHIÊN CỨU:
Các mẫu nghiên cứu được thu tại Thành Phố Cần Thơ và một số vùng phụ cận như:
Phong Điền, Bình Thủy.
III.THỜI GIAN NGHIÊN CỨU: Nhận đề tài từ ngày 2 tháng 2 năm 2018 hoàn
thành từ ngày đầu tháng 4 năm 2018.

IV. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Trong suốt quá trình nghiên cứu tôi sử dụng những phương pháp sau:
1. Phương pháp thu mẫu ngoài thực địa:
Chúng tôi tiến hành thu mẫu ở Thành Phố Cần Thơ và các vùng phụ cận như Phong
Điền, Bình Thủy.
1.1Cách thu mẫu:
Chọn những mẫu cây trưởng thành có hoa, quả và các mẫu tương đối đồng điều với

nhau. Mẫu thu phải có đầy đủ các cơ quan như: rễ, thân, lá, hoa, quả. Khi lấy mẫu tôi
ghi chép lại những đặc điểm những hình thái dễ mất, sau đó chụp ảnh mẫu vật, sau đó
ta cho vào túi polyetylen đem về để xử lý mẫu tơi và làm tiêu bản giải phẫu.
1.2.Quan sát mẫu và đo kích thước bên ngoài
Tôi quan sát trực tiếp bằng mắt thường và bằng kính lúp cầm tay để quan sát, dùng
thước mét thông thường để đo chiều dài của mẫu vật.
1.3.Xử lý mẫu
Mẫu thu về được xử lý bằng cồn 90 độ hoạc foocmon 5% và một phần được giải
phẫu nghiên cứu luôn trong phòng thí nghiệm.
2.Phương pháp nghiên cứu trong phòng thí nghiệm:
Mẫu thu về được xử lý dùng để giải phẫu sau ta tiến hành làm tiêu bản để quan sát.
2.1 Phương pháp giải phẫu
5


Chúng tôi chủ yếu dùng lõi dao lam, dao cắt hoa quả thông thường để tiến hành giải
phẫu các cơ quan (rễ, thân, lá) theo lát cắt ngang. Lát cắt ngang thật mỏng đạt tiêu
chuẩn thì quan sát mới hiệu quả.
2.2.Phương pháp làm tiêu bản hiển vi
(Theo Hoàng Thị Sản “Hình thái giải phẫu học thực vật” nhà xuất bản Giáo Dục,
Nguyễn Bá “Sách hướng dẫn thực hành thực vật” nhà xuất bản Giáo Dục năm 1962).
2.2.1.Chọn mẫu:
Thường là mẫu tươi hoặc mẫu ngâm trong cồn .Đối với mẫu vật là lá thì hình dạng
lá phải còn nguyên vẹn, chọn những lá không già quá nhưng cũng không non quá (lá
bánh tẻ). Đối với mẫu vật là cành, thân hoặc rễ cây thì nên chọn những đoạn tương đối
thẳng, có đường kính từ 0,1 - 0,5cm. Các mẫu khô nên được luộc hay ngâm nước sôi
trước khi cắt, thời gian ngâm hay luộc tùy thuộc vào mức độ rắn chắc của mẫu vật.
2.2.2. Phương pháp bóc hoặc cắt mẫu và soi khí khổng
Để quan sát cấu tạo bên trong của những cơ quan thực vật chúng ta thực hiện
phương pháp bóc hoặc cắt lát mỏng bằng tay và nhuộm hai màu với các cơ quan cắt ra

thành từng khoanh mỏng (vi phẫu ) trước khi quan sát.
 Phương pháp bóc:

Dùng kim mũi mác rạch đứt một đường nông trên bề mặt cần bóc, sau đó
bóc lấy một lớp tế bào biểu bì của lá cây; đặt tiêu bản lên giữa phiến kính đã nhỏ sẵn
một giọt dung dịch lên tiêu bản (nước cất hoặc glycerin ) rồi đậy lá kính lại ( theo
phương pháp giọt ép ) và quan sát dưới kính hiển vi.
 Phương pháp cắt mỏng bằng tay.

Quy trình thực hiện theo trình tự các bước sau:
 Cắt khoanh khoai lang hoặc cà rốt thành khoanh dày khoảng 2cm dùng để làm










thớt.
Đặt cơ quan (rễ, thân, lá) lên “thớt”; giữ chặt cơ quan trên thớt giữa ngón cái và
ngón trỏ bàn tay trái hay ngược lại.
Tay phải cầm lưỡi lam mới đặt thẳng vuông gốc vào cơ quan, cắt xuống thành
từng lát mỏng bằng cách kéo về mình.
Chú ý:
Cơ quan trước khi cắt nên đặt trong nước để khỏi bị khô héo
Lát cắt càng mỏng càng tốt, khi cắt phải kéo lưỡi lam theo một chiều nhất định,
tránh kéo lưỡi lam qua lại nhiều lần và phải cắt nhiều lát để dễ lựa chọn.

Lát cắt phải luôn thẳng vuông gốc với trục cơ quan, mẫu khi cắt được vài lát,
phải kiểm tra lại mặt cắt: nếu thấy xéo phải cắt bỏ phần xéo rồi mới tiếp tục cắt.
Lát cắt phải chon ngay vào dung dịch thích hợp ( nước, nước javel,…) bằng
cách dùng kim mũi giáo gở nhẹ lớp dính trên khoai lang hoặc trên lưỡi lam và
cho vào đĩa đồng hồ đã để sẵn dung dịch.
Mẫu vật có thể cắt ngang hay cắt dọc tùy theo yêu cầu quan sát.
6







Vị trí cắt:
Rễ cắt ở miền long hút hoặc miền tăng trưởng.
Thân cắt giữa 2 mấu.
Lá cắt ngang vùng gân chính gần cuống lá, không cắt ở ngọn lá.
 Phương pháp làm tiêu bản soi khí khổng

Dùng kim mũi mác bóc lớp tế bào mặt trên và và mặt dưới của lá đặt lên lam kính
tiếp đến nhỏ một giọt nước cất đậy la men lại rồi lên kính quan sát (nếu khí khổng
đóng dùng Glyxerin nhỏ vào để cho khí khổng mở) quan sát.
2.2.3..Làm tiêu bản hiển vi tạm thời:
Lau sạch phiến kính, lá kính sau đó nhỏ một giọt nước Glyxerin hoặc nước cất giữa
phiến kính, sau đó ta đặt mẫu vật cần quan sát vào giữa giọt chất lỏng đó, đậy lá kính
lại và đem lên quan sát trên kính hiển vi.
2.2.4..Làm tiêu bản hiển vi cố định.
Để giữ tiêu bản giải phẫu trong thời gian dài, chúng tôi tiến hành làm tiêu bản cố
định mẫu vật. Thông thường dùng Bomcanada pha loãng trong Xylen với tỷ lệ 2/1

hoặc 1/1 để làm môi trường cố định vi mẫu.
Cách làm: Sau khi cắt vi phẫu (mẫu vật) phải ngâm và tẩy sạch bằng nước Javen rồi
dùng axit axetic loãng để rửa mẫu, sau đó rửa lại bằng nước cất, ngâm mẫu vật vào
trong cồn 15 đến 20 phút sau chuyển sang ngâm cồn 96 độ cùng thời gian trên. Sau đó
chuyển vào Xylen nguyên chất 2 lần, mỗi lần 10 phút.
Gắn tiêu bản: Nhỏ lên phiến kính một giọt Bomcanada sau đó để mẫu vật được xử
lý (có thể nhuộm đơn hoặc nhuộm kép) vào giữa giọt Bomcanada và đậy phiến kính
lại để nơi khô ráo thoáng mát.
2.3.Phương pháp nhuộm kép bằng đỏ cacmin và xanhmetylen
Các bước tiến hành:
-

Ngâm mẫu vật vừa cắt vào trong nước Javen 15 đến 20 phút.
Rửa trong nước axit axetic 1% trong 2 phút đẩ tẩy sạch hypoclorit có trong
nước Javen.
Rửa thật kỹ lại bằng nước cất ít nhất 3 lần.
Ngâm lát cắt trong Xanhmetylen từ 1 đến 5 giây.
Rửa bằng nước cất 2 đến 5 phút.
Ngâm trong đỏ Cacmin từ 15 đến 20 phút.
Rửa bằng nước cất thật kỹ sau đó ta lên kính bằng nước Glyxerin.

2.4. Phương pháp nhuộm 2 màu
Khi vi phẫu được nhuộm bằng dung dịch phẩm nhuộm hai màu son phèn – lục
iod (carmin aluné – vert d’iod), son phèn sẽ nhuộm màu hồng vách tế bào bằng
cellulose và lục iod nhuộm xanh vách tế bào tẩm mộc tố.

7




-

Các bước tiến hành:
Mẫu vật sau khi được cắt thành lát mỏng lần lượt ngâm vào các dung dịch sau:
Ngâm vào nước javel 15 phút để loại bỏ nội dung tế bào.
Rửa nước cho sạch javel (ít nhất 3, 4 lần).
Ngâm vào Acid acetic 5 phút để tiếp tục loại bỏ nội dung tế bào và làm sạch
nước javel còn sót lại.
- Rửa nước (ít nhất 3, 4) lần cho đến khi không còn mùi acid acetic.
- Nhuộm bằng phẩm nhuộm Son phèn – lục iod 10 phút.
- Rửa nước cho sạch phẩm nhuộm và giữ mẫu vi phẫu trong nước.
 Chú ý:
Luôn luôn để vi phẫu trong mặt kính đồng hồ, chỉ dùng ống nhỏ giọt để rửa
thay đổi nước hay dung dịch trong đĩa. Tuyệt đối không nên dùng kim nhọn
đụng vào vi phẫu vì khi đó các vi phẫu sẽ bể và khó quan sát (học sinh không
còn thời gian để thực hiện cắt nhuộm lại).
2.5. Phương pháp chụp ảnh qua kính hiển vi.
Sau khi quan sát ta chọn tiêu bản rõ nhất để chụp ảnh tùy thuộc vào kích thước
và các thành phần mà ta quan sát chụp ảnh ở độ phóng đại khác nhau.
Dùng kính hiển vi với độ phóng đại từ 600 – 1000 lần để lắp máy ảnh chụp.
Chụp hết các cấu trúc cần.

8


CHƯƠNG IV
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
I. ĐẶC ĐIỂM CHUNG CỦA CÁC LOÀI THUỘC CHI MOMORDICA
Sống bò hoặc leo nhờ tua cuốn, lá đơn, mọc cách, không có lá kèm. Hoa đơn tính
cùng gốc hoặc khác gốc, đều mẫu 5. Đài gồm 5 lá đài, có khi dính nhau, tràng có hoa 5

cánh hoa, thường dính nhau, nhị 5, rời hoặc dính. Bộ nhụy gồm 3 lá noãn dính thành
bầu hạ rất đặc trưng bởi có bầu hạ và có quả mọng đặc biệt.
Hoa đực có công thức là và hoa cái có công thức là :
II. ĐẶC ĐIỂM HÌNH THÁI VÀ ĐẶC ĐIỂM VI PHẪU CÁC LOÀI THUỘC CHI
MOMORDICA
1. Cây mướp đắng
- Ngành: Ngọc lan (Magnoliophyta)
- Lớp: Ngọc lan (Mangnoliopsida)
- Bộ: Bầu bí (Cucurbitales)
- Họ: Bầu bí (Cucurbitaceae)
- Chi: Mướp đắng (Momordica)
- Tên Khoa Học: Momordica Charantia Linn.
- Tên gọi khác: Khổ qua, lương qua, cẩm lệ chi.
1.1 Phân bố:
Chi mướp đắng (Momordica) là một chi của khoảng 60 loài dây leo thân thảo
sống một năm hoặc nhiều năm thuộc họ bầu bí. Chi này có nguồn gốc bản xứ ở
vùng nhiệt đới Châu Á hoặc Châu Phi nhưng không rõ nguồn gốc ở nước nào.
Mướp đắng là một loại dây leo mọc ở vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới , được trồng
rộng rãi ở Ấn Độ, Pakistan, Nam Phi, Đông Nam Á, Trung Quốc, Châu Phi và
vùng Caribe. Ở Việt Nam mướp đắng được trồng ở khắp nơi, nhưng nhiều nhất là ở
Miền Nam
1.2. Đặc điểm hình thái
- Thân: Cây mướp đắng là một loại dây leo, thân màu xanh lợt có gốc cạnh, ở
ngọn có long tơ, cây mướp đắng có đời sống khoảng một năm. Kích thước dây
mướp đắng khoảng bằng ngón tay út, dây bò từ 5-7m, dây leo được nhờ nhiều tua
cuốn. (Hình 1.2)
- Lá: đơn nhám, mọc so le, dài 5-10cm, rộng 4-8cm, phiến lá chia 5-7 thùy hình
trứng, mép có rang cưa đều, mặt dưới lá có màu xanh nhạt hơn mặt trên, gân lá nổi
rõ ở trên mặt dưới, phiến lá có long ngắn. (Hình 1.2)


9


- Hoa: mộc đơn độc ở kẻ lá, hoa đực, hoa cái cùng gốc, có cuống dài, cánh hoa màu
vang nhạt, đường kính của cánh hoa chừng 2cm, hoa đực có ống dài ngắn, tràng
gồm 5 cánh mỏng hình bầu dục, nhị (nhụy) rời nhau. Hoa cái có đài và tràng giống
với hoa đực. (Hình 1.2)
- Trái: hình thoi dài 8-15 cm, gốc và đầu thon nhọn, trên mặt vỏ quả có nhiều u sần
sùi nổi lên to nhỏ không đồng đều. Trái chưa chin có màu vàng xanh, khi chin có
màu vàng hồng. Vì thế ở Trung Quốc mướp đắng (khổ qua) còn có tên là hồng
dương, hồng cô nương. Khi chin, trái tét từ đầu ra, tách ra làm 3 phần. (Hình 1.2)
Trái mướp đắng có nguồn vitamin C khá phong phú cùng với nhiều loại axit cần
thiết cho cơ thể con người. Trái mướp đắng khi còn xanh chứa 188g vitamin C
trong 100g phần ăn được, nếu để chin tỷ lệ vitamin C còn một nữa.
Trái mướp đắng khi nấu mất đi 40% lượng vitamin này. Ở Ấn Độ và Philipin
người ta còn dùng ngọn non và lá non của dây mướp đắng để làm rau ăn.
Hạt mướp đắng dẹt dài 13 - 15mm, rông 7 - 8mm, trông gần giống hạt bí ngô
nhưng có khứa và màng bao bọc, quanh hạt khi chin màng có màu đỏ máu như
màng gấc. (Hình 1.2)

A

B

C

D

10



E

F

Hình 1.2 .Đặc điểm hình thái cây mướp đắng (Momordica Charantia Linn)
A.Thân cây mướp đắng, B. Hoa cây mướp đắng, C. Trái mướp đắng, D. Trái mướp
đắng chin, E. Lá cây mướp đắng, F. Hạt cây mướp đắng
1.3.Thành phần hóa học:
- Theo tài liệu của Trường Đại Học Purdue về các loại rau quả Châu Á nhập vào
Mỹ, khổ qua có nhiều nước, protein, lipid, carbohydrat, vitamin A, B1, B2, C, khoáng
chất như Calcium, Potassium, magné, sắt, kẽm.
- Theo phân tích của Bộ Nông Nghiệp Hoa Kỳ, thành phần dinh dưỡng trong 100
gam quả khổ qua tươi (phần vỏ quả) có các chất như sau: (nguồn Cơ sở dữ liệu bộ
Nông Nghiệp USDA)
Năng lượng
Carbohydrat
Đường
Chất xơ thực phẩm
Chất béo
Chất béo no
Chất béo không no đơn
Chất béo không no đa
Protein
Nước
Vitamin A equiv.
Thiamin (Vit.B1)
Riboflavin (Vit.B2)
Niacin (Vit.B3)
Vitamin B6

Axit folic (Vit.B9)
Vitamin B12
Vitamin C
Vitamin E
Vitamin K
Canxi

79 kJ (19 kcal)
4.32 g
1.95 g
2.0 g
0.18 g
0.014 g
0.033 g
0.078 g
0.84 g
93.95 g
6 µg (1%)
0.051 mg (4%)
0.053 mg (4%)
0.280 mg (2%)
0.041 mg (3%)
51 µg (13%)
0 µg (0%)
33.0 mg (55%)
0.14 mg (1%)
4.8 µg (5%)
9 mg (1%)
11



Sắt
0.38 mg (3%)
Magie
16 mg (4%)
Phospho
36 mg (5%)
Kali
319 mg (7%)
Natri
6 mg (0%)
Kẽm
0.77 mg (8%)
Bảng 1.3 Thành phần dinh dưỡng trong 100 gam mướp đắng tươi
1.4.Dược tính:
Khả năng hạ đường huyết: được nghiên cứu, chứng minh ở thú vật và
người. Thành phần tạo ra tính hạ đường trong mướp đắng gồm charantin, Polypeptid-P
và Vicine. Cơ chế tác dụng bao gồm giảm đường huyết và cải thiện dung nạp glucose.
Nghiên cứu hạ đường ở thú vật được thực hiện ở chuột và thỏ cải thiện dung nạp
glucose, giữ được tính hạ đường sau khi ngưng dùng mướp đắng 15 ngày đồng thời
giảm luôn cholesterol.
Cơ chế đề nghị là tạo được tế bào beta, tăng hấp thụ glucose vào mô, tổng hợp
glycogen trong gan và cơ bắp, tạo triglyceride trong mô mỡ và tân tạo glucose
(gluconeogenesis). Một báo cáo khác đưa ra cơ chế tăng sử dụng đường trong gan thay
vì tăng tiết insulin. Nghiên cứu enzym gan chứng minh hoạt động hạ đường của mướp
đắng không cải thiện dung nạp đường ở chuột, nhưng ức chế thành lập glucose trong
máu do ức chế enzym glucose-6- phosphstase và fructose-1, 6-biphosphatase, đồng
thời tăng cường oxýt hóa glucose qua lối G6PDH. Tác dụng hạ đường cũng có sự tham
dự của cytochrome P450 và glutathiose-S- transferase ở gan chuột bị bệnh tiểu đường.
Một báo cáo cho thấy mướp đắng làm chậm tiến trình bệnh võng mạc (biến chứng

bệnh tiểu đường) ở chuột bị tiểu đường khi uống cao quả mướp đắng. Nhưng ít nhất
cũng có một nghiên cứu trên động vật không thấy tác dụng hạ đường ở chuột bị bệnh
tiểu đường khi cho uống dạng bào chế đông khô mướp đắng trong 6 tuần.
Mướp đắng cải thiện dung nạp đường ở người. Một nghiên cứu thực hiện ở 18
người tiểu đường loại II thành công 73% khi dùng nước ép mướp đắng. Một báo cáo
khác cho biết giảm 54% lượng đường sau bữa ăn, và giảm 17% lượng hemoglobin
A1C ở 6 bệnh nhân dùng 15g dịch chiết mướp đắng. Thử nghiệm dùng nước ép tươi
quả mướp đắng ở 160 bệnh nhân kiểm soát được bệnh tiểu đường. Mướp đắng không
làm insulin tiết ra nhưng tăng sử dụng carbohydrate. Phytomedicine năm 1966 mô tả
tính chữa bệnh tiểu đường của mướp đắng trong ống nghiệm, trên thú vật và người, cơ
chế tác dụng và thành phần hóa học của mướp đắng.
-

Tính kháng khuẩn:

Cao rể và lá có tính kháng khuẩn. Một nghiên cứu báo cáo cao mướp đắng có tính trụ
tế bào 33,4% và momorcharin có tính chống u bướu và có thể ức chế tổng hợp protein.
Tương tự, cây ức chế sinh sản siêu vi gồm polio, herpes simplex I và HIV. Một nghiên
cứu mướp đắng kháng khuẩn pseudomonas nhưng không hứa hẹn trong toàn nghiên
cứu. Tính chống siêu vi cũng được tái xét.Tính độc hại di thể (gemotoxic effects):
Mướp đắng phá hoại di thể Aspergillus mudulans và độc với tế bào ung thư máu.
12


-

Tính chống thụ thai:

Một protein trong cây mướp đắng có hoạt tính chống sinh sản ở chuột đực. Uống cao
quả mướp đắng 1,7 gam/ngày làm tinh hoàn chó đực bị thương tổn và giảm khả năng

sinh tinh trùng. Ở chuột cái, tác dụng chống khả năng thụ thai thuận nghịch.
Momorcharin có khả năng làm hư thai. Chuột và thỏ có thai bị xuất huyết tử cung khi
uống nước mướp đắng, nhưng không xảy ra ở chuột không có thai. Quả chín được bảo
có tính sinh kinh nguyệt.
-

Những tính chất khác:

Tính giảm đau và chống viêm phụ thuộc liều lượng thấy ở chuột như đầy hơi, loét, khó
tiêu, táo bón, kiết lỵ hay trĩ. Chữa các bệnh ngoài da như nhọt, phỏng, nhiễm trùng,
ghẻ, bệnh vẩy nến. Mướp đắng còn dùng như là chất diệt côn trùng, và có tính hạ áp
huyết.
1.5. Đặc điểm vi phẫu:
Rễ:

13


2. Cây Mướp đắng rừng.

- Ngành: Ngọc lan (Magnoliophyta)
- Lớp: Ngọc lan (Mangnoliopsida)
- Bộ: Bầu bí (Cucurbitales)
- Họ: Bầu bí (Cucurbitaceae)
- Tên khoa học: Momordica Charantia L.var.abbreviata Ser.
- Tên gọi khác: Khổ qua rừng, lương qua, cẩm lệ chi
2.1. Phân bố.
Mướp đắng là loài cây hoang dại của vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới khắp các
châu lục. Từ thời xa xưa, Mướp đắng được trồng lần đầu tiên ở Đông Ấn và Nam
Trung Quốc, được sử dụng như loại rau quả giàu chất sắt và vitamin C. Sau đó cây

được du nhập sang châu Phi và châu Mỹ Latinh. Mướp đắng phân bố khá rộng rãi ở
miền Nam Trung Quốc (Phúc Kiến, Quảng Đông, Quảng Tây…), một số nước Nam Á
như Ấn Độ, Malaysia… Ở Việt Nam, có thể thấy cây Mướp đắng rừng ở khu vực các
tỉnh trung du và miền núi, miền Đông Nam Bộ như Tây Ninh, Đồng Nai, Bình Phước,
Bà Rịa- Vũng Tàu và khu vực Tây Nguyên.
Cây sinh trưởng nhanh trong mùa mưa ẩm, hoa thụ phấn chủ yếu nhờ côn trùng. Sau
khi trái già, cây sẽ tàn lụi và kết thúc vòng đời sau 4-5 tháng tồn tại. Hiện nay, Mướp
đắng rừng vẫn còn tồn tại chủ yếu ở dạng quần thể mọc hoang tuy nhiên ở một số nơi
đã được gieo trồng, thu hoạch.
2.2. Đặc điểm hình thái.
- Thân: Dây leo bằng tua cuốn. Tua cuốn không phân nhánh, dạng sợi mảnh, dai, màu
xanh lục nhạt, phủ nhiều lông trắng mịn, mọc ở nách lá. Thân non màu xanh lục nhạt,
có tiết diện đa giác, phủ đầy lông trắng mịn, thân già có màu xanh lục đậm.(Hình 2.2)
- Lá: đơn, mọc so le, không có lá kèm. Phiến lá có lông nhám và có thùy dạng chân
vịt, thùy hình bầu dục, đầu thùy nhọn hoặc hơi tù, mép có răng cưa cạn đầu nhọn, thùy
giữa kích thước 3-4 x 2,5-3 cm, các thùy bên kích thước 2,5-3,5 x 2-2,5 cm. Phiến lá
màu xanh lục ở đậm ở mặt trên, nhạt ở mặt dưới. Gân lá hình chân vịt với 5 gân chính
nổi rõ ở mặt dưới, các gân phụ tạo thành hình mạng. Trên gân chính phủ đầy lông dài
trắng mịn, gân mặt dưới nhiều lông hơn gân mặt trên. Cuống lá màu xanh lục nhạt,
mặt trên lõm có hai mép màu xanh lục đậm, mặt dưới lồi và có nhiều lông hơn mặt
trên, dài 2,5-3 cm. Hệ thống ở nách lá gồm các cơ quan: 1 chồi, 1 tua cuốn, 1-2 hoa
đực hoặc 1-2 hoa cái. (Hình 2.2)
- Hoa: mọc riêng lẻ ở nách lá, đơn tính cùng gốc, đều, mẫu 5.
Hoa đực: cuống hoa màu xanh lục nhạt, dài 6-8 cm, phủ đầy lông trắng mịn. Lá bắc
cách gốc cuống hoa 2-3 cm, không cuống, hình thận, màu lục đậm mặt trên, nhạt mặt
dưới, kích thước 0,7-0,9 x 0,5-0,7 cm, gân lá hình chân vịt với 5 gân chính, gân giữa
nổi rõ ở mặt dưới, các gân phụ tạo thành hình mạng, hai mặt đều phủ lông trắng. Lá
14



đài 5, đều, ống đài hình chuông, màu xanh nhạt, cao 0,2-0,3 cm, trên chia 5 phiến hình
bầu dục nhọn ở đầu, màu vàng nhạt, dài 0,3-0,5 cm, 2 mặt có gân dọc và nhiều lông
trắng ngắn. Tiền khai đài 5 điểm. Cánh hoa 5, đều, rời nhưng dính với ống đài, phía
dưới thuôn, phía trên loe rộng, cánh hoa hơi nhăn, màu vàng, kích thước 0,6-0,8 cm x
1,2-1,4 cm, có 6-7 gân chính màu xanh nhạt tỏa ra từ đáy và nổi rõ ở mặt dưới, gân
phụ tạo thành hình mạng, 2 mặt cánh hoa có lông tơ trắng, ngắn. Tiền khai cánh hoa 5
điểm. Nhị 3, đều, chụm lại ở giữa hoa và dính nhau ở bao phấn, chỉ nhị rời, màu trắng,
dài khoảng 0,1-0,2 cm, 2 nhị mang bao phấn 2 ô, 1 nhị mang bao phấn 1 ô. Bao phấn
dạng khúc khuỷu, màu vàng, cao khoảng 0,25 cm, nứt dọc, đính đáy. Hạt phấn rời,
màu vàng cam, hình bầu dục, có rãnh.
Hoa cái: cuống hoa giống cuống hoa đực nhưng ngắn hơn. Lá bắc giống lá bắc hoa
đực, cách gốc cuống hoa 1-2 cm. Lá đài 5, đều, hình bầu dục khum nhọn ở đỉnh, dính
nhau một đoạn 0,1 cm tạo thành hình đĩa, phía trên chia thành 5 phiến, màu xanh lục
nhạt. Tiền khai đài 5 điểm. Cánh hoa giống cánh hoa đực nhưng nhỏ hơn, dễ rụng.
Nhụy có 3 lá noãn, bầu dưới 3 ô, mỗi ô mang nhiều noãn. Bầu noãn hình bầu dục
thuôn ở hai đầu, bề mặt gồ ghề, phần gồ lên nhọn, phủ nhiều lông, dài 1-1,2 cm, đường
kính 0,2-0,4 cm. 1 vòi nhụy hình trụ màu xanh nhạt cao 0,3-0,5 cm, 3 đầu nhụy màu
vàng, mỗi đầu nhụy chia thành 2 thùy dạng chữ V. (Hình 2.2)
- Quả: thịt, hình bầu dục thuôn hẹp hai đầu, khi non màu xanh lục khi chin màuvàng
cam, bề mặt gồ ghề, kích thước 2,5-3,0 x 1,5-1,7 cm.
- Hạt: nhiều, màu trắng, hình bầu dục dẹt, một đầu nhọn, khi chín nhớt, có màng đỏ
bao quanh.

15


A

B


C

D
Hình 2.2 Đặc điểm hình thái khổ qua rừng (Momordica Charantia
L.var.abbreviata. Ser) A.Thân, B. Hoa, C. Quả sống, D. Qủa chín
2.3.Thành phần hóa học.

Theo các tài liệu đã công bố về thành phần hóa học của Mướp đắng là những
triterpen thuộc nhóm cucurbitan, olean và ursan tồn tại cả dưới dạng aglycon và
glycosid. Các thành phần này có mặt trong các bộ phận của cây nhưng nhiều nhất là
trong thân lá và quả của cây. Các triterpen thuộc nhóm cucurbitan và nhóm ursan từ
quả, lá Mướp đắng được các nghiên cứu ở Nhật công bố: momordicin, momordicinin,
momordicilin. Các triterpen thuộc nhóm olean là erthrodiol và một số khác được tìm
thấy trong hạt Mướp đắng.
Một số lượng lớn cucurbitan glycosid cũng đã được xác định cấu trúc:
momordicosid A, B, C, D, E,… trong đó hai chất được xác định là mang lại vị đắng là
momordicosid K và L, các momordicin: momordicin I, II, III…các saponin thuộc
nhóm olean và đặc biệt là charantin cũng đã được công bố cùng với hoạt tính kháng
ĐTĐ của hoạt chất này. Các acid amin: acid aspartic, threonin, serin, acid glutamic,
prolin, alanin, glycin, valin, cystein, phenylalanin, histidin, lysin, arginin … Các sắc tố
lycopen, vitamin, chất khoáng như Ca, Mg, Fe, Cu, Zn, P, N…, các alcol, aldehyd,
acid béo…
16


2.4. Dược tính.
Mướp đắng rừng có nhiều dược tính có giá trị đã được các nhà khoa học trên thế
giới nghiên cứu và chứng minh.
- Điều trị đái tháo đường:
Việc điều trị ĐTĐ bằng Mướp đắng được khẳng định có triển vọng. Các tác giả Ali L.,

Khan A. K., Mamum M. I. … đã thử nghiệm hiệu quả hạ đường huyết của dịch chiết
từ quả, hạt, toàn cây Mướp đắng trên chuột ĐTĐ thấy có kết quả rõ rệt [15]. Min– Jia
Tan và cộng sự đã chiết tách momordicosid Q, R, S, và T từ Momordica charantia, sau
đó nghiên cứu tác dụng trị ĐTĐ và béo phì của các chất này. Kết quả cho thấy các
momordicosid làm tăng quá trình oxy hoá acid béo và glucose trên cả chuột còn nhạy
cảm insulin và chuột đề kháng insulin do kích thích GLUT4, bước cần thiết cho cảm
ứng glucose vào tế bào. Điều này có liên quan với các hoạt động tang AMP-activated
protein kinase (AMPK), một con đường trung gian hấp thu glucose và quá trình oxy
hoá acid béo.
- Kháng khuẩn, kháng virus:
Nghiên cứu in vitro cho thấy chất chiết xuất từ Mướp đắng điển hình protein MAP30
được phân lập từ những hạt của Mướp đắng có hoạt động kháng sinh phổ rộng. Dịch
chiết cây Mướp đắng ức chế sự phát triển của nhiều vi khuẩn gram âm và gram dương
E.coli,Salmonella,Shigella,Staphylococcus,Pseudomonas,Streptobacillus,Streptococcu
s, Helicobacter pylori, ký sinh trùng E. histolytica và Plasmodium falciparum, ức chế
sự nhiễm và tăng trưởng của một số virus, bao gồm cả HIV, Herpes simplex…
- Chống ung thư:
Mặc dù các thử nghiệm lâm sàng sử dụng chiết xuất Mướp đắng ở những bệnh nhân
ung thư chưa được thực hiện nhưng các nghiên cứu in vitro cho thấy chiết xuất từ quả
và hạt Mướp đắng có khả năng ức chế sự tăng trưởng của một số dòng tế bào ung thư,
bao gồm ung thư tuyến tiền liệt, ung thư ruột kết và các di căn ung thư vú dòng tế bào
MDAMB 231.
- Kháng viêm, giảm đau:
Saponin momordin I và aglycon tương ứng là acid oleaneolic được biết là các chất có
tác dụng chống viêm, giảm đau. Dịch chiết quả Mướp đắng có tác dụng ức chế vi
khuẩn H. pylori, một vi khuẩn gây ra bệnh loét dạ dày, tá tràng. Mướp đắng đã được
chứng minh có tác dụng chống loét dạ dày trên chuột do rượu gây ra sau khi dùng
indomethacin.
2.5. Đặc điểm vi phẫu
Rễ:

Vi phẫu rễ tròn. Bần 2-3 lớp tế bào hình chữ nhật, vách tẩm bần mỏng có thể bong
tróc. Nhu bì, 1-2 lớp tế bào hình chữ nhật. Mô mềm đạo, 2-3 lớp tế bào hình đa giác,
kích thước không đều, xếp lộn xộn, rải rác có những cụm mô cứng, ở rễ càng già các
cụm mô cứng xuất hiện nhiều hơn. Hệ thống dẫn không liên tục thường có 3-5 vùng
17


libe-gỗ. Libe 1 khó nhận diện, libe 2 có tế bào hình chữ nhật, xếp xuyên tâm, trong
vùng libe có nhiều mạch rây to, rõ. Gỗ 2 chiếm tâm và không liên tục, các tia tủy rộng;
mạch gỗ gần tròn, kích thước to, nhiều, xếp lộn xộn; mô mềm gỗ 2 có các tế bào hình
đa giác vách tẩm chất gỗ. Tia tủy rộng, 4-8 dãy tế bào hình bầu dục hẹp, dài, vách
cellulose.
Thân:
Vi phẫu thân non hình ngũ giác với 5 góc lồi và 5 cạnh lõm. Biểu bì tế bào hình chữ
nhật hay hơi đa giác, rải rác có lỗ khí đôi khi nhô cao hơn so với tế bào biểu bì. Nhiều
lông che chở đa bào 1 dãy rất dài (8-10 tế bào). Ít lông tiết, có 2 dạng: dạng chân đơn
bào, đầu 4 tế bào và dạng chân đa bào (2 tế bào), đầu đa bào hình bầu dục (4 tế bào).
Mô dày góc chỉ có ở góc vi phẫu, 5-7 lớp tế bào hình bầu dục, gần tròn hay hơi đa
giác, kích thước không đều nhau, xếp lộn xộn. Mô mềm đạo, 3-5 lớp tế bào 34 hình
bầu dục, kích thước không đều nhau, xếp lộn xộn. Vòng mô cứng là lớp tế bào hình đa
giác gián đoạn ở thân già và liên tục quanh thân non, dày ở góc vi phẫu (4-6 lớp tế
bào), mỏng ở các cạnh (3-4 lớp tế bào), 2-3 lớp tế bào bên trong kích thước lớn hơn
các lớp bên ngoài. Hệ thống dẫn gồm 2 vòng bó libe-gỗ kiểu chồng kép, vòng ngoài
gồm 5 bó nhỏ ở các góc, vòng trong có 5 bó lớn ở các cạnh. Mỗi bó dẫn gồm có: libe 1
hình dạng méo mó do bị libe 2 ép dẹp. Libe 2, mạch rây to và rõ, các tế bào mô mềm
khá đều, xếp xuyên tâm. Mạch gỗ 2 tiết diện gần tròn, mô mềm gỗ 2 có tế bào hình đa
giác vách tẩm chất gỗ. Gỗ 1 rõ, 9-10 bó, mô mềm gỗ 1 có tế bào hình đa giác vách
cellulose. Cụm libe trong, vài lớp tế bào trong cùng bị ép dẹp. Mô mềm tủy đạo, hẹp,
tế bào hình bầu dục hay đa giác, kích thước không đều, xếp lộn xộn.
Lá:

Gân giữa: Lồi ở cả 2 mặt, mặt trên tạo thành chóp. Biểu bì tế bào hình chữ nhật, lớp
cutin ở biểu bì dưới có răng cưa, dày hơn biểu bì trên. Lông che chở đa bào giống ở
thân, nhiều hơn ở biểu bì trên. Lông tiết ít, thường gặp ở biểu bì trên. Mô dày góc trên
(4-5 lớp tế bào), mô dày dưới (2-3 lớp tế bào), tế bào gần tròn hay bầu dục, kích thước
không đều, xếp lộn xộn. Mô mềm đạo, tế bào gần tròn hay hơi đa giác, kích thước
không đều, xếp lộn xộn. Tiếp giáp với hệ thống dẫn libe-gỗ là cụm tế bào đa giác nhỏ
vách cellulose xếp khít nhau. Hệ thống dẫn cấu tạo cấp 1; gồm 3 bó, bó giữa to nhất,
xếp thành vòng cung không liên tục với libe ở dưới và gỗ ở trên; các lớp libe tế bào
hình đa giác, nhỏ, vách uốn lượn, xếp lộn xộn; mạch gỗ hình bầu dục hay đa giác xếp
thành dãy hay lộn xộn; mô mềm gỗ vách cellulose hay tẩm chất gỗ; phía trên gỗ là
cụm libe trong.
Phiến lá: Tế bào biểu bì có hình dạng như ở phần gân giữa, biểu bì trên kích thước to
hơn biểu bì dưới, lớp cutin phẳng. Ở biểu bì dưới rải rác có 1 hay 2 tế bào phình to xếp
cạnh nhau chứa khối tinh thể có hình dạng đặc biệt. Lỗ khí rải rác ở biểu bì dưới. Trên
2 lớp biểu bì có ít lông che chở và lông tiết có cấu tạo như ở gân giữa. Mô mềm giậu,
1lớp tế bào, hình chữ nhật thuôn và dài. Mô mềm khuyết, tế bào hình đa giác, bầu dục
hay gần tròn, sắp xếp chừa những khuyết nhỏ. Các bó dẫn phụ với gỗ ở trên, libe ở
dưới.
Cuống lá:
18


Vi phẫu cuống lá có mặt trên lõm, mặt dưới lồi, 2 bên có 2 cánh nhỏ. Tế bào biểu bì
có hình dạng giống ở gân lá, biểu bì ở mặt dưới vi phẫu cuống lá có lớp cutin răng cưa.
Rải rác có lỗ khí, lông che chở và lông tiết giống ở thân. Mô dày góc thường có ở các
góc lồi và ở phía trên các bó libe gỗ, 3-5 lớp tế bào hình đa giác hay gần tròn, kích
thước không đều, xếp lộn xộn. Mô mềm đạo, tế bào gần tròn hay bầu dục kích thước
không đều, xếp lộn xộn. Hệ thống dẫn cấu tạo cấp 1 gồm 8 bó libe gỗ xếp trên một
vòng, bó giữa phía biểu bì dưới to hơn, bó giữa ở phía biểu bì trên nhỏ nhất. Cấu tạo
của các bó libe gỗ giống phần gân giữa vi phẫu lá. Ngay bên ngoài libe là 3-5 lớp tế

bào mô mềm hình đa giác xếp xít nhau, vách hơi uốn lượn, kích thước to hơn tế bào
libe, vách cellulose hoặc tẩm chất gỗ.

Hình 2.5 Cấu tạo vi phẫu rễ mướp đắng rừng (Momordica Charantia
L.var.abbreviata Ser) 1. Bần; 2. Tầng sinh bần; 3. Mô mềm vỏ, 4. Mô cứng; 5. Libe;
6. Tia ruột; 7. Bó gỗ; 8. Mô mềm gỗ

19


Hình 2.6 Cấu tạo vi phẫu thân mướp đắng rừng (Momordica Charantia
L.var.abbreviata Ser) 1. Biểu bì, 2. Mô dầy góc, 3. Mô mềm vỏ, 4. Mô cứng, 5. Lông
che chở, 6. Libe, 7. Mạch gỗ, 8. Mô mềm tủy

20


3. Cây gấc

- Ngành: Ngọc lan (Magnoliophyta)
- Lớp: Ngọc lan (Mangnoliopsida)
- Bộ: Bầu bí (Cucurbitales)
- Họ: Bầu bí (Cucurbitaceae)
- Tên khoa học: Momordica Cochinchinensis
- Tên gọi khác: Mộc miết, má khấu
3.1 Phân bố:

Cây gấc là một cậy mọc hoang dại trên khá nhiều vùng mọc bò trên giàn, bờ rào...và
trồng nhiều ở nước ta.
- Trên thế giới: là một loại trái cây của Đông Nam Á được tìm thấy trên khắp khu vực

từ miền Nam Trung Quốc đến Đông Bắc nước Úc.
- Ở Việt Nam: Cách đây 200 năm, nhà khoa học người Bồ Đào Nha J.Lourciso đến
nước ta và phát hiện ra cây gấc đặt tên khoa học tên Momordica Cochinchincuris. Đặc
tính của cây gấc phù hợp với các loại đất cát cổ, đất đỏ 3 gian, feralit…những loại đất
này phân bố rộng rãi ở trung du miền núi phía bắc, tây nguyên, đông nam bộ. Với điển
hình, ở trung du miền núi phía bắc là tỉnh Bắc Giang, đại diện cho tây nguyên là
ĐăkLăk, đại diện cho khu vực miền Đông là Tây Ninh…
3.2 Đặc điểm hình thái

Gấc là một loại dây leo, sống và phát triển rất khỏe, được trồng quanh năm để thu
hoạch trái của chúng, khi cây phát triển trưởng thành có thể dài tới 15m, và cây chịu
nắng khá tốt. Ngoài ra đây là một loại cây đơn tính khác gốc, tức là có cây cái và cây
đực riêng biệt
- Thân: Thuộc thân thảo, mềm và có tiết diện góc, toàn thân leo có màu xanh, và được
chia thành từng đoạn ở mỗi cuối đoạn mọc những cuốn lá, tua và trái, một gốc chia ra
rất nhiều thân nhánh bò khắp xung quanh. (Hình 3.2)
- Lá: Lá gấc nhẵn, thùy hình chân vịt phân ra từ 3 đến 5 dẻ, dài 8-18 cm. Ở hai mép có
răng cưa, và mỗi lá có nhiều gân nhỏ và cuốn dày phân bố thành lớp dày trên thân, lá
thường có màu xanh đậm, nhiều lông nhám. (Hình 3.2)
- Hoa : có hai loại
Hoa đực: đơn độc hay hợp thành chùm ngắn, trong quá trình phát triển, tất cả được
gói gọn trong một bao giống như bẹ hoa màu xanh lá cây, cuối cùng tách ra một nửa
để lộ nụ hoa, cuống hoa vững chắc, 3-5 cm hoặc 6-12 cm, hay khi hoa đơn độc, bẹ
hoa ở đỉnh ngọn, dạng hình cầu quả thận, 3,5 x 5-8 cm, nguyên, đỉnh có lõm nhỏ như
hình chữ V. đài hình ống phểu, phân đoạn rộng, hình mũi mác hay bầu 12-20 x 6-8
mm, đỉnh nhọn, vành hoa màu vàng với một đốm đen ở giữa, phân đoạn hình trứng
21


thuôn 5-6 x 2-3 cm, có tuyến phía dưới đáy lá, đỉnh nhọn, tiểu nhụy 3, bao phấn

khoảng 4 mm dài, mang bởi một chỉ 4 mm. (Hình 3.2)
Hoa cái: đơn độc, cuống hoa 5 – 10 cm, những bẹ hoa ở giữa, 2 mm, đài hoa và tràng
hoa như hoa đực, bầu noản hình trứng thuôn dài 1 cm, bao bởi nhiều gai. (Hình 3.2)
Sau khi thụ phấn, tất cả cánh hoa rụng biến mất, bầu noản phòng to, những gai từ từ
bắt đầu xuất hiện. Thời gian hoàn tất đến khi trái trường thành, khoảng 4 đến 6
tháng .
- Qủa: Gấc chỉ kết trái mỗi năm một lần, nên người ta chỉ thấy trái gấc trên thị trường
theo mùa. Lúc đầu quả gấc có màu xanh, sang chuyển thành màu đỏ khi chín, Quả gấc
tròn đường kính khoảng 15cm-20cm bên ngoài có nhiều gai nhỏ, bên trong quả gấc
khi bổ ra có 6 múi màu đỏ, vỏ trái gấc rất dày. (Hình 3.2)
Hạt: Hạt gấc còn có tên gọi khác là: mộc tất tử, thổ mộc miết, mộc biệt tử. Đông y gọi
hạt gấc là "mộc miết tử" vì nó dẹt, hình gần như tròn, vỏ cứng, mép có răng cưa, hai
mặt có những đường vân lõm xuống, trông tựa như con ba ba nhỏ. (Hình 3.2)

A

B

C

D

22


E

F

G


H

Hình 3.2 Đặc điểm hình thái cây gấc (Momordica Cochinchinensis)
A.Thân, B. Lá, C. Hoa cái, D. Hoa đực, E. Qủa sống, F. Qủa chín, G. Màng gấc, H.
Hạt
3.3 Thành phần hóa học

Nhân hạt Gấc có khoảng 6% nước, 8,9% chất vô cơ 55,3% acid béo 16,5% protein,
2,9% đường. 1,8% tanin, 2,8% cellulose và một số enzym. Hạt gấc chứa acid
momordic, gypsogenin, acid oleanolic, acid a- elacostearic, còn có acid amin, alcol.
Dầu gấc chứa acid oleic 44,4%, acid linoleic 14,7%, acid stearic 7,89%, acid palmatic
33,8%. Màng hạt Gấc chứa một chất dầu màu đỏ mà thành phần chủ yếu là b-caroten
và lycopen là những tiền sinh tố A khi vào cơ thể sẽ biến thành vitamin A, lượng bcaroten của Gấc cao gấp đôi của Cà rốt. Thân củ chứa chondrillasterol,
cucurbitadienol, 1 glycoprotein và 2 glycosid có tác dụng hạ huyết áp. Rễ chứa
momordin một saponin triterpenoid; các chiết xuất cồn có sterol, bessisterol tương
đương với spinasterol.
23


3.4 Dược tính
Những sử dụng khác với việc dùng trong thức ăn Việt Nam, người ta được biết gấc
cũng được sử dụng bởi những đặc tính y học và dinh dưởng của Gấc.
Trong những thữ nghiệm trên những trẻ em việt nam, người ta nhận thầy, trái gấc làm
tăng nồng độ vitamine A trong huyết thanh hơn những thức ăn dinh dưởng có hợp chất
bêta-carotène hoặc những chất khác.
- Phòng chống sự suy dinh dưởng ở những trẻ em sơ sinh, trẻ em không muốn ăn, chán
ăn, và thiếu máu. Ích lợi cho mắt, cải thiện tình trạng khô mắt, cải thiện tầm nhìn,
chứng trú manh, đục thủy thể, thoái hoá võng mạc. Làm chậm quá trình lão hóa, tăng
thêm tuổi thọ, phòng ngừa ung thư, bảo vệ tim mạch. Làm da mịn tốt.

- Màng gấc, lớp màu đỏ bao bọc lấy hạt, người ta dùng để nhuộm màu thức ăn như xôi
gấc chẳng hạn.
- Dầu gấc: tác dụng như những loại thuốc có vitamine A.
Tăng sức chống đở với bệnh tật, đặc tính này do chất carotène dưới tác dụng của phân
hóa tố carotenase, phân hóa tố này có nhiều trong gan, cắt caroténoïde thành 2 phân tử
vitamine A sử dụng cho: Trẻ em chậm lớn, mau lên cân, phụ nữ mang thai, cho con bú,
bệnh khô mắt, mắt quáng gà, trời tối chạng dạng không thấy đường. Người kém ăn,
mệt mỏi.
Dầu gấc dùng ngoài: vết loét, vết phỏng làm cho da mau lành..bôi vào vết thương
chóng lành. Dầu gấc dùng kèm với một số thuốc kháng khuẩn đặc hiệu chữa mụn
trứng cá.
- Hạt gấc : Theo đông y, hạt gấc có vị đắng, hơi ngọt, tính ấm, có độc
Momordica cochinchine những hạt giống là những hạt khô chín có tác dụng: bệnh ung
thũng, mụn nhọt, làm lặn những nốt, u, nhọt, chống sưng kháng độc, lành vết thương.
Trị phỏng chữa loét, viêm sưng, viêm vú, quai bị, tắc tia sữa, bệnh tràng nhạc, bệnh trĩ,
trĩ lũ (đường nứt chảy máu ở hậu môn ), lỡ chóc mãn tính, thần kinh bì phu viêm
Những nghiên cứu cho thấy, gấc có thể: ngăn ngừa ung thư, những chứng bệnh tim, và
bệnh tiểu đường.
3.5 Đặc điểm vi phẫu

Rễ:
cấu tạo thứ cấp của rễ cây gấc hình thành do sự hoạt động của tầng phát sinh là tầng
sinh vỏ và tầng sinh trụ.
* Tầng sinh vỏ
Tầng sinh vỏ sinh ra phái ngoài là lớp bần và lớp trong là một lớp tế bào vỏ lục. Lớp
bần của rễ cây gấc 9 tháng tuổi gần 8-12 lớp tế bào hình chữ nhật, kích thước tương
đối điều nhau, xếp thành vòng. Vách tế bào hóa bần do thấm chất suberin, chính do
chất suberin này làm tế bào mất nội chất sống, tế bào rỗng có màu vàng, các tế bào
24



bần xếp khít nhau không để hở những khoảng gian nào. Bần có đặc tính không thấm
nước và khi1 nên tầng có tác dụng bảo vệ cho cây khỏi mất nước, ngoài ra còn bảo vệ
các mô bên trong khỏi bị phá hoại.
Dưới lớp bần là lớp tế bào vỏ lục, tiếp đó là 2-3 lớp tế bào hình đa giác và hình tròn
có thành tế bào mỏng xếp xit1 nhau để lại những khoảng gian bào nhỏ.
* Trụ giữa
Các tế bào của tầng sinh trụ dài ra, phân chia theo hướng tiếp tuyến uốn công về hai
phái của libe rồi tiếp xúc với vỏ trụ, chúng nối với nhau và tạo thành một vòng phát
sinh liên tục, lúc đầu có dạng lượn sóng, sau đó tròn dần lại. Tầng phát sinh này hoạt
động hình thành nên libe thứ cấp ở phía ngoài và gỗ thứ cấp ở phía trong, nó sinh ra
các tia ruột thứ cấp gồm các tế bào có vách mỏng, chức năng trao đổi chất vào trao
đổi khí giữa mô mềm ruột và các tổ chức bên ngoài.
Hệ dẫn của rễ gồm các bó dẫn và các mạch trong mỗi bó phân bố xếp thành lộn xộn.
Khoảng 4-5 bó dẫn, mỗi bó có từ 6-7 mạch. Ngoài ra còn có sợi gỗ và mô mềm kích
thước không đồng đều nhau, các tế bào mô mềm gỗ kích thước không đều nhau, các tế
bào mô mềm gỗ phát triển kém hơn các mạch dẫn. Trong rễ thứ cấp chủ yếu là gỗ thứ
cấp do đó đảm bảo cho rễ thực hiện chức năng của mình là dẫn truyền giữ chặt cây
vào đất và dự trữ chất dinh dưỡng.
Thân:
Biểu bì gồm một lớp tế bào sống đa giác kích thước không đều, xếp sát nhau hơi
khác biểu bì của rễvà lá tức là tế bào biểu bì của thân kéo dài dọc theo thân. Phũ bề
mặt ngoài của tế bào là lớp cuticul, có tác dụng làm giảm sự mất nước, bảo vệ cây
chóng lại sự xâm nhập của sinh vật khác.
Mô dày nằm sát biểu bì gồm 5-7 tế bào, các tế bào mô dày có hình trứng hoặc đa
giác, sắp xếp lộn xộn, thành tế bào bằng xellulozo dày nhưng không đều ở các phía.
Ngoài ra thành tế bào còn chứa một lượng lớn chất pectin, đây là điều kiện thuận lợi
để cho thành tế bào kéo dài ra cùng với sự sinh trưởng của các cơ quan. Với cấu tạo
phù hợp trên giúp nó thực hiện chức năng nâng đỡ các cơ quan đang phát triển và bảo
vệ cây.

Mô mềm vỏ nằm phái trong mô dày gồm 7-8 lớp tế bào hình đa giác có kích thước
không đều, sắp xếp lộn xộn. Các tế bào mô mềm có các khoảng gian bào lớn, chứa
diệp lục do đó thực hiện chức năng quang hợp, bài tiết và dự trữ.
* Trụ giữa gồm vỏ trụ, hệ dẫn, ruột và tia ruột.
Vỏ trị (trụ bì) là lớp ngoài cùng của trụ giữa, gồm 1-2 hình đa giác. Các tế bào vỏ
trụ thường xếp xen kẽ với các tế bào vỏ trong.
Hệ dẫn là hệ thống mô dẫn ở thân không xếp thành từng bó libe và gỗ riêng biệt
xen kẽ nhau như ở rễ mà tạo thành các bó chồng kép, libe và gỗ xếp chồng lên nhau.
Trong bó gỗ, các mạch gỗ nhỏ gồm 1-2 mạch nằm ở phía trong, mạch gỗ to gồm 3-4
mạch nằm ở phía ngoài, mạch gỗ phát triển dần từ trong ra ngoài.
25


×