Tải bản đầy đủ (.docx) (36 trang)

Di sản thừa kế một số vấn đề lý luận và thực tiễn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (218.3 KB, 36 trang )

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
ST
T

TỪ VIẾT TẮT

DIỄN GIẢI

1

CTCP

Công ty cổ phẩn

2

DNNN

Doanh nghiệp nhà nước

3

HĐND

Hội đồng nhân dân

4

HN&GĐ

Hôn nhân và gia đình



5

GCNQSDĐ

Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất

6

QĐHC

Quyết định hành chính

7

UBND

Ủy ban nhân dân

8

TANDTC

Tòa Án Nhân Dân Tối Cao

9

PLTK

Pháp Luật Thừa kế


MỤC LỤC


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Thừa kế là một quan hệ xã hội có nền mống và xuất hiện từ thời sơ khai của xã
hội loài người. Cũng chính từ thời kỳ sơ khai đó, sở hữu và thừa kế đã xuất hiện như
một tất yếu khách quan và mang tính chất là một phạm trù kinh tế, giữa chúng có mối
liên quan ràng buộc, qua lại với nhau.
Thừa kế di sản chính là sự chuyển dịch tài sản và quyền sở hữu tài sản của cá
nhân người đã chết cho cá nhân, tổ chức có quyền hưởng thừa kế; người thừa kế trở
thành chủ sở hữu của tài sản được hưởng theo di chúc hoặc theo pháp luật. Với ý nghĩa
có tầm quan trọng như vậy, nên trong bất kỳ chế độ xã hội có giai cấp nào, vấn đề thừa
kế cũng có vị trí quan trọng trong các chế định pháp luật nói chung và bản thân nó
cũng phản ánh phần nào bản chất chế độ xã hội đó, thậm chí còn phản ánh được tính
chất từng giai đoạn trong quá trình phát triển của một chế độ xã hội nói riêng.
ở nước ta, từ năm 1945 đến nay pháp luật thừa kế được xây dựng và từng bước hoàn
thiện phù hợp với các quan hệ xã hội xã hội chủ nghĩa (XHCN), theo đó quyền và lợi
ích về tài sản của công dân được chú ý bảo vệ phù hợp với tình hình phát triển kinh tế
- xã hội của đất nước. Lịch sử đã cho thấy rằng, quyền thừa kế nói chung và quyền
thừa kế theo pháp luật nói riêng của công dân Việt Nam có sự biến đổi theo hướng
ngày càng mở rộng và có sự phụ thuộc vào thành quả phát triển kinh tế - xã hội qua
các thời kỳ. Xét riêng về diện thừa kế, thì quyền thừa kế của công dân Việt Nam được
mở rộng tương ứng với quan điểm, cách nhìn nhận đúng đắn hơn đối với mối quan hệ
giữa người có tài sản để lại và những người thừa kế.
Trong những năm qua, Đảng và Nhà nước ta đã đề ra và thực hiện nhiều chủ
trương, đường lối nhằm đổi mới toàn diện đất nước, phát triển nền kinh tế nhiều thành
phần; nhiều hình thức sở hữu được thừa nhận như một quy luật tất yếu, trong đó hình
thức sở hữu tư nhân đã có được vị trí quan trọng. Việc thực hiện tốt các chủ trương,

đường lối đó đã tạo thêm cơ sở cho sự phát triển quyền thừa kế của công dân Việt
Nam.
Hiến pháp và các đạo luật cơ bản từ năm 1946 đến nay đều thể hiện nguyên tắc
Nhà nước bảo hộ quyền sở hữu hợp pháp và quyền thừa kế của công dân. Pháp luật về
thừa kế từ năm 1945 đến nay đã nhất quán trên nguyên tắc cơ bản này và đã điều chỉnh
kịp thời các quan hệ trong lĩnh vực thừa kế, cũng như tạo cơ sở pháp lý cơ bản cho
việc giải quyết những tranh chấp phát sinh từ quan hệ thừa kế. Trong hệ thống pháp
luật hiện nay những quy định về thừa kế đã chiếm số lượng đáng kể, nhưng trong quá
2


trình áp dụng những quy định này trong thực tiễn cũng như trong việc giải quyết
những tranh chấp về thừa kế..., vẫn tồn tại không ít khó khăn, vướng mắc. Hàng năm
có hàng ngàn vụ án kiện về thừa kế mà Tòa án nhân dân (TAND) các cấp phải giải
quyết, nhưng pháp luật về thừa kế và những quy định pháp luật khác liên quan đến
thừa kế chưa thật sự đồng bộ và thống nhất, vì thế nhiều vụ tranh chấp thừa kế đã phải
xét xử nhiều lần mà tính thuyết phục không cao. Nhiều bản án, quyết định của Tòa án
vẫn bị coi là chưa "thấu tình đạt lý"... Nhất là trong bối cảnh hội nhập, với thực trạng
của nền kinh tế thị trường và xây dụng Nhà nước pháp quyền ở nước ta hiện nay
những vấn đề tài sản thuộc quyền sở hữu của cá nhân ngày càng trở nên phức tạp và đa
dạng. Vì vậy, vấn đề di sản thừa kế và xác định di sản thừa kế cũng đặt ra nhiều hơn
những vấn đề lý luận và thực tiễn cần giải quyết.
Trước những tình hình đó, em quyết định lựa chọn đề tài “Di sản thừa kế- một
số vấn đề lý luận và thực tiễn”, qua đó, mong muốn có thể làm rõ cơ sở lý luận và
thực tiễn về vấn đề di sản thừa kế ở nước ta hiện nay, để từ đó đem lại nhận thức đúng
đắn về di sản thừa kế- yếu tố quan trọng hàng đầu đối với việc giải quyết các vụ án về
thừa kế.
Ngoài ra, trong một chừng mực nhất định, cũng từ việc nghiên cứu đề tài này
nhằm làm sáng tỏ thêm vấn đề về hiệu lực điều chỉnh cũng như về việc hoàn thiện các
quy phạm pháp luật về thừa kế ở nước ta.

2. Mục đích của việc nghiên cứu đề tài
Việc nghiên cứu đề tài “Di sản thừa kế- một số vấn đề lý luận và thực tiễn”,
nhằm làm rõ loại hình thừa kế di sản tuân theo các nguyên tắc, điều kiện, trình tự và
thủ tục do pháp luật quy định, mà không phụ thuộc vào sự định đoạt ý chí của người
có tài sản để lại. Đó chính là việc vừa hệ thống hóa các quy phạm pháp luật thừa kế
Việt Nam, vừa phân tích và đánh giá hiệu quả điều chỉnh của chế định pháp luật này
qua các thời kỳ phát triển của xã hội Việt Nam, từ đó một mặt góp phần hoàn chỉnh lý
luận khoa học đối với chế định pháp luật quan trọng này, mặt khác, giải quyết tốt vấn
đề lý luận cũng giúp cho việc thi hành, áp dụng cũng như hoàn thiện các qui định về
thừa kế theo pháp luật, nâng cao hiệu quả điều chỉnh của chúng.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
Xây dựng các khái niệm thừa kế,di sản thừa kế, khái niệm quan hệ pháp luật di
sản thừa kế, khái niệm quyền thừa kế và khái niệm thừa kế theo pháp luật... Phân tích,
lập luận để làm rõ quá trình xây dựng và phát triển những qui định pháp luật di sản
thừa kế và thực tiễn ở nước ta để đánh giá nội dung những qui định về di sản thừa kế
theo pháp luật.
3


4. Phạm vi nghiên cứu của đề tài
Việc nghiên cứu đề tài này được xác định trong phạm vi các quy phạm pháp
luật Việt Nam về thừa kế mà cụ thể là di sản thừa kế. Phương pháp phân tích, tổng hợp
các quan điểm, các quy định của pháp luật và thực tiễn từ đó rút ra những kế luận,
đánh giá và giải pháp.Phương pháp so sánh các quy định pháp luật về phân chia di sản
thừa kế so với các quy định về thừa kế khác trong bộ luật dân sự Việt nam 2015.
5. Cơ cấu của bài tiểu luận
Ngoài mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận án gồm có 4
chương bao gồm:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về di sản thừa kế.
Khái niệm về di sản và di sản thừa kế, mối quan hệ, ý nghĩa và quá trình hình

thành cảu những quy định về di sản thừa kế
Chương 2: Quy định của pháp luật về di sản thừa kế, thực tiển và giải pháp
hoàn thiện.
Tập trung làm rõ đối tượng của di sản là gì, tài sản riêng của người chết, những
vấn đề bất cập và hướng khắc phục quyết định pháp luật về di sản thừa kế.
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ DI SẢN THỪA KẾ
1.1. Khái niệm về di sản và di sản thừa kế
1.1.1. Khái niệm về di sản
Từ xưa đến nay, bất kỳ xã hội nào trên thế giới không ở đâu có tận cùng cả bề
rộng lẫn bề sâu, cũng như không ở đâu lại ngừng trệ, không biến đổi và không có sự
tiếp nối và phát triển, chúng điều chiệu sự tác động của các hoạt động chính trị, văn
hóa xã hội, kinh tế, khoa học, kĩ thuật, tôn giáo… Các quá trình này diễn ra hết sức đa
dạng và phong phú phản ánh quá trình nhận thức của loài người, nhầm thỏa mảng nhu
cầu về vật chất và tinh thần của con người. Chính vì vậy để thỏa mảng được những
nhu cầu của minh, con người đã tận dụng từ những cái sẳn có trong tự nhiên để tạo ra
những thứ khác những thứ có thể tồn tại dưới dạng vô hình hoặt hữu hình. Các dạng
vật chất sẳn có trong tự nhiên và các sản phẩm do con người cải biến từ tự nhiên được
coi là của nhân loại, của một quốc gia riêng biệt hay của một người nào đó trong xã
hội loài người, và sẽ được chuyền lại và kế thừa cho nhừng thế hệ về sau.
Các sự vật và hiện tượng trong thế giới tự nhiên, trong đó có kế thừa tự nhiên
và kế thừa chủ động. Đối với những người có tài sản, cho dù là tài sản vô hình hay tài
sản hữu hình, khi họ chết đi mà tài sản của họ chưa tiêu dùng hết thì đương nhiên nó
4


vẫn tồn tại trong thế giới tự nhiên. Sự kế thừa, tiếp nối là biểu hiện của cái có trước và
cái có sau; cái để lại từ thời trước, của xã hội trước, của người trước…cho thời sau;
cho đời sau và cho người sau đang tồn tại. Để chỉ những thứ mà thời trước hay người
trước để lại, người ta thường dùng hai từ “di sản”.
Thuật ngữ “di sản” trong Từ điển tiếng Việt được hiểu ở các khía cạnh sau:

- “Di” biểu hiện sự chuyển động ra khỏi vị trí nhất định thông qua sự tác động
nào đó lên một vật để lại dấu vết nhất định.
- “Di” cũng được hiểu là dời đi nơi khác, thoát khỏi vị trí ban đầu, biểu hiện của
sự chuyển động từ nơi này đến nơi khác, từ điểm này đến điểm khác trong không gian
và thời gian (không gian là điều kiện căn bản của sự tồn tại của vật chất, còn thời gian
là điều kiện căn bản của sự biến đổi trạng thái của vật chất).
Với các nghĩa trên đây, “di” có thể hiểu một cách chung nhất là sự dịch chuyển
sự vật, hiện tượng làm thay đổi vị trí của chúng trong không gian và thời gian. Sự thay
đổi vị trí của chúng bao giờ cũng thể hiện yếu tố “trước” và “sau”. Nói cú thể diễn ra
trong một thời gian ngắn hoặc trong một thời gian dài.
Từ “sản” được hiểu ở các khía cạnh sau:
- Sinh ra, làm ra, tạo ra sản phẩm để sinh sống;
- Cái do con người tạo ra là kết quả tự nhiên của quá trình lao động, sản xuất;
- Là từ dùng để chỉ gia tài, sản nghiệp mang tính tổng thể của những tài sản
trong một khối.
Với các nghĩa trên đây, “sản” được hiểu một cách chung nhất là tài sản hoặc
khối tài sản nằm trong sự chiếm hữu và sử dụng để mang lại lợi ích cho con người.
Từ “di” được ghép với từ “sản” thành “di sản” nhằm để chỉ của cải, gia tài, sản
nghiệp, cái mà thời trước để lại cho đời sau. Trong Từ điển tiếng Việt thì “di sản” được
hiểu với nghĩa là:
- Tài sản của người chết để lại
- Cái của thời trước để lại: ví dụ như di tích lịch sử, di vật lịch sử…1
Từ những phân tích trên tác giả sẻ đưa ra khái niệm tương đối hoàn chỉnh về di
sản như sau.
Hiểu theo nghĩa rộng, nghĩa thông thường thì “Di sản là tài sản của người chết
để lại hoặc những cái mà thời trước để lại cho đời sau, bao gồm các giá trị vật chất là
1 />
5



các tài sản đáp ứng nhu cầu nào đó của con người; các giá trị tinh thần thuộc về đời
sống nội tâm, những tư duy, ý tưởng, ý nghĩ định hướng cho hoạt động của con
người”.
1.1.2 Khái niệm về di sản thừa kế
Ngay từ thời kỳ đầu của chế độ cộng sản nguyên thủy, chế độ thị tộc, bộ lạc đã
hình thành và tài sản có được thuộc về quyền chung của thị tộc, bộ lạc, thì thừa kế
cũng đã hình thành theo tập tục thời kỳ đó. Trong giai đoạn đầu của chế độ thị tộc, bộ
lạc, vai trò của người phụ nữ có tầm quan trọng đáng kể, địa vị chủ đạo của người phụ
nữ trong thị tộc, bộ lạc chi phối mọi vấn đề về kinh tế, xã hội, hôn nhân... Chế độ thị
tộc, bộ lạc theo mẫu hệ đã tạo ra tiền đề cho việc thừa kế tài sản của các con và những
người thân thuộc trong thị tộc, bộ lạc của người mẹ. Tóm lại, trong thời kỳ đầu của xã
hội loài người - thời kỳ Nhà nước chưa xuất hiện và pháp luật chưa ra đời, thì sở hữu
và thừa kế tài sản đã xuất hiện như một tất yếu khách quan và nó thuộc về phạm trù
kinh tế. Mối quan hệ giữa sở hữu và thừa kế phát sinh trong xã hội rất mật thiết và
được thể hiện ở chỗ: Nếu sở hữu là yếu tố tiền đề để thừa kế phát sinh, thì ngược lại,
thừa kế lại là phương tiện để duy trì, củng cố và phát triển sở hữu tài sản. Thừa kế là
một thực tế xã hội được thể hiện ở sự chuyển dịch tài sản của người chết cho người
còn sống, nó gắn chặt với lợi ích của cá nhân, gia đình, cộng đồng dòng họ..., vì thế
trong bất kỳ chế độ xã hội nào cũng có sự tác động của các quy tắc xã hội. Quy tắc đó
được biểu hiện ở những yếu tố như phong tục, tập quán và cao hơn nữa là quy phạm
pháp luật.
Khi giai cấp đã xuất hiện, có giai cấp thống trị và có giai cấp bị trị, đương nhiên
đối kháng giai cấp trong xã hội là điều không tránh khỏi. Những trật tự trong quan hệ
sở hữu tài sản nói chung và trong quan hệ thừa kế nói riêng được Nhà nước của chế độ
tư hữu thiết lập trong giai đoạn này nhằm mục đích bảo vệ những lợi ích của giai cấp
thống trị. Thông qua những quy phạm pháp luật, Nhà nước điều chỉnh quan hệ thừa kế
trong việc xác định phạm vi chủ thể, nội dung, hình thức, điều kiện chuyển dịch tài sản
thừa kế và những vấn đề khác có liên quan đến việc thừa kế tài sản.
Cùng với sự hình thành và phát triển nhà nước và pháp luật của chế độ tư hữu
thì sở hữu và thừa kế đều là những phạm trù pháp luật và giữa chúng có mối liên hệ

mật thiết với nhau. Chế độ tư hữu tài sản là tiền đề của chế định thừa kế, ngược lại chế
định thừa kế là cơ sở để củng cố chế độ tư hữu tài sản. Như vậy, giữa chúng có mối
liên hệ ràng buộc theo những chuẩn mực pháp luật nhất định và mang bản chất giai
cấp sâu sắc.

6


Thừa kế là phạm trù pháp luật có tính khả biến. Tính khả biến được thể hiện
bằng các quy phạm pháp luật mà các quy phạm này không những phụ thuộc vào mức
độ phát triển trong một chế độ xã hội nhất định, nghĩa là cũng có quy định khác nhau
trong việc điều chỉnh mối quan hệ về thừa kế. Thừa kế khi đó không những là phạm
trù kinh tế, phạm trù pháp luật, mà còn mang tính lịch sử, bởi vì nó thể hiện rõ nét quá
trình phát triển kinh tế - xã hội của các chế độ xã hội khác nhau và của một chế độ xã
hội theo từng giai đoạn phát triển nhất định.
Với những phân tích trên đây, có thể xác định rằng, thừa kế tài sản là phạm trù
pháp luật phản ánh quan hệ kinh tế - xã hội nói chung và lịch sử phát triển kinh tế - xã
hội nói riêng, nó xuất hiện và tồn tại cùng với sự xuất hiện và phát triển của xã hội có
phân chia giai cấp dựa trên cơ sở tư hữu về tài sản (từ chế độ chiếm hữu nô lệ đến xã
hội hiện đại ngày nay) được thể hiện ở sự chuyển dịch tài sản của người chết cho
người còn sống (bao gồm cá nhân, tổ chức) theo các nguyên tắc, trình tự và thủ tục do
pháp luật quy định.
Di sản thừa kế là một vấn đề hết sức phức tạp, khi nói về di sản thừa kế, vẫn
còn nhiều cách hiểu khác nhau. Một trong những nguyên nhân của tình trạng này
chính là do còn nhiều vấn đề tranh cãi liên quan đến di sản thừa kế.
Một trong những vấn đề còn có nhiều ý kiến tranh cói đó là di sản thừa kế có
bao gồm nghĩa vụ tài sản của người chết để lại hay không.
Về vấn đề này, hiện nay, trong khoa học pháp lý, vấn đề di sản thừa kế vẫn còn
tồn tại nhiều quan điểm khác nhau. Có quan điểm thì cho rằng di sản thừa kế bao gồm
tài sản và các nghĩa vụ tài sản của người chết để lại; có quan điểm lại cho rằng, di sản

thừa kế bao gồm tài sản và nghĩa vụ tài sản trong phạm vi di sản của người chết để lại;
và có quan điểm lại cho rằng di sản thừa kế chỉ bao gồm các tài sản của người chết để
lại mà không bao gồm các nghĩa vụ tài sản…
Tán thành quan điểm thứ ba, theo tôi, di sản thừa kế chỉ bao gồm các tài sản của
người chết để lại mà không bao gồm các nghĩa vụ tài sản.
Tồn tại một thực tế hiển nhiên là khi còn sống, một người cần đến tài sản của mình để
sản xuất và sinh sống. Tài sản đó có được dựa trên nhiều căn cứ hợp pháp, họ hoàn
toàn có quyền sở hữu đối với tài sản đó. Bên cạnh đó có thể còn có các nghĩa vụ tài
sản đối vơi các chủ thể khác. Các nghĩa vụ này phát sinh từ những giao dịch dân sự, từ
hành vi gây thiệt hại hoặc từ các quan hệ pháp luật khác, chưa kịp thực hiện thì người
này chết, toàn bộ tài sản cũng như các nghĩa vụ tài sản sẽ được để lại là tất yếu. Thậm
chí xét rộng ra người chết cũng để lại cả những kinh nghiệm, tiếng tăm, danh dự.. có
nghĩa là để lại các giá trị nhân thân, những ý nghĩa định hướng cho hoạt động của con
7


người.. Tất cả các yếu tố này của người chết để lại gọi là “cái” của thời trước, của
người trước để lại, được xác định là “di sản” chứ không chỉ là “di sản thừa kế”.
Ủng hộ quan điểm này, theo tác giả, nghĩa vụ tài sản của người chết không phải
là di sản thừa kế, bởi lẽ:
Về mặt ngữ nghĩa: thì thừa kế là thừa hưởng gia tài của người đi trước một
cách kế tục. Theo nghĩa này, từ điển Tiếng Việt đó định nghĩa : “Thừa kế là hưởng của
người chết để lại cho” mà trong Pháp luật danh từ giải nghĩa thừa hưởng được hiểu là
“được ăn, được dùng, được tiêu thụ, được hưởng lợi, được giữ, được dùng làm của
mình”. Với nghĩa này thì không thể tư duy theo hướng người thừa kế sẽ “được hưởng
nghĩa vụ tài sản” hay “hưởng tài sản nợ của ông bà, cha mẹ để lại, nếu di sản chỉ có
nghĩa vụ tài sản”
Về phương diện pháp lý: nếu quan niệm di sản thừa kế mà người chết để lại
không chỉ bao gồm tài sản, quyền tài sản mà cũng bao gồm cả các nghĩa vụ tài sản của
người đó để lại, thì vấn đề thanh toán và phân chia di sản thừa kế được hiểu như thế

nào
Theo quy định tại Điều 615 BLDS 2015, thì việc thực hiện nghĩa vụ tài sản
thuộc về những người được hưởng di sản thừa kế: “Những người hưởng thừa kế có
trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ tài sản trong phạm vi di sản do người chết để lại, trừ
trường hợp có thỏa thuận khác.” Quy định này cần được hiểu là người hưởng thừa kế
thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để lại không phải với tư cách là chủ thể mới
“bước vào quan hệ nghĩa vụ”, có nghĩa là họ không thay thế vị trí chủ thể, họ thực
hiện nghĩa vụ tài sản bằng tài sản của người chết để lại, nợ của người chết không phải
là nợ của người hưởng di sản. Sau khi thanh toán toàn bộ nghĩa vụ của người chết để
lại và những chi phí liên quan đến di sản thừa kế, nếu tài sản không còn thì khi đó
không còn tài sản để chia thừa kế và như vậy thì không có quan hệ nhận di sản thừa
kế.
Bên cạnh đó, theo quy định tại Điều 620 BLDS năm 2015 thì người thừa kế có
quyền nhận hoặc từ chối tiếp nhận di sản. Nếu nhận di sản thì phải thực hiện việc trả
nợ thay cho người để lại di sản; nếu từ chối nhận di sản cũng có nghĩa từ chối thực
hiện nghĩa vụ tài sản của người chết, họ không phải thực hiện nghĩa vụ tài sản của
người chết. Điều này chứng tỏ, người thức kế không buộc phải nhận di sản để rồi phải
thực hiện nghĩa vụ tài sản của người chết cho chủ nợ, nếu quan niệm nghĩa vụ tài sản
là di sản thừa kế thì trong mọi trường hợp chủ nợ đều có quyền yêu cầu người thừa kế
thực hiện việc trả nợ.

8


Nghĩa vụ tài sản của người chết thực sự là món nợ của người đó lúc còn sống
phát sinh từ những hành vi pháp lý của họ. Vì thế, phải coi nghĩa vụ đó là của chính
bản thân người chết, phải dùng di sản của người chết để thanh toán. Nếu sau khi thanh
toán nghĩa vụ tài sản và các chi phí khác liên quan đến di sản mà vẫn còn di sản để
chia cho người có quyền hưởng di sản, thì phần di sản còn lại này mới được gọi là di
sản thừa kế.

Như vậy, di sản thừa kế sau khi trừ nghĩa vụ tài sản của người chết mà chỉ bao
gồm tài sản, các quyền tài sản được xác lập trên những căn cứ hợp pháp mà người
chết để lại cho những người hưởng thừa kế. Hiểu một cách tổng quan nhất thì di sản
thừa kế là toàn bộ tài sản thuộc quyền sở hữu của người chết để lại cho những người
có quyền hưởng thừa kế, mà sau khi trừ các nghĩa vụ tài sản của người đó.2
1.2. Mối quan hệ giữa quyền sở hữu tài sản và di sản thừa kế.
Thừa kế di sản theo quan hệ pháp luật Dân sự chính là sự chuyển dịch tài sản và
quyền sở hữu tài sản của cá nhân người đã chết cho cá nhân, tổ chức có quyền hưởng
thừa kế; người thừa kế trở thành chủ sở hữu của tài sản được hưởng theo di chúc hoặc
theo pháp luật. Cho dù tài sản do người chết để lại thuộc về cá nhân hay tổ chức được
hưởng thừa kế..., thì nó vẫn tồn tại chung cho xã hội, vì khi tài sản này lại được sử
dụng, khai thác hợp lý cũng mang lại hiệu quả kinh tế không chỉ đối với người được
hưởng thừa kế, mà còn có lợi chung cho toàn xã hội.
Di sản thừa kế là một bộ phận của chế độ tài sản, vì thế, nó chịu sự chi phối bởi
những quy định của pháp luật về tài sản và quyến sở hữu trong BLDS, đồng thời chịu
ảnh hưởng rất nhiều của các chính sách kinh tế của Đảng và Nhà nước.
Di sản là yếu tố căn bản trong quan hệ nhận và để lại di sản, được biểu hiện
thông qua sự dịch chuyển di sản của người chết để lại sang cho những người hưởng di
sản. Sự biểu hiện này chứng tỏ rằng, thừa kế là kết quả tất yếu của những quyền năng
trong quyền sở hữu, là mối liên hệ phụ thuộc giữa thừa kế và sở hữu, có sở hữu mới có
thừa kế.
Di sản thừa kế có mối quan hệ hữu cơ với quyền sở hữu tài sản của cá nhân hay
nói cách khác, quyền sở hữu cá nhân là cơ sở chủ yếu để xác định di sản thừa kế cá
nhân sau khi qua đời. Quyền sở hữu tài sản của công dân Việt Nam trong mỗi giai
đoạn phát triển kinh tế-xã hội khác nhau cũng có những thay đổi và được quy định

2 Tác giả: Bạch Thanh Thanh; Di sản thừa kế những vấn đề lý luận và thực tiển;
, thời gian truy
cập 01/05/2018


9


khác nhau, theo đó di sản thừa kế cũng có những thay đổi theo những quy định khác
nhau về phạm vi và thành phần tài sản mà cá nhân có quyền sở hữu qua mỗi thời kì.
Những cơ sở pháp lý về quyền sơ hữu tài sản của công dân được Nhà nước luôn
khuyến khích công dân làm giàu chính đáng. Những điều kiện khách quan mà pháp
luật quy định cho phép công dân phát huy mọi khả năng, mọi nỗ lực để lao động, sản
xuất kinh doanh trong các ngành nghề, lĩnh vực, trong các thành phần kinh tế…để có
thu nhập hợp pháp. Tài sản của công dân trong giai đoạn hiện nay bao gồm thu nhập
hợp pháp, của cải để dành, tư liệu sinh hoạt, tư liệu sản xuất, vốn, hoa lợi, lợi tức và
các tái sản hợp pháp khác mà công dân sở hữu với tư cách cá thế, tiểu chủ hay tư bản
tư nhân…là di sản của cá nhân sau khi chết.
Trong thời kì thực hiện đường lối đổi mới toàn diện ở nước ta, Nhà nước luôn
tạo ra môi trường pháp lý thuận lợi cho việc phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều
thành phần theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Các chính sách kinh tế
đổi mới này đó đáp ứng ngày càng tốt hơn như cầu vật chất tinh thần của nhân dân trên
cơ sở giải phóng mọi năng lực sản xuất, phát huy mọi tiềm năng của các thành phần
kinh tế. Những tài sản thuộc quyền sở hữu của cá nhân trong giai đoạn hiện nay càng
được mở rộng về phạm vi, thành phần và giá trị; theo đó mà di sản thừa kế của cá nhân
nhiều hay ít về giá trị, thành phần, số lượng và tính chất… phụ thuộc vào khả năng chủ
quan của người đó tạo ra và phụ thuộc vào những quy định của pháp luật về căn cứ
xác lập quyền sở hữu cá nhân.
Theo quy định của pháp luật, những tài sản thuộc quyền sở hữu của cá nhân
gồm: thu nhập hợp pháp, nhà ở, máy móc, thiết bị, nhiên liệu, nguyên liệu, hàng tiêu
dùng, kim khí quý, đá quý, ngoại tệ bằng tiền mặt, số dư trên tài khoản gửi tổ chức tín
dụng bằng tiền Việt Nam, ngoại tệ, các trái phiếu, cổ phiếu, tín phiếu, kì phiếu, chứng
chỉ tiền gửi, thương phiếu, các giấy tờ có giá, quyền tài sản phát sinh từ quyền tác giả,
quyền sở hữu công nghiệp, quyền nhận số tiền bảo hiểm, các quyền tài sản khác phát
sinh từ hợp đồng hoặc từ các căn cứ pháp lí khác, quyền đối với phần vốn góp trong

các doanh nghiệp… Những loại tài sản này mà một người khi còn sống có quyền sơ
hữu và khi người đó chết thì những tài sản này là di sản thừa kế, được đem chia thừa
kế theo di chúc và theo pháp luật. Tuy nhiên, nếu nghĩa vụ về tài sản của người chết để
lại lớn hơn hoặc ngang bằng với giá trị di sản của người này để lại thì khi đó sẽ không
còn di sản để chia thừa kế.
1.3. Ý nghĩa của những quy định pháp luật về di sản thừa kế.
Trong những chế định của pháp luật dân sự thì chế định thừa kế mang đặc thù
điều chỉnh quan hệ thừa kế giữa các chủ thể và quan hệ này sẽ xuất hiện khi một cá
10


nhân chết. Toàn bộ di sản của người chết sẽ tiếp tục được dịch chuyển cho những
người thừa kế. Tuy nhiên quá trình dịch chuyển này thường tốn khá nhiều thời gian.
Điều này xuất phát từ ý chí của người để lại di sản, hoặc từ quy định của pháp luật
thậm chí từ phía các chủ thể thừa kế, người có liên quan đến thừa kế. Bộ luật dân sự
2015 đã có những quy định mới tạo điều kiện cho việc đạt được hiệu quả mới cơ bản
về đảm bảo quá trình khai thác, sử dụng di sản của người thừa kế. Pháp luật quy định
di sản thừa kế và việc dịch chuyển nó từ người chết sang cho những người còn sống
khác là mang tính khách quan, đáp ứng được quyền lợi chính đáng của các chủ thể
trong quan hệ thừa kế, qua đó thực hiện được các chức năng điều chỉnh của pháp luật,
tạo điều kiện để các chủ thể xử xự theo yêu cầu của pháp luật và phù hợp với đạo đức
xã hội. Đặc biệt, nó tạo cơ sở pháp lý về các tiêu chí khi xác định di sản thừa kế.
Những quy định của pháp luật về di sản thừa kế góp phần điều tiết, ổn định các quan
hệ tài sản trong giao lưu dân sự, Những quy định của pháp luật về di sản thừa kế là cơ
sở quan trọng cho việc xác định các loại tài sản nào được để lại thừa kế, phạm vi được
định đoạt trong tài sản chung, quyền phân định di sản của người có di sản, quyền của
người được hưởng di sản thừa kế. Đó cũng là cơ sở pháp lý được áp dụng khi giải
quyết các tranh chấp liên quan đến việc thừa kế.
1.3.1. Bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của những người được hưởng
thừa kế

Theo điều 614 BLDS 2015 “ Kể từ thời điểm mở thừa kế, những người thừa kế
có các quyền, nghĩa vụ tài sản do người chết để lại” .Tuy nhiên vấn đề cần quan tâm
là: Người thừa kế có được sở hữu toàn vẹn tài sản mà người để lại di sản đã định đoạt
trong di chúc, hoặc theo sự phân định của pháp luật hay không?Về nguyên tắc, di sản
thừa kế được xác định tại thời điểm mở thừa kế. Vì theo nguyên lý chung, một người
phải còn sống mới xác lập thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình trong các quan
hệ pháp luật, trong đó có quan hệ pháp luật về sở hữu. Tuy nhiên, quan hệ thừa kế là
quan hệ có tính đặc thù của nó, chỉ phát sinh khi có cái chết của một con người. Ranh
giới giữa sự sống và cái chết chỉ diễn ra trong một khoảnh khắc làm chấm dứt sự tồn
tại của người đó. Các nhà làm luật đá lấy khoảnh khắc đó làm mốc thời gian để xác
định sự phát sinh thừa kế và các quan hệ thừa kế và xác định di sản. việc xác định di
sản là đảm bảo khả năng tốt nhất cho những người thừa kế được hưởng đúng phần di
sản của người quá cố để lại theo di chúc hoặc theo quy định của pháp luật
Như vậy những người thừa kế sẽ trở thành chủ sở hữu đối với tài sản mà người
chết để lại. Nhưng chỉ sau khi việc phân chia diễn ra họ mới là chủ thể thực sự đối với
những tài sản đó và có những quyền hợp pháp đối với tài sản đó. Việc phân chia di sản
11


chính xác đầy đủ sẽ tránh được những tranh chấp không đáng có giữa những người
thừa kế, tình cảm giữa các thành viên trong gia đình. Đối với những đối tượng thuộc
điều 644 BLDS 2015 , phân chia di sản chính xác để đảm bảo quyền và lợi ích của họ,
không để họ bị thiệt thòi, tránh tình trạng những người có quyền thừa kế mà không
được hưởng.
1.3.2 Bảo đảm quyền và lợi ích của người có liên quan
Trong trường hợp người chết để lại cả di sản và nghĩa vụ tài sản (khoản nợ),
những khoản nợ này vẫn chưa được thanh toán thì việc phân chia chính xác tạo điều
kiện thuận lợi để những người thừa kế thực hiện nghĩa vụ tài sản chính xác đối với các
chủ thể có liên quan. Phân chia di sản chính xác hợp lí bảo đảm quyền và lợi ích hợp
pháp của đương sự sẽ tạo ra tâm lí tin tưởng vào pháp luật và đường lối chính sách của

Đảng và Nhà nước nói chung
Tăng cường tinh thần trách nhiệm và tình cảm của những người thừa kế với
nhau và với người đã khuất. Khi nghĩa vụ tài sản mà người chết để lại vẫn chưa đươc
thanh toán thì những người thừa kế sẽ phải cùng nhau thực hiện nghĩa vụ đó trong
phạm vi di sản mình được hưởng. Đó không những là trách nhiệm mà còn là tình cảm
đối với người đã khuất. Mặt khác, những người thừa kế sẽ căn cứ vào hoàn cảnh cụ thể
để tự bàn bạc thỏa thuận phân chia khai thác sử dụng di sản thừa kế một cách hợp lí
nhất, phù hợp với từng người.
1.3.3 Tôn trọng quyền định đoạt của người để lại di sản thừa kế
Đối với cá nhân người để lại tài sản với tư cách là chủ sở hữu hợp pháp đối với
những tài sản của mình, cá nhân có quyền lập di chúc để thực hiện quyền định đoạt tài
sản của mình sau khi chết. Pháp luật không cho phép bất kỳ ai có hành vi cản trở,
cưỡng ép, đe doạ… người lập di chúc. Người để lại thừa kế có thể thực hiện quyền
định đoạt thông qua hình thức di chúc viết hoặc di chúc miệng, có thể nhờ người làm
chứng cho việc lập di chúc, có thể yêu cầu công chứng viên đến chỗ ở của mình để lập
di chúc. Khi thực hiện quyền định đoạt trong di chúc, người lập di chúc có quyền chỉ
định người thừa kế, truất quyền hưởng di sản của người thừa kế; phân định phần di sản
cho từng người t hừa kế, dành một phần tài sản trong khối di sản để di tặng, thờ cúng,
giao nghĩa vụ cho người thừa kế, chỉ định người giữ di chúc; người quản lý di sản,
người phân chia di sản theo điều 626 BLDS 2015.
Khi xác định được di sản của người chết để lại là đã đảm bảo được quyền lợi,
thành quả lao động và những tài sản thuộc quyền sở hữu hợp pháp của người chết để
lại di sản; Bảo đảm và tôn trọng được quyền định đoạt trong di chúc của người chết
12


cũng như ý nguyện cuối cùng của họ là những tài sản đó phải được chuyển sang cho
những người thừa kế.
Trong thời kỳ hiện đại, pháp luật thừa kế của các nước trên thế giới cũng như
của Việt Nam đều quy định và cho phép áp dụng hai hình thức thừa kế để chia di sản

trong trường hợp cụ thể, nghĩa là được đồng thời áp dụng trong việc phân chia di sản
thừa kế theo di chúc và theo pháp luật. Như vậy, việc áp dụng hai hình thức thừa kế có
thể xảy ra trong các trường hợp sau đây:
- Hoặc di sản được chia hoàn toàn theo di chúc;
- Hoặc di sản được chia hoàn toàn theo pháp luật;
- Hoặc di sản đồng thời được chia theo di chúc và theo pháp luật.
Nghiên cứu pháp luật nước ta và pháp luật của một số nước khác đều thấy có
những điểm chung và những điểm khác biệt cơ bản giữa hai hình thức thừa kế này.
Dưới đây là bảng so sánh những khác biệt đó.
ST
T

Nội dung so sánh Thừa kế theo di chúc

Thừa kế theo pháp luật

1

ý chí của người Định đoạt bằng di chúc
để lại tài sản

Định đoạt đương nhiên
theo pháp luật

2

Bất kỳ ai (hoặc cá nhân Cá nhân thuộc diện thừa
Người hưởng di
hoặc tổ chức) được chỉ kế mà pháp luật quy định.
sản

định bằng di chúc
3 hàng thừa kế.

3

Tùy thuộc vào việc phân Những người cùng một
Kỷ phần di sản định di sản của người lập hàng thừa kế, thì được
được chia
di chúc
hưởng kỷ phần di sản
ngang nhau

Theo bản so sánh trên thì người được thừa kế theo di chúc là bất kỳ ai (hoặc cá
nhân hoặc tổ chức) được chỉ định bằng di chúc. Người được thừa kế theo di chúc
không bị giới hạn trong phạm vi các mối quan hệ hôn nhân, quan hệ huyết thống và
quan hệ nuôi dưỡng... với người để lại di sản (có thể là người đồng thời hoặc là người
không đồng thời thuộc diện thừa kế theo pháp luật của người để lại di sản). Pháp luật
thừa kế ở nước ta không ấn định trước phạm vi người được thừa kế theo di chúc, mà
phụ thuộc vào sự định đoạt của người để lại di sản. Người được thừa kế theo di chúc
được hưởng các phần di sản hoặc nhiều hoặc ít tùy thuộc vào việc phân định di sản của
người lập di chúc. Người được chỉ định là người thừa kế theo di chúc có thể là người
được hưởng toàn bộ khối di sản của người chết để lại, nếu quyền định đoạt của người
13


để lại di sản không bị hạn chế vì có sự liên quan đến người được thừa kế không phụ
thuộc vào nội dung của di chúc. Người thừa kế theo pháp luật chỉ có thể là cá nhân
thuộc diện thừa kế mà pháp luật quy định, những người thừa kế theo pháp luật trong
cùng một hàng thừa kế, thì họ được hưởng các phần di sản ngang nhau.
Ngoài ra, theo pháp luật thừa kế của nước ta, người lập di chúc có quyền định

đoạt một phần di sản để di tặng cho người khác và phần di sản dùng vào việc thờ cúng.
Quyền thừa hưởng phần tài sản di tặng và quyền quản lý phần tài sản dùng vào việc
thờ cúng... không phát sinh trên cơ sở thừa kế theo pháp luật.
Như vậy, thừa kế theo di chúc hay thừa kế theo pháp luật đều là các hình thức thừa kế
do pháp luật qui định. Hay nói cách khác, thừa kế theo di chúc và thừa kế theo pháp
luật là các hình thức thừa kế do chế định thừa kế điều chỉnh. Việc phân biệt các hình
thức thừa kế theo chế định thừa kế đã được BLDS của nước ta qui định như những
khái niệm cơ bản:
Pháp luật quy định di sản thừa kế và việc dịch chuyển nó từ người chết sang
cho những người còn sống khác là mang tính khách quan, đáp ứng được quyền lợi
chính đáng của các chủ thể trong quan hệ thừa kế, qua đó thực hiện được các chức
năng điều chỉnh của pháp luật, tạo điều kiện để các chủ thể xử xự theo yêu cầu của
pháp luật và phù hợp với đạo đức xã hội. Đặc biệt, nó tạo cơ sở pháp lý về các tiêu chí
khi xác định di sản thừa kế.
1.4. Quá trình hình thành và phát triển quy định của pháp luật về di sản thừa kế
tại nước ta
1.4.1 Quy định của pháp luật về di sản thừa kê thời kỳ trước Cách mạng tháng Tám
năm 1945
Trước Cách mạng tháng Tám năm 1945, Việt Nam là một nước thuộc địa nửa
phong kiến. Hệ thống pháp luật trong giai đoạn này chỉ là công cụ của thực dân Pháp
nhằm thực hiện triệt để chính sách khai thác thuộc địa. Bản chất của chế độ nô dịch
thuộc địa được bộc lộ công khai không những trong những chính sách cai trị của thực
dân Pháp, mà cả trong các qui phạm pháp luật. Do đó pháp luật dân sự ở Việt Nam ra
đời trong giai đoạn này cũng chứa đựng bản chất thực dân - phong kiến khá rõ nét; đặc
biệt trong Bộ dân luật giản yếu 1883, Dân luật Bắc kỳ năm 1931 (DLB), Dân luật
Trung Kỳ năm 1936 (DLT). Tư tưởng trọng nam, khinh nữ của ý thức hệ phong kiến
vẫn được bảo tồn trong quan hệ xã hội, trong quan hệ gia đình và cả trong các điều
khoản pháp luật. Trong lĩnh vực thừa kế di sản, quyền bình đẳng về thừa kế không
được bảo đảm, quyền thừa kế của người vợ bị hạn chế. Người vợ không có quyền lập
di chúc để định đoạt tài sản của riêng mình, nếu không được chồng cho phép. Khi

14


người vợ chết trước, người chồng được thừa nhận là chủ sở hữu duy nhất đối với toàn
bộ di sản là tài sản riêng của vợ. Ngược lại, nếu người chồng chết trước, theo qui định
tại Điều 346 DLB năm 1931 và Điều 314 DLT năm 1936, thì người vợ chỉ có quyền
hưởng dụng tài sản riêng của bản thân. Gia đình và dòng họ vẫn là cơ sở chính để xác
định vấn đề thừa kế, còn quan hệ hôn nhân chỉ được coi là thứ yếu 3. Do coi trọng quan
hệ huyết thống, pháp luật thừa kế thời kỳ này đã chú ý đến quyền bình đẳng của các
con trong việc hưởng di sản thừa kế của bố, mẹ. Thừa kế theo pháp luật trong giai
đoạn này đã luôn thể hiện quan điểm bảo vệ gia đình huyết thống trong thừa kế.
Theo trật tự của chế độ phong kiến, tư tưởng tôn ti, thế thứ được bảo tồn và
được qui định bởi pháp luật, theo đó vị trí của người con trai trưởng hoặc cháu đích
tôn luôn được coi trọng. Nghĩa vụ thờ cúng tổ tiên, ông, bà, cha, mẹ trước hết do người
con trai trưởng hoặc người cháu trai đích tôn đảm nhiệm, do vậy việc để lại di sản
dùng vào việc thờ cúng tổ tiên (hương hỏa) do trưởng nam hoặc cháu đích tôn của
người để lại hương hỏa đó quản lý để thờ cúng; các con gái của người để lại hương
hỏa không có quyền quản lý di sản dùng vào việc thờ cúng đó. Qui định trên của pháp
luật thực dân - phong kiến vẫn bảo vệ quan niệm cũ: "Nữ nhi ngoại tộc" (con gái
không thuộc dòng họ nội tộc).
Như vậy, dưới chế độ thực dân - phong kiến trước năm 1945, quyền thừa kế
theo pháp luật của người dân Việt Nam tuy đã được thể chế hóa bằng các qui định
trong các Bộ luật, song do bản chất giai cấp, nên những vấn đề về bình đẳng trong
quan hệ thừa kế chưa được giải quyết, đặc biệt là quyền bình đẳng giữa nam và nữ,
giữa vợ và chồng trong lĩnh vực thừa kế theo pháp luật.
1.4.2 Giai đoạn từ Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến trước ngày có Pháp lệnh
thừa kế
Trong giai đoạn 1945 - 1990, kể từ khi nước ta giành được độc lập, pháp luật
thừa kế của chế độ mới được xây dựng, củng cố và bổ sung theo hướng từng bước
được hoàn thiện.

Cùng với thắng lợi của Cách mạng tháng Tám năm 1945, đất nước ta đã bước
vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên độc lập, tự do và chủ nghĩa xã hội. Song song với việc
củng cố chính quyền, Đảng và Nhà nước ta đã rất chú trọng đến việc củng cố và phát
triển nền kinh tế từ mức độ thấp nửa thực dân - phong kiến nhằm mục đích nâng cao
dần mức sống của nhân dân. Các mối quan hệ trong xã hội đã dần dần được đổi mới
3 Điều 346 Bộ Luật Trung kì 1936
Điều 314 Bộ Luật Trung kì năm 1936

15


theo những chủ trương đúng đắn phù hợp với yêu cầu phát triển tất yếu, khách quan
của dân tộc và thời đại, trong đó quyền thừa kế của công dân cũng được coi trọng.
Pháp luật thừa kế của Nhà nước ta đã xóa bỏ những tàn tích của chế độ phong
kiến trong quan hệ thừa kế và thiết lập mối quan hệ bình đẳng giữa nam và nữ, giữa vợ
và chồng, giữa các con trong gia đình... Loại bỏ tư tưởng gia trưởng, tư tưởng trọng
nam, khinh nữ, bảo vệ quyền thừa kế của người vợ góa và người con gái đã kết hôn...,
người vợ góa dù đã kết hôn với người khác vẫn được thừa kế di sản của người chồng.
Sắc lệnh ngày 10 tháng 10 năm 1945 cho phép áp dụng luật lệ của chế độ cũ,
trong đó có những qui định về quyền thừa kế, ngoại trừ những điều khoản trái với nền
độc lập và dân chủ của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, do điều kiện thời điểm lịch
sử lúc đó chưa cho phép chúng ta xây dựng và ban hành kịp thời các văn bản pháp
luật. Đặc biệt, Sắc lệnh số 97-SL ngày 22 tháng 5 năm 1950 sửa đổi một số qui lệ và
chế định trong dân luật (do Chủ tịch Hồ Chí Minh ký, chiểu theo Sắc lệnh ngày 10-101945 tạm giữ các luật lệ hiện hành ở Việt Nam) để thi hành cho đến khi ban hành
những bộ luật mới cho toàn cõi Việt Nam. Sắc lệnh số 97-SL đã qui định những
nguyên tắc cơ bản được coi là nền tảng cho việc xây dựng pháp luật dân sự sau này,
trong đó có luật về hôn nhân và gia đình, thừa kế di sản. Các nguyên tắc cơ bản đã
được ghi nhận đó là: Quyền bình đẳng của vợ và chồng trong gia đình, vợ chồng có
quyền thừa kế tài sản của nhau; con trai, con gái đều có quyền hưởng di sản thừa kế
của bố, mẹ; người chồng góa hay người vợ góa, các con đã thành niên có quyền xin

chia tài sản thuộc quyền sở hữu của người chết, sau khi đã thanh toán tài sản chung;
quyền nhận hay không nhận di sản thừa kế của những người là con cháu hoặc vợ hay
chồng của người chết được bảo hộ, các chủ nợ của người chết cũng không có quyền
đòi nợ quá số di sản để lại4.
Những nội dung trên của Sắc lệnh số 97-SL đã cụ thể hóa Điều 9 Hiến pháp
năm 1946 là: "Đàn bà ngang quyền với đàn ông về mọi phương diện" và Điều 12
(Hiến pháp năm 1946) là: "Quyền tư hữu tài sản của công dân Việt Nam được bảo
đảm". Có thể thấy rằng, những quy định trong Sắc lệnh số 97-SL là tư tưởng chỉ đạo
trong pháp luật dân sự nói chung và của pháp luật thừa kế nói riêng trong suốt cả một
thời gian dài cho đến khi có văn bản pháp luật chính thức (Pháp lệnh thừa kế). Những
tư tưởng này cũng vẫn là tư tưởng chỉ đạo được thể hiện cụ thể trong chế định thừa kế
trong BLDS năm 1995 của nước ta.
Để hướng dẫn Tòa án các cấp thống nhất trong việc giải quyết những tranh chấp
về thừa kế trong giai đoạn này, căn cứ vào những quy định của Hiến pháp năm 1946
4Điều 10 Sắc lệnh số 97-SL 1950

16


và tinh thần của Sắc lệnh số 97-SL, Bộ Tư pháp đã ban hành Thông tư số 1742-BNC
ngày 18-9-1956 (sau đây gọi tắt là Thông tư số 1742) quy định rõ, vợ hoặc chồng của
người chết có quyền thừa kế ngang với các con; vợ lẽ và con nuôi chính thức của
người để lại di sản có quyền thừa kế như vợ cả và con đẻ của người đó. Vợ góa của
người để lại di sản (kể cả vợ cả và vợ lẽ) đều có quyền thừa kế di sản của chồng và
hưởng phần di sản ngang với các thừa kế cùng hàng khác. Quy định trong Thông tư số
1742 nói trên đã củng cố thêm nguyên tắc: "Người đàn bà có chồng có toàn năng lực
về mặt hộ"5.
Khi Hiến pháp năm 1959 được ban hành, tại Điều 14 của Hiến pháp đã chính
thức ghi nhận: Pháp luật bảo hộ quyền sở hữu về ruộng đất và các tư liệu sản xuất
khác của nông dân, đồng thời pháp luật bảo hộ quyền sở hữu của công dân về của cải

thu nhập hợp pháp, của cải để dành, nhà ở và các thứ vật dụng riêng khác, quyền thừa
kế tài sản tư hữu của công dân được bảo đảm. Để đáp ứng yêu cầu của thực tiễn xét xử
vì lúc đó chúng ta chưa có pháp luật dân sự hoàn thiện, Tòa án nhân dân tối cao
(TANDTC) trong phạm vi chức năng của mình đã có những thông tư hướng dẫn
đường lối giải quyết các tranh chấp về thừa kế di sản. Thông tư số 594-NCPL ngày 278-1968 của TANDTC (sau đây gọi tắt là Thông tư số 594) hướng dẫn giải quyết tranh
chấp về thừa kế có quy định cụ thể: Quyền bình đẳng nam nữ trong việc hưởng di sản;
các con của người chết không phân biệt giới tính, trẻ già, có năng lực hành vi hay
không có năng lực hành vi dân sự đều được hưởng phần di sản ngang nhau; vợ hoặc
chồng của người để lại di sản được thừa kế ở hàng thứ nhất cùng với các con của
người đó.
Một nhiệm vụ quan trọng của cách mạng mà Đảng và Nhà nước ta cần phải
thực hiện trong giai đoạn này là xóa bỏ dần chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất nhằm xây
dựng và củng cố chế độ sở hữu XHCN. Sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể là hai hình
thức sở hữu XHCN được ưu tiên phát triển. Hiến pháp năm 1980 được ban hành đã
quy định sở hữu XHCN về tư liệu sản xuất ở mức độ triệt để hơn so với Hiến pháp
năm 1946 và Hiến pháp năm 1959. Điều 19 Hiến pháp năm 1980 quy định: "Đất đai,
rừng núi, sông hồ, hầm mỏ, tài nguyên thiên nhiên trong lòng đất, ở vùng biển và thềm
lục địa, các xí nghiệp công nghiệp, nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp, thương
nghiệp quốc doanh; ngân hàng và tổ chức bảo hiểm; công trình phục vụ lợi ích công
cộng; hệ thống đường sắt, đường bộ, đường sông, đường biển, đường không; đê điều
và công trình thủy lợi quan trọng; cơ sở phục vụ quốc phòng; hệ thống thông tin liên
lạc, phát thanh, truyền hình, điện ảnh; cơ sở nghiên cứu khoa học, kỹ thuật, cơ sở văn
5 Điều 6 Sắc lệnh số 97-SL 1950

17


hóa và xã hội cùng các tài sản khác mà pháp luật quy định là của Nhà nước - đều thuộc
sở hữu toàn dân". Như vậy, khác hẳn với các quy định của pháp luật trước đó, cá nhân
không còn quyền sở hữu đối với đất đai, kể từ ngày Hiến pháp năm 1980 có hiệu lực

thi hành. Đương nhiên, trong di sản thừa kế của công dân Việt Nam trong giai đoạn
này không còn tài sản là đất đai nữa. Từ quy định cơ bản này, quyền sở hữu của công
dân Việt Nam trong giai đoạn này chỉ giới hạn trong phạm vi các tài sản như "thu nhập
hợp pháp, của cải để dành, nhà ở, tư liệu sinh hoạt, những công cụ sản xuất dùng trong
những trường hợp được phép lao động riêng lẻ"6.
Trên cơ sở các quy định của Hiến pháp năm 1980, Luật Hôn nhân và Gia đình
năm 1959, TANDTC đã ban hành Thông tư số 81-TANDTC ngày 24-7-1981 (sau đây
gọi tắt là Thông tư số 81) hướng dẫn đường lối giải quyết các tranh chấp về thừa kế di
sản như: Xác định di sản thừa kế, trình tự thừa kế theo di chúc và theo pháp luật, thừa
kế thế vị, việc thừa kế của những người chết cùng vào một thời điểm, chia di sản thừa
kế. Tuy chỉ là một văn bản hướng dẫn đường lối giải quyết những tranh chấp về quyền
thừa kế, nhưng nội dung của Thông tư số 81 đã bao quát tương đối đầy đủ và toàn diện
các vấn đề về thừa kế so với các văn bản trước đó.
Tuy có một vị trí quan trọng trong quá trình hình thành và phát triển pháp luật
về thừa kế của nước ta, nhưng Thông tư số 81 cũng còn những hạn chế nhất định.
Thông tư này chỉ quy định hai hàng thừa kế được xác định dựa trên các mối quan hệ
huyết thống, quan hệ hôn nhân và quan hệ nuôi dưỡng giữa người thừa kế với người
để lại di sản.
Hàng thừa kế thứ nhất gồm vợ góa (vợ cả góa, vợ lẽ góa) hoặc chồng góa, các
con đẻ và con nuôi, bố đẻ, mẹ đẻ hoặc bố nuôi, mẹ nuôi.
Hàng thừa kế thứ hai gồm ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh chị em ruột, anh
chị em cùng cha khác mẹ, cùng mẹ khác cha và anh chị em nuôi.
Những hạn chế về nội dung của Thông tư số 81 là khó tránh khỏi bởi những lý do sau
đây:
- Thực chất kể từ năm 1945 đến khi có Thông tư số 81, có giai đoạn (19451959) ở nước ta đã phải áp dụng pháp luật của chế độ cũ, trong đó có chế định về thừa
kế. Trong một giai đoạn khá dài (1959 - 1981), ở nước ta đã không có được một văn
bản pháp luật nào quy định một cách toàn diện và khái quát về thừa kế. Tuy rằng trên
thực tế có một số thông tư của Bộ Tư pháp, của TANDTC hướng dẫn giải quyết những
tranh chấp thừa kế như Thông tư số 1742 của Bộ Tư pháp, Thông tư số 594 của
6 Điều 27 Hiến Pháp 1980


18


TANDTC và Thông tư số 02 ngày 2-8-1973 của TANDTC hướng dẫn việc xác định
người có quyền hưởng di sản của liệt sĩ. Sự thật trong gần một phần tư thế kỷ, quyền
thừa kế của công dân nước ta chỉ được pháp luật thừa nhận như một nguyên tắc. Do
vậy, các Tòa án địa phương khi giải quyết những tranh chấp về thừa kế cũng chỉ dựa
vào hướng dẫn của TANDTC về quan điểm, đường lối, hướng giải quyết đối với từng
vụ việc cụ thể.
- Thông tư số 81 chỉ là một văn bản hướng dẫn đường lối giải quyết những
tranh chấp về quyền thừa kế trong hoàn cảnh mới của một Nhà nước thống nhất.
Những nguyên tắc cơ bản về quyền thừa kế của công dân được quy định tại Điều 27
Hiến pháp năm 1980 là tư tưởng chỉ đạo cho việc xây dựng nội dung của Thông tư số
81. Nội dung của Thông tư số 81 không thể giải quyết được toàn diện các yếu tố khách
quan phát sinh trong quan hệ thừa kế.
- Thông tư số 81 được ban hành trong thời kỳ nền kinh tế ở nước ta được quản
lý theo cơ chế tập trung, bao cấp. Theo cơ chế này, quyền sở hữu của Nhà nước và của
tập thể được ưu tiên bảo vệ, còn quyền sở hữu và quyền thừa kế của công dân chưa
được nhìn nhận một cách đầy đủ và toàn diện.
Dù có những hạn chế trên, nhưng trong lịch sử phát triển luật dân sự Việt Nam
nói chung và pháp luật thừa kế nói riêng, Thông tư số 81 đã là một văn bản tương đối
hoàn chỉnh về các quy phạm liên quan đến quyền thừa kế của công dân trước khi có
PLTK năm 1990, đánh dấu một bước trưởng thành và đáp ứng được yêu cầu của một
thời kỳ lịch sử.
1.4.3 Giai đoạn từ khi Pháp lệnh thừa kế năm 1990 được ban hành đến ngày Bộ
luật Dân sự 1995 có hiệu lực thi hành (ngày 01-07-1996)
Trong giai đoạn từ 1990 - 1996, cùng với sự phát triển của kinh tế - xã hội ở
nước ta, quyền dân sự cũng được củng cố và phát triển phù hợp. PLTK ngày 30-81990 (PLTK) được ban hành là một văn bản pháp luật có hiệu lực pháp lý cao đầu tiên
quy định khá đầy đủ về thừa kế ở nước ta kể từ Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến

khi có BLDS của nước Cộng hòa XHCN Việt Nam năm 1995.
Nội dung của PLTK đã mở rộng phạm vi những người thuộc diện thừa kế theo pháp
luật và được xếp theo thứ tự ba hàng thừa kế. Các quy định của PLTK về ba hàng thừa
kế theo pháp luật là nhằm bảo vệ quyền thừa kế của những người có quan hệ huyết
thống trực hệ và bàng hệ ở phạm vi rộng. Những quy định của PLTK về diện những
người được thừa kế theo pháp luật đã nhằm bảo vệ tối đa quyền của người để lại di sản
và quyền của những người thừa kế, tránh tình trạng không có người thừa kế theo pháp
luật.
19


Điểm mới của PLTK so với Thông tư số 81 được thể hiện ở nhiều quy định, đặc
biệt là quy định về quyền thừa kế của một người đang là con nuôi của người khác
được thừa kế theo pháp luật của bố, mẹ nuôi và được thừa kế theo pháp luật của bố mẹ
đẻ, mà Thông tư số 81 đã tước quyền này của họ (con nuôi và bố mẹ nuôi có quyền
thừa kế lẫn nhau. Con nuôi (hợp pháp hay thực tế) không được thừa kế theo pháp luật
đối với di sản của bố mẹ đẻ và anh, chị, em ruột).
Pháp lệnh thừa kế đã quy định cho anh, chị, em ruột được thừa kế theo pháp
luật của nhau ở hàng thứ hai mà không phụ thuộc vào việc người anh, người chị, người
em đó có đang làm con nuôi của người khác hay không.
Pháp lệnh thừa kế được ban hành là một sự kiện quan trọng nhằm hoàn thiện hệ
thống pháp luật Việt Nam nói chung và pháp luật thừa kế nói riêng. Sự đa dạng hóa
các thành phần kinh tế và các hình thức sở hữu do nhu cầu khách quan cùng với việc
thực hiện đường lối đổi mới đã tác động tích cực đến tất cả các quan hệ xã hội, trong
đó có quan hệ thừa kế. PLTK được ban hành như một tất yếu, nó đã đáp ứng được nhu
cầu của các quan hệ tài sản trong xã hội những năm đầu của thập kỷ 90, thế kỷ XX.
Để phù hợp với sự đổi mới mọi mặt của đất nước và đáp ứng nhu cầu phát triển
của toàn xã hội, Hiến pháp năm 1992 đã được ban hành. Chế độ sở hữu đã được Hiến
pháp năm 1992 quy định tương ứng với các thành phần kinh tế quốc doanh, kinh tế tập
thể, kinh tế cá thể, kinh tế tư bản tư nhân và kinh tế gia đình. Theo quy định tại Điều

58 Hiến pháp năm 1992, công dân không những có quyền sở hữu về tư liệu tiêu dùng,
mà còn có quyền sở hữu về tư liệu sản xuất, vốn và tài sản khác trong doanh nghiệp
hoặc trong các tổ chức kinh tế khác không bị hạn chế trong những ngành, nghề có lợi
cho quốc kế dân sinh.
1.4.4. Giai đoạn sau ngày Bộ luật Dân sự 1995 có hiệu lực thi hành (ngày 01-071996) đến nay
Quyền sở hữu tài sản và quyền thừa kế của công dân được cụ thể hóa trong
BLDS của Nhà nước ta, thêm một bước khẳng định quyền thừa kế tài sản của công
dân Việt Nam luôn được pháp luật bảo hộ và không ngừng được sửa đổi, bổ sung phù
hợp với tiến trình phát triển kinh tế - xã hội của nước ta qua từng giai đoạn của lịch sử.
Những nguyên tắc về thừa kế di sản và những quy định về quyền thừa kế của công dân
trong suốt hơn 50 năm qua đã được pháp điển hóa một cách cụ thể trong BLDS của
nước Cộng hòa XHCN Việt Nam năm 1995, năm 2005, năm 2015 và nhiều các văn
bản pháp luật khác, như Luật Hôn nhân và gia đình, Pháp lệnh thừa kế…. Với tinh
thần kế thừa và phát triển pháp luật thừa kế ở Việt Nam từ 1945 đến nay, quyền thừa
kế theo pháp luật của công dân Việt Nam được quy định trong các quy phạm pháp luật
20


là một bước phát triển và đã từng bước hoàn thiện pháp luật thừa kế ở Việt Nam, đây
là những bước tiến quan trọng trong quá trình lập pháp ở Việt Nam, nhằm khắc phục
kịp thời sự thiếu tập trung, không đầy đủ của pháp luật về thừa kế được quy định trước
đó. Các chế định thừa kế đã củng cố quyền sở hữu và quyền thừa kế tài sản của công
dân phù hợp với công cuộc đổi mới do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng và lãnh
đạo, nhằm bảo vệ quyền bình đẳng, tự nguyện của công dân tham gia quan hệ thừa kế
di sản và quyền được hưởng di sản của những người thuộc diện thừa kế, góp phần bảo
vệ các quyền dân sự và lợi ích hợp pháp của cá nhân, phù hợp với tiến trình xây dựng
nền kinh tế Việt Nam phát triển bền vững và hội nhập quốc tế.

CHƯƠNG 2 QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ DI SẢN THỪA KẾ, THỰC TIỂN VÀ
GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN.

2.1. Đối tượng của di sản thừa kế.
Trong quá trình áp dụng phần quy định chung của pháp luật thừa kế trên thực tế
chủ thể tranh chấp di sản thừa kế tuyệt đại đa số là giữa cá nhân với cá nhân, chỉ có
một số rất ít tranh chấp giữa cá nhân với tổ chức, cơ quan Nhà nước.
Đối tượng tranh chấp trong các vụ án thừa kế chủ yếu là nhà của, đất đai ở và
các tài sản trên đất như cây lâu năm, công trình phụ trên đất. Thường giá trị số tài sản
này chiếm gần như toàn bộ giá trị số di sản mà các bên yêu cầu giải quyết. Cũng có
một số vụ tài sản mà hai bên tranh chấp là Tiền, vàng, bạc, kim khí quý, đá quý được
dùng làm đồ trang sức hoặc được dùng làm của cải để dành.
- Nhà ở, diện tích mà người có nhà bị cải tạo theo XHCN, được Nhà nước để lại
cho để ở và xác định là thuộc quyền sở hữu của người đó. Nhà do được thừa kế, tặng
cho, mua, trao đổi hoặc tự xây dựng được các cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho
phép và đã làm thủ tục sang tên, trước bạ.
- Vốn, cổ phần, vật tư, tư liệu sản xuất của những người sản xuất cá thể, hoặc
của các tư nhân được sản xuất kinh doanh hợp pháp.
21


- Tài liệu, dụng cụ máy móc của người làm công tác nghiên cứu.
- Đồ dùng sinh hoạt như xe đạp, xe máy, xe ô tô du lịch.
Tất cả những tài sản này đều có thể là di sản thừa kế do người chết để lại.
2.2. Di sản thừa kế là tài sản riêng của người chết, phần tài sản của người chết
trong tài sản chung của người khác
2.2.1 Tài sản riêng của vợ, chồng có trước khi kết hôn.
trước khi kết hôn, tài sản do vợ chồng làm ra, thu nhập do lao động hoạt động sản xuất
kinh doanh, và các thu nhập hợp pháp khác của vợ và chồng, điều thuộc quyền sở hữu
của mỗi bên vợ, chồng với tư cách là một công dân vợ, chồng là chủ sở hữu tài sản do
chính mình làm ra trước khi kết hôn những tài sản riêng và quyền sở hữu cảu vợ,
chồng về tài sản riêng đó được pháp luật bảo vệ và thừa nhận
Xét về nguồn gốc tài sản này không tạo ra trong thời kỳ hôn nhân, không chịu

sự tác động bởi tính chất cộng đồng quan hệ hôn nhân và lợi ích chung của gia đình.
Trong xã hội hiện nay, bằng pháp luật của đảng và nhà nước với các chính sách đường
lối đổi mới và phát triển nền kinh tế, xã hội khuyến khích và bằng các biện pháp tạo
điều kiện tạo ra cho công dân thu nhập, tài sản làm giàu cho cá nhân, gia đình, xã hội
nhầm thỏa mảng nhu cầu về vật chất và tinh thần đang ngày càng cao và phong phú
của người dân. Tài sản mà vợ, chồng có được trước khi kết hôn do chính công sức của
vợ, chồng làm ra theo tính chất nghề nghiệp, công việc của mình, cũng có thể có được
do chính người khác chuyển dịch cho vợ, chồng thông qua các giao dịch dân sự như
tặng cho riêng, hưởng di sản riêng. Vì thế trước khi kết hôn với tư các là một công
dân, theo quy định của luật Dân sự vợ, chồng có quyền tài sản riêng và có thể xác lập
quyền sở hữu của mình đối với những tài sản riêng, điều này dựa trên căn cứ những
quy định từ điều 221 đến điều 236 Bộ luật Dân sự 2015.
Nếu vợ chồng kết hôn trước ngày 03/01/1987 thì tài sản có trước khi kết hôn
cũng được xem là tài sản chung của vợ chồng nên phải chia cho vợ theo quy định tại
Luật HNGĐ 1959.
Nếu vợ chồng kết hôn kể từ 03/01/1987, thì luật HNGĐ quy định tài sản có
trước khi kết hôn của vợ hoặc chồng được xem là tài sản riêng. Khi đó, nếu không sát
nhập tài sản chung thì khi vợ hoặc chồng chết taid sản riêng đó thid được xem là tài
sản riêng của vợ hoặc chồng.
2.2.2 Tài sản riêng của vợ chồng được thừa kế riêng trong hôn nhân.
Trong quan hệ vợ chồng, tài sản riêng của vợ hoặc của chồng được xác định là
tài sản riêng do được thừa kế riêng mà người có tài sản riêng đó không định đoạt ý chí
22


xác nhập vào khối tài sản chung của vợ chồng thì tài sản đó vẫn thuộc quyền sở hữu
riêng của vợ hoặc của chồng, vợ hoặt chồng có quyền nhập hoặc không nhập tài sản
riêng vào khối tài sản chung. Xét về nguồn gốc của tài sản riêng này đều thuộc sở hữu
riêng của vợ, chồng. Luật hôn nhân và Gia đình 2014 quy định những tài sản này
thuộc quyền sở hữu của riêng vợ, chồng nhầm đảm bảo quyền tự định đoạt tài sản của

các chủ sở hữu.7 Theo pháp luật Dân sự tài sản được tặng cho, thừa kế nếu được cho
riêng một bên vợ, chồng được hưởng chứ không phải cho chung hai vợ, chồng. Trong
thực tế những tài sản mà vợ, chồng được tặng cho riêng, thừa kế riêng trong thời kỳ
hôn nhân thường do bạn bè, người thân của vợ, chồng định đoạt theo ý chí của họ cho
mỗi bên vợ, chồng được hưởng giá trị tài sản đó. Có thể những tài sản đó được cha, mẹ
tặng riêng cho con trong ngày cưới, người thân khi chết để lại di chúc cho riêng cho
vợ, chồng được hưởng di sản. Nếu không sát nhập thành tài sản chung, thì dù hôn
nhân còn tồn tại nếu một trong hai người chết thì tài sản này cũng được xem là di sản
riêng của vợ hoặc chồng.
2.2.3 Tài sản của người chết trong khối tài sản chung theo phần với người
khác.
Người chết là đồng sở hữu chung hợp nhất tài sản chung hợp nhất tài sản chung
với vợ hoặc chồng và người chết là sở hữu chung theo phần đối với tài sản chung với
người khác. Trong trường hợp này khi người này chết thì tài sản là di sản thừa kế được
xác định trong khối tài sản chung đó như sau:
- Đối với sở hữu chung hợp nhất, khi vợ hoặc chồng chết trước, phần di sản
của người chết trước là chồng hoặc vợ được xác định là 1/2 giá trị trong tổng giá trị tài
sản chung hợp nhất của vợ chồng. Theo điều 213 BLDS năm 2015 quy định sở hữu
chung của vợ chồng là sở hữu chung hợp nhất. Vợ, chồng cùng nhau tạo lập, phát triển
khối tài sản chung bằng công sức của mỗi người; có quyền ngang nhau trong việc
chiếm hửu, sử dụng, định đoạt tài sản chung. Điều 66 Luật HN & GĐ năm 2014 quy
định: “Khi một bên vợ, chồng chết hoặc bị Toa án tuyên bố là đó chết thì bên còn sống
quản lý tài sản chung của vợ chồng, trừ trường hợp trong di chúc có chỉ định người
khác quản lý di sản hoặc những người thừa kế thỏa thuận cử người khác quản lý di
sản. Khi có yêu cầu về chia di sản thì tài sản chung của vợ chồng được chia đôi, trừ
trường hợp vợ chồng có thỏa thuận về chế độ tài sản. Phần tài sản của vợ, chồng chết
hoặc bị Tòa án tuyên bố là đã chết được chia theo quy định của pháp luật về thừa kế”.
Vì vậy, khi một bên chết trước thì phần tài sản của người vợ hoặc chồng trong khối tài
7 Điều 43, 44 luật Hôn nhân, gia đình năm 2014


23


sản chung đó chính là tài sản của người chết để lại và được chuyển cho người thừa kế
theo di chúc hoặc chia theo quy định của pháp luật về thừa kế.
- Đối với trường hợp thứ hai, đó là trường hợp do nhiều người cùng góp vốn để
sản xuất kinh doanh, nếu có khối tài sản thuộc quyền sở hữu chung của nhiều người
(đồng sở hữu chủ với một khối tài sản nhất định) gọi là đồng sở hữu chung theo phần
đối với tài sản. Trường hợp này khi người này chết phần quyền tài sản của người này
trong khối tài sản chung là di sản thừa kế.
VD: Chị M và anh N cùng chị O góp mỗi người 100 triệu đồng để mua một căn
nhà giá trị 300 triệu đồng. Chị M không may bị tai nạn chết. Thì 1/3 giá trị ngôi nhà đó
là di sản thừa kế của anh chị M.
Di sản thừa kế là quyền tài sản do người chết để lại.
Quyền tài sản theo quy định của BLDS cũng được coi là tài sản. Quyền tài sản
là quyền giá trị được bằng tiền và có thể chuyển giao trong quan hệ dân sự như quyền
đòi nợ, đòi tài sản cho thuê, cho mượn, đồi bồi thường thiệt hại…
Quyền sử dụng đất cũng thuộc di sản thừa kế. Nhà nước giao đất cho tổ chức,
cá nhân sử dụng lâu dài, tổ chức cá nhân có quyền chuyển quyền sử dụng đất được nhà
nước giao theo quy định của pháp luật. Như vậy bản thân đất đai không trở thành di
sản thừa kế, vì cá nhân không có quyền sở hữu mà chỉ có quyền sử dụng. Khi không
có nhu cầu sử dụng cá nhân đựơc phép chuyển nhượng quyền sử dụng đó cho người
khác, nếu có giấy tờ hợp pháp. Quyền sử dụng đất là một quyền tài sản đặc biệt của cá
nhân, do vậy cá nhân có thể để lại cho người khác theo di chúc hoặc theo pháp luật
quy định. Nhưng vì đây là một loại tài sản đặc biệt nên theo quy định của Luật Đất đai
thì người sử dụng đất chỉ được thực hiện quyền thừa kế khi có những điều kiện như:
có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, đất không có tranh chấp, quyền sử dụng đất
không bị kê biên để đảm bảo cho thi hành án và trong thời hạn sử dụng đất. Theo
BLDS 2015 chỉ quy định về di sản thừa kế nói chung còn di sản là quyền sử dụng đất
được quy định cụ thể trong Luật Đất đai 2013.

Quyền sử dụng đất được xác định là di sản thừa kế trong những trường hợp đất
do người chết để lại (không phân biệt có tài sản hay không có tài sản gắn liền với
quyền sử dụng đất) mà người đó có giấy chứng nhân quyền sử dụng đất thì quyền sử
dụng đất đó là di sản; đất đai do người chết để lại mà người đó có một trong các loại
giấy tờ quy định tại các khoản 1, 2 và 5 Điều 100 Luật đất đai 2013 thì quyền sử dụng
đất cũng là di sản không phụ thuộc vào thời điểm thừa kế.

24


2.3. Hạn chế của quy định pháp luật về di sản thừa kế.
2.3.1. Những vấn đề bất cập và khó khăn trong tranh chấp di sản thừa kế
Những năm gần đây, hệ thống pháp luật về dân sự và tố tụng ở nước ta không
ngừng được hoàn thiện để đáp ứng ngày càng tốt hơn yêu cầu của thực tiễn. Trong đó,
chế định về phân chia di sản thừa kế đã có nhiều quy định thay đổi, bổ sung nhằm tháo
gỡ những khó khăn, vướng mắc trong việc giải quyết các vụ việc về thừa kế.
Tuy nhiên, trên thực tế việc giải quyết yêu cầu phân chia di sản thừa kế vẫn là
một vấn đề nhức nhối, không chỉ liên quan đến quyền lợi của các bên mà còn ảnh
hưởng đến cả những vấn đề đạo đức, thuần phong mỹ tục và nền tảng văn hóa gia
đình. Từ những thực tiển xét xử của những năm gần đây cho thấy, các tranh chấp về
thừa kế nói chung và tranh chấp về di sản thừa kế nói riêng là loại tranh chấp rất phức
tạp, thực tế xác định di sản thừa kế gặp rất nhiều khó khăn và có không ít vướng mắc.
Trong quá trình giải quyết tranh chấp về di sản thừa kế tại tòa án, các đương sự đều
tìm cách chứng minh có lợi nhất cho mình về kỷ phần, đồng thời phủ nhận hoặc làm
giảm bớt quyền lợi của những người thừa kế khác.
Bản chất của tranh chấp thừa kế suy cho cùng là xác định kỷ phần khi phân chia
thừa kế. Do tính chất phân chia di sản nên việc xác định đúng khối di sản là bước khởi
đầu có ý nghĩa quan trọng trong quá trình giải quyết các tranh chấp thừa kế. Di sản
thừa kế một mặt mang yếu tố kinh tế, mặt khác mang tính xã hội sâu sắc, phản ánh tài
sản được truyền lại từ đời này sang đời khác của gia đình, dòng họ trong sự phát triển

kinh tế gia đình và xã hội. Trong quá trình giải quyết tranh chấp về thừa kế bên cạnh
những thuận lợi còn có những khó khan bất cập do nhiều nguyên nhân tác động đến
như kinh tế, xã hội, công tác xét xử của tòa án, ý thức và sự hiểu biết về pháp luật của
người dân và cở sở pháp luật của nhà làm luật.
_Vấn đề thứ 1
Trong những năm qua, trước những yêu cầu của hội nhập quốc tế và nền kinh
tế thị trường, Nhà nước ta đó tiến hành sửa đổi nhiều đạo luật quan trong, trong đó có
những đạo luật như: Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000, Luật Đất đai năm 2003,
2014 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004, 2014; BLDS năm 2005, 2015…Việc sửa đổi,
bổ sung hệ thống pháp luật thực định là rất cần thiết, nhưng cũng có một thực tế là
theo căn cứ quy định của văn bản pháp luật cũ thì án xử không sai, nhưng theo quy
định của pháp luật đó sửa đổi, bổ sung thì lại chưa đúng. Tuy các đạo luật đó được bổ
sung, sửa đổi, nhưng vẫn còn có những quy định chỉ mang tính chất “khung”, những
quy định mang tính chuẩn mực của Nhà nước ta thường ban hành chậm, một số chính
sách, pháp luật tuy đã được sửa đổi, bổ sung nhưng lại có những quy định chưa sát với
25


×