Lời mở đầu
Với bản chất là một quan hệ tài sản,quan hệ thừa kế dưới tác động của
nền kinh tế thị trường cũng trở nên phong phú và phổ biến trong các giao lưu
dân sự. Chính vì vậy chế định thừa kế có vị trí quan trọng và thực sự cần thiết
trong hệ thống các quy phạm pháp luật dân sự Việt Nam. Điều này được minh
chứng từ khi nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời cho đến nay luôn bảo hộ
quyền sở hữu hợp pháp và quyền thừa kế của công dân, được ghi nhận trong
Hiến pháp năm 1992. Từ đó đến nay, quy định pháp luật về thừa kế nước ta
không ngừng hoàn thiện và mở rộng để đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp của
công dân cũng như việc giải quyết các tranh chấp trên thực tế ngày càng hiệu
quả hơn.
Chế định thừa kế ở nước ta hiện nay được quy định khá đầy đủ trong bộ
luật dân sự nhưng chưa thể dự liệu hết được những trường hợp, tình huống xảy
ra trên thực tiễn số lượng các vụ án tồn đọng chưa được giải quyết trên phạm
vi toàn quốc hàng năm tăng cao. Trong đó có những tranh chấp kéo dài, số vụ
việc tranh chấp về thừa kế luôn chiếm tỷ lệ lớn trong các tranh chấp dân sự và
có tính phức tạp. Sở dĩ còn tồn tại những bất cập như pháp luật thừa kế và
những quy định pháp luật khác có liên quan đến thừa kế chưa thật sự đồng bộ
thống nhất. Ngoài ra có những sai sót của tòa án xảy ra trong việc xác định
người thừa kế theo pháp luật…đã gây ảnh hưởng nhất định tới quan hệ thừa kế
đôi khi còn xâm phạm đến quyền thừa kế theo pháp luật của công dân. Với
tính cấp thiết như vậy, sự cần thiết của việc nghiên cứu chế định về quyền
thừa kế mà cụ thể là hàng thừa kế có ý nghĩa sâu sắc trên cả phương diện lý
luận và thực tiễn. Trên cơ sở đó em đã chọn đề tài số 21 “Về hàng thừa kế qui
định tại điều 676 BLDS- một số vấn đề lý luận và thực tiễn”. Để tập trung đi
sâu phân tích những quy định của pháp luật về hàng thừa kế hiện hành.
1
I. Một số vấn đề lí luận về thừa kế
1. Các quan niệm về thừa kế
Là một thực thể trong xã hội, con người không thể tồn tại và phát triển
nếu tách rời những cơ sở vật chất nhất định. Nói chách khác, con người không
thể sống khi không có tài sản để thỏa mãn các nhu cầu thiết yếu. Nếu tư liệu
tiêu dùng là phương tiện sinh hoạt, tư liệu sản xuất là phương tiện để thực hiện
các hoạt động sản xuất kinh doanh thì tài sản nói chung là phương tiện sống
của con người. Khi sống, con người khai thác công dụng của tài sản để thỏa
mãn cho nhu cầu của mình. Khi chết, tài sản còn lại của họ được dịch chuyển
cho người còn sống. Quá trình dịch chuyển đó được gọi là thừa kế.
Nhìn một cách tổng quát nhất thì thừa kế là việc dịch chuyển tài sản của
người đã chết cho người còn sống. Về mặt ngữ nghĩa thì thừa kế là thừa hưởng
một cách kế tục. Theo phương diện này, từ điển tiếng Việt đã định nghĩa “
Thừa kế là hưởng của người chết để lại cho”. Về mặt nội dung thì thừa kế là
quá trình dịch chuyển di sản từ người chết cho người còn sống.
Quá trình dịch chuyển tài sản của người đã chết cho người còn sống
được hình thành ở bất cứ một xã hội nào và dĩ nhiên, khi chưa có nhà nước và
pháp luật, nó được thục hiện theo tập tục xã hội nên được gọi là thừa kế. Khi
nhà nước xuất hiện, bằng pháp luật nhà nước tác động đến quá trình di chuyển
tài sản như trên. Trong đó quyền để lại tài sản cũng như quyền hưởng di sản
của các nói trên. Trong đó, quyền để lại tài sản cũng như quyền hưởng di sản
của các chủ thể được nhà nước ghi nhận và đảm bảo thực hiện bằng pháp luật
nên từ đó quá trình dịch chuyển di sản được gọi là quyền thừa kế.
Nói cách khác khái niệm quyền thừa kế là một phạm trù pháp lý mà nội
dung của nó là xác định phạm vi các quyền, các nghĩa vụ của các chủ thể trong
lĩnh vực thừa kế. quyền thừa kế chỉ xuất hiện và tồn tại trong xã hội đã có nhà
nước. Bên cạnh nội dung kinh tế quyền thừa kế còn bao hàm ý chí của nhà
nước. Nghĩa là việc dịch chuyển tài sản của người đã chết cho người con sống
phải hoàn toàn tuân thủ sự quy định của pháp luật.
2
2. Thừa kế theo pháp luật
Điều 675 bộ luật dân sự năm 2005 quy định : “ Thừa kế theo pháp luật
là thừa kế theo hàng thừa kế, điều kiện và trình tự thừa kế do pháp luật quy
định” Thừa kế theo pháp luật được áp dụng trong những trường hợp sau:
1.Thừa kế theo pháp luật được áp dụng trong những trường hợp sau
đây:
a. không có di chúc
b. Di chúc không hợp pháp
c. Những người thừa kế theo di chúc đều chết trước hoặc chết cùng
thời điểm với người lập di chúc; cơ quan, tổ chức được hưởng thừa kế theo di
chúc không còn vào thười điểm mở thừa kế;
d. Những người được chỉ định làm người thừa kế theo di chúc mà
không có quyền hưởng di sản hoặc từ chối quyền nhận di sản.
2. Thừa kế theo pháp luật cũng được áp dụng đối với các phần di sản
sau đây:
a. Phần di sản không được định đoạt trong di chúc
b. Phần di sản có liên quan đến phần của di chúc không có hiệu lực
pháp luật
c. Phần di sản có liên quan đến người được thừa kế theo di chúc
nhưng họ không có quyền hưởng di sản, từ chối nhận di sản, chết trước hoặc
chết cùng thời điểm với người lập di chúc; liên quan đến cơ quan, tổ chức được
hưởng di sản theo di chúc nhưng không còn vào thời điểm mở thừa kế.
II. Hàng thừa kế theo điều 676 bộ luật dân sự.
• Căn cứ xác lập thừa kế
Căn cứ vào mối quan hệ giữa người để lại di sản với người khác, Điều
676 bộ luật dân sự năm 2005 đã xác định phạm vi những người thừa kế theo
pháp luật theo mối quan hệ hôn nhân, quan hệ nuôi dưỡng và quan hệ huyết
thông.
3
- Quan hệ hôn nhân là quan hệ giữa vợ chồng được xác nhận thông
qua việc kết hôn hợp pháp hay trong trường hợp kết hôn thực tế được pháp luật
công nhận
- Quan hệ nuôi dưỡng được xác lập thông qua việc nhận con nuôi,
việc nuôi con nuôi phải được dăng ký và làm thủ tục tại cơ quan nhà nước có
thẩm quyền theo quy định của pháp luật hôn nhân gia đình và pháp luật về hộ
tịch
- Quan hệ huyết thống là quan hệ giữa những người có cùng dòng
máu về trực hệ (cụ, ông, bà, cha đẻ, mẹ đẻ và các con của người chết) hoặc
bàng hệ ( anh ruôt, chị ruột của người chết, cháu của người chết mà người chết
là bác ruột, chú ruột, cô ruột, dì ruột) được xác định thông qua sự kiện sinh đẻ.
Phạm vi những người thừa kế di sản được xác định thông qua các mối
quan hệ nói trên được quyết định thành từng hàng thừa kế theo trật tự: Người
nào có quan hệ gần gũi hơn với người chết sẽ đứng ở hàng thừa kế trước. Vì
vậy bộ luật dân sự đã chia hàng thừa kế thành 3 hàng sau:
• Điều 676 bộ luật dân sự quy định:
1.Những người thừa kế theo pháp luật được quy định theo thứ tự sau
đây:
a) Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ
nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết;
b) Hàng thừa kế thứ hai gồm: ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh
ruột, chị ruột, em ruột của người chết;cháu ruột của người chết mà người chết
là ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại;
c) Hàng thừa kế thứ ba gồm: cụ nội, cụ ngoại của người chết; bác ruột,
chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà
người chết là bác ruột, chú ruột,cậu ruột, cô ruột,dì ruột, chắt ruột của người
chết mà người chết là cụ nội, cụ ngoại.
2. Những người thừa kế cùng hàng được hưởng phần di sản bằng nhau.
4
3. Những người ở hàng thừa kế sau chỉ được hưởng thừa kế, nếu không
còn ai ở hàng thừa kế trước do đã chết, không có quyền hưởng di sản, bị truất
quyền hưởng thừa kế hoặc từ chối nhận di sản.
=>Như vậy theo điều 676 bộ luật dân sự thì thừa kế được chia làm ba
hàng:
Về hàng thừa kế thứ nhất: Điểm a khoản 1 điều 676 bộ luật dân
sự năm 2005 quy định hàng thừa kế thứ nhất bao gồm “ vợ, chồng, cha đẻ, mẹ
đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết”
Ở hàng thừa kế thứ nhất những người thuộc bề trên bao gồm ông, bà;
ngang bậc: vợ, chồng và bề dưới: các con. Những người thuộc hàng thừa kế
thứ nhất này có nghĩa vụ chăm sóc , nuôi dưỡng nhau và là đại diện đương
nhiên của nhau theo bộ luật dân sự năm 2005 và luật hôn nhân và gia đình năm
2000. Nếu họ vi phạm nghĩa vụ theo quy định của luật hôn nhân và gia đình và
bộ luật dân sự thì họ bị tước quyền thừa kế theo khoản 1 điều 643 bộ luật dân
sự năm 2005.
Khác với pháp luật thức định, pháp luật thời phong kiến quy định hàng
thừa kế thứ nhất chỉ có con cái, vợ hoặc chồng không được quy định trong một
hàng thừa kế cố định nào và vị trí của người vợ bao giờ cũng bị xem nhẹ. Bởi
theo quan niệm của người Việt Nam lúc bấy giờ “ nhập gia tùy tục, xuất giá
tòng phu, phu tử tòng tử” nên quyền lực gia đình tập trung vào người chồng.
Khi một người phụ nữ kết hôn thì người chồng đương nhiên trở thành chủ sở
hữu của tất cả tài sản trong gia đình, thạm chí là sở hữu luôn cả tài sản của
người vợ đem về nhà chồng khi kết hôn. Về vấn đề này quốc triều hình luật có
điểm tiến bộ hơn, những tài sản do vợ chồng làm ra thì chia đôi, người còn
sống sở hữu ½ phần của người chết sẽ chia thừa kế. Trước khi chia thừa kế
phải dành lại 1/20 điền sản làm hương hỏa, tuy tiến bộ hơn song vị trí người
phụ nữ trong xã hội phong kiến vẫn không được cải thiện. Đến 97-SL thì con
cháu, vợ chồng của người để lại di sản được hưởng thừa kế. Từ đó đến nay vợ
chồng bao giờ cũng được ghi nhận ở hàng thừa kế thứ nhất.
5
- Ở hàng thừa kế thứ nhất có hai mối quan hệ giữa những người có
quyền hưởng di sản của nhau:
Quan hệ thừa kế giữa vợ và chồng: Vợ - chồng là mối quan hệ
giữa một người đàn ông với một người đàn bà trên cơ sở hôn nhân được pháp
luật thừa nhận. Quan hệ thừa kế giữa vợ và chồng là một quan hệ thừa kế
mang tính hai chiều hay còn gọi là “thừa kế đối nhau”, “ thừa kế của nhau”,
nghĩa là trong đó, khi bên này chết thì bên kia là người thừa kế ở hàng thứ nhất
và ngược lại, khi bên kia chết thì bên này là người thừa kế ở hàng thừa kế thứ
nhất. Căn cứ xác định quan hệ thừa kế giữa vợ và chồng là quan hệ hôn nhân.
Theo điều 8, luật hôn nhân và gia đình Việt Nam 2000 thì “ hôn nhân là quan
hệ giữa vợ và chồng sau khi đã kết hôn”. Mặt khác cũng tại điều 8 của luật trên
quy định “ kết hôn là việc nam và nữ xác lập quan hệ vợ chồng theo quy định
của pháp luật về điều kiện kết hôn và đăng ký kết hôn”. Vì thế, vợ - chồng được
thừa kế di sản của nhau khi một bên chết, nếu vào thời điểm mở thừa kế mà
quan hệ hôn nhân giữa họ về mặt pháp lý vẫn còn tồn tại. Tuy nhiên việc thừa
nhận nam và nữ có quan hệ hôn nhân để theo đó xác định họ là vợ chồng, được
thừa kế di sản của nhau theo hàng thừa kế thứ nhất rất khác nhau trong các giai
đoạn lịch sử nhất định. Chẳng hạn, kể từ khi luật hôn nhân và gia đình 1959
của nước ta có hiệu lực ( luật này có hiệu lực kể từ ngày 13 tháng 1 năm 1960)
thì chế độ hôn nhân tiến bộ với một vợ một chồng mới được xác lập ở nước ta.
Vì vậy, trong giai đoạn này phải chấp nhận hậu quả của chế độ đa thê về hôn
nhân do chế độ cũ để lại nên một người mà có nhiều vợ mà các quan hệ hôn
nhân đó được xác lập trước ngày 13 tháng 1 năm 1960 vẫn phải được thừa
nhận giữa họ có quan hệ thừa kế di sản của nhau theo quan hệ hôn nhân.
Chính vì thế khi xác định quan hệ thừa kế theo pháp luật giữa vợ và
chồng cần lưu ý các trường hợp sau đây:
Trường hợp thứ nhất, vợ chồng đã chia tài sản chung nhưng không ly
hôn, sau đó một bên chết thì về mặt pháp lý, quan hệ hôn nhân của họ vẫn tồn
tại. Do đó người còn sống vẫn được thừa kế di sản của người đã chết.
6
Trường hợp thứ hai, vợ chồng đã ly thân và về mặt tình cảm hầu như
tình yêu giữa họ đã “chết” nhưng vì một lý do tế nhị nào đó nên họ không ly
hôn thì dù về mặt tình cảm, hôn nhân giữa họ “đã chết” nhưng về mặt pháp lý,
hôn nhân giữa họ vẫn đang tồn tại. Vì vậy, người còn sống vẫn được hưởng di
sản của người đã chết.
Trường hợp thứ ba,… khi một bên chết, dù người còn sống đang sống
chung với người khác như vợ chồng một cách bất hợp pháp thì người đó vẫn
được hưởng di sản của người đã chết.
Trường hợp thứ tư,… vợ chồng đang xin ly hôn mà chưa được tòa án
cho ly hôn hoặc đã đượ tòa án cho ly hôn nhưng quyết định hoặc bản án cho ly
hôn chưa có hiệu lực pháp luật mà một bên chết thì người còn sống vẫn được
thừa kế di sản của người đã chết.
Trường hợp thứ năm,… nếu một người có nhiều vợ mà tất cả các cuộc
hôn nhân đó đều được tiến hành trước ngày 13 tháng 1 năm 1960 ở miền Bắc
( ngày luật hôn nhân và gia đình 1959 có hiệu lực pháp luật) và trước ngày 25
tháng 3 năm 1977 ở miền Nam ( ngày áp dụng thống nhất các văn bản pháp
luật trên toàn quốc) thì khi người chồng chết trước tất cả các bà vợ ( nếu còn
sống vào thời điểm người chồng chết) đều là người thừa kế ở hàng thứ nhất
của người chồng. Ngược lại, chồng là người thừa kế thứ nhất của những người
vợ đã chết trước người chồng đó.
Trường hợp thứ sáu, nếu cán bộ, chiến sĩ đã có vợ ở miền Nam, sau khi
tập kết ra miền Bắc, lấy vợ ở miền bắc mà việc kết hôn sau không bị hủy bỏ
bằng một bản án có hiệu lực pháp luật thì những người vợ đó đều là người thừa
kế ở hàng thừa kế thứ nhất của người chồng khi người chồng chết trước, và
ngược lại khi những người vợ chết trước người chồng thì người chồng là người
thừa ở hàng thứ nhất của người vợ đã chết.
Trường hợp thứ bảy, đối với các trường hợp hôn nhân không dăng ký kết
hôn nhưng được thừa nhận là hôn nhân thực tế ( gồm các cuộc hôn nhân đwọc
tiến hành trước ngày luật hôn nhân và gia đình 1986 có hiệu lực pháp luật có
7
đủ điều kiện kết hôn nhưng không dăng ký kết hôn) thì quan hệ vợ chồng giữa
họ vẫn được thừa nhận và do vậy họ là người thừa kế theo pháp luật của nhau
ở hàng thừa kế thứ nhất.
Trường hợp thứ tám, hai vợ chồng đã ly hôn nhưng sau đó quay lại sống
chung với nhau trước ngày luật hôn nhân và gia đình 1986 có hiệu lực pháp
luật mà cuộc sống chung đó không bị hủy bỏ bằng một bản án có hiệu lực pháp
luật thì họ vẫn được thừa nhận là có quan hệ vợ chồng theo hôn nhân nên vẫn
là người thừa kế theo pháp luật của nhau ở hàng thừa kế thứ nhất.
Quan hệ thừa kế giữa cha, mẹ và con: Quan hệ thừa kế giữa một
bên là cha, mẹ với một bên là con cũng là quan hệ thừa kế mang tính hai chiều.
Quan hệ này được xác định theo một trong hai căn cứ. Nếu căn cứ vào quan hệ
huyết thống thì đó là những người có cùng dòng máu trực hệ trong phạm vi hai
đời liền kề nhau. Trong đó, cha đẻ, mẹ đẻ của một người là người đã sinh ra
người đó và được pháp luật thừa nhận. Vì vậy, cha, mẹ của người do mình sinh
ra dù trong hay ngoài giá thú nhưng được pháp luật thừa nhận đều là người
thừa kế ở hàng thứ nhất để hưởng di sản theo pháp luật khi người con chết. Và
ngược lại, người con trong hay ngoài giá thú đều là người thừa kế ở hàng thừa
kế thứ nhất để hưởng di sản do cha, mẹ mình để lại. Nếu căn cứ vào quan hệ
nuôi dưỡng thì đó là quan hệ giữa những người nuôi dưỡng lẫn nhau theo cha -
con, mẹ - con hoặc theo cha, mẹ - con. Cha nuôi, mẹ nuôi của một người là đã
nhận người đó làm con nuôi của mình theo quy định của pháp luật. Cha nuôi,
mẹ nuôi là những người thừa kế ở hàng thừa kế thứ nhất của con nuôi khi
người con nuôi đó chết và ngược lại, con nuôi là người thừa kế ở hàng thừa kế
thứ nhất của cha, mẹ nuôi khi cha, mẹ nuôi chết.
Trong trường hợp một người vừa có con nuôi vừa có con đẻ thì họ vừa
là người thừa kế ở hàng thứ nhất để hưởng di sản của người con nuôi khi người
con nuôi đó chết, vừa là người thừa kế ở hàng thừa kế thứ nhất để hưởng di sản
của con đẻ khi người con đẻ đó chết. Ngược lại,một người đang là con nuôi
của người khác thì họ vừa là người thừa kế ở hàng thừa kế thứ nhất để hưởng
8