Tải bản đầy đủ (.docx) (27 trang)

Thế giới nhân vật trong tiểu thuyết tập truyện tây bắc của nhà văn tô hoài

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (158.15 KB, 27 trang )

MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài

Người viết chọn đề tài thế giới nhân vật trong tiểu thuyết tập truyện “Tây Bắc” của
nhà văn Tô Hoài để làm niên luận với những lí do sau đây:
Thế giới nhân vật không chỉ là một phần không thể thiếu mà nó còn rất quan trọng đối
với môt tác phẩm văn học. Bởi vì nó giữ vai trò quyết định đến nội dung, tư tưởngcủa tác
phẩm, không có nhân vật thì tác phẩm sẽ trở nên vô hồn, nó là phương tiện cơ bản để nhà
văn khái quát hiện thực một cách hình tượng. Nhà văn sáng tạo thế giới nhân vật để thể
hiện nhận thức của mình về một cá nhân nào đó, về một loại người nào đó,một vấn đề
nào đó của hiện thực.Những con người này có thể được miêu tả kĩ hay sơ lược, sinh động
hay rõ nét. Do vậy, thế giới nhân vật sẽ là nguồn cảm hứng, sáng tạo để nhà văn tạo ra
một tác phẩm, nó còn làm đa dạng phong phú, hành động, tư tưởng nhân vât mà nhà văn
mong muốn. Có thể nói, thế giới nhân vật là phương tiện để phản ánh đời sống, khái quát
hiện thực, giúp người đọc, người viết cảm nhận sâu sắc, rõ nét,sinh động hơn về cuộc
sống của con người trong xã hội.
Trong dòng văn học Việt Nam Tô Hoài được đánh giá là một cây đại thụ, là cây bút
văn xuôi hàng đầu của nền văn học hiện đại Việt Nam. Sáng tác của Tô Hoài thể hiện vốn
hiểu biết phong phú của nhà văn về đời sống, đặc biệt là sinh hoạt và phong tục ở làng
quê, miền núi Tây Bắc. Thông qua cách miêu tả giàu chất tạo hình, ngôn ngữ phong phú,
đậm chất dân gian và giàu chất thơ giúp người đọc cảm nhận được sự đau khổ về số phận
của các nhân vật trong tiểu thuyết. Các tác phẩm của ông đều có những bước tiến về nhân
vật, có nhiều nét đặc sắc nổi bật, đặc biệt là trong tập truyện Tây Bắc.
Tập truyện Tây Bắc của Tô Hoài phản ánh thực trạng trong cuộc sống tủi nhục của
đồng bào miền núi Tây Bắc dưới bóng đen phong kiến và thực dân, thể hiện số phận đau
khổ của người dân lao động và con đường giải phóng của họ trong cách mạng và kháng
chiến. Nó được phơi bày bằng con mắt đầy trung thực và táo bạo, sự từng trải trên mảnh
đất này của nhà văn nhằm nói lên sự thật về đời sống, phong tục, nỗi đau của họ nhưng
không dám phân trần.
Thông qua việc nghiên cứu đề tài này, người viết có thêm được nhiều kiến thức cho
bản thân về việc xây dựng thế giới nhân vật trong một tác phẩm văn học. Qua đó, chúng


tôi có thể hiểu thêm về cuộc sống, xã hội, của những con người nơi đây khi chưa tìm ra
được con đường giải phóng dân tộc và giải phóng cho chính mình.Do đó người viết chọn
đề tài thế giới nhân vật để làm niên luận.

2. Lịch sử vấn đề
Tô Hoài là một trong những nhà văn có vai trò hết sức quan trọng cho nền văn xuôi
Việt Nam hiện đại, ông được đánh giá là môt cây đại thụ, là nhà văn giàu chất chuyên
1


nghiệp bậc nhất, là một trong những cây bút văn xuôi sắc sảo và đa dạng. Những tác
phẩm của ông ra đời với nhiều giá trị sâu sắc đã thu hút được sự quan tâm sâu sắc của
đông đảo bạn đọc và giới phê bình văn học.
Qua tìm hiểu các tài liệu, các công trình nghiên cứu xoay quanh tác phẩm của ông
trên nhiều bình diện, từ nhiều góc nhìn, khía cạnh khác nhau, người viết nhìn thấy tiểu
thuyết tập truyện Tây Bắc của nhà văn Tô Hoài được quan tâm nghiên cứu và bàn luận
như sau:
Năm 1953, trong bài viết Tô Hoài và truyện Tây Bắc. Hoàng Trung Thông đánh giá
“Tô Hoài viết Mường Giơn với con mắt của một nhà thơ ”.[11; tr.228].
Năm 1982, Nguyễn Văn Long trong Giảng văn tập 2 đánh giá “Cũng như trong tập
truyện Tây Bắc, Vợ chồng A Phủ còn lôi cuốn người đọc bởi chất thơ đậm đà, trong
sáng. Phong cảnh và con người đẹp đẽ của Tây Bắc được ngòi bút của Tô Hoài vẽ nên
với sức rung động thơ. Tô Hoài cũng nói về những ý thơ trong truyện của mình: Ở mỗi
nhân vật và trùm lên tất cả Miền Tây, tôi đã đưa vào một không khí vời vợi, làm cho đất
nước và con người bay bổng lên hơn nữa, rồi bỏ được cái ám ảnh tùn mùn, lặt vặt
thường làm co quắp nhân vật và nhỏ bé vấn đề đi” [6; tr.80].
Năm 1997, Đỗ Kim Hồi trong Giảng văn văn học Việt Nam có nhận xét: “Xét về vẻ
đẹp văn chương thì nửa Phiềng Sa nhất định phải chịu nhường nửa Hồng Ngài. Chính
cái nửa Hồng Ngài này mới thật sự là nơi tập trung anh hoa của ngòi bút Tô Hoài về Tây
Bắc. Những trang viết về Hồng Ngài đẹp còn vì, và chủ yếu bởi vì nó kết đọng một tình

cảm nhân đạo đậm đà, một khả năng phân tích tinh tế những diễn biến đầy mâu thuẫn
nội tâm, và bao trùm lên tất cả là điều sau này Tô Hoài cảm thấy: một chất thơ vời vợi
bay lên từ cảnh vật và nhân vật “Nơi rừng núi tuyệt vời thơ mộng ấy” [4; tr.521-522].
Năm 1999, Nguyễn Quang Trung trong Phân tích bình giảng tác phẩm Văn Học 12 có
lời nhận xét “Tô Hoài quả là sành tả thiên nhiên. Nhà văn chỉ chấm phá vài nét mà làm
hiện lên một đoạn văn đầy màu sắc hội họa, như một mảnh hồn không thể thiếu của núi
rừng Tây Bắc: “[…]”Trong các làng H’mông đỏ, những chiếc váy hoa đã đem ra phơi
trên mỏm đá xòe như con bướm sặc sỡ. Giữa không khí oi ngột của đau khổ, người đọc
như được thư giãn trước những trang văn thoáng đãng, bảng làng một màn sương thơ
mộng như thế .Nó như dấu lặng êm lắng trong một bản nhạc đầy những âm thanh sôi réo
,tuôn trào” [13; tr.80].
Năm 2003, Nguyễn Đăng Mạnh trong Nhà văn Việt Nam hiện đại, Chân dung và
Phong cách cũng có nhận định: “Thực ra, từ khoảng 1940-1945, những cây bút viết về
nông thôn thường cũng ít đụng đến đấu tranh giai cấp. Nam Cao, Bùi Hiển, Mạnh Phú
Từ, Kim Lân,…thường chỉ xoay quanh những chuyện đời tư, đời thường sau lũy tre xanh.
Nhưng sau cách mạng tháng 8 thì khác, cả nền văn học ta điều chuyển hẳn về đề tài lịch
sử cách mạng, về cảm hứng sử thi. Tô Hoài viết truyện Tây Bắc, Mười Năm, Miền Tây,…
cũng là theo hướng ấy. Nhưng cứ để ý mà xem nhân vật cách mạng, nhân vật anh hùng
của ông thường ít lí tưởng hóa. Tô Hoài không thích che đậy phương diện người thường,
2


đời thường của các chiến sĩ cách mạng. Khuynh hướng này thể hiện rõ hơn trong các tác
phẩm sau này như Tự Truyện, Cát Bụi Chân Ai, Chiều Chiều” [8; tr.280].
Năm 2006, Vương Trí Nhàn trong Cánh bướm và hoa hướng dương có nhận xét “Một
người khá thâm trầm là Tế Hanh có lần nhận xét “Đọc truyện Tây Bắc, trong khi nhiều
người chỉ nhớ Vợ chồng A Phủ thì tôi (tức Tế Hanh) lại rất thích Mường Giơn”. Không
rõ liệu có nhiều người cùng chia sẻ nhận xét trên với Tế Hanh, song nếu có, cũng không
có gì là lạ. Trong khi Vợ chồng A Phủ nói được cái sự thực lớn lao rằng thời đại ta, là
thời đại của những sự quật khởi, những sự đổi đời, thì Mường Giơn lại là câu chuyện mà

hình như thời nào cũng có, bởi thời nào mà cuộc sống chẳng bao gồm đủ cả những nồng
nàn sôi nổi lẫn những cay đắng mất mát, và khi ngĩ lại về nó, nhất là về một cái gì sẽ tàn
phai mà không sao cứu vãn nỗi, bao giờ trong con người chẳng thoáng qua một cảm giác
buồn man mác” [9; tr.259].
Huỳnh Lý, trong truyện Tây Bắc của Tô Hoài nhận định “Đọc truyện Tây Bắc, chúng
ta có cảm tưởng đó vừa là một bản cáo trạng, vừa là một khúc tình ca đối với phong kiến
miền núi và thực dân, tình ca ngợi khen cảnh đẹp, tập quán hay tinh thần cách mạng,
quan hệ giữa người với người, giữa quần chúng với Đảng ở Tây Bắc, tình ca viết với một
bút pháp trữ tình nồng đượm nên thơ” [7; tr.79].
Vì vậy, người viết nhận thấy tiểu thuyết tập truyện Tây Bắc thực sự được người đọc,
các nhà phê bình, các nhà nghiên cứu quan tâm. Những bài viết công trình nghiên cứu
tren giúp người viết người đọc hiểu rõ hơn và có thêm nhiều kiến thức.
3. Mục đích nghiên cứu

Chọn đề tài Thế giới nhân vật trong tiểu thuyết tập truyện Tây Bắc của nhà văn Tô
Hoài làm niên luận, người viết thực hiện nhằm mục đích sau:
Chúng tôi mong muốn cho người đọc thấy được thế giới nhân vật trong tiểu thuyết
qua cách nhìn của nhà văn nhằm tạo ra các nhân vật thể hiện rõ được cuộc sống cơ cực,
khốn khổ của những con người miền núi, sự tủi nhục với những phong tục, tập quán lạc
hậu lúc bấy giờ, sự đấu tranh về tâm lý, tư tưởng qua suy nghĩ và tình cảm của các nhân
vật trong tập truyện.
Đồng thời, đề tài còn giúp bản thân biết về dòng văn học hiện thực. Đây là một kiến
thức quan trọng để người viết có thể phục vụ trong công việc sau này.
Người viết muốn thông qua đề tài này để hiểu thêm về nhà văn Tô Hoài với phong
cách sáng tác độc đáo, lối văn chân thực, sinh động, phản ánh được cuộc sống đời tư của
con người và phản ánh xã hội thực dân lúc bấy giờ.
Người viết hy vọng qua tiểu thuyết tập truyện Tây Bắc, ta có thể biết được và thấu
hiểu được cuộc sống của người dân miền núi, với cách nhìn chân thực và cách thể hiện
chân thực sinh động rõ nét nhất về cuộc sống trong giai đoạn tìm ra con đường giải phóng
dân tộc, từ đó vạch trần được tội ác của thực dân, của những tên quan lại ăn trên mồ hôi,

3


xương máu của người dân miền núi, thể hiện tình cảm của con người đối với con người
và khát vọng được giải phóng dân tộc, thoát khỏi cảnh cơ cực, tủi nhục ấy của biết bao
con người miền núi Tây Bắc.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Ở đề tài này đối tượng và phạm vi nghiên cứu là:
Đối tượng nghiên cứu: Thế giới nhân vật trong tập truyện Tây Bắc của Tô Hoài.
Phạm vi nghiên cứu: Tập truyện Tây Bắc của Tô Hoài, bao gồm các truyện ngắn: Vợ
chồng A Phủ, Cứu đất cứu Mường, Mường Giơn, NXB Giáo Dục, năm 2005.
5. Phương pháp nghiên cứu
Thực hiện niên luận này, người viết đã vận dụng và phối hợp một số phương pháp
nghiên cứu khác nhau như:
Phương pháp lịch sử: Tìm hiểu rõ hơn về sự nghiệp cuộc đời của nhà văn Tô Hoài
cũng như khuynh hướng sáng tác của ông. Nhờ vào phương pháp này mà người viết có
thể biết thêm về những công trình nghiên cứu nào đã từng đề cập đến nhà văn Tô Hoài và
tập truyện Tây Bắc.
Phương pháp nghiên cứu tài liệu: Tìm hiểu từ cá tài liệu về tác phẩm có thể giúp ích
cho phần nghiên cứu lịch sử vấn đề, đọc tài liệu, chọn lọc dữ liệu cần thiết, liên quan đến
cơ sở lí luận nói về thế giới nhân vật trong tác phẩm văn học, các tài liệu, tác phẩm liên
quan đến nội dung của đề tài. Đồng thời phương pháp này cũng giúp người viết nắm
được những thông tin, tư liệu để dựa vào đó có thể hoàn thiện được bài nghiên cứu của
mình.
Phương pháp phân tích tổng hợp: Đây là phương pháp rất quan trọng với việc đưa ra
và phân tích dẫn chứng để làm nổi bật thế giới nhân vật trong tiểu thuyết. Trong khi thực
hiện phân tích, người viết có kết hợp các thao tác chứng minh, giải thích, bình luận, làm
nổi bật đề tài nghiên cứu, sau đó tổng hợp lại và đưa ra kết luận chung. Cuối cùng trình
bày kết quả thu được qua quá trình nghiên cứu, người viết kết hợp phương pháp diễn dịch
hay quy nạp để hoàn thành.


4


CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG
1.1. Khái quát về nhân vật văn học trong tác phẩm
1.1.1. Khái niệm về nhân vật văn học
“Văn học là nhân học” (M.Gorki). Văn học bao giờ cũng thể hiện cuộc sống của con
người. Có thể nói: “Nhân vật là phương tiện để phản ánh đời sống, khái quát hiện thực”.
Con người là yếu tố quan trọng nhất trong văn học, chính vì vậy mà con người là điều
quan trọng để tạo nên nhân vật, cho nên “Nhân vật văn học là khái niệm dùng đẻ chỉ hình
tượng các cá thể con người trong tác phẩm văn học –cái đã được nhà văn nhận thức, tái
tạo, thể hiện bằng các phương tiện riêng của nghệ thuật ngôn từ” [10; tr.73].
1.1.2. Đặc điểm của nhân vật văn học
Nhân vật trong tác phẩm văn học người ta thường hiểu đó là con người được xây
dựng bằng các phương tiện của văn học. Qua đó nhà văn thể hiện tư tưởng, tình cảm đối
với đời sống. Nhân vật trong tác phẩm không đơn giản là những bản sao của người thật
ngoài đời thật mà nhân vật là nột hình ảnh mang tính chất ước lệ: “Thường được quan
niệm với một phạm vi rộng hơn nhiều, đó không chỉ là con người, những con người có
tên hoặc không tên, được khắc họa sâu hoặc chỉ xuất hiện thoáng qua trong tác phẩm mà
còn có thể là sự vật, loài vật khác ít hay nhiều mang bóng dáng tính cách của con người,
được dùng như những phương thức khác nhau để biểu hiện con người” [3; tr.126].
Nhân vật văn học là hình tượng nghệ thuật mang tính ước lệ, đó không phải là sự
sao chép đầy mọi chi tiết biểu hiện của con người. Nhân vật văn học được tạo nên bởi
nhiều thành tố gồm hạt nhân tinh thần của cá nhân như: ý chí, khát vọng, lý tưởng, các
biểu hiện của thế giới cảm xúc, các lợi ích của đời sống, các hình thái ý thức và cá hành
động trong quá trình sống.
Nhân vật trong tác phẩm văn học biểu hiện rất đa dạng. Có nhân vật hiện ra khá đầy
đặn nhưng cũng có nhân vật lại chỉ hiện ra qua ngôn ngữ như trong kịch bản văn học.

Hay nhân vật được bộc lộ qua tình cảm, ý nghĩ nhân vật trong tác phẩm trữ tình. Có nhân
vật không được miêu tả chân dung, ngoại hình, hành động nhưng người đọc vẫn nhận ra
qua giọng văn như nhân vật người kể chuyện.
Để nhận diện được nhân vật ta cần phải căn cứ vào những đặc điểm của nó. Đầu tiên
ta có thể căn cứ bằng tên gọi của nhân vật như: Trọng Thủy, Xuân Tóc Đỏ, Chí Phèo, Lão
Hạc,… Cũng có khi gọi tên theo dấu hiệu nghề nghiệp, đặc điểm giới tính, tiểu sử hay
một đặc điểm đặc biệt nào đó như: thằng ngốc, lão nhà giàu, người đàn bà hàng chài, anh
trai cày,… Có khi tên nhân vật là tên gọi của những con vật, đồ vật, thực vật đã dược
nhân hóa như: hổ, trâu, cái bàn, bong hoa, cành cây,… Hoặc là tên gọi những nhân vật
tưởng tượng hư cấu như: Ngọc Hoàng, Thần, Bụt,…
5


Nhân vật văn học là một hiên tượng nghệ thuật có dấu hiệu nhận biết, những dấu
hiệu đó được giới thiệu ngay từ đầu và thông thường sự phát triển về sau của nhân vật
gắn liền với những giới thiệu ban đầu đó, chẳng hạn như: Việc giới thiệu Tràng trong tác
phẩm Vợ nhặt của Kim Lân dường như cũng báo trước về số phận của nhân vật sau này:
“Hắn vừa đi vừa mỉm cười, hai con mắt nhỏ tí, gà gà đắm vào bóng chiều, hai bên quai
hai hàm bạnh ra, rung rung làm cho bộ mặt thô kệch của hắn lúc nào cũng nhấp nhỉnh
những ý nghĩ gì vừa lí thú, vừa dữ tợn. Hắn có tật vừa đi vừa nói. Hắn lảm nhảm than thở
những điều hắn nghĩ”.
Gắn với những suy nghĩ, nói năng, hành động trong quá trình phát triển về sau của
nhân vật. Nhân vật văn học không giống với các nhân vật thuộc các loại hình nghệ thuật
khác. Ở đây, nhân vật văn học được thể hiện bằng chất liệu riêng là ngôn từ. Vì vậy, nhân
vật văn học đòi hỏi người đọc phải vận dụng trí tưởng tượng, liên tưởng để dựng lại một
con người hoàn chỉnh trong tất cả các mối quan hệ của nó.
Số lượng nhân vật trong tác phẩm văn học không có giới hạn, đặc biệt trong tiểu
thuyết, sử thi số lượng có thể lên đến hàng chục, hàng trăm. Theo quan niệm của Lê Tiến
Dũng: “Nhân vật trong tác phẩm văn học là những con người hay những sự vật mang cốt
cách của con người được xây dựng bằng các phương tiện nghệ thuật ngôn từ” [2; tr.77].

Như vậy nhân vật là công cụ để nhà văn phản ánh cuộc sống hiện thực trong xã hội
đưa vào tác phẩm để xây dựng nhân vật nhằm bộc lộ tư tưởng, tình cảm của nhà văn.
1.1.3. Vai trò của nhân vật văn học
Nhân vật là phương tiện để phản ánh đời sống, khái quát hiện thực. Vai trò của nhân
vật là khái quát những quy luật cuộc sống của con người, thể hiện những hiểu biết, những
ước ao và kì vọng về con người. Mặt khác, nhân vật là phương tiện khái quát tính cách,
số phận con người và các quan niệm về chúng. Ví dụ, nhân vật người anh trong truyện cổ
tích Cây Khế là biểu hiện của loại người tham lam trong xã hội.
Nhân vật còn là phương tiện thể hiện tư tưởng, tình cảm của nhà văn. Nó thể hiện
quan niệm nghệ thuật và lí tưởng thẩm mĩ của nhà văn về con người. Vì thế, nhân vật
luôn gắn chặt với chủ đề của tác phẩm. Thông qua việc xây dựng nhân vật, nhà văn bộc
lộ tư tưởng, tình cảm của mình đối với từng loại người trong xã hội, đồng thời dẫn dắt
người đọc đi vào những thế giới riêng với đủ mọi khát vọng cùng với cảm xúc yêu
thương hay lòng căm giận. Qua việc mô tả các nhân vật như bà Phó Đoan, cụ Cố Hồng
trong tiểu thuyết Số đỏ, nhà văn Vũ Trọng Phụng đã bộc lộ niềm căm gét lối sống suy
thoái về đạo đức đến cùng cực của giới thượng lưu trong xã hội thực dân phong kiến.
Nhân vật văn học do nhà văn sáng tạo nên, trên cơ sở quan sát những con người
trong cuộc sống. Chính vì vậy, khái niệm nhân vật văn học là một trong những khái niệm
trung tâm để xêm xét tài năng nghệ thuật của nhà văn. Sức sống của nhân vật được thể
hiện qua việc mô tả ngoại hình, nội tâm, ngôn ngữ và hành động của nhân vật, những cái
làm cho nhân vật có sức hấp dẫn kì lạ với người đọc. Có những nhân vật đã bất tử với
6


thời gian: Võ Tòng, Khổng Minh, Trương Phi, Tào Tháo, Quan Công, Thúy Kiều, Lục
Vân Tiên, Sơn Tinh, Thủy Tinh,… Sức hấp dẫn đối với người đọc của một nhân vật có
nhiều lí do. Nhưng một lí do cơ bản là họ rất độc đáo, không hề giống ai như Heeghen
từng nói. Chí Phèo được nhớ mãi bởi những lời lẽ chửi rủa độc đáo, bởi cách đến nhà Bá
Kiến xin được đi ở tù lại, bởi cách trêu ghẹo Thị Nở, thấy Thị Nở kêu, Chí kêu to hơn…
“Nhân vật văn học giữ vai trò quyết định nội dung tư tưởng trong tác phẩm, vì vậy

nhà văn luôn dồn tâm huyết và tài năng của mình vào việc khắc họa nhân vật chính vì thế
mà chúng ta thấy có nhiều người không nhớ tên tác giả nhưng rất nhớ tên các nhân vật
tác giả tạo dựng nên” [12; tr.35-36]. Do nhân vật có vai trò khái những tính cách, hiện
thực cuộc sống và thể hiện quan niệm của nhà văn về cuộc đời, cho nên trong quá trình
mô tả nhân vật, nhà văn có quyền lựa chọn chi tiết, yếu tố mà họ cho là cần thiết bộc lộ
được quan niệm về cuộc sống và con người.
1.1.4. Chức năng của nhân vật văn học
Nhân vật là điều kiện thiết yếu đảm bảo cho sự miêu tả thế giới của văn học có được
chiều sâu và tính hình tượng. Một số tác phẩm cá biệt có thể vắng mặt nhân vật, nhưng
văn học nói chung thì không thể thiếu nó.
Trước tiên, nhân vật có chức năng cơ bản là miêu tả các loại tính cáh xã hội. Trong
đời sống, ta được tiếp xúc với nhiều loại tính cách khác nhau. Đây chính là một hiện
tượng thú vị của thực tế khách quan, đòi hỏi được văn học nghiên cứu và thể hiện. Một
nhân vật được xây dựng thành công sẽ giúp ta gợi lên cảm tưởng như vừa gặp lại những
con người của ngoài đời thực, rất rõ nét, sau nữa ta nhận thấy nhiều mối tương quan cơ
bản và có tính lịch sử của thực tại được tái hiện sinh động trong đó.
Ngoài việc thể hiện tính cách nhân vật còn có chức năng khái quát những quy luật
của cuộc sống và của con người, thể hiện những hiểu biết, những ước mơ, kỳ vọng về đời
sống. Cho nên nhà văn xây dựng nhân vật là thể hiện những cá nhân nhất định và quan
niệm đánh giá về cá nhân đó.
Nhân vật là phương tiện khái quát tính cách số phận của con người (tính cách nhân
vật là một hành động xã hội lịch sử xuất hiện trong một hiện thực khách quan trong câu
chuyện thần thoại) qua đó nhân vật dẫn dắt ta đi đến với đời sống xã hội.
Ví dụ: Nhân vật Chí Phèo cho ta thấy được bộ mặt bỉ ổi của xã hội phong kiến đương
thời…
Vì tính cách là kết tinh của môi trường, nên nhân vật văn học là người dẫn dắt người
đọc vào các môi trường khác nhau của đời sống.
Bên cạnh đó, nhân vật còn có chức năng biểu hiện quan niệm nghệ thuật của nhà
văn về thế giới, con người. Nó không chỉ được biểu hiện qua nhân vật, mà qua tổng gộp
toàn bộ các yếu tố hợp thành tác phẩm hay một sự nghiệp sáng tác. Nhưng phải thừa

7


nhận rằng với các nhân vật cụ thể, thái độ đánh giá về các tính cách, về các vấn đề xã hội
của nhà văn có điều kiện bộc lộ tốt hơn, tập trung hơn.
Ngoài ra nhân vật văn học còn có chức năng tương tự chức năng của một chiếc chìa
khóa, giúp nhà văn mở cánh cửa bước vào hiện thực rộng lớn tiếp cận những đề tài, chue
đề mới mẻ như đề tài miền núi trong văn học cách mạng Việt Nam. Từ đó, giúp nhà văn
đi vào khai phá đề tài cuộc sống của các dân tộc vùng cao.
Sau cùng, “ta nói đến chức năng của nhân vật trong việc tạo mối liên kết giữa các
sự kiện trong tác phẩm và cái vẵn thường được gọi là cốt truyện. Nhân vật góp phần lớn
cho việc tạo nên kết cấu của nhiều tác phẩm nhằm đạt được sự thống nhất hoàn chỉnh,
chặt chẽ và nhiều tiềm năng biểu đạt của các phương tiện ngôn từ, để rồi chúng trở
thành những phương diện nghệ thuật độc lập, có thể được nghiên cứu như một đối tượng
chuyên biệt” [10; tr.77-79].
1.1.5. Phân loại nhân vật văn học
Thế giới nhân vật do nhà văn sáng tạo là một hiện tượng hết sức đa dạng và phong
phú. Những nhân vật được sử dụng thành công từ xưa đến nay bao giờ cũng là những
sáng tạo độc đáo, không lặp lại. Tuy nhiên, xét về mặt nội dung tư tưởng, kết cấu, chất
liệu miêu tả, có thể thấy những hiện tượng lặp đi lặp lại tạo thành các nhân vật khác nhau.
Để nắm bắt được thế giới nhân vật đa dạng, phong phú, có thể tiến hành phân loại chúng
ở nhiều góc độ khác nhau.
Xét từ góc độ hệ tư tưởng, quan hệ đối với lí tưởng, có thể chia nhân vật làm hai loại
nhân vật chính diện và nhân vật phản diện.
Nhân vật chính diện là nhân vật là loại nhân vật đại diện cho cái tốt, cái thiện, cái
tiến bộ, lực lượng chính nghĩa cho xã hội và những phẩm chất cao đẹp của con người.
Thường được tác giả đề cao và khẳng định, đó là nhân vật mang lí tưởng, quan điểm tư
tưởng và đạo đức tốt đẹp của tác giả của thời đại.
Nhân vật phản diện là nhân vật nằm trong sự phê phán, phue định của tác giả, đó là
những nhân vật mang phẩm chất xấu xa, cái xấu, cái ác, trái với đạo lí và lí tưởng, đối lập

về tính cách với nhân vật chính diện. Ví dụ, trong truyện Lục Vân Tiên của Nguyễn Đình
Chiểu, đó là nhân vật cha con Võ Thể Loan, Trịnh Kiệm, Trịnh Hâm,…
Việc phân loại nhân vật chính diện và nhân vật phản diện cũng có khi khó phân biệt,
bởi vì nó mang tính lịch sử. Văn học các thời đại khác nhau luôn có những nhân vật
chính diện và nhân vật phản diện của mình. Nhưng như thế mới làm tính cách nhân vật
trở nên đa dạng, trong văn học hiện thực phê phán giai đoạn 1930-1945, thường là những
người lao động nghèo khó bị xã hội chà đạp, áp bức nhưng vẫn mang những phẩm chất
tốt đẹp, lương thiện, nhân ái như chị Dậu (Tắt đèn), lão Hạc (Lão Hạc), Thứ (Sống mòn),
Quế (Tắt đèn), Nghị Hách (Giông tố). Cho nên sự phân biệt nhân vật chính diện –phản
diện chỉ có ý nghĩa tương đối.
8


Xét về góc độ kết cấu: xem xét tầm quan trọng, chức năng và vị trí của nhân vật
trong tác phẩm, có thể chia nhân vật thành các loại nhân vật như nhân vật chính, nhân vật
trung tâm và nhân vật phụ.
Nhân vật chính là nhân vật giữ vai trò quan trọng của cốt truyện. Các nhân vật này
được nhà văn miêu tả tỉ mỉ, có lai lịch, có nguồn gốc, có mối quan hệ với các sự kiện
chính trong cốt truyện và các nhân vật khác. Nhân vật chính là nhân vật xuất hiện nhiều
hơn trong tác phẩm, đóng vai trò quan trọng trong việc thể hiện tập trung đề tài, chủ đề và
tư tưởng của tác phẩm.
Nhân vật chính có thể có nhiều hoặc ít tùy theo dung lượng hiện thực và những vấn
đề đặt ra trong tác phẩm. Trong các tác phẩm tưh sự cỡ lớn xuất hiện hàng loạt nhân vật
chính được nhà văn miêu tả có tính cách có số phận, thường nổi lên những nhân vật gắn
với cốt truyện từ đầu tới cuối và có liên quan với hầu hết các nhân vật chính, đó là nhân
vật trung tâm.Trong không ít trường hợp, nhà văn dùng tên nhân vật trung tâm để đặt tên
cho tác phẩm. Ví dụ, Truyện Kiều của Nguyễn Du, Đông Kisốt của Xecvantec, A.Q chính
truyện của Lỗ Tấn,…
Nhân vật phụ là nhân vật giữ vai trò kết nối, liên quan đến diễn biến truyện, giữ vai
trò phụ chứ không phải không quan trọng, có tính chất bổ sung, không thể thiếu. Ví dụ,

nhân vật thằng bán tơ trong Truyện Kiều chỉ với một hành động vu oan mà đã đẩy gia
đình Thúy Kiều đến tân nát và nàng chịu mười lăm năm lưu lạc. Nhân vật Từ và những
đứa con trong Đời Thừa của Nam cao đã góp phần quan trọng vào việc bộc lộ tính cách
và tâm trạng của Hộ và họ cũng là cái cớ trực tiếp đẩy Hộ vào những tấn bi kịch.
Xét từ góc độ thể loại: có thể chia nhân vật làm ba loại nhân vật trữ tình, nhân vật tự
sự và nhân vật kịch.
Nhân vật trữ tình là hình tượng người trực tiếp thổ lộ suy nghĩ, cảm xúc, tâm trạng
trong tác phẩm. Nhân vật trữ tình không có diện mạo, hành động lời nói, quan hệ cụ thể
như nhân vật tự sự và kịch, mà được thể hiện cụ thể trong giọng điệu, cảm xúc, trong
cách cảm, cách nghĩ. Qua những trang thơ, ta như gặp tâm hồn người, lòng người, đó là
nhân vật trữ tình.
Nhân vật tự sự có thể được miêu tả bên trong lẫn bên ngoài, cả điều nói ra và điều
không nói ra, cả ý nghĩ và cái nhìn, cả tình cảm, cảm xúc, ý thức và vô thức, cả quá khứ,
hiện tạivà tương lai. Chủ yếu xuất hiện trong các tác phẩm tự sự, truyện ngắn, truyện thơ,
tiểu thuyết. Đây là nhân vật có thể được miêu tả đầy đủ nhất, phong phú nhất.
Nhân vật kịch không thể được khắc họa với nhiều khía cạnh tỉ mỉ. Hơn nữa những
tính cách ưa phức tạp như trong tiểu thuyết không thể nào phù hợp với việc thưởng thức
liền mạch của một tập thể khán giả trong cùng một thời gian ngắn ngủi. Nhân vật trong
kịch thường chứa đựng những cuộc đấu tranh nội tâm. DĨ nhiên, nhân vật trong các thể
loại văn học khác cũng vậy nhưng trong kịch phổ biến hơn.

9


Xét từ góc độ chất lượng miêu tả, có thể chia ra làm ba loại nhân vật, tích cách và
tính cách điển hình.
Nhân vật là hình ảnh về con người, đối tượng được phổ biến, nhân vật là chỉ đối
tượng được nói đến, được miêu tả trong tác phẩm mà nhà văn có thể nêu lên vài chi tiết
về ngôn ngữ, cử chỉ, hành động,…cũng có thể được miêu tả rõ và đậm nét.
Tính cách là những nhân vật được khắc họa có chiều sâu bên trong, nó được quy tụ

lại để giải thích cái muôn màu, muôn vẻ sinh động bên ngoài nhân vật. Tính cách có một
vvai trò hết sức quan trọng đối với cả nội dung và hình thức của tác phẩm văn học. Là
nhân tố chủ yếu tạo nên diễn biến của các sự kiện trong quá trình phát triển cốt truyện.
Tính cách điiển hình là tính cách đã đạt đến độ thực sâu sắc, là sự thống nhất giữa
cái chung và cái riêng, cái khái quát và cái cá thể. Nói một cách nghiêm ngặt thuật ngữ
này chỉ được áp dụng từ chủ nghĩa hiện thực phê phán trở về sau.
1.2. Đôi nét về nhà văn Tô Hoài và tập truyện Tây Bắc
1.2.1. Đôi nét về nhà văn Tô Hoài
1.2.1.1. Cuộc đời
Nhà văn Tô Hoài tên khai sinh là Nguyễn Sen.
Ông sinh ngày 10/8/1920, ở quê ngoại: làng Nghĩa Đô, ven sông Tô Lịch, thuộc phủ
Hoài Đức, tỉnh Hà Đông (nay thuộc phường Nghĩa Đô, quận Cầu Giấy, Hà Nội), trong
một gia đình làm nghề thủ công. Quê nội của ông ở thị trấn Kim Bài, huyện Thanh Oai,
tỉnh Hà Tây.
Bút danh của ông gắn liền với hai địa danh: sông Tô Lịch và phủ Hoài Đức.
Ông chỉ học hết bậc tiểu học (ở trường tiểu học Yên Phụ), sau đó vừa tự học vừa đi
làm để kiếm sống.
Từ năm 1936-1940, ông phải làm nhiều nghề khác nhau như: bán hàng giày Bata, kế
toán hiệu buôn, thợ thủ công, dạy học,…
Năm 1941, ông chuyển sang nghề viết báo với các bút danh: Mắt Biển, Mai Trang,
Duy Phương, Hồng Hoa. Những sáng tác đầu tiên của ông được đăng trên Hà Nội tân văn
và tiểu thuyết thứ bảy vào cuối những năm 30.
Từ năm 1937-1942, ông tham gia hoạt động phong trào cách mạng thời kì Mặt trận
bình dân. Thư kí ái hữu thợ dệt Hà Đông, Thanh niên phản đế, dạy học truyền bá quốc
ngữ.

10


Năm 1943, ông gia nhập tổ chức văn hóa cứu quốc do Đảng Cộng sản thành lập.

Trong kháng chiến chống thực dân pháp, làm báo (Cứu Quốc Việt Bắc) và hoạt động văn
nghệ ở Việt Bắc.
Năm 1957, khi Hội Nhà văn thành lập, ông làm Tổng thư kí, rồi phó Tổng thư kí
trong nhiều năm. Nhà văn còn là Chủ tịch Hội Văn nghệ Hà Nội (1986-1996). Hiện nay
ông là Chủ tịch danh dự Hội Nhà văn Hà Nội. Ngoài ra ông còn tham gia nhiều công tác
xã hội khác như: Uỷ ban đoàn kết Á-Phi, phó Chủ tịch Hội hữu nghị Việt-Ấn, Ủy viên
ban chấp hành Hội hữu nghị Việt Xô [1; tr.18].

1.2.1.2. Sự nghiệp sáng tác
Quan điểm sáng tác của ông “Viết văn là một quá trình đấu tranh để nói ra sự thật.
Đã là sự thật thì không tầm thường cho dù phải đập vỡ nhiều thần tượng trong lòng
người đọc”.
Từ trước cách mạng tháng tám năm 1975, nhà văn Tô Hoài đã viết nhiều tác phẩm
với hai đề tài chính: truyện các loài vật và truyện về cuộc sống của những người dân
nghèo, thợ thủ công ở vùng quê ngoại thành Hà Nội –hiện tại và lịch sử.
Những tác phẩm chính: Dế mèn phiêu lưu kí (đồng thoại, 1941), Quê người (tiểu
thuyết, 1941), O chuột (tập truyện về loài vật, 1942), Nhà nghèo (tập truyện ngắn, 1944),
Xóm giếng ngày xưa (tiểu thuyết, 1943).
Sau cách mạng tháng tám năm 1945, ngòi bút của nhà văn càng sung sức. Những
trang viết của ông xoay quanh các đề tài: miền núi Tây Bắc, Việt Bắc trong cách mạng,
kháng chiến xây dựng Chủ Nghĩa Xã Hội, sáng tác cho thiếu nhi, viết chân dung và hồi
ức. Những tác phẩm chính: Vào vùng Mường (tập kí, 1947), Truyện Tây Bắc (tập truyện,
1953), Mười năm (tiểu thuyết, 1957), Miền tây (tiểu thuyết, 1967), Mùa thu Luang
Phabang (tập kí, 1984), Chuyện cũ Hà Nội (tập kí,1986), Cát bụi chân ai (hồi kí,1992),
Chiều chiều (1999).
Tô Hoài là nhà văn viết điều và nhiều, tác phẩm của ông đa dạng về đề tài và thể
loại: tiểu thuyết, truyện ngắn, bút kí, hồi kí, kinh nghiệm sáng tác, truyện và kịch cho
thiếu nhi, kịch bản bản phim,…Ông đã viết trên 150 tác phẩm, trong đó có hơn 60 tác
phẩm viết cho thiếu nhi.Tô Hoài được nhà văn trao tặng giải thưởng Hồ Chí Minh về văn
học và nghệ thuật năm 1996.

Nhà văn Tô Hoài là cây bút văn xuôi hàng đầu của nền văn học hiện đại Việt Nam,
sáng tác của ông thể hiện vốn hiểu biết sâu sắc, phong phú của nhà văn về đời sống, đặc
biệt là sinh hoạt và phong tục ở làng quê và miền núi Tây Bắc. Nghệ thuật văn xuôi của
Tô Hoài có nhiều đặc sắc, nổi bật ở lối kể chuyện tự nhgieen, sinh động. Cách miêu tả
giàu chất tạo hình, ngôn ngữ phong phú, đậm tính khẩu ngữ, đậm chất dân gian và giàu
chất thơ.[1;tr.19].
11


12


1.2.2. Đôi nét về tập truyện Tây Bắc
1.2.2.1. Hoàn cảnh sáng tác
Mùa xuân năm 1952, Tô Hoài đi với bộ đội vào giải phóng Tây Bắc. Trong chuyến
đi dài tám tháng này, nhà văn đã sống hòa đồng thân thiết với đồng bào các dân tộc
Mông, Dao, Thái, Mường ở nhiều vùng, từ khu căn cứ du kích trên núi cao đến các bản
làng mới giải phóng. Đó là khu du bản Thái và vùng núi H’mông 99 Phú Yên, khu du
kích Mường La, Tú Lệ, Thuận Châu (Sơn La), các khu du kích Pú Nhung, Tuần Giáo,
Điện Biên (Lai Châu). Chuyến đi đã giúp cho Tô Hoài hiểu biết sâu sắc thêm về cuộc
sống và con người nơi miền núi, đã để lại cho nhà văn những kỉ niệm khó quên, tình cảm
thắm thiết với con người và thiên nhiên tạo vật Tây Bắc.
Truyện Tây Bắc (1953) – Kết quả của chuyến đi ấy- là một trong những tác phẩm
văn xuôi tiêu biểu của văn học thời kì kháng chiến chống thực dân pháp. Tác phẩm gồm
ba truyện: Cứu đất cứu mường; Mường Giơn và Vợ chồng A Phủ.
1.2.2.2. Đề tài, chủ đề, nội dung tư tưởng
Đề tài: Tập truyện Tây Bắc nói về cuộc sống của con người trong xã hội, đặc biệt là
người dân miền núi Tây Bắc, những phong tục tập quán lạc hậu, lối sống xấu xa của bọn
thực dân. Bộc lộ cảm xúc đối với những con người nơi đây, đặc biệt là thân phận người
phụ nữ trong xã hội dưới sự cai trị của thực dân phong kiến.

Chủ đề: Bằng ngòi bút của một nhà văn, ông đã nổi đau, sự nghèo khổ của ccon
người nơi đây. Nhà văn đã chọn đúng thời điểm để bộc lộ cảm xúc của mình, đau xót cho
số phận của họ dưới sự thống trị của thực dân.
Tác phẩm còn phản ánh hiện thực cuộc sống một cách chân thật nhất, không ngần
ngại phơi bày những cái xấu, thiếu đaoh đức mất nhân cách con người của thực dân
phong kiến. Phản ánh lên được bức tranh hiện thực về cuộc sống, thân phận đau khổ, bị
bóc lột đồng thời khẳng định được khát vọng tự do, sức sống mãnh liệt và tấm lòng
hướng về cách mạng của đồng bào, lí giải được sự thành công về con đường giải phóng
dân tộc và quá trinh vùng lên tự giải phóng và xây dựng lại cuộc đời của người dân miền
núi Tây Bắc.
Nội dung tư tưởng: Truyện Tây Bắc nhằm phê phán và lên án xã hội đen tối phong
kiến, những lối sống xưa cũ, tàn bạo, đạo đức bị ảnh hưởng bởi lối sống cũ, phong tục
vẫn chưa thay đổi. Nói lên ươc mơ nguyện vọng của những con người nơi miền núi.
Thấu hiểu được nỗi lo, niềm trăn trở, sự tủi nhục của bao nhiêu con người nơi miền
núi, sự hoài nghi về phẩm chất đạo đức. Qua đó thấy được bộ mặt xã hội lúc bấy giờ, một
xã hội dưới bóng đen của thực dân phong kiến.
Tác phẩm còn ca ngợi tinh thần đấu tranh của con người với con người, lòng yêu
thương nước, yêu quê hương, sống vì mọi người. Họ còn biết cảm thông cho nhau trước
13


những nỗi đau và số phận bất hạnh về cuộc sống đắng cay, tủi nhục vủa người phụ nữ
dưới sự đè nén của thực dân.
1.2.2.3. Tóm tắt tác phẩm
Tập truyện Tây Bắc nói về cách mạng kháng chiến với nhguwngx xung đột giai cấp
dân tộc. Những mất mác đau thương của nhân dân miền núi Tây Bắc.
Đó là những câu chuyện về cuộc đời của con người miền núi xa xôi, phải chịu khổ
cực, hình ảnh người lao động miền núi nghèo khổ:
Trong Vợ chồng A Phủ: Mị là một cô gái xinh đẹp vì phải trả nợ cho gia đình mà
phải làm dâu để gạt nợ, và chết dần chết mòn trong địa ngục trần gian của nhà Thống Lí

Pá Tra , Tràng là một chàng trai khỏe mạnh vì đánh A Sử con trai của Thống Lí mà phải
vào nhà hắn ở đợ và cũng bị hành hạ, đánh đập. Cuối cùng cả hai phải bỏ trốn để giải
thoát cho số phận của mình.
Hay thân phận người phụ nữ trong “Cứu đất cứu mường”, thân phận của cô Ảng từ
một cô gái có vẻ đẹp nổi tiếng nhất ở Mường Cơi bị xem nhu một món đồ chơi qua tay
nhiều quan châu, quan lay, chúa đất cho đến khi tàn tạ trở thành một bà lão ăn mày …,
Sau đó bà tìm về quê hương để tìm đứa con trai là Nhấn mà bà cũng không biết cha của
Nhấn là ai, tiếp tục dùng sức già của mình để bảo vệ quê hương với mong mỏi bảo vệ
được vùng đát mà mình đã sinh ra, nhưng cuối cùng bà đã chết giữa nương lúa bởi một
tên quan châu.
Mường Giơn cũng nói lên được thân phận người phụ nữ trong xã hội lúc bấy giờ.
Truyện nói về nỗi lòng của những người con nơi miền núi, sự quyết tâm bảo vệ và không
rời xa cái mảnh đất của mình, nơi đã từng sinh ra và lớn lên điển hình là ông Mờng, tình
cảm của ông đối với gia đình, hết lần này đến lần khác ông phải cắn răng rời xa quê
hương để bảo vệ các con của mình, đặc biệt là số phận đáng thương của Mát con gái lớn
của ông Mờng. Khi tưởng chồng mình là Sạ đã bỏ mạng nơi nhà, Mát bị một tên quan bắt
về để hầu hạ và không thấy quay trở lại nữa. Nỗi đau đó được hiện rõ qua suy nghĩ của
ông Mờng “Ông nghĩ đến con gái đầu lòng chắc đã chết ở Mường xa,…”.
Qua tập truyện Tây Bắc ta thấy được số phận của người phụ nữ từ khi sinh ra và lớn
lên đều phải chịu đau khổ, cuộc sống đắng cay, không làm chủ được số phận của mình.

14


CHƯƠNG 2
NHỮNG BIỂU HIỆN VỀ NHÂN VẬT
TRONG TẬP TRUYỆN TÂY BẮC CỦA TÔ HOÀI
2.1. Biểu hiện của nhân vật chính trong tập truyện Tây Bắc của Tô Hoài
2.1.1. Nhân vật phản ánh hiện thực xã hội
Trong tập truyện Tây Bắc, các nhân vật trong tập truyện đã hoàn toàn phản ánh

lên được hiện thực xã hội trong thời điểm lúc bấy giờ, một xã hội tàn bạo, vô lương tâm.
Xã hội không biết xem trọng con người, không tôn trọng những người nghèo
khổ có số phận bất hạnh trong cuộc sống, một xã hội với những phong tục tập quán cũ,
một xã hội mà đạo đức con người bị tha hóa.
Trong vợ chồng A Phủ, nhìn vào ta thấy được toàn bộ cảnh xã hội tàn bạo, xem
thường người nghèo. Nhân vật Mị trong tác phẩm là một cô gái trẻ mà khi vào cái xã hội
này thì họ xem cô như là con trâu, con ngựa làm việc suốt ngày, suốt năm,mặt cô lúc nào
cũng buồn rười rượi. Dường như cái xã hội này đã làm cho Mị trở thành một con người
không nghĩ ngợi gì nữa chỉ biết chấp nhận sự bất hạnh của cuộc đời mình: “Mị tưởng
mình cũng là con trâu, con ngựa chỉ biết ăn cỏ, biết đi làm mà thôi ” [5; tr.208].
Những con người không còn lương tâm, không có tình thương, bắt người nghèo
khổ làm việc suốt năm, suốt đời như thế. Trước xã hội như vậy, Mị trở nên nính lặng đi,
lười nói với cái xã hội này: “Mỗi ngày Mị càng không nói lùi lũi như con rùa nuôi trong
xó cửa” [5; tr.209].
Cái xã hội này thật đáng sợ, thật đáng khinh rẻ, người dân bị xem thường, số
phận người phụ nữ u tối, muốn bắt về làm vợ lúc nào thì bắt, về thì làm trâu, lamg ngựa,
phục vụ cho chúng. Không cần lí do muốn hành hạ thế nào thì hành hạ, bị chà đạp dưới
những con người quyền lực. Họ hoàn toàn mất đi nhân tính nhân phẩm của một con
người. Nhân vật A Phủ là một chàng thanh niên khỏe mạnh, biết quan tâm và thương
người vậy mà chỉ vì không thể chịu được cảnh hóng hách của A Sử mà đã ra tay đánh A
Sử. Trước tình cảnh đó và dưới cái xã hội đen tối này thì A Phủ bị bắt về, bị đánh, đánh
một cách dã man, đánh xong lại bắt A Phủ nộp tiền, không có tiền thì phải vay tiền để trả
nợ, và rồi A phủ lại trở thành con nợ của nhà Thống Lí Pá Tra, bắt đầu một cuộc sống cực
khổ. “A Phủ quỳ chịu đòn, chỉ im như tượng đá. Cứ mỗi đợt bọn chức việc hút thuốc
phiện xong, A Phủ phải ra quỳ giữa, lại bị người xô đến đánh, mặt A Phủ xưng lên, môi
và đuôi mắt dập chảy máu” [5;tr.215]. Một xã hội không có lối thoát cho người nghèo
khổ, xã hội mà đồng tiền được đặt trên hết.
Trong truyện Cứu đất cứu mường thì nỗi khổ đó được thể hiện rõ nét hơn. Một
cuộc sống mà con người không hề muốn, ở đây số phận người phụ nữ còn rẻ mạc, họ chỉ
xem phụ nữ là một món đồ chơi, không biết trân trọng. Điển hình là nhân vật Bà Ảng

15


trong tác phẩm, ngày xưa là một cô gái rất xinh đẹp, lo làm phụ giúp cha, chăm chỉ.
Nhưng không may Ảng đã lọt vào mắt của của quan Châu Né, từ đấy cuộc đời ảng trở
nên u tối, Ảng phải “ đi hầu quan từ đấy, trở thành người chuyên tay của các quan Châu,
quan Lang, những Ông chúa đất Mường Cơi, ở châu Mường Vạt, ở châu Mường La. ảng
không đi hầu riêng ai, mà Ảng đi hầu khắp mọi người quan, khi nào có tri châu, châu
đoàn về là gọi Ảng theo hầu rượu, hầu thuốc phiện, hầu chăn đệm, tan cuộc chơi thì lại
cho Ảng về” [5; tr96].
Đấy người đàn bà trong xã hội này không là gì cả, chỉ là một đồ chơi. “Tuy Ảng
còn trẻ, còn đẹp nhưng dân trắng trong làng không ai dám lấy, người ta sợ quan, khinh
hạng đàn bà ấy là người thừa, không biết làm gì” [5; tr.96]. Một xã hội không có lối
thoát, làm cho con người không tin vào cuộc sống này, không chỉ lấy đi tuổi thanh xuân
của người phụ nữ mà còn phải bắt nộp xu thuế đẩy con người vào con đường bế tắc. Ảng
bây giờ phải đi ăn xin, năm tháng trôi qua người con gái đẹp nhất làng giờ đây đã trở
thành Bà lão Ảng ăn mày.
Tiếp đến qua cuộc sống hằng ngày, sự nghèo khổ, cơ cực vẫn đang thường trực
một cách không ngừng nghĩ nói về con người, những bọn thực dân phong kiến ngoài kia
chỉ toàn bẩn thỉu, chỉ toàn cướp của của dân, tàn phá nương gẫy, lấy hiết tiền của người
dân và còn mất đạo đức con người hơn nữa là chúng hiếp con gái nhà lành, cướp về làm
vợ mình.
Điển hình là trong Mường Giơn, nhân vật Mát là một người con gái đã có chồng,
yêu thương chồng, yêu gia đình, biết quan tâm lo lắng cho cha và hai đứa em của mình.
Số phận trớ trêu lại đến với cô, vào lúc bọn tây đang chiếm Mường Cơi làm cho gia đình
li tán, chạy trốn qua Mường khác làm cho cô phải mất chồng. Số phận Mát lại rơi vào
tình cảnh bi đát, sau khi Sạ mất tích có tin đồn là Sạ đã bỏ mạng nơi quê nhà, cha Mát đã
hứa gã cô cho Bân để tránh khỏi tay mắt của bọn thực dân, nhưng lại lần nữa Mát lại
không thoát khỏi mắt của quan, nên cô bị bắt về làm vợ, làm con ở cho quan. Những
người làng đi phu quảy nước lên đồn về nói: “ Cô Mát lấy quan Ba rồi. Nhà ông Mường

sắp được quan Ba cho mở cửa hàng bán muối cho dân rồi”. Có người lại nói: “Bang Kỳ
lấy cô Mát về làm nàng dâu, bị vợ cả ghen, mỗi ngày bị vợ cả đánh cô Mát ba trận, đệm
đó bắt đứng dưới gầm sàn”. Một bọn phu nhảy lại nói: “Bang Kỳ nó cho lính đem cô Mát
về Mường Tè ở Lai Châu rồi ” [5; tr.127].
Qua mắt nhìn của Tô Hoài, các nhân vật trong truyện đã phản ánh được một
phần cuộc sống xã hội, vạch trần được bộ mặt của xã hội, những cái xấu xa, cái tàn ác
của bọn thực dân phong kiến đè nặng lên số phận của người dân. Nói lên được một xã hội
không xem trọng con người đặc biệt là những người nghèo khổ.
2.1.2. Nhân vật thể hiện phẩm chất đạo đức của con người
Trong tập truyện Tây Bắc các nhân vật đều có những phẩm chất tốt đẹp của những
con người lương thiện, đối lập với những con người xấu xa, tàn bạo mất nhân tính điều
này làm cho truyện trở nên hấp dẫn hơn.
16


Bằng cái nhìn mới mẻ, những con người nơi miền núi xa xôi mang trong mình
những đức tính tốt đẹp, những con người gan dạ, hi sinh vì gia đình, làng xóm, biết quan
tâm mọi người, biết tiếp thu và quyết tâm tìm con đường giải phóng dân tộc.
Nhân vật A Phủ trong Vợ chồng A Phủ lúc đầu là một người chịu làm, không sợ
cực khổ, dám đối mặt với nguy hiểm. Sau này khi giác ngộ được cách mạng, A Phủ trở
nên gan dạ, liều lĩnh quyết tâm giải phóng đất nước, giờ A Phủ đã là đội trưởng du kích
không còn sợ bọn thống lí Pá Tra đến phá rối nữa: “Nghĩ xem ngày trước nó trói đánh ta,
làm ta khổ hại, có khac gì việc thằng Tây làm ác bây giờ. Nó không phải giống người
Mèo. Nó không được làm dòng giống ta” [5; tr.238].
Đối với Cứu đất cứu Mường thì nhân vật bà lão Ảng là một người mẹ hi sinh vì
con, là người đàn bà có tấm lòng yêu thương con người, giúp đỡ cách mạng, liều mình để
bảo vệ nương ngô, thóc của mình “Bà ảng vùng xông ra, xô giữa đám, quờ quạng hai tay
lên, dường như muốn cấu xé lũ lính. Bà bị gạt ngã vật xuống đất, rồi kéo bà đến góc
xoan. Bà giãy giụa: Thóc tao! Thóc tao! Cầm Né! Cầm Né! Con mày đốt thóc của mẹ
con tao ư!”. [5; tr.103]. Sau đó bà bị Châu Đoàn Vàng đánh hai báng súng, mặt bà đâm

vào gốc cây và bà ảng chết ở đó. Sự hi sinh tính mạng của mình để bảo vệ những giọt mồ
hôi, bảo vệ thóc của mình, Không khuất phục trước kẻ thù.
Trong Mường Giơn nhân vật ông Mờng cho thấy được tấm lòng của người cha đối
với những đứa con của mình trong thời buổi xã hội bị bọn thực dân phong kiến xâm lược,
chiếm hết Mường này tới Mường khác. Lúc nào ông cũng lo lắng cho số phận của những
đứa con của mình. Đặc biệt là hai cô con gái, luôn lo lắng nó sẽ bị các quan Châu bắt đi
mất, trước mặt con rể thì ông luôn tỏ ra khó khăn nhưng thực chất trong lòng rất thương
con rể, thương cái nết ăn, nết ở của nó, chịu làm. Ông không thể hiện ra bên ngoài. Thế
mà lúc giặc đến nghe tin con rể đã bỏ mạng ở quê nhà thì lòng ông lại đau đớn, sự đau
đớn tiếc nuối đó không còn che dấu nữa mà nó được bộc lộ ra ngoài một cách chân thật
nhất: “Hai co mắt ông Mờng bỗng hóa đi. Thằng rể nhà ông chịu khó, hay làm. Một mình
nó làm đáng ba con trâu. Trăm việc trong nhà điều đổ vào đầu nó” [5; tr.120].
Tất cả những điều trên cho chúng ta cảm nhận được nhân phẩm, đạo đức của
những con người bị chà đạp trong xã hội. Qua đây thấy được vẻ đẹp thể chất, tâm hồn và
sức sống của người dân lao động miền núi và khẳng định chỉ có sự vùng dậy của chính
họ, được ánh sáng cách mạng soi đường sẽ dẫn tới cuộc đời tươi sáng.
2.2. Biểu hiện của nhân vật phụ trong tập truyện Tây Bắc
2.2.1. Nhân vật có số phận bất hạnh trong cuộc sống
Trong tập truyện này, nhà văn đã xây dựng rất nhiều nhân vật mang số phận bất
hạnh trong cuộc sống, thể hiện các mối quan hệ xã hội, sự bất hạnh nghèo khổ đã khiến
con người phải sống cam chịu dưới xã hội thực dân phong kiến.

17


Nhân vật đầu tiên ta nhắc đến đó là những người đàn bà trong nhà thống lí Pá Tra,
những con người làm việc quanh năm, suốt ngày không khác gì con trâu. Đặc biệt là chị
dâu của Mị, “Người chị dâu chưa già, nhưng cái lưng quanh năm phải đeo thồ nặng quá,
đã cồng gạp xuống” [5; tr.213]. Người chị dâu ấy vẫn cam chịu trước số phận của mình.
Đời người đàn bà lấy chồng giàu ở Hồng Ngài thì một đời con người chỉ biết đi theo đuôi

con ngựa của chồng.
Tiếp đó là Nhấn một đứa con đã bị mẹ bán đi từ nhỏ, rời xa vòng tay của mẹ, chịu
khổ một mình, đến lớn hiểu được nỗi lòng của mẹ Nhấn không còn trách mẹ nữa mà cảm
thấy thương mẹ hơn. Nhấn muốn lại tình thương của hai mẹ con Nhấn đón mẹ và em lên
ở với mình, để hai mẹ con được gần nhau hơn. Nhưng hạnh phúc đó chưa được bao lâu
thì Nhấn đi nương thì bà ảng đã bị giặc giết chưa bù đắp được cho mẹ và em thì Nhấn
không còn cơ hội nữa: “Khi nghe tiếng chim kỳ, Nhấn không khóc được. Nhưng từ đây,
trong đời chiến đấu của người bộ đội, mỗi khi nghe trên cánh rừng, đầu rừng nào có
tiếng chim kêu, Nhấn tưởng như hồn mẹ và hồn em đi đâu vẫn đuổi theo hỏi thăm Nhấn”
[5; tr108].
Sau cùng là nhân vật Ính và An là em của Mát con của ông Mờng trong Mường
Giơn, cả hai còn nhỏ nhưng đã chịu cảnh trốn lính, phải làm việc cực khổ, chứng kiến
cảnh cha mình bị lính bắt đi phu, chị thì bị quan bắt về làm vợ chịu cảnh hành hạ.
Đối với Ính, là con gái thì nỗi đe dọa rình rập của bọn quan châu, lính tuần là rất
lớn, chúng có thể bắt Ính bất cứ lúc nào. “Lính tuần đêm ngày sung sục vào làng, đàn bà
con gái lại phải trốn đi rừng, lính mà bắt được ai, chẳng bằng nó cũng khiêng. Chị em
cùng một lứa tuổi tốt tươi tốt tươi ấy chẳng còn được có mùa kéo sợi sáng trăng trên sân
Ảng, chẳng còn biết vui họp nhau lại rồi gọi bạn đến đàn hát” [5; tr.129].
Khi có lính đến thì ính vẫn chạy trốn chạy vào rừng, nhưng lần này Ính không kịp
chạy, Ính trốn trên góc bếp, im phăng phắt. “Lúc Ính nghe lính gọi, đã vội trèo lên gác
bếp, nhà nào ở đây bây giờ cũng phải làm chỗ để trốn tránh. Ông Mờng đã làm cho con
gái một chỗ trên gác bếp” [5; tr.128].
Em trai Ính là An cũng không khác gì chị, khi thấy lính thì cũng trốn bởi vì sợ bắt
đi phu, cực khổ, bị quan, lính đánh đập. Nên An “cũng phải giả vờ bệnh lấy chăn ra và
rên rỉ đắp, gải cách sốt” [5; tr.132]. Cả hai chị em mỗi lần gặp lính phải trốn, lại chứng
kiến cảnh chúng hiếp người “Hàm răng Ính răng nghiến chặt, nước mắt mồ hôi ướt hết
hai cánh tay áo” [5; tr.133].
Bất hạnh hơn là chị Yên, người của Mường Ính. Đã có chồng, có con, chồng thì đi
lính bị bộ đội chính phủ đánh, bị trúng đạn chết. Chị Yên phải một mình làm hai năm nay
mà còn bị tục lệ của Mường ta thu ruộng lại vì nhà không có người đi lính, nào con chị

lớn đi lính đi phu được mới trả ruộng. Từ đấy ba mẹ con đào mai, đào măng tìm ăn từng
ngà, mà bọn Tây về xóa hết cả phép làng, nó hiếp nhiều người quá, hiếp cả chị Yên, bọn
mất nhân tính, mất cả đạo đức con người. Phép làng nói: “Gái có chồng búi tóc ngược,
người phụ nữ có chồng như cái nương có người cắm que nhận chỗ rồi” [5; tr.134].
18


Qua các nhân vật này, ta thấy được cuộc sống xã hội quá bất công với những
người nghèo khổ, mỗi người có một hoàn cảnh riêng dù già hay trẻ, gái hay trai hay thậm
chí là người đàn bà đã có chồng thì họ cũng phải gánh chịu những bất hạnh, đau khổ, khó
khăn.
2.2.2. Nhân vật thể hiện sự tha hóa về mặt đạo đức và lối sống xã hội
Trong tập truyện nhân vật mà nhà văn tạo ra có xuất thân và hoàn cảnh khác nhau
nhưng họ đã thể hiện được sự tha hóa về mặt đạo đức, lối sống xã hội. Nó khắc họa một
cách chân thực về cuộc sống, về nhân cách của con người.
Đầu tiên nhân vật mà ta có thể nhắc đến đó là hai cha con nhà thống lí Pá Tra,
ngang ngược coi tiền là tất cả, không xem trọng người nghèo, bóc lột sức lao động của
họ, cái gì cũng quy ra tiền. Nhân vật A Sử thì ăn chơi, chuyên bắt gái nhà lành về làm vợ,
hành hạ, bắt trói Mị, ngăn cản ước mơ được đi chơi của Mị, là một con người vô tâm,
không thương ai ngoài bản thân mình, điều này được thể hiện qua hành động của hắn: “A
Sử bước lại, nắm Mị lấy thắt lưng trói hai tay Mị: Nó xách cả một thúng sợi đay ra trói
đứng Mị vào cột nhà, tóc Mị xõa xuống, A Sử quấn luôn tóc lên cột, cột làm cho Mị
không cúi, không nghiêng được đầu nữa” [5; tr.211].
Còn thống lí Pá Tra thì ngang ngược, hung bạo, danh lợi, tiền bạc đặt lên hàng đầu
với một người dân lương thiện như A Phủ thì không có tiếng nói cho việc làm của mình.
“Ông ta bắt A Phủ nộp một trăm đồng bạc trắng, không có trăm bạc thì tao mày vay để
trả nợ. Bao giờ có tiền trả tao tao cho mày về, chưa có tiền trả thì tao bắt mày ở làm con
trâu, con ngựa cho nhà tao. Đời mày, đời con, đời cháu mày tao cũng bắt thế, bao giờ
hết nợ tao mới thôi” [5;tr.216].
Trong Cứu đất cứu mường, người phụ nữ chỉ được xem như một món đồ chơi của

các bọn quan lại, điển hình như nhân vật Ảng là mốn đồ chơi của các quan Châu “Ảng
phải đi hầu quan từ đấy, trở thành người chuyên tay của quan Lang, quan Châu, những
ông chúa đất Mường Cơi, ở châu Mường Vạt, châu Mường La” [5; tr.96].
Sau hai nhân vật trên, ta nói đến nhân vật Bân trong Mường Giơn, đây là một
thanh niên hay làm, chịu khó đi ở rể cho nhà vợ ở Mường Trai mười năm. Ở được bốn
năm thì Tây trở lại đóng đồn ở Mường Trai. Viên dồn xuống làng thấy vợ Bân đẹp, nó
quắp ngay lên đồn. Mất vợ Bân trở về làng tay không. Sau đó Bân được ông Mờng gã cô
Mát cho về làm vợ tưởng chừng một hạnh phúc nữa sẽ đến nhưng lại bị mất vợ trong tay
Bang Kỳ. Bân trở về đi lính, đi phu nhưng bị lính đánh đập, từ đó cái xã hội tàn ác này đã
khiến suy nghĩ trong Bân khác đi, Bân nảy ra một suy nghĩ: “Đi phu thì bị đánh chửi,
đứa nào cũng xem mình như con cá, phen này phải đi khố đổ về báo thù chúng nó”
[5;tr.130].
Sau đó Bân đi khố đổ về, lúc đó Bân không còn hiền lành như ngày xưa mà trở
nên say mướt, bỏ ruộng làm mà đi ăn chơi, đi cướp và làm ác. Xã hội không có lương
tâm đã biến con người hiền lành hóa ra dữ, làm nhữn điều tội lỗi. Bân bây giờ không còn
19


lo làm nữa mà Bân “Bân vào làng lục lọi, khiêng người ra ruộng hiếp, Bân nhìn bọn lính
tuần tìm húp trứng gà của nhà mình, đánh chửi bố mình” [5; tr.136].
Một xã hội mà cái ác bao trùm khắp nơi, không có ở đâu là an toàn, tốt đẹp cả.
Con người phải sống xã hội bị ô quế, đen tối, một xã hội cần phải thay đổi nếu không thì
sẽ có nhiều người bị tha hóa như thế này nữa. Qua đây, ta thấy các nhân vật đã thể hiện
được đúng chất văn mà tác giả muốn nói đến, cái xã hội thực dụng và tàn bạo ấy.

20


CHƯƠNG 3
CÁC PHƯƠNG THỨC NGHỆ THUẬT VỀ NHÂN VẬT

TRONG TẬP TRUYỆN TÂY BẮC CỦA TÔ HOÀI
3.1. Nghệ thuật xây dựng nhân vật trong tập truyện Tây Bắc của Tô Hoài
3.1.1. Miêu tả nội tâm nhân vật
Miêu tả nội tâm nhân vật là miêu tả những biểu hiện thuộc cuộc sống bên trong
của nhân vật từ tâm trạng, suy nghĩ, phản ứng tâm lí,… nhằm nêu lên những cảnh ngộ,
tình huống mà nhân vật gặp phải trong cuộc đời.
Qua việc miêu tả nội tâm nhân vật, ta thấy được nội tâm của các nhân vật trong
từng tình huống, được nhà văn miêu tả đủ mọi khía cạnh khác nhau. Những suy nghĩ của
các nhân vật về cuộc sống xã hội với những hoài nghi về mặt đạo đức, nhân cách,… đã
giúp ta thấy rõ được nội tâm của nhân vật một cách rõ nét qua những lời độc thoại nội
tâm đó.
Sự hoài nghi về đạo đức, về lối sống của con người được thể hiện qua nhiều suy
nghĩ từ cách hành xử, thái độ đến cách nói chuyện của nhân vật Mị trong Vợ chồng A
Phủ đã bộc lộ rõ được bản chất của xã hội thiếu lương tâm, đáng khinh rẻ, Mị suy nghĩ
rằng: “lâu trong cái khổ, Mị quen khổ rồi. Bây giờ thì Mị tưởng mình là trâu, mình là
con ngựa, là con người phải đổi cái tàu ngựa nhà này đến ở cái tàu ngựa nhà khác, con
ngựa chỉ biết ăn cỏ, biết đi làm mà thôi” [5; tr208]. Cuộc sống của Mị dần trở nên bế tắc,
khi Mị bị A Sử trói chặn đường suy nghĩ của Mị “Hắn trói Mị lại, Mị không cự quậy gì
được nữa trong khi đó ngựa vẫn đứng yên, gãi chân, nhai cỏ, Mị thổn thức nghĩ mình
không bằng con ngựa” [5; tr.212].
Con người trong xã hội vì danh lợi, tiền bạc mà bán rẻ lương tâm, đối xử tệ bạc
với người nghèo, làm cho con người trở nên vô tâm với xã hội. Nhân vật A Phủ là một
người nghèo trong xã hội ấy, bị bốc lột sức lao động, làm việc suốt ngày nhưng lúc nào A
Phủ cũng gan dạ cũng thẳng thắn trong mọi việc. Trong khi làm mất ngựa, A Phủ thấy hổ
đã ăn mất ngựa liền nghĩ bụng: “Con hổ này to lắm, hay còn ngửi thấy mùi hôi quanh
đây, ta về lấy sung đi tìm, thế nào cũng bắt được” [5; tr.218].
Qua những câu chuyện, ta thấy được số phận của con người trong mọi tầng lớp
trong xã hội. Trong Cứu đất cứu mường, số phận của hai mẹ con bà Ảng cũng được thể
hiện lên rõ. Nhân vật Nhấn khi đã cách xa mẹ bao lâu nay, từ nhỏ đã xa rời vòng tay của
mẹ. Nhưng trong lòng Nhấn lúc nào cũng nghĩ đến mẹ, nhớ đến mẹ mọi lúc trong mọi

hoàn cảnh. Vì là một người con hiếu thảo, có tình cảm, đứng trước cảnh mẹ và em bị giặc
bao vây, không chỗ ở, Nhấn liền nghĩ: “Không thể bỏ đi thôi, mẹ ta, em ta sẽ lên đây ở.
Rồi ta đi bộ đội như anh Sơn, giặc bỏ ta đi làm sao, ta phải bỏ nó đi mới được” [5; tr.97].

21


Còn bà Ảng từ nhỏ đến lớn bà chưa từng biết ruộng nương là thế nào, dù đêm
giông bão bà vẫn thức, nhưng bụng bà vẫn yên tĩnh như lúc trời tạnh. Bà đương nghĩ:
“Một đời tao không biết mặc cái ruộng, tao không biết đi làm nương, bây giờ gài sắp
chết mới được ngồi canh nương của mình thế này” [5; tr.100-101].
Cuối cùng là ông Mờng trong truyện Mường Giơn, là một người cha vô cùng yêu
thương con cái, quý trọng bộ đội nhưng lúc nào cũng tỏ ra vẻ khó khăn với con rể, trong
cuộc sống sinh hoạt hằng ngày luôn nghĩ đến tình người, vào lúc gần tết ông nghĩ: “Bắn
được con nai, tết này có thịt nai cho bộ đội về tết với thì sung sướng quá” [5;tr.114].
Nhưng ông không dám nói, sợ con rể đi săn mà nói trước thí sái. Tin tài bắn của con rể,
ông đã nhồi thuốc, làm thêm năm viên đạn ghém cho Sạ. Không những thế nội tâm của
ông được thể hiện rõ qua sự lo lắng của ông, về việc mất làng, phải rời bỏ quê hương các
con ông thì cực khổ. Phát nương mùa nắng thật quá vất vả, người người đen sạm, hốc hác
như cái cây cháy trên các nương về. Có lúc, ông ái ngại các con làm khó nhọc, ông Mờng
chán nản nghĩ: “Hay là ta đành về trong kia?” nhưng rồi ý nghĩ ấy cũng tự ông cố làm
quên đi. Đến lượt con trai ốm, ông lại lo “Nhà có một nó được làm con trai, nó mà chết
thì mất giống” [5; tr.123], ông lo nghĩ suốt đêm.
Nhà văn xây dựng nhân vật nhằm mục đích nói lên cuộc sống, hoàn cảnh của con
người, sự bất hạnh khó khăn trong cuộc sống của con người trong xã hội. Sống phải biết
suy nghĩ cho người khác, dù nghèo hay giàu cũng phải được đối xử công bằng, con người
cần phải có đạo đức và lương tâm, từ đó con người mới tìm được hạnh phúc trong cuộc
sống như mục đích lớn lao của xã hội.
3.1.2. Miêu tả ngôn ngữ nhân vật
Miêu tả ngôn ngữ nhân vật là miêu tả những lời nói của nhân vật trong tác phẩm,

lời nói đó phản ánh tình cảm, tâm trạng, nỗi lòng của nhân vật đồng thời phản ánh những
kinh nghiệm sống của cá nhân, trình độ văn hóa, tư tưởng tâm lí,…
Trong tác phẩm ngôn ngữ nhân vật được miêu tả một cách cụ thể qua suy nghĩ,
những lời trần thuật cùng cái nhìn đa chiều về cuộc sống. Lúc mới vào truyện ta thấy
được ta thấy được, nhân vật Mị đã nói lên được khao khát của một người con gái trong xã
hội lúc bấy giờ, khát khao về sự tự do cho bản thân muốn là một người con hiếu thảo,
giúp đỡ gia đình “Con đã biết cuốc nương làm ngô, con làm nương ngô trả nợ thay bố.
Bố đừng bán con cho nhà giàu” [5; tr.207].
Tuy chịu cảnh khổ cực, tủi nhục vất vả quanh năm nhưng con người ấy vẫn có một
khao khát tự do, thoát khỏi cuộc sống này. Đấy là A Phủ một chàng trai vô cùng siêng
năng, luôn có ý thức trách nhiệm với việc mình làm. Khi bị hổ bắt mất bò thì chàng thẳng
thắn về nói với thống lí Pá Tra, khi được hỏi A Phủ trả lời một cách rất tự nhiên mà không
hề sợ hãi: “Tôi về lấy súng, thế nào cũng bắn được con hổ này to lắm”. Khi bị ngăn cản,
A Phủ quyết tâm dùng thực lực và sự tự tin của mình để được đi “Cho tôi đi, được con
hổ này còn nhiều tiền hơn con bò” [5; tr.219]. Điều này cho thấy được sự gan dạ, không
sợ cường quyền và áp lực của xã hội phong kiến.
22


Đến khi những đau khổ mà cả hai nhân vật Mị và A Phủ đã phải gánh chịu cũng đã
đến lúc được giải thoát. Cả hai đều chạy trốn, đối với Mị A Phủ là một người đàn ông có
thể dựa dẫm, để chạy khỏi cái xã hội độc ác, đen tối ấy.Tất cả đều được thể hiện qua lời
nói thật tâm trong lòng bấy lâu nay Mị muốn được như vậy, muốn được tự do: “A Phủ
cho tôi đi, ở đây thù chết mất”, sự sợ hãi và khao khát được chạy khỏi cái xã hội độc ác
này đã được bộc lộ rõ. Trước một người đàn bà đã chê chồng và cứu sống mình thì A Phủ
không ngần ngại mà suy nghĩ hay đắn đo gì nữa, A Phủ đáp lại “Đi với tôi” [5; tr.222].
Chỉ một câu ngắn gọn mà nói lên được tất cả nỗi lòng của con người sống trong xã hội
này họ muốn được giải thoát.
Những câu chuyện được kể lại qua lời của tác giả cho ta thấy được nỗi khổ của
con người, sự trăn trở nỗi lòng người mẹ, người con trong tác phẩm Cứu đất cứu mường.

Qua cuộc trò chuyện của hai mẹ con bà Ảng, ta sẽ hiểu rõ hơn về điều ấy. Khi gặp lại
nhau, nỗi lòng người mẹ lại đau lên từng cơn, vừa thấy con bà Ảng chỉ khóc: “Con ơi! Vì
mẹ mà hai con của mẹ đứa thì hóa ra trâu đứa thì hóa ra bò” [5; tr.97]. Nỗi lòng của
người mẹ đau lên, xót xa cho con mình vì mình nghèo mà không thể làm gì được cho các
con, để con phải chịu cảnh khổ.
Còn Nhấn, một người con đã xa mẹ và em mình từ nhỏ nhưng lúc nào Nhấn cũng
tìm, cũng nhớ đến họ, quan tâm lo lắng rất nhiều. Khi giặc Pháp đến chiếm Mường, Nhấn
hỏi với giọng điệu hốt hoảng và đầy lo sợ “Em tôi đâu, người con gái của bà ấy đâu” [5;
tr.97]. Điều nàythể hiện được tấm lòng của người con, một tình cảm dành cho mẹ không
thể nào thay thế được, dù xa cách nhưng mãi mãi tình cảm ấy không phai nhòa theo năm
tháng. Thoáng nghĩ thương cho mẹ và em mình Nhấn nói với Bố với một lòng quyết tâm
sẽ đưa được mẹ và em về lại bên mình: “Bố à, tôi xuống Mường Cơi. Tôi đi đón mẹ, đón
em lên làm nương cho ta đây” [5; tr.98]. Dù muốn trách mẹ nhưng mỗi khi thấy mẹ khóc
thì Nhấn chỉ biết cầm lòng rồi an ủi mẹ.
Về phần bà Ảng, từ một cô gái xinh đẹp nay trở thành một bà lão ăn mày, bà cũng
đành phải chấp nhận số phận của mình. Thoát được khỏi cảnh cùng cực, bị giặc bao vây
lại được ở bên đứa con trai thì bà còn niềm vui nào hơn. Gặp được các chiến sĩ cách
mạng, kháng chiến hỏi: “Bà Ảng hôm nay lên kháng chiến với chúng tôi đấy à”, bà chỉ
biết rơi nước mắt và nói: “Tôi chỉ còn biết giữ nương như người sắp chết thôi” [5; tr.99].
Câu nói mang nặng nỗi lòng của người phụ nữ đã già, cam chịu số phận.
Đến với Mường Giơn, cũng nhờ vào cuộc trò chuyện giữa hai người già với nhau
trong lúc hoạn nạn, hay tin mất của thằng con rể thì cho ta thấy được sự đau buồn, tiếc
nuối của một người cha, một người bố vợ của nhân vật ông Mờng qua lời nói của ông
như: “Ông Mờng lặng người rồi hỏi “Nó ra thế nào? Nó chết à, sao sao ông Tạo?” [5;
tr.120]. Khắc họa lên được sự lo lắng khi nghe tin con rể đã bỏ mạng ở làng quê, sự buồn
tủi khi mất đi một người con hết lòng vì gia đình, bộc lộ được sự đau khổ, dằn dặt của
người bố vợ. Lại thương cho con gái, ngày ngày thấy Mát vào rừng ngồi gục mặt xuống
tảng đá khóc một mình. Ông Mờng lắc đầu thương con, bảo: “Thằng Sạ nó chết khổ hại

23



như thế, cái ma nó còn trở về ám mày bao nhiêu năm nữa vẫn chưa dứt được. Ta phải
gọi thầy về cúng cho hồn nó đi được mát mẻ thì mày mới yên được” [5; tr.122].
Qua ngôn ngữ, nhà văn đã làm cho các nhân vật tập truyện thêm sinh động, làm ta
thấy được tính cách, hành động, cử chỉ cũng như tâm lí của nhân vật về xã hội, đạo đức
của con người trong mọi tầng lớp trong xã hội, những nỗi lòng được phơi bày ra tất cả.
3.1.3. Miêu tả hành động nhân vật
Nhà văn miêu tả hành động nhân vật là miêu tả những việc làm, tác phong, cử chỉ
của nhân vật đó. Với sự khắc họa của tác giả thì hành động của mỗi nhân vật trong truyện
đều thể hiện một cách rất rõ nét, giúp ta hình dung được tâm trạng của từng nhân vật.
Trước tiên mới vào đầu truyện Vợ chồng A Phủ ta có thể hình dung được việc làm
của một người con gái khi ở nhà chồng trong xã hội phong kiến. Nhân vật Mị mới vào tác
phẩm “Ai ở xa về, có việc vào nhà thống lí Pá Tra thường trông thấy một cô gái ngồi
quay sợi gai, bên tầng đá trước cửa, cạnh tàu ngựa” [5; tr.206]. Phải chăng đây là công
việc bình thường của người con dâu nhà giàu trong xã hội bấy giờ.
Lúc chưa bị bắt về làm vợ A Sử, cũng như bao nhiêu người con gái trong làng, vào
dịp tết, tết vui chơi Mị cũng được đi chơi. Cũng như phong tục thường ngày của làng, vào
tết là lúc trai gái bắt đầu hẹn hò nhau: “Một đêm, khuya Mị nghe tiếng gõ vách, tiếng gõ
vách hẹn của người yêu. Mị hồi hộp lặng lẽ quờ tay lên, gặp hai ngón tay lách vào khe
gỗ, một ngón tay đeo nhẫn, người yêu của Mị cũng đeo nhẫn ngón ấy. Mị nhấc tấm vách
gỗ, một bàn tay bắt Mị bước ra” [5; tr.207].
Tưởng chừng như được cùng người yêu nhưng rồi giấc mơ đó lại bị dập tắt, Mị bị
bắt về làm vợ A Sử, Mị đau đớn, xót xa cho thân phận mình, bị đày đọa vào việc quần
quật suốt ngày lẫn đêm: “Một đêm Mị trốn về nhà, hai tròng mắt đỏ hoe, trông thấy bố
Mị quỳ úp xuống đất nức nở”[5; tr.208]. Hành động đó làm cho ta thấy được sự bế tắc,
không có lối thoát, ước muốn thoát khỏi cảnh làm trâu ngựa của một người con gái để trở
về cuộc sống bình thường như bao nhiêu người con gái khác.Và rồi khát vọng ấy cũng
dâng trào, tết đến cũng như bao cô gái có chồng khác Mị cũng muốn đi chơi, trong đầu
Mị nảy ra ý định, Mị sắp được đi chơi tâm trí Mị trở nên sáng lóa, Mị suy nghĩ tích cực

hơn “Mị đến góc nhà, lấy ống mỡ, xoắn một miếng bỏ thêm vào đĩa đền cho sáng rồi Mị
quấn lại tóc với tay lấy cái váy hoa vắt ở phía trong vách” [5; tr.211]. Dường như Mị
cảm thấy mình được trẻ lại như ngày xưa, được vui chơi như ngày nào tự do thoải mái.
Cũng như Mị, A Phủ cũng có số phận bi đát, chịu sự giày vò, đàn áp của thế lực
phong kiến. Là một người có nghĩa khí, dũng cảm đứng trước cảnh lũ phá đám do: “A Sử
ném con quay ngát lăng vào giữa mặt, nó vừa kịp bưng tay lên A Phủ chạy xộc đến nắm
cái vòng cổ, kéo dập đầu xuống, xé vai áo đánh tới tấp” [5; tr.214]. Hành động ấy cho ta
thấy được lòng dung cảm biết quan tâm giúp đỡ mọi người của những con người lương
thiện bị chà đạp dưới cái xã hội tàn bạo. Nhưng qua hành động đúng đắn của A Phủ thì A
Phủ lại phải một cái giá đắt, cái giá mà xã hội chỉ dựa vào đồng tiền thì một người nghèo
24


khổ chỉ có lòng nhân, có tình có nghĩa như A Phủ thì phải chịu sự đối đãi tàn bạo của bọn
thực dân phong kiến: “A Phủ phải lê hai cái đầu gối sưng bạch lên như mặt hổ phù” [5;
tr.217]. Thái độ và cách cư xử của bọn thực dân phong kiến làm cho con người thêm nghi
ngờ về đạo đức của con người.
Thông qua hành động của nhân vật Nhấn trong Cứu đất cứu mường, ta thấy được
sự yêu thương của con giành cho mẹ, sự trân trọng và yêu quý được tái hiện lại trong suốt
cuộc hành trình của hai mẹ con: “Nhấn cõng mẹ từ chân núi lên đến khe Mông Mang.
Nhấn còn nhớ mãi lúc bấy giờ giữa hai khe núi có nương lúa chín vàng len lỏi từng hốc
đá, bên tai lúc nào cũng nghe vi vút tiếng chim kỳ bên bốn phía. Mẹ và con vừa đi vừa
nói chuyện vui vẻ” [5; tr.98]. Hành động ấy cho thấy được tình cảm thiêng liêng sâu nặng
của Nhấn đối với mẹ. Rồi cuộc trò chuyện cũng kết thúc, bà Ảng về làng với con, chăm
chỉ làm việc giúp kháng chiến bà xem việc làm này là điều dĩ nhiên của cuộc sống còn lại
của bà. Sau khi về sống chung với con bà ra sức làm nương những công việc điều đặn
mỗi sáng của người trông nương: “Bà kéo dây hạ chuồng gà trên cành xoan xuống, thả
đàn gà, rồi dạo xem qua các giàn bí đỏ thấy quả nào già mặt bà cắt đem đặt lên phơi
nắng trên tảng đá, sau bà sang nương sắn để xem đêm qua dím có về đào sắn không” [5;
tr.100].

Cuối cùng là nhân vật ông Mờng trong Mường Giơn, từ khi Tây chiếm làng, rồi
mất đi người con rể, ông phải vất vả cày nương, cày ruộng lo cho các con có lúc: “Có lúc
ông Mờng phải đeo sáu quả đạn moocchiê đi vào trong làng Mèo” [5; tr.137]. Có lúc:
“Ông và cả hai con gánh tre nứa, gianh thừa về chỗ tập trung để làm một cái nhà nhỏ”
[5; tr.144]. Còn có khi nghe Tây đồn bảo “Rào làng nhanh lên, không có Việt Minh vào
cướp hết của ông liền bỏ cái lạt đương buộc chân cột nhà, chạy ra vác hai cây tre đi làm
bờ rào quanh làng” [5; tr.145]. Những việc làm của ông đều là những việc nặng nhọc,
quá sức với tuổi già của ông, nhưng ông làm tất cả là vì con của mình, vì cuộc sống tốt
đẹp về sau cho các con.
Qua đó, nhà văn giúp ta thấy rõ được nỗi trăn trở, sự hi sinh của con người với
nhau, sự đồng cảm quan tâm lo lắng cho nhau. Đồng thời lột tả được xã hội xấu xa, đồi
bại, thiếu lương tâm, sự đồi bại của một lớp người trong xã hội, từ đấy thấy được bộ mặt
xã hội một cách rõ nét, chân thực thông qua hành động của các nhân vật trong truyện.

25


×