Tải bản đầy đủ (.docx) (48 trang)

Viện kiểm sát thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (239.18 KB, 48 trang )

Đề tài: Viện kiểm sát thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
Bộ luật Tố tụng hình sự

BLTTHS

Cơ quan điều tra

CQĐT

Tiến hành tố tụng

THTT

Viện kiểm sát

VKS

Viện kiểm sát nhân dân

VKSNN

Vụ án hình sự

VAHS

Tòa án

TA

Tòa án nhân dân



TAND


Đề tài: Viện kiểm sát thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra
LỜI MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Chức năng thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát nhân dân đã được ghi nhận và thể
hiện rất rõ và nhất quán trong khoản 1 Điều 107 Hiến pháp năm 2013 và các quy định về
chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân trong Điều 2 Luật Tổ chức
Viện kiểm sát nhân dân năm 2014.
Điều 2 - Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014 quy định:
“1. Viện kiểm sát nhân dân là cơ quan thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư
pháp của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
2. Viện kiểm sát nhân dân có nhiệm vụ bảo vệ Hiến pháp và pháp luật, bảo vệ quyền con
người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước,
quyền và lợi ích hợp của tổ chức, cá nhân, góp phần bảo đảm pháp luật được chấp hành
nghiêm chỉnh và thống nhất”.
Về bản chất, thực hành quyền công tố là chức năng của Viện kiểm sát nhân dân trong
tố tụng hình sự để thực hiện việc buộc tội của Nhà nước đối với người phạm tội, được
giải quyết ngay từ khi giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố trong suốt
quá trình khởi tố, điều tra truy tố, xét xử vụ án hình sự (khoản 1 Điều 3 luật tổ chức Viện
kiểm sát nhân dân năm 2014)
Quy định trên thể hiện rõ chức năng, nhiệm vụ mà Nhà nước giao cho Viện kiểm sát
nhân dân khi tham gia vào hoạt động Nhà nước. Khi tham gia vào hoạt động tố tụng hình
sự, chức năng, nhiệm vụ đó được cụ thể hóa thành chức năng, nhiệm vụ tố tụng hình sự
của Viện kiểm sát.
Trong tố tụng hình sự có ba chức năng cơ bản đó là chức năng buộc tội, chức năng bào
chữa và chức năng xét xử. Viện kiểm sát được giao nhiệm vụ đưa vụ án và người phạm
tội xét xử trước Tòa và thực hiện công tố theo Điều 326 Bộ luật tố tụng hình sự 2015. Vì

vậy chức năng chức năng của Viện kiểm sát và các cơ quan có thẩm quyên về tố tụng
hình sự là gồm buộc tội và gỡ tội, có nghĩa là đảm bảo việc xử lí đúng người, đúng tội và
đúng qui định pháp luật. Đảm bảo nguyên tắc “tuân thủ pháp luật trong hoạt động điều
tra” – Điều 19
Vậy vai trò của Viện kiểm sát khi thực hành quyền công tố trong tố tụng hình sự như thế
nào? Ảnh hưởng, chi phối bởi vai trò của Viện kiểm sát đối với các chủ thể khác trong tố


Đề tài: Viện kiểm sát thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra
tụng hình sự ra sao? Đó là những vấn đề cần nghiên cứu để nhận thức đầy đủ và thực
hiện tốt vai trò của Viện kiểm sát.
Việc xác định chức năng thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát nhân dân trong tố
tụng hình sự có ý nghĩa rất quan trọng xét ở cả hai góc độ lý luận và thực tiễn, bởi nó
không những góp phần vào việc xây dựng một hệ thống lý luận về hoạt động tư pháp nói
chung và tổ chức, hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân nói riêng mà còn góp phần vào
việc xây dựng các văn bản pháp luật về Viện kiểm sát, về tố tụng hình sự cũng như việc
hướng dẫn, chỉ đạo hoạt động nghiệp vụ của Ngành kiểm sát.
Hoạt động thực hành quyền công tố là một động thái quan trọng trong cuộc đấu tranh
phòng, chống tội phạm. Bởi vậy trong giai đoạn điều tra hoạt động thực hành quyền công
tố phải đảm bảo không bỏ lọt tội phạm, người và pháp nhân phạm tội. Mặc dù được sự
quan tâm, chỉ đạo của Đảng và Nhà nước nhưng vấn đề chức năng thực hành quyền công
tố của Viện kiểm sát hiện nay vẫn còn một số hạn chế và bất cập. Chính vì thế mà người
viết đã chọn đề tài “Viện kiểm sát thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra” để
làm đề tài tiểu luận nghiên cứu cho mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Nghiên cứu quá trình lịch sử phát triển của các quy phạm pháp luật về thực hành quyền
công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự Việt Nam từ năm 1945
cho đến nay, làm rõ hơn về những khái niệm, nội dung, phạm vi, chủ thể, mối quan hệ
giữa hoạt động thực hành quyền công tố và hoạt động kiểm sát.
Không những công trình đã nghiên cứu đến khía cạnh xoay quanh đề tài này như:

Võ Thọ - Một số vấn đề về luật tố tụng hình sự, Nxb. Pháp lí, năm 1985; Giáo trình công
tác kiểm sát của Trường Cao đẳng kiểm sát
Nguyễn Thái Phúc – Một số vấn đề về quyền công tố của Viện kiểm sát nhân dân, trong
kỷ yếu đề tài “Những vấn đề lí luận và thực tiễn cấp bách của tố tụng hình sự Việt Nam”,
Viện kiểm sát tối cao, 1995, tr. 127-151. Tác giả đã phân tích có hệ thống về quyền công
tố theo tính chất chuyên khảo.
Bùi Mạnh Cường – Phó Viện trưởng VKSNN tối cao “ Những vấn đề cơ bản về Thực
hành quyền công tố, kiểm sát việc giải quyết tố giác tội phạm, tin báo về tội
phạm”( Nghiên cứu, TCKS số 19/2017)
Nhìn tất cả các bài biết đều đề cập đến quyền công tố của Viện kiểm sát. Tuy nhiên vẫn
còn những vấn đề tồn tại xung quanh các qui định trong Bộ luật tố tụng hình sự mà ta cần


Đề tài: Viện kiểm sát thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra
nghiên cứu làm sáng tỏ bản chất và kiến nghị sửa đổi một số qui định bất cập của Bộ luật
tố tụng hình sự trong pháp luật tố tụng hình sự.
3. Mục tiêu nghiên cứu đề tài
Để hoàn thành đề tài tiểu luận “Viện kiểm sát thực hành quyền công tố trong giai đoạn
điều tra”, mục tiêu nghiên cứu của đề tài đã làm rõ được những vấn đề sau:
- Cơ sở lý luận chung về thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra và những quy
định của pháp luật trong giai đoạn này.
- Những hạn chế, tồn tại của Viện kiểm sát và những giải pháp nhằm nâng cao chất lượng
thực hành quyền công tố của viện kiểm sát trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự.
Việc làm rõ những mục tiêu trên đã góp phần làm cho mọi người nhận thức thống nhất về
chức năng, nhiệm vụ của Viện kiểm sát trong một giai đoạn rất quan trọng của tố tụng
hình sự là giai đoạn điều tra vụ án. Từ sự nhận thức thống nhất giúp Kiểm sát viên đề cao
ý thức trách nhiệm của mình khi thực hiện nhiệm vụ, góp phần vào việc nâng cao chất
lượng công tác thực hành quyền công tố. Từ những vấn đề nêu trên, việc nghiên cứu chức
năng thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát trong giai đoạn điều tra là rất cần thiết
trong giai đoạn hiện nay.

4. Phạm vi nghiên cứu
Chức năng thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra của Viện kiểm sát nhân dân.
Những vấn đề tồn tại xoay quanh và giải pháp.
5. Phương pháp nghiên cứu đề tài
Đề tài nghiên cứu người viết sử dụng phương pháp phân tích, liệt kê, so sánh và tổng hợp
tài, logic, chứng minh..
Vận dụng những quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam về công tác tư pháp nói chung
và công tác kiểm sát nói riêng được thể hiện trong các văn bản như Nghị quyết
08/2002/NQ-TW ngày 02/01/2002 ; Nghị quyết 49-NQ/TW ngày 02/06/2005 của Bộ
chính trị, những quy định mới trong Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, Luật tổ chức Viện
kiểm sát nhân dân năm 2014 và một số văn bản pháp luật mới khác.
6. Dự kiến đóng góp
Dùng lập luận, phân tích những vấn đề liên quan đến thực hành quyền công tố của Viện
kiểm sát trong giai đoạn điều tra.


Đề tài: Viện kiểm sát thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra
Kiến nghị và sửa đổi một số nội dung qui định trong luật tố tụng hình sự liên quan đến
công tố của Viện kiểm sát trong giai đoạn điều tra.
7. Bố cục của đề tài
Ngoài lời nói đầu, kết luận các danh mục tài liệu tham khảo, thì đề tài tiểu luận nghiên
cứu bao gồm 03 chương:
Chương 1:Một số vấn đề lý luận chung về thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều
tra vụ án hình sự.
Chương 2: Quy định của pháp luật tố tụng hình sự về thực hành quyền công tố trong giai
đoạn điều tra vụ án hình sự.
Chương 3: Thực trạng, giải pháp nâng cao hiệu quả công tác thực hành quyền công tố của
Viện kiểm sát nhân trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự.
CHƯƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ THỰC HÀNH CÔNG TỐ TRONG GIAI

ĐOẠN ĐIỀU TRA VỤ ÁN HÌNH SỰ
Bất cứ nhà nước nào trên thế giới đều sử dụng công tố để chống lại những thành phần
gây hại cho các giai cấp thống trị và cơ bản hơn là nhà cầm quyền đồng thời đó cũng để
duy trì trật tự pháp luật, trật tư xã hội cùng với quyền và lợi ich của các tổ chức cá nhân.
Bảo đảm sự phát triển của toàn xã hội. Ở Việt Nam nhìn lại quá trình hình thành lịch sử
thì Đảng và Nhà nước luôn coi trọng công tố trong công cuộc đấu tranh phòng chống tội
phạm. Góp phần tích cực bảo vệ lợi ích Nhà nước, lợi ích công cộng cùng với quyền và
lợi ích của hợp pháp của công dân duy trì đảm bảo chế độ xã hội chủ nghĩa.
1.1
Khái niệm quyền công tố, giai đoạn điều tra và thực hành quyền công tố trong giai
đoạn điều tra vụ án hình sự.
1.1.1 Khái niệm quyền công tố trong vụ án hình sự
Ở thời điểm hiện tại, công cuộc cải cách tư pháp đã và đang đặt ra nhiều vấn đề lý luận
về mặc thực tiễn cần tiếp tục nghiên cứu và giải quyết. Viện kiểm sát nhân dân, một chế
định được nhắc đến rất nhiều trong hệ thông quyền lực nhà nước, mặc khác cũng được
nhắc đến không ít trong các văn kiện của Đảng khi nid về tư pháp. Nghị quyết số 49NQ/TW ngày 2/6/2005 của Bộ Chính trị “ về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020”
đã xác định rõ: “trước mắt, Viện kiểm sát nhân dân giữ nguyên chức năng như hiện nay là


Đề tài: Viện kiểm sát thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra
thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt dộng tư pháp... tăng cường trách nhiện của
công tố trong hoạt động điều tra”.
Ở Việt Nam, cụm từ “ Thực hành quyền truy tố” lần đầu tiên xuất hiện vào năm 1980
khi đề cập đến chức năng của Viện kiểm sát nhân dân tại điều 138 qui định “ Viện kiểm
sát nhân dân tối cao của nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Viện Nam..thực hành quyền
công tố, đảm bảo cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất”và cụm từ
này được cụ thể hóa tại Điều 1 và 3 Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 1981. Đến
Hiến pháp 1992 tại Điều 137 qui định này đã được nhắc lại, tiếp tục đến Hiến pháp 2013
Điều 107 lại tiếp tục khẳng định “ Viện kiểm sát nhân dân thực hành quyền công tố..” Kể
từ đó, đã có nhiều tài liệu, bài viết bàn luận về quyền công tố và thực hành quyên công tố,

nhất là khi nước ta nước vào tiến hành công cuộc cải cách tư pháp. Riêng về “quyền công
tố” đã có nhiều quan điểm khác nhau như:
Quyền công tố là buộc tội tội phạm nhân danh nhà nước.
Do đó người tác động trực tiếp là tội phạm và người phạm tội1
Có quan điểm cho rằng quyền công tố là quyền của Nhà nước giao cho Viện kiểm sát
truy tố kẻ phạm tội ra Tòa án, thực hiện sự buộc tội tại phiên tòa (thực hành quyền công
tố)2. Ở quan điểm này lại nhấn mạnh vai trò của Viện kiểm sát khi thực hành quyền công
tố nhất là tại phiên tòa.
Mặc khác có quan điểm lại cho rằng quyền công tố đó là quyền đại diện cho Nhà nước
để đưa các vụ việc vi phạm pháp luật ra cơ quan xét xử để đảm bảo lợi ích cuả Nhà nước,
bảo vệ trật tự pháp luật3. Trong quan điểm này quyền công tố là quyền của nhà nước giao
cho Viện kiểm sát thực hiện theo qui định.
Bên cạnh đó có người cho rằng quyền công tố là sự cáo buộc của nhà nước dối với cá
nhân, tổ chức đã vi phạm pháp luật bao gồm luật hành chính, dân sư, kinh tế, luật hình sự
và quyền công tố là quyền của nhà nước thực hiện sự cáo buộc đó 4. Ở quan điểm này
quyền công tố lại thuộc quyền của nhà nước, vì nhà nước không thể thực hiện được
quyền này vì chính Nhà nước ban hành pháp luật nên quyền này phải giao cho các cơ
quan khác.

1 Bộ Tư pháp - Viện khoa học pháp lý,Từ điển Luật học, Nxb. Tư Pháp, 2006.
2 Võ Thọ,Một số vấn đề về tố tụng hình sự, Nxb. Pháp lý, 1985.
3 Trường Cao đẳng kiểm sát Hà Nội,Giáo trình công tác Kiểm sát (tập 1), Nxb. Công an nhân dân, 1996.
4 Phạm Hồng Hải,Bàn về quyền công tố, kỷ yếu đề tài cấp bộ“Những vấn đề lý luận về quyền công tố và thực tiễn
hoạt động công tố ở việt nam từ năm 1945 đến nay”, 1999.


Đề tài: Viện kiểm sát thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra
Không đồng ý với quan điểm trên một số còn cho rằng quyền công tố là quyền của Viện
kiển sát thay mặt cho Nhà nước bảo vệ lợi ích công ( nhà nước, xã hội, công dân) khi có
các vi phạm pháp luật. Vì vậy, Viện kiểm sát thực hành quyền công tố không chỉ có tố

tụng trong lĩnh vực tố tụng hình sự mà còn trong dân sự, kinh tế và các hoạt động tư
pháp5.
Đồng thời, với quan điểm của mình TS. Lê Hữu Thể đã đưa ra định nghĩa về quyền
công tố: “ Quyền công tố là quyền nhân danh nhà nước thực hiện việc truy cứu trách
nhiệm đối với người phạm tội. Quyền này thuộc về quyền nhà nước, được nhà nước giao
cho một cơ quan thực hiện( ở nước ta là Viện kiểm sát) để phát hiện tội phạm và truy cứu
trách nhiệm hình sự với người phạm tội. Để làm được điều này, cơ quan có chức năng
thực hành quyền công tố phải có trách nhiệm bảo đảm thực hiện đầy đủ chứng cứ, tài
liệu xác nhận xác định tội phạm và người phạm tội. Trên cơ sở đó quyết định truy tố bị
can trước Tòa án và bảo vệ sự buộc tội đó trước phiên tòa” 6
Để xác định khái niệm quyền công tố, cần khẳng định:
Thứ nhất, quyền công tố là quyền của nhà nước. Nhà nước ủy quyền cho cơ quan cụ thể
thực hiện quyền này trong bộ máy cơ quan Nhà nước phân quyền hoặc phân công thực
hiện chức năng;
Thứ hai, quyền công tố về thực chất là quyền của Nhà nước truy cứu trách nhiệm hình
sự đối với người phạm tội. Để làm được điều đó, cơ quan được giao nhiệm vụ thực hành
quyền công tố điều tra, xác định tội phạm, người và pháp nhân phạm tội, trên cơ sở đó
truy tố bị can ra trước Tòa án và bảo vệ sự buộc tội đó trước phiên tòa
Thứ ba, quyền công tố mang tính cụ thể, tức chỉ xuất hiện trong trường hợp tội phạm cụ
thể đã được thực hiện và đối với những người phạm tội cụ thể. Không tồn tại quyền công
tố chung chung7 .
Từ những nhận thức trên, ta có thể hiểu được khái niệm về quyền công tố như sau:
Quyền công tố là quyền của cơ quan Nhà nước, được Nhà nước uỷ quyền cho Viện kiểm
sát thực hiện việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội nhằm truy tố bị
can ra trước tòa và đồng thời bảo vệ sự buộc tội đó.
1.1.2 Trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự
5 Trần Văn Độ,“Một số vấn đề về quyền công tố”, Trường Đại học kiểm sát Hà Nội, Tạp chí Luật học số 03, 2001.
6 Lê Hữu Thể,Thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp trong giai đoạn điều tra, Nxb. Tư Pháp,
2005.
7Trường Đại học kiểm sát Hà Nội, Một số vấn đề về quyền công tố, Trần Văn Độ, />


Đề tài: Viện kiểm sát thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra
1.1.2.1 Khái niệm
Điều tra vụ án hình sự là giai đoạn tố tụng hình sự (TTHS) thứ hai mà trong đó cơ quan
Điều tra căn cứ vào các quy định của pháp luật TTHS và dưới sự kiểm sát của Viện kiểm
sát tiến hành các biện pháp cần thiết nhằm thu thập và củng cố các chứng cứ, nghiên cứu
các tình tiết của vụ án hình sự, phát hiện nhanh chóng và đầy đủ tội phạm, cũng như
người có lỗi trong việc thực hiện tội phạm tội để truy cứu trách nhiệm hình sự, đồng thời
bảo đảm cho việc bồi thường thiệt hại về vật chất do tội phạm gây nên và trên cơ sở đó
quyết định: Đình chỉ điều tra vụ án hình sự hoặc là; Chuyển toàn bộ các tài liệu của vụ án
đó cho Viện kiểm sát kèm theo kết luận điều tra và đề nghị truy tố bị can.
1.1.2.2 Bản chất pháp lí
Với tính chất là một giai đoạn độc lập của tố tụng hình sự, giai đoạn điều tra vụ án hình
sự có chức năng thực hiện các nhiệm vụ cụ thể nhằm áp dụng các biện pháp cần thiết do
luật định để chứng minh việc thực hiện tội phạm và người phạm tội, xác định rõ những
nguyên nhân và điều kiện phạm tội, đồng thời kiến nghị các cơ quan và tổ chức hữu quan
áp dụng đầy đủ các biện pháp khắc phục và phòng ngừa tội phạm; Thời điểm của giai
đoạn này được bắt đầu từ khi cơ quan (người) tiến hành tố tụng hình sự có thẩm quyền ra
quyết định khởi tố vụ án hình sự và kết thúc bằng bản kết luận điều tra và quyết định của
Cơ quan Điều tra về việc đề nghị Viện kiểm sát truy tố bị can trước Tòa án hoặc đình chỉ
vụ án hình sự tương ứng.
1.1.2.3 Vai trò
-Một mặt, điều tra vụ án hình sự là chức năng quan trọng trong hoạt động tư pháp hình sự
của cơ quan (người) tiến hành có thẩm quyền đối với mỗi hành vi phạm tội nhằm trực
tiếp chứng minh hành vi phạm tội và người có lỗi trong việc thực hiện tội phạm thông
qua các chứng cứ đã thu thập được, đồng thời cũng là một trong những phương tiện cơ
bản để thực hiện tốt nguyên tắc không tránh khỏi trách nhiệm trong thực tiễn áp dụng
pháp luật tố tụng hình sự, tránh bỏ lọt tội phạm;

- Mặt khác, điều tra vụ án hình sự cũng góp phần loại trừ một thái cực khác trong hoạt

động tư pháp hình sự, ngăn chặn kịp thời việc thông qua quyết định khởi tố bị can một
cách không thận trọng, thiếu chính xác và do vậy, có thể sẽ kéo một loạt hậu quả tiêu cực
tiếp theo xảy ra trong việc truy cứu trách nhiệm hình sự ở các giai đoạn tố tụng hình sự
(như: Truy tố của Viện kiểm sát hoặc xét xử của Tòa án không khách quan, vô căn cứ và
trái pháp luật, làm oan những người vô tội);


Đề tài: Viện kiểm sát thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra

- Và cuối cùng, điều tra vụ án hình sự là một giai đoạn tố tụng hình sự cơ bản và quan
trọng để tăng cường pháp chế, bảo vệ các quyền và tự do của công dân trong các giai
đoạn trước khi khởi tố của Viện kiểm sát và xét xử của Tòa án, cùng với các giai đoạn tố
tụng hình sự khác góp phần có hiệu quả vào cuộc đấu tranh phòng và chống tội phạm
trong toàn xã hội.
1.1.3 Khái niệm thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự.
Có quan điểm cho rằng ở Việt Nam, căn cứ vào các quy định của pháp luật từ 1960 cho
đến nay thì Viện kiểm sát là cơ quan duy nhất được giao chức năng thực hành quyền công
tố “Không có cơ quan nhà nước nào có thể thay thế ngành Kiểm sát để sử dụng quyền
công tố; bắt, giam, tha, điều tra, truy tố, xét xử có đúng người, đúng tội, đúng pháp luật
hay không, đó chính là Viện kiểm sát phải trông nom, bảo đảm cho tốt” .
Cũng như khái niệm về “Quyền công tố”, ở Việt Nam, khái niệm “Thực hành quyền công
tố” cũng như nội dung, phạm vi của nó còn ít được đề cập đến và chưa rõ ràng. Các công
trình nghiên cứu trong và ngoài ngành Kiểm sát nhân dân thời gian qua cho thấy, khi đề
cập đến thực hành quyền công tố cũng đưa ra nhiều quan điểm khác nhau như:
Thứ nhất, xuất phát từ quan niệm quyền công tố là quyền nhân danh quyền lực công
thực hiện việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội, nên thực hành quyền
công tố là việc thực hiện các hành vi tố tụng cần thiết theo quy định của pháp luật tố tụng
hình sự để truy cứu trách nhiệm hình sự người phạm tội, đưa người phạm tội ra xét xử
trước Tòa án và bảo vệ sự buộc tội đó8 .
Thứ hai, xuất phát từ những quyền năng pháp lý thuộc nội dung quyền công tố đã được

pháp luật quy định, việc sử dụng những quyền năng này để thực hiện việc truy cứu trách
nhiệm hình sự đối với kẻ phạm tội chính là thực hành quyền công tố. Do vậy, thực hành
quyền công tố là việc sử dụng tổng hợp các quyền năng pháp lý thuộc nội dung quyền
công tố để thực hiện việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội trong các
giai đoạn điều tra, truy tố và xét xử 9.
Thứ ba, xem thực hành quyền công tố là hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân trong tố
tụng hình sự để thực hiện việc buộc tội của Nhà nước đối với người phạm tội, được thực

8 Lê Thanh Hưng, Chức năng thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát nhân dân, Hà Nội, 2015, tr 9.
9 Lê Hữu Thể: Thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp trong giai đoạn điều tra, Nxb. Tư Pháp,
2005.


Đề tài: Viện kiểm sát thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra
hiện ngay từ khi giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và trong suốt
quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự 10.
Từ các quan điểm trên ta có được khái niệm về thực hành quyền công tố trong giai đoạn
điều tra vụ án hình sự như sau: “Thực hành quyền công tố là hoạt động của Viện kiểm sát
nhân dân trong tố tụng hình sự để thực hiện việc buộc tội của Nhà nước đối với người
phạm tội, được thực hiện ngay từ khi giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị
khởi tố và trong suốt quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự. 11”
Như vậy rút từ định nghĩa trên ta có được ý nghĩa của việc thực hành quyền công tố
trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự”
Theo Điều 3 Quy chế THQCT & KSĐT xác định: Công tác thực hành quyền công tố và
kiểm sát điều tra vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhằm bảo đảm:
- Mọi hành vi phạm tội đều phải được khởi tố, điều tra và xử lý kịp thời, không để lọt tội
phạm và người phạm tội, không làm oan người vô tội;
- Không để người nào bị khởi tố, bị bắt, tạm giữ, tạm giam, bị hạn chế các quyền công
dân, bị xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, tài sản, tự do, danh dự và nhân phẩm một cách
trái pháp luật;

- Việc điều tra phải khách quan, toàn diện, đầy đủ, chính xác, đúng pháp luật; những vi
phạm pháp luật trong quá trình điều tra phải được phát hiện kịp thời; khắc phục và xử lý
nghiêm minh;
- Việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với bị can phải có căn cứ và đúng pháp luật.
1.2 Đặc điểm thực hành quyền công tố trong hoạt động điều tra
Thực hành quyền công tố trong hoạt động điều tra có những đặc điểm cơ bản sau:
Một là, trong khi hoạt động điều tra có nhiệm vụ chứng minh toàn bộ sự việc phạm tội
một cách khách quan, toàn diện cả chứng cứ buộc tội và chứng cứ gỡ tội , thì các hoạt
động công tố nhằm thực thi quyền truy cứu trách nhiệm hình sự, quyết định việc buộc tội,
gỡ tội; quyết định việc hạn chế các quyền công dân như bắt, tạm giữ, tạm giam và các
biện pháp ngăn chặn khác; quyết định truy tố hoặc đình chỉ vụ án theo quy định của pháp
luật. Theo khoản 1 Điều 23 Bộ luật tố tụng hình sự, Điều 37 Bộ luật tố tụng hình sự.

10 Trường Đại học kiểm sát Hà Nội, Kiểm sát viên cần biết, />[truy cập ngày 9/8/2017].
11 Khoản 1 Điều 3 Luật tổ chức VKSND năm 2014.


Đề tài: Viện kiểm sát thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra
Hai là, thực hành quyền công tố bao gồm hành vi và các quyết định tố tụng mang tính
công khai theo trình tự, thủ tục, thẩm quyền tố tụng do pháp luật quy định. Các quyết
định công tố thể hiện dưới dạng văn bản của người có thẩm quyền như quyết định khởi tố
vụ án, khởi tố bị can; quyết định phê chuẩn hoặc không phê chuẩn quyết định khởi tố bị
can. Các quyết định tố tụng của Viện kiểm sát đều được gửi cho những người có liên
quan theo quy định của pháp luật.
Ba là, các hoạt động công tố là nhân danh quyền buộc tội Nhà nước, chịu sự lãnh đạo
tập trung của Viện trưởng Viện kiểm sát mỗi cấp và phải chịu sự lãnh đạo thống nhất của
Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao. “Viện trưởng viện kiểm sát nhân dân cấp
trên có quyền rút, đình chỉ hoặc hủy bỏ quyết định không có và trái luật của Viện kiểm
sát cấp dưới và yêu cầu ra quyết định đúng pháp luật” 12 . Điều này khác với tổ chức hoạt
động điều tra, Cơ quan điều tra cấp trên không có quyền rút, hủy bỏ các quyết định tố

tụng của Cơ quan điều tra cấp dưới.
Bốn là, thực hành quyền công tố có đặc điểm khác với hoạt động kiểm sát điều tra. Tuy
cùng là một chủ thể tiến hành là Viện kiểm sát nhưng thực hành quyền công tố nhằm vào
việc buộc tội, gỡ tội; sử dụng các biện pháp ngăn chặn và áp dụng các biện pháp cưỡng
chế đối với người và pháp nhân phạm tội, còn hoạt động kiểm sát điều tra hướng đến sự
tuân thủ pháp luật trong hoạt động điều tra; nếu phát hiện có hành vi vi phạm pháp luật,
Viện kiểm sát có quyền kiến nghị, yêu cầu các chủ thể chấm dứt vi phạm, khôi phục lại
trật tự pháp luật bị vi phạm.
Năm là, mục đích của hoạt động thực hành quyền công tố tuy vẫn phải thực hiện việc
xem xét, đánh giá nhằm buộc tội và gỡ tội đối với người phạm tội nhưng thực hiện quyền
buộc tội Nhà nước vẫn là chủ yếu.
1.3 Phạm vi, đối tượng, nội dung và ý nghĩa của thực hành quyền công tố trong giai đoạn
điều tra
1.3.1 Phạm vi thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra
Thực hành quyền công tố là việc sử dụng tổng hợp các quyền năng pháp lý thuộc nội
dung quyền công tố để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người và pháp nhân phạm tội
trong các giai đoạn điều tra, truy tố và xét xử. Vì vậy, phạm vi thực hành quyền công tố
bắt đầu từ khi tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo tội phạm và kết thúc khi Bản án có
hiệu lực pháp luật hoặc vụ án bị đình chỉ theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự.

12 Điểm d Khoản 1 Điều 41 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015


Đề tài: Viện kiểm sát thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra
Đối tượng tác động của quyền công tố là tội phạm,người và pháp nhân phạm tội, đặt ra
yêu cầu khi có sự kiện phạm tội xảy ra thì phải thực hành quyền công tố, khởi tố vụ án,
mở cuộc điều tra để truy cứu trách nhiệm hình sự. Trong trường hợp không có tội phạm
thì quyền công tố bị chấm dứt, theo đó chấm dứt mọi hoạt động tố tụng. Thực hành quyền
công tố trong hoạt động điều tra là hoạt động truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người
và pháp nhân phạm tội, không làm oan người và pháp nhân vô tội, bảo vệ lợi ích của Nhà

nước, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, bảo vệ và duy trì trật tự pháp luật, sự ổn
định của xã hội. Thực hành quyền công tố gắn liền với việc tiến hành các hoạt động điều
tra, tức là bất cứ khi nào và ở đâu, Cơ quan điều tra tiến hành kiểm tra (như khám nghiệm
hiện trường, khám nghiệm tử thi, khám xét, lấy lời khai người làm chứng, hỏi cung bị
can…), thì khi đó Viện kiểm sát có trách nhiệm thực hành quyền công tố.
Điều kiện chấm dứt thực hành quyền công tố trong hoạt động điều tra khi có một trong
các căn cứ sau :13
+ Không có sự việc phạm tội (Điều 157 Bộ luật tố tụng hình sự 2015): thì không được
khởi tố vụ án hình sự; nếu đã khởi tố thì hủy bỏ quyết định đó và ra quyết định không
khởi tố vụ án hình sự vì không có đối tượng tác động của quyền công tố;
+ Hành vi không cấu thành tội phạm (173 Bộ luật tố tụng hình sự 2015): là hành vi tuy có
dấu hiệu tội phạm nhưng quy mô hành vi hoặc quy mô hậu quả của hành vi không lớn
chưa đủ cấu thành tội phạm theo quy định của Bộ luật hình sự (như trộm cắp, đánh bạc
dưới 2 triệu đồng mà không có các yếu tố cấu thành tội phạm khác);
+ Người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội chưa đến tuổi chịu trách nhiệm hình sự
(Điều 12 Bộ luật tố tụng hình sự 2015). Trường hợp này, nếu đã khởi tố bị can thì phải
hủy bỏ quyết định khởi tố bị can hoặc đình chỉ điều tra bị can;
+ Người mà hành vi phạm tội của họ đã có bản án hoặc quyết định đình chỉ vụ án có hiệu
lực của pháp luật (Điều 14 Bộ luật tố tụng hình sự 2015) Do đó luật định đối với những
người này không được điều tra, truy tố, xét xử lần hai cũng về tội đó;
+ Thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự là thời hạn do Bộ luật này quy định mà khi hết
thời hạn đó người phạm tội không bị truy cứu trách nhiệm hình sự ( Khoản 1 Điều 27
BLHS 2015). Tuy nhiên, việc hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự này không phải
do người phạm tội cố tình trốn tránh và đã có lệnh truy nã.
Theo quy định tại khoản 2 Điều 27 BLHS năm 2015 thì thời hiệu truy cứu trách nhiệm
hình sự được quy định như sau:
13 Điều 157 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015


Đề tài: Viện kiểm sát thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra

- 05 năm đối với các tội phạm ít nghiêm trọng.
- 10năm đối với các tội phạm nghiêm trọng;
- 15 năm đối với các tội phạm rất nghiêm trọng;
- 20 năm đối với các tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.
Bên cạnh đó, BLTTHS cũng quy định, nếu trong thời hạn nói trên, người phạm tội lại
phạm tội mới mà BLHS quy định mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy trên
01 năm tù, thì thời gian đã qua không được tính và thời hiệu đối với tội cũ được tính lại
kể từ ngày phạm tội mới.
Ngoài ra, Theo quy định tại Điều 28 BLTTHS năm 2015 thì, không áp dụng thời hiệu
truy cứu trách nhiệm hình sự quy định đối với các tội xâm phạm an ninh quốc gia; các tội
phá hoại hoà bình, chống loài người và tội phạm chiến tranh; và tội tham ô và tội nhận
hối lộ quy định tại Khoản 3, 4 của các tội danh này.
Như vậy, khi xác định được đã hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự thì cơ quan có
thẩm quyền giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm phải xem đây là căn cứ không khởi tố
vụ án hình sự.
+ Tội phạm được đại xá : Hiện nay, chưa có văn bản hướng dẫn thế nào đại xá, tuy nhiên
qua thực tiễn áp dụng cho thấy đại xá là một biện pháp khoan hồng đặc biệt của Nhà
nước, do Quốc hội quyết định nhằm tha hoàn toàn đối với một số loại tội phạm và một số
người phạm tội nhất định. Do đó, khi một người đã thực hiện hành vi phạm tội, nhưng
trước khi bị khởi tố, tội phạm đó đã được đại xá thì xem là căn cứ để không khởi tố vụ án
hình sự.
+Mục đích của việc áp dụng trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội là nhằm giáo
dục họ ý thức tuân theo pháp luật, phòng ngừa và đấu tranh phòng chống tội phạm. Cho
nên, chỉ có thể đạt được mục đích trên nếu áp dụng đối với người còn sống.
Do vậy, trong quá trình giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố mà xác
định được người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội đã chết thì cơ quan có thẩm
quyền tiến hành tố tụng phải ra quyết định không khởi tố vụ án hình sự, trừ trường hợp
cần tái thẩm đối với người khác.
Ngoài ra thực hành quyền công tố trong hoạt động điều tra chấm dứt khi có một trong các
căn cứ như sau :



Đề tài: Viện kiểm sát thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra
+ Khi có hiệu lực của Bộ luật hình sự về thời gian có “Điều luật quy định một tội phạm
mới, một hình phạt nặng hơn, một tình tiết tăng nặng mới hoặc hạn chế phạm vi áp dụng
án treo, miễn trách nhiệm hình sự, loại trừ trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt, giảm
hình phạt, xóa án tích và quy định khác không có lợi cho người phạm tội, thì không được
áp dụng đối với hành vi phạm tội đã thực hiện trước khi điều luật đó có hiệu lực thi hành”
(Khoản 2, Điều 7 Bộ luật hình sự năm 2015).
+ Khi Bộ luật hình sự có “Điều luật xóa bỏ một tội phạm, một hình phạt, một tình tiết
tăng nặng, quy định một hình phạt nhẹ hơn, một tình tiết giảm nhẹ mới hoặc mở rộng
phạm vi áp dụng án treo, miễn trách nhiệm hình sự, loại trừ trách nhiệm hình sự, miễn
hình phạt, giảm hình phạt, tha tù trước thời hạn có điều kiện, xóa án tích và quy định
khác có lợi cho người phạm tội, thì được áp dụng đối với hành vi phạm tội đã thực hiện
trước khi điều luật đó có hiệu lực thi hành” (Khoản 3 Điều 7 Bộ luật hình sự 2015). Tức
là hành vi đó không bị coi là tội phạm trong Bộ luật hình sự; Bộ luật hình sự năm 2015
xóa bỏ hành vi sử dụng trái phép các chất ma túy, hành vi này không coi đó là tội phạm.
Như vậy, phạm vi thực hành quyền công tố trong hoạt động điều tra bắt đầu từ khi có sự
kiện phạm tội xảy ra, khởi tố vụ án đến khi chấm dứt hoặc thay đổi giai đoạn tố tụng (hủy
bỏ quyết định khởi tố vụ án, kết thúc điều tra, Cơ quan điều tra đề nghị truy tố bị can
hoặc vụ án bị đình chỉ hoặc Viện kiểm sát truy tố bị can ra tòa).
Nhận thức về phạm vi bắt đầu và kết thúc thực hành quyền công tố trong hoạt động điều
tra như vậy là phù hợp với quy định của pháp luật hiện hành và tinh thần Nghị quyết 08NQ/TW ngày 02/01/2002 (sau đây gọi là Nghị quyết số 08) của Bộ chính trị về “Một số
nhiệm vụ trọng tâm của công tác tư pháp trong thời gian tới”, trong đó nhấn mạnh trách
nhiệm công tố: “Hoạt động công tố phải được thực hiện ngay từ khi khởi tố vụ án và
trong suốt quá trình tố tụng nhằm đảm bảo không bỏ lọt tội phạm và người phạm tội,
không làm oan người vô tội, xử lý kịp thời những trường hợp sai phạm của những người
tiến hành tố tụng khi thi hành nhiệm vụ...”.
1.3.2 Nội dung thực hành quyền công tố trong hoạt động điều tra
Thực hành quyền công tố trong hoạt động điều tra nhằm truy cứu trách nhiệm hình sự

có căn cứ và hợp pháp, bảo đảm mọi hành vi phạm tội đều phải được phát hiện, xử lý
theo pháp luật, không để lọt người, lọt tội. Để đạt được mục đích, yêu cầu đó, pháp luật
hiện hành quy định cho Viện kiểm sát khi thực hành quyền công tố trong hoạt động điều
tra có quyền năng pháp lý là xét phê chuẩn các quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra
và Viện kiểm sát trực tiếp ra quyết định tố tụng trong việc:
1.

Khởi tố vụ án, khởi tố bị can ( Điều 143; khoản 1 Điều 179 BLTTHS 2015)


Đề tài: Viện kiểm sát thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra
2. Áp dụng các biện pháp ngăn chặn (giữ người trong trường hợp khẩn cấp, bắt, tạm giữ,
tạm giam);
3. Yêu cầu điều tra để thu thập chứng cứ buộc tội, gỡ tội một cách khách quan, toàn diện
và đầy đủ theo đúng trình tự, thủ tục pháp luật (khoản 2 Điều 159 BLTTHS năm 2015)
4. Hủy bỏ các quyết định tố tụng không có căn cứ và trái pháp luật của Cơ quan điều tra;
(Điều 158 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015)
5.Gia hạn điều tra khoản 2,3 Điều 172 BLTTHS 2015
6. Quyết định việc đình chỉ điều tra, đình chỉ vụ án; quyết định việc truy tố bị can. Cơ
quan điều tra có quyền áp dụng các thủ tục tố tụng, ra quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị
can..., nhưng việc ra các quyết định tố tụng đó không có nghĩa là Cơ quan điều tra cũng
thực hành quyền công tố, mà trách nhiệm theo luật định thì thực hành quyền công tố
thuộc chức năng của Viện kiểm sát với tư cách cơ quan quyết định cuối cùng việc khởi tố
hay không khởi tố vụ án, khởi tố bị can (xét phê chuẩn, hủy bỏ quyết định khởi tố không
có căn cứ và trái pháp luật của Cơ quan điều tra). Khi Viện kiểm sát không chấp nhận
việc khởi tố thì yêu cầu Cơ quan điều tra hủy bỏ và ra quyết định không khởi tố vụ án
hình sự; nếu đã khởi tố, điều tra mà xác định không có tội phạm hoặc không có căn cứ để
truy cứu trách nhiệm đối với bị can thì vụ án phải đình chỉ và chấm dứt mọi hoạt động tố
tụng. ( Điều 164 BLTTHS 20150
Thực hiện đúng, đầy đủ các quyền năng pháp lý trên đây là bảo đảm quan trọng để nâng

cao trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra.
1.3.3 Ý nghĩa của công tác thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra
Theo Điều 3 Quy chế thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra xác định công tác
thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhằm bảo
đảm
Thứ nhất,mọi hành vi phạm tội đều phải được khởi tố, điều tra và xử lý kịp thời, không
để lọt tội phạm và người phạm tội, không làm oan người vô tội. Trong hoạt động này
thực hiện tốt việc khởi tố vụ án, khởi tố bị can có ý nghĩa quan trọng, góp phần thực hiện
tốt các hoạt động điều tra để kịp thời đưa ra xử lý tội phạm nhằm đảm bảo mọi tội phạm
đã phát hiện đều được khởi tố, việc khởi tố vụ án phải có căn cứ hợp pháp, đồng thời
cũng tránh được những sai sót. Đồng thời thấm nhuần sâu sắc quan điểm “Một người bị
oan chẳng những bản thân họ đau khổ mà cả gia đình, họ hàng họ càng đau khổ hơn. Làm
điều oan cho một người nào đó thì chúng ta không còn lẽ sống nữa, bởi vì chúng ta là
những người công sản”


Đề tài: Viện kiểm sát thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra
Thứ hai, không để người nào bị khởi tố, bị bắt, tạm giữ, tạm giam, bị hạn chế các quyền
công dân, bị xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, tài sản, tự do, danh dự và nhân phẩm một
cách trái pháp luật. Áp dụng các biện pháp ngăn chặn là biện pháp nghiệp vụ của các cơ
quan tiến hành tố tụng thực hiện trong quá trình điều tra, truy tố xét xử. Nó thể hiện sự
cưỡng chế mạnh mẽ của Nhà nước đối với kẻ phạm tội, đảm bảo cho việc đấu tranh
phòng chống tội phạm đạt kết quả cao, song nó cũng ảnh hưởng trực tiếp đến quyền tự do
của công dân được quy định trong Hiến pháp. Đồng thời, khi thực hành quyền công tố
Kiểm sát viên được nhân danh quyền lực Nhà nước do đó cần phải quán triệt tư tưởng Hồ
Chí Minh “Bắt nhiều không bằng bắt hay, bắt hay không bằng hay bắt”, “Xử nhiều không
bằng xử hay, xử hay không bằng hay xử”14 .Vì vậy đòi hỏi các biện pháp ngăn chặn phải
được quy định đầy đủ, chặt chẽ trong Bộ luật tố tụng hình sự và thực hiện nghiêm một
cách triệt để nhằm tránh tình trạng giữ người trong trường hợp khẩn cấp, bắt, tạm giữ,
tạm giam người vô tội, để lọt kẻ phạm tội.

Thứ ba, việc điều tra phải khách quan, toàn diện, đầy đủ, chính xác, đúng pháp luật;
những vi phạm pháp luật trong quá trình điều tra phải được phát hiện kịp thời; khắc phục
và xử lý nghiêm minh. Để làm tốt được nhiệm vụ công tố Kiểm sát viên phải có phương
pháp nghiên cứu hồ sơ, tài liệu, kỹ năng tham gia các hoạt động điều tra. Mặt khác, Viện
kiểm sát phải kiểm sát chặt chẽ các thủ tục tố tụng và kết quả các hoạt động điều tra; phát
hiện và áp dụng các biện pháp theo luật định để yêu cầu Cơ quan điều tra khắc phục kịp
thời, không để sai phạm nối tiếp sai phạm, chồng chất vi phạm thì vụ án sẽ rơi vào bế tắc,
kéo dài, thậm chí không giải quyết được. Đồng thời Viện kiểm sát phải thường xuyên
tổng hợp, tích lũy vi phạm, đề ra biện pháp kiến nghị Cơ quan điều tra khắc phục nhằm
hạn chế những vi phạm pháp luật trong hoạt động điều tra.
Thứ tư, việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với bị can phải có căn cứ và đúng pháp
luật. Hoạt động thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra nhằm đảm bảo mọi
hành vi phạm tội đều phải được xử lý kịp thời thông qua việc xử dụng tổng hợp các
quyền năng pháp lý mà pháp luật tố tụng hình sự quy định. Mặt khác, hoạt động thực
hành quyền công tố trong giai đoạn này cũng nhằm đảm bảo việc xử lý đúng người, đúng
tội, đúng pháp luật, góp phần ngăn chặn kịp thời việc khởi tố bị can một cách không thận
trọng, thiếu chính xác. Mặt khác, Viện kiểm sát áp dụng các biện pháp cần thiết do luật
định để kiểm tra lại tính hợp pháp và có căn cứ của toàn bộ các hành vi tố tụng mà Cơ
quan điều tra có thẩm quyền đã áp dụng và để loại trừ những hậu quả tiêu cực thông qua
các quyền năng pháp lý được quy định trong Bộ luật tố tụng hình sự.
1.3.4 Mối quan hệ giữa Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát trong thực hành quyền công tố
trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự.
14 Chủ tịch Hồ Chí Minh nói chuyện với cán bộ tư pháp tại Hội nghị cải cách tư pháp 1950.


Đề tài: Viện kiểm sát thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra
Nội dung, hình thức mối quan hệ giữa Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát trong tố tụng
hình sự Việt Nam15
* Về nội dung “phối hợp” giữa Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát trong tố tụng hình sự
Bất cứ Nhà nước nào cũng đều có sự phối hợp trong việc thực hiện quyền lực nhà nước.

Tuy nhiên, các nước có chế độ chính trị khác nhau thì sự phối hợp giữa các nhánh quyền
lực cũng khác nhau. Trong Nhà nước tư sản, hầu như không có sự phối hợp giữa các
nhánh quyền lực, nếu có chỉ là sự thỏa hiệp vì lợi ích của chính mình hoặc trước sức ép
của công luận... Nhưng ở Nhà nước xã hội chủ nghĩa, xuất phát từ bản chất là Nhà nước
của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân và do duy nhất Đảng Cộng sản lãnh đạo, nên các
cơ quan trong bộ máy Nhà nước có sự phối hợp chặt chẽ dưới sự lãnh đạo tập trung thống
nhất của Đảng cầm quyền.
Trong tố tụng hình sự, các cơ quan tiến hành tố tụng tuy có chức năng, nhiệm vụ khác
nhau nhưng đều có mục đích chung là phát hiện, xử lý nghiêm minh, kịp thời các hành vi
phạm tội, do đó, sự phối hợp giữa các cơ quan tiến hành tố tụng là tất yếu, khách quan.
Bộ luật Tố tụng Hình sự quy định cụ thể về mối quan hệ giữa các cơ quan tiến hành tố
tụng. Trong đó, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Toà án có sự phối hợp chặt chẽ trong
quá trình tiến hành tố tụng. Tuy nhiên, sự phối hợp giữa Cơ quan điều tra với Viện kiểm
sát khác với sự phối hợp giữa Viện kiểm sát và Toà án. Bởi lẽ, sự phối hợp giữa Viện
kiểm sát với Toà án thường chỉ xuất hiện sau khi vụ án đã được Viện kiểm sát truy tố và
chuyển hồ sơ đến Toà án đưa ra vụ án để xét xử. Còn công tác phối hợp giữa Cơ quan
điều tra và Viện kiểm sát không chỉ được thực hiện sau khi Cơ quan điều tra kết luận điều
tra vụ án chuyển hồ sơ đến Viện kiểm sát mà còn được thực hiện từ khi Cơ quan điều tra
phát hiện tội phạm, khởi tố, điều tra vụ án hình sự.
Khi tiến hành tố tụng hình sự, Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát vừa tiến hành các hoạt
động tố tụng độc lập, vừa có mối quan hệ trong từng chế định tố tụng. Trong giai đoạn
điều tra vụ án hình sự, Cơ quan điều tra có chức năng, nhiệm vụ phát hiện tội phạm, khởi
tố, điều tra vụ án hình sự, còn Viện kiểm sát có chức năng, nhiệm vụ thực hành quyền
công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động điều tra vụ án hình sự, bảo
đảm hoạt động điều tra vụ án hình sự đúng người, đúng tội và đúng pháp luật. Do vậy, Cơ
quan điều tra và Viện kiểm sát không chỉ có mối quan hệ trong từng chế định tố tụng hình
sự cụ thể mà sự phối hợp xuyên suốt toàn bộ quá trình tố tụng từ khi phát hiện tội phạm
đến khi kết thúc điều tra vụ án hình sự.

15 Tập chí sinh viên online



Đề tài: Viện kiểm sát thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra
Về hình thức, Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát phối hợp bằng nhiều cách thức, cấp độ,
tần suất khác nhau, như: Phối hợp theo quy định của pháp luật (Bộ luật Tố tụng Hình sự,
Pháp lệnh Tổ chức điều tra hình sự, Thông tư liên tịch), các quy định giữa hai ngành, hai
đơn vị cùng cấp (quy chế, quy định phối hợp); phối hợp thường xuyên định kỳ theo
chương trình, kế hoạch hoặc đột xuất thông qua việc giải quyết vụ án hình sự cụ thể. Về
chủ thể, có sự phối hợp giữa Lãnh đạo Viện kiểm sát với Lãnh đạo Cơ quan điều tra hoặc
giữa Điều tra viên với Kiểm sát viên. Về hình thức phối hợp thông qua văn bản hoặc trao
đổi trực tiếp...
Về nội dung, Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát phối hợp trong từng chế định tố tụng
hình sự, như: Trong việc nắm, quản lý tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố;
khởi tố vụ án, khởi tố bị can; việc áp dụng, thay đổi, huỷ bỏ các biện pháp ngăn chặn;
việc điều tra thu thập chứng cứ và lập hồ sơ vụ án; việc đình chỉ, tạm đình chỉ, kết thúc
điều tra vụ án. Trong đó, Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát cùng có sự phối hợp chặt chẽ,
bình đẳng về quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm; chất lượng, hiệu quả công tác phối hợp phụ
thuộc chủ yếu vào sự tích cực phối hợp của cả hai chủ thể này.
Về tính chất, sự phối hợp giữa Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát trong tố tụng hình sự
nhằm mục đích chung là phát hiện, điều tra, xử lý tội phạm theo đúng quy định của pháp
luật. Tuy nhiên, do chức năng, nhiệm vụ, trách nhiệm khác nhau, nên sự phối hợp giữa
Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát được tiến hành trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ của
mỗi ngành được pháp luật quy định cụ thể.
Về mức độ, phối hợp cũng cần có cơ chế để bảo đảm sự phối hợp chặt chẽ và hiệu quả,
khắc phục tình trạng phối hợp mang tính hình thức, không hiệu quả. Trong tố tụng hình
sự, mức độ của sự phối hợp tùy thuộc vào tính chất của chế độ tố tụng hình sự, đối với
những hoạt động quan trọng và cần thiết phải có sự phối hợp chặt chẽ giữa Cơ quan điều
tra và Viện kiểm sát như: Khám nghiệm hiện trường, tử thi, áp dụng, thay đổi biện pháp
ngăn chặn... đòi hỏi phải có sự phối hợp nghiêm ngặt về thời gian và cách thức phối hợp.
Như vậy, khái niệm phối hợp giữa Viện kiểm sát với Cơ quan điều tra trong tố tụng hình

sự là: Sự liên kết theo chức năng, nhiệm vụ, trách nhiệm giữa Viện kiểm sát với Cơ quan
điều tra nhằm mục đích phát hiện, khởi tố, điều tra và xử lý tội phạm theo đúng quy định
của pháp luật.
* Về nội dung Viện kiểm sát “chế ước” hoạt động điều tra trong tố tụng hình sự Việt Nam
Trong bất cứ bộ máy nhà nước nào, cũng đều có sự phân công giữa các nhánh quyền lực.
Ở Nhà nước tư sản, sự phân công quyền lực được thực hiện chủ yếu theo nguyên tắc “tam
quyền phân lập”, trong đó có sự độc lập tuyệt đối giữa các quyền lập pháp, hành pháp và


Đề tài: Viện kiểm sát thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra
tư pháp. Do có sự độc lập, nên sự giám sát, chế ước mang tính chất hạn chế, cản trở lẫn
nhau và hầu như không có sự phối hợp. Sự phân công quyền lực trong Nhà nước tư sản
mang tính tuyệt đối, trong nhiều trường hợp các nhánh quyền lực đối lập và triệt tiêu lẫn
nhau. Chẳng hạn, vì lý do hoặc căn nguyên rất nhỏ của cá nhân cũng có thể dẫn đến việc
thay đổi Nội các Chính phủ hoặc xảy ra đảo chính trong Nhà nước tư sản... Tuy nhiên, xét
một cách khách quan thì chính sự độc lập tuyệt đối trong giám sát quyền lực của nhà
nước tư sản cho thấy hiệu quả giám sát quyền lực mà nó mang lại là rõ rệt. Đây cũng là
vũ khí lý luận mà các học giả tư sản cho rằng cách thức tổ chức quyền lực của Nhà nước
tư sản văn minh, ưu việt nhất hiện nay.
Trong Nhà nước xã hội chủ nghĩa, sự phân công quyền lực mang tính tương đối và có sự
phối hợp chặt chẽ giữa các nhánh quyền lực. Trong đó, quyền lực nhà nước là thống nhất
có sự phân công, phối hợp giữa các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Mặc dù có sự
phân công, phân nhiệm theo chức năng, nhiệm vụ, nhưng giữa các cơ quan nhà nước có
sự phối hợp với nhau. Tuy nhiên, cũng cần phải làm rõ ranh giới giữa phân công với phối
hợp và các hình thức, mức độ của sự phân công, phối hợp để hoạt động của các cơ quan
nhà nước đạt hiệu quả cao và không bị chồng chéo. Mặt khác, do đặc điểm của từng mối
quan hệ, nên sự phân công giữa các cơ quan trong bộ máy nhà nước có những đặc thù
nhất định. So với Nhà nước tư sản thì sự phân công quyền lực trong Nhà nước xã hội chủ
nghĩa có những đặc điểm hoàn toàn khác biệt, đó là bên cạnh sự phân công, giám sát giữa
các cơ quan nhà nước còn có sự phối hợp giữa các cơ quan này. Với bản chất như vậy, sự

giám sát giữa các cơ quan trong bộ máy nhà nước xã hội chủ nghĩa không triệt tiêu, bài
trừ, hạn chế nhau mà có cùng một mục đích chung, chính là sự ưu việt hơn hẳn so với
Nhà nước tư sản. Tuy nhiên, cũng phải thừa nhận rằng, một trong những vấn đề phức tạp
nhất trong cách thức tổ chức bộ máy nhà nước xã hội chủ nghĩa là sự phân công, giám sát
giữa các cơ quan như thế nào để bảo đảm tính ưu việt, hiệu quả.
Trong bộ máy Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, có sự giám sát giữa các cơ
quan nhà nước. Trong tố tụng hình sự, các cơ quan tiến hành tố tụng cũng có hoạt động
giám sát, chế ước với các hình thức, mức độ khác nhau, trong đó, Viện kiểm sát giám sát,
yêu cầu, hủy bỏ các quyết định, hành vi không có căn cứ, trái pháp luật của Cơ quan điều
tra và Điều tra viên, nhằm đảm bảo việc khởi tố, điều tra vụ án đúng pháp luật. Quyền
năng này của Viện kiểm sát đối với Cơ quan điều tra có hiệu lực rất cao và Cơ quan điều
tra phải chấp hành. Khái quát quyền năng này của Viện kiểm sát đối với hoạt động của
Cơ quan điều tra có thể xác định bằng khái niệm “chế ước”. Theo nghĩa Hán Việt, “chế là
phép định ra, làm ra, đặt ra; ước là bó buộc”(3).
Xét dưới góc độ chung, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Toà án đều có sự kiểm tra,
giám sát, chế ước lẫn nhau với mức độ và hình thức nhất định. Trong đó, Viện kiểm sát


Đề tài: Viện kiểm sát thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra
và Toà án có sự kiểm tra, giám sát, chế ước nhau khi Toà án có quyền phán quyết như đề
nghị của Viện kiểm sát hoặc không theo đề nghị của Viện kiểm sát, thậm chí có trường
hợp Toà án trả hồ sơ để điều tra bổ sung hoặc tuyên bị cáo không phạm tội. Ngược lại,
Viện kiểm sát cũng có quyền kiểm tra, giám sát hoạt động của Toà án nếu thấy quyết định
của Toà án không có căn cứ, đúng pháp luật thì Viện kiểm sát có quyền kháng nghị để
Toà án cấp trên xem xét lại quyết định của Toà án cấp dưới bằng trình tự, thủ tục, hình
thức nhất định.
Tuy nhiên, tính chất, mức độ chế ước của Viện kiểm sát đối với Cơ quan điều tra hoàn
toàn khác sự chế ước của Viện kiểm sát đối với Toà án, bởi những đặc điểm sau: Thứ
nhất, về thời điểm, Viện kiểm sát chế ước hoạt động điều tra ngay từ khi Cơ quan điều tra
bắt đầu thực hiện các hoạt động tiếp nhận, xử lý tố giác, tin báo về tội phạm và được thực

hiện trong suốt quá trình điều tra vụ án. Thứ hai, sự chế ước chỉ được thực hiện một chiều
giữa Viện kiểm sát đối với Cơ quan điều tra. Có nghĩa là, Viện kiểm sát là cơ quan chế
ước, còn Cơ quan điều tra là cơ quan bị chế ước. Cũng có ý kiến cho rằng, trong tố tụng
hình sự, các cơ quan tiến hành tố tụng có quyền chế ước lẫn nhau, trong đó Cơ quan điều
tra có quyền chế ước đối với Viện kiểm sát. Tuy nhiên, căn cứ vào các quy định của pháp
luật hiện hành, về nguyên tắc, Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát có quyền kiểm tra, giám
sát lẫn nhau. Trong đó, chỉ có Viện kiểm sát cùng cấp và cấp trên chế ước đối với Cơ
quan điều tra cùng cấp và cấp dưới, còn Cơ quan điều tra chỉ có quyền kiểm tra, giám sát
đối với Viện kiểm sát cùng cấp. Tính chất kiểm tra, giám sát của Cơ quan điều tra đối với
Viện kiểm sát có mức độ nhất định và không có đầy đủ các yêu cầu của sự chế ước. Phân
biệt khái niệm “chế ước” và “giám sát” cho thấy, giám sát chỉ là một phần của chế ước,
chế ước có hiệu lực pháp lý cao hơn giám sát, nếu giám sát là việc kiểm tra, theo dõi thì
chế ước bao gồm cả kiểm tra, theo dõi và thực hiện các biện pháp khác nhằm bảo đảm
hoạt động được thực hiện đúng quy định của pháp luật. Do vậy, theo quy định của pháp
luật hiện hành, nếu Cơ quan điều tra phát hiện hoạt động của Viện kiểm sát cùng cấp
không có căn cứ, trái pháp luật thì chỉ có quyền đề nghị Viện kiểm sát cấp trên xem xét,
quyết định mà không có quyền yêu cầu hoặc hủy bỏ các quyết định của Viện kiểm sát.
Thứ ba, theo quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự, quyền chế ước của Viện kiểm sát chỉ
được tiến hành đối với hoạt động của Cơ quan điều tra, có nghĩa là đối tượng của sự chế
ước chính là quyết định, hành vi của Cơ quan điều tra và Điều tra viên trong quá trình
tiến hành tố tụng, còn đối với những vấn đề khác của Cơ quan điều tra như: Tổ chức, bộ
máy của Cơ quan điều tra hoặc những hoạt động khác không phải là tiến hành tố tụng
(hành chính, dân sự, kỷ luật nội bộ...) thì không phải là đối tượng chịu sự điều chỉnh của
Viện kiểm sát. Thứ tư, sự chế ước được tiến hành trong từng chế định tố tụng hình sự và
mức độ chế ước rất cao đối với những hoạt động tố tụng liên quan trực tiếp đến quyền
con người trong tố tụng hình sự, như khởi tố bị can hoặc áp dụng các biện pháp ngăn


Đề tài: Viện kiểm sát thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra
chặn (bắt bị can để tạm giam, gia hạn tạm giữ, tạm giam...), đều phải có sự phê chuẩn của

Viện kiểm sát trước khi thi hành.
Viện kiểm sát vừa là cơ quan tiến hành tố tụng độc lập có trách nhiệm phối hợp với Cơ
quan điều tra, vừa thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật của Cơ
quan điều tra. Do vậy, trong tố tụng hình sự, Viện kiểm sát và Cơ quan điều tra vừa có sự
phối hợp với nhau, nhưng đồng thời có sự phân công, cụ thể: Cơ quan điều tra có nhiệm
vụ phát hiện, khởi tố, điều tra vụ án hình sự, còn Viện kiểm sát có nhiệm vụ giám sát hoạt
động của Cơ quan điều tra, bảo đảm cho hoạt động điều tra đúng quy định của pháp luật,
không làm oan người vô tội, không bỏ lọt tội phạm. Bản chất sự phân công trong tố tụng
hình sự là Viện kiểm sát chế ước hoạt động điều tra của Cơ quan điều tra.
Viện kiểm sát chế ước hoạt động điều tra của Cơ quan điều tra bằng tổng hợp các quyền
năng pháp lý, như: Giám sát, yêu cầu, hủy bỏ, cụ thể như sau:
Một là, Viện kiểm sát có quyền giám sát các hoạt động điều tra của Cơ quan điều tra một
cách trực tiếp (kiểm sát việc khám nghiệm...) hoặc gián tiếp (nghiên cứu hồ sơ). Hoạt
động giám sát của Viện kiểm sát là cơ sở để Viện kiểm sát thực hiện quyền chế ước. Bởi
vì, chỉ khi Viện kiểm sát nắm được hoạt động của Cơ quan điều tra thì mới xác định được
hoạt động điều tra đó đúng hay sai, việc điều tra đó khách quan, đầy đủ hay không mới có
căn cứ để Viện kiểm sát thể hiện quan điểm của mình.
Hai là, Viện kiểm sát có quyền yêu cầu Cơ quan điều tra thực hiện các hoạt động điều tra,
như: Yêu cầu điều tra vụ án, truy nã bị can, trả hồ sơ để điều tra bổ sung, cung cấp tài
liệu, chứng cứ... Tuy nhiên, trên thực tế vẫn có những trường hợp quyền yêu cầu của Viện
kiểm sát không được thực hiện nghiêm chỉnh, như: Yêu cầu không khả thi hoặc không
giám sát chặt chẽ việc thực hiện.
Ba là, Viện kiểm sát có quyền hủy bỏ các quyết định trái pháp luật của Cơ quan điều tra.
Trên thực tế, Viện kiểm sát chỉ thực hiện quyền năng này khi đã yêu cầu nhưng Cơ quan
điều tra không thực hiện hoặc khi Cơ quan điều tra không thể tự hủy bỏ khắc phục được.
Cùng với thẩm quyền hủy bỏ, Viện kiểm sát phải có thẩm quyền ban hành các quyết định
khác thay thế quyết định bị hủy bỏ mới bảo đảm quyền chế ước được thực hiện nghiêm
túc và triệt để. Ví dụ: Viện kiểm sát hủy bỏ quyết định không khởi tố vụ án hình sự của
Cơ quan điều tra, đồng thời ban hành quyết định khởi tố vụ án hình sự.
Ba hình thức thể hiện trên trong quyền chế ước của Viện kiểm sát đối với Cơ quan điều

tra cũng là sự biểu hiện ở ba mức độ chế ước khác nhau. Mức độ chế ước của Viện kiểm
sát phản ánh chất lượng thực hành quyền công tố, kiểm sát điều tra của Viện kiểm sát,
nhưng đồng thời cũng phản ánh trình độ nghiệp vụ của Cơ quan điều tra khi tiến hành


Đề tài: Viện kiểm sát thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra
điều tra vụ án hình sự. Trong một số trường hợp, Viện kiểm sát chỉ thực hiện quyền giám
sát, mà không thực hiện quyền yêu cầu hay hủy bỏ khi Cơ quan điều tra đã thực hiện
nghiêm chỉnh các quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Ngược lại, Viện kiểm sát sẽ thực
hiện cả quyền giám sát, yêu cầu và hủy bỏ khi Cơ quan điều tra tiến hành điều tra vụ án
không đầy đủ hoặc không thực hiện nghiêm chỉnh yêu cầu của Viện kiểm sát.
Trong thực tiễn, nơi nào Viện kiểm sát thực hiện nghiêm chỉnh, triệt để những quy định
của Bộ luật Tố tụng Hình sự, phát huy tối đa quyền năng chế ước mà pháp luật giao cho
thì ở nơi đó chất lượng điều tra, chất lượng thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra
được nâng lên. Nếu Viện kiểm sát tiến hành kiểm sát điều tra từ đầu hoặc thường xuyên
bám sát tiến độ điều tra, yêu cầu khắc phục kịp thời những vi phạm, thiếu sót trong giai
đoạn điều tra… thì sẽ khắc phục và hạn chế được các trường hợp trả hồ sơ để điều tra bổ
sung hoặc các trường hợp oan, sai, bỏ lọt tội phạm.
Như vậy, sự chế ước của Viện kiểm sát đối với hoạt động điều tra của Cơ quan điều tra
trong tố tụng hình sự là: Quyền năng giám sát, yêu cầu, huỷ bỏ của Viện kiểm sát do pháp
luật quy định nhằm bảo đảm hoạt động của Cơ quan điều tra trong việc phát hiện tội
phạm, khởi tố, điều tra vụ án hình sự đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không làm
oan người vô tội, không bỏ lọt tội phạm, bảo vệ quyền con người trong tố tụng hình sự.
* Về mối quan hệ “phối hợp” và “chế ước” giữa Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát trong
tố tụng hình sự
Các chế định tố tụng hình sự khác nhau thì yếu tố phối hợp hoặc chế ước cũng khác khau.
Do đó, khi điều tra, thu thập chứng cứ, tài liệu chủ yếu có sự phối hợp giữa Cơ quan điều
tra và Viện kiểm sát, như: Khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi... để bảo đảm
Cơ quan điều tra chủ động, nhanh chóng, kịp thời thu giữ các chứng cứ, tài liệu chứng
minh hành vi phạm tội của bị can. Nhưng khi thực hiện các biện pháp tố tụng liên quan

đến quyền con người thì việc chế ước rất chặt chẽ, như: Khởi tố bị can, bắt bị can để tạm
giam... đòi hỏi phải có sự phê chuẩn của Viện kiểm sát trước khi thi hành.
Quá trình thực hiện mối quan hệ tố tụng này cũng đòi hỏi mỗi chủ thể phải sử dụng đúng
mức và linh hoạt hai yếu tố phối hợp và chế ước, nhất là đối với Viện kiểm sát. Trong quá
trình tiến hành tố tụng, nếu Viện kiểm sát thực hiện sự phối hợp không đúng với bản chất
của nó hoặc chỉ phối hợp mà không chế ước sẽ dẫn đến hiện tượng hữu khuynh, nể nang,
né tránh hoặc phụ thuộc vào Cơ quan điều tra hoặc không kiên quyết đấu tranh bảo vệ
chân lý, bảo vệ lẽ phải vì thiếu bản lĩnh nghề nghiệp. Hậu quả dẫn đến những thiếu sót, vi
phạm của Cơ quan điều tra, Điều tra viên không được Viện kiểm sát, Kiểm sát viên yêu


Đề tài: Viện kiểm sát thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra
cầu khắc phục, bổ sung dẫn đến phải trả hồ sơ để điều tra bổ sung, vụ án bị đình chỉ hoặc
bị Tòa án tuyên bị cáo không phạm tội...
Ngược lại, nếu Viện kiểm sát thực hiện sự chế ước không đúng hoặc chỉ có chế ước mà
không có phối hợp, sẽ dẫn đến hiện tượng tả khuynh “quyền anh, quyền tôi”, làm ảnh
hưởng đến chất lượng, hiệu quả hoạt động chung của hai cơ quan. Trên thực tế, một số
Kiểm sát viên chỉ tìm những thiếu sót, sai phạm của Điều tra viên, Cơ quan điều tra để
báo cáo thành tích hoặc cho rằng đó là nhiệm vụ chính, mà không nhận thức được rằng
Kiểm sát viên không thể đứng ngoài nhiệm vụ của Điều tra viên mà phải cùng Điều tra
viên tháo gỡ khó khăn, vướng mắc để tìm kiếm chứng cứ chứng minh và làm rõ sự thật
của vụ án nhằm xử lý theo quy định của pháp luật. Do vậy, việc sử dụng đúng đắn, linh
hoạt hai yếu tố phối hợp và chế ước giữa Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát trong quá
trình tiến hành tố tụng hình sự sẽ góp phần tạo ra sức mạnh tổng hợp, đồng bộ trong quá
trình đấu tranh phòng, chống tội phạm. Đây là đặc điểm ưu việt của hệ thống pháp luật và
hệ thống các cơ quan tiến hành tố tụng của Việt Nam, cần được kế thừa, phát huy trong
quá trình cải cách tư pháp hiện nay.

Tóm lại, mối quan hệ giữa Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát trong tố tụng hình sự là: Sự
phối hợp và chế ước của Viện kiểm sát với Cơ quan điều tra cùng cấp và một số cơ quan

khác được giao nhiệm vụ điều tra ban đầu trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự, nhằm
bảo đảm việc điều tra vụ án đúng quy định của pháp luật, không bỏ lọt tội phạm, không
làm oan người vô tội.
* Hình thức mối quan hệ giữa Cơ quan Điều tra và Viên kiểm sát trong tố tụng hình sự
Việt Nam
Theo quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự, mối quan hệ giữa Cơ quan điều tra và Viện
kiểm sát trong tố tụng hình sự có các hình thức sau:
- Căn cứ hoạt động cơ bản của mối quan hệ, có hình thức phối hợp và hình thức chế ước.
Trong quan hệ phối hợp, Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát thực hiện các hình thức trao
đổi thông tin trực tiếp như: Gặp, trao đổi trực tiếp, qua điện thoại, thông qua các cuộc
họp, giao ban, hội nghị hoặc gửi hồ sơ, tài liệu cho nhau... hoặc thông qua các hình thức
văn bản, như: Thông báo, công văn đề nghị... Trong quan hệ chế ước, Viện kiểm sát thực
hiện các hình thức chế ước cụ thể như: Giám sát, yêu cầu, phê chuẩn hoặc không phê
chuẩn, huỷ bỏ các lệnh, quyết định tố tụng.


Đề tài: Viện kiểm sát thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra
- Căn cứ vào thời điểm Viện kiểm sát phê chuẩn lệnh quyết định của Cơ quan điều tra, có
hình thức Viện kiểm sát phê chuẩn trước khi thực hiện và hình thức Viện kiểm sát phê
chuẩn sau khi Cơ quan điều tra thực hiện. Hình thức Viện kiểm sát phê chuẩn trước khi
Cơ quan điều tra thực hiện đều là những chế định, biện pháp tố tụng quan trọng liên quan
trực tiếp đến quyền tự do thân thể của con người như: Bắt bị can để tạm giam, gia hạn
tạm giữ, ra lệnh tạm giam... Bên cạnh đó, hình thức Viện kiểm sát phê chuẩn sau khi Cơ
quan điều tra thực hiện là những chế định, biện pháp tố tụng để bảo đảm tính khẩn cấp,
kịp thời cho yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm, như: Bắt khẩn cấp, khám xét khẩn
cấp...
- Căn cứ vào tính chất hoạt động giám sát của Viện kiểm sát, có hình thức giám sát trực
tiếp và hình thức giám sát gián tiếp. Viện kiểm sát giám sát trực tiếp được thực hiện
thông qua các hoạt động tố tụng đòi hỏi phải có mặt trực tiếp của Kiểm sát viên, như:
Kiểm sát việc khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi... Ngoài ra, Viện kiểm sát

còn có hình thức kiểm sát gián tiếp, như: Thông qua việc nghiên cứu hồ sơ, tài liệu, nghe
báo cáo...
- Căn cứ vào cách thức quan hệ có hình thức trao đổi bằng miệng và hình thức trao đổi
bằng văn bản. Hình thức trao đổi trực tiếp hoặc gọi điện thoại của Điều tra viên và Kiểm
sát viên hoặc giữa lãnh đạo hai cơ quan thường được sử dụng để trao đổi thông tin, những
vấn đề cần thiết, kịp thời, nhưng không đòi hỏi tính pháp lý cao. Còn việc trao đổi bằng
văn bản là hình thức quan hệ chủ yếu giữa hai ngành theo trình tự, thủ tục, thẩm quyền
được quy định rất chặt chẽ về nội dung, hình thức trong Bộ luật Tố tụng Hình sự và là
căn cứ pháp lý chủ yếu giữa hai cơ quan tiến hành tố tụng.
- Căn cứ các chế định tố tụng hình sự được Bộ luật Tố tụng Hình sự quy định, nội dung
và hình thức mối quan hệ tố tụng giữa Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát được biểu hiện
cụ thể trong các chế định tố tụng hình sự, như: Trong việc tiếp nhận, giải quyết tố giác,
tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố; trong việc khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can;
trong việc áp dụng, thay đổi, huỷ bỏ các biện pháp ngăn chặn; trong việc thu thập chứng
cứ và lập hồ sơ vụ án hình sự; trong việc kết thúc điều tra đề nghị truy tố, đình chỉ điều
tra, tạm đình chỉ điều tra, điều tra bổ sung, điều tra lại, phục hồi điều tra.
Kết luận chương 1
Quyền công tố là một chức năng quan trọng của Viện kiểm sát trong tố tụng hình sự
nhất là trong giai đoạn điều tra. Những năm gần đây, cùng với sự phát triển của kinh tế
thị trường, ngày càng nảy sinh nhiều vấn đề mới, phức tạp, để vận dụng đúng chính sách,
pháp luật của Đảng và Nhà nước khi đánh giá tính chất tội phạm và xác định tội danh,


Đề tài: Viện kiểm sát thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra
ngoài việc căn cứ vào hành vi phạm tội của bị can Viện kiểm sát cần phải chú ý đến đặc
điểm tình hình chính trị của địa phương hoàn cảnh dẫn đến bị can phạm tội; đồng thời
thông qua thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra nhằm tạo cơ sở để cho Viện
kiểm sát truy tố đúng người, đúng tội, hạn chế xảy ra các trường hợp oan, sai.




CHƯƠNG 2
QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ
VỀ THỰC HÀNH CÔNG TỐ TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA TRONG VỤ ÁN HÌNH
SỰ
Trong giai đoạn điều tra, Viện kiểm thực hiện chức năng thực hành công tố của Cơ quan
và cac Cơ quan khác được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra, để đảm
bảo tất cả các hành vi phạm tội đều được xử lí, khởi tố điều tra kịp thời, không để tội
phạm người các pháp nhân phạm tội có cơ hội thoát tội. Không để bị án oan cho người
và pháp nhân, không để bị khởi tố, bị tạm giữ trong trường hợp khẩn, bị bắt, bị giam giữ,
tạm giam bị hạn chế quyền công dân, bị xâm phạm tính mạng, sức một cách trái pháp
luật. đồng thời phải đảm bảo tính khách quan, toàn diện, đầy đủ, chính xác, đúng pháp
luật, kịp thời phát hiện, khắc phục xử lí tội phạm trong quá trình điều tra.
Thực hành quyền công tố trong hoạt động điều tra được quy định tại Điều 20, Điều 165
Bộ luật tố tụng hình sự 2015 và điều 14 Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân.


×