Tải bản đầy đủ (.pdf) (242 trang)

(Luận án tiến sĩ) Quản lý nhà nước đối với xuất bản phẩm âm nhạc dành cho cấp học mầm non

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (9.03 MB, 242 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ VĂN HÓA THỂ THAO VÀ DU LỊCH

VIỆN VĂN HÓA NGHỆ THUẬT QUỐC GIA VIỆT NAM

Hoàng Công Dụng

QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI XUẤT BẢN PHẨM
ÂM NHẠC DÀNH CHO CẤP HỌC MẦM NON

LUẬN ÁN TIẾN SĨ QUẢN LÝ VĂN HÓA

Hà Nội - 2019


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ VĂN HÓA THỂ THAO VÀ DU LỊCH

VIỆN VĂN HÓA NGHỆ THUẬT QUỐC GIA VIỆT NAM

Hoàng Công Dụng

QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI XUẤT BẢN PHẨM
ÂM NHẠC DÀNH CHO CẤP HỌC MẦM NON

Chuyên ngành: Quản lý văn hóa
Mã số: 9319042

LUẬN ÁN TIẾN SĨ QUẢN LÝ VĂN HÓA



NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. Đỗ Thị Quyên
PGS.TS. Nguyễn Đăng Nghị

Hà Nội - 2019


i

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan bản luận án tiến sĩ Quản lý nhà nước đối với xuất bản
phẩm âm nhạc dành cho cấp học mầm non là do tôi viết và chưa công bố.
Tôi xin chịu trách nhiệm về lời cam đoan này.
Hà Nội, ngày

tháng

năm 2019

Tác giả

Hoàng Công Dụng


ii

MỤC LỤC
NỘI DUNG
TRANG

MỞ ĐẦU ……………………………………………………..…….…………………
1
Chương 1: Tổng quan và cơ sở lý luận về quản lý nhà nước đối với xuất
9
bản phẩm âm nhạc dành cho cấp học mầm non ...................................
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu ………………………................................... 9
1.2. Cơ sở lý luận về quản lý và mô hình quản lý …………........……………… 18
1.3. Nội dung quản lý nhà nước đối với xuất bản phẩm âm nhạc dành cho
cấp học mầm non………….………………………………….............…......………… 36
1.4. Đặc điểm và vai trò của quản lý nhà nước đối với xuất bản phẩm âm
nhạc dành cho cấp học mầm non………….…………………………......………… 43
Tiểu kết ………………………………....……………………………….…………....... 50
Chương 2: Âm nhạc đối với giáo dục mầm non và thực tiễn sử dụng
xuất bản phẩm âm nhạc dành cho cấp học mầm non …………...………… 52
2.1. Âm nhạc đối với giáo dục mầm non …………........................……..……….. 52
2.2. Thực trạng sử dụng xuất bản phẩm âm nhạc dành cho cấp học mầm non 64
Tiểu kết …………………....…………………………………………….…………....... 80
Chương 3: Thực trạng quản lý nhà nước đối với xuất bản phẩm âm
nhạc dành cho cấp học mầm non giai đoạn 2014 - 2017 ............................... 82
3.1. Khái quát thực trạng ………………………......................................................... 82
3.2. Một số nhận xét, đánh giá …..……………………………………………….… 112
Tiểu kết ……………....………………………………………………….…………....... 121
Chương 4: Giải pháp nâng cao chất lượng quản lý nhà nước đối với
xuất bản phẩm âm nhạc dành cho cấp học mầm non ……………………... 123
4.1. Các yếu tố tác động đến quản lý nhà nước đối với xuất bản phẩm âm
nhạc dành cho cấp học mầm non ……………………...……………….………….. 123
4.2. Đề xuất mô hình quản lý nhà nước đối với xuất bản phẩm âm nhạc dành
cho cấp học mầm non ……………………...…………….…………................
134
4.3. Giải pháp nâng cao chất lượng quản lý nhà nước đối với xuất bản phẩm

âm nhạc dành cho cấp học mầm non ……..…………………….………....
141
Tiểu kết …………………....…………………...……………….…………................... 148
KẾT LUẬN …………………………………………………….….………………… 150
DANH MỤC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU ĐÃ CÔNG BỐ.…………….. 154
TÀI LIỆU THAM KHẢO ……………………………………….………………… 155
PHỤ LỤC …………………………………………………….………………… 167


iii

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

CNTT

Công nghệ thông tin

GDĐT

Giáo dục và đào tạo

GDMN

Giáo dục mầm non

GS

Giáo sư

NCS


Nghiên cứu sinh

Nxb

Nhà xuất bản

PGS

Phó giáo sư

QLNN

Quản lý nhà nước

tr

trang

TS

Tiến sĩ

TTTT

Thông tin và truyền thông

UNESCO

United Nations Educational Scientific and Cultural

Organization (Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của
Liên hiệp quốc)

VHTTDL

Văn hóa, thể thao và du lịch

XBP

Xuất bản phẩm

XBPAN

Xuất bản phẩm âm nhạc


iv

DANH MỤC SƠ ĐỒ, BẢNG, BIỂU
Sơ đồ 1.1: Mô hình quản lý từ trên xuống .......................................................... 22
Sơ đồ 1.2: Mô hình quản lý từ dưới lên ..............................................................

23

Sơ đồ 1.3: Mô hình quản lý trực tuyến ................................................................ 24
Sơ đồ 1.4: Mô hình quản lý theo chức năng ......................................................

25

Sơ đồ 1.5: Mô hình quản lý phân cấp .................................................................. 27

Sơ đồ 2.1: Hoạt động âm nhạc với sự phát triển của trẻ mầm non ..............

60

Sơ đồ 3.1: Thực tiễn mô hình quản lý hoạt động xuất bản XBPAN ………. 107
Sơ đồ 4.1: Mô hình quản lý tương tác đa chiều ................................................ 138
Bảng 2.1: Thống kê thực trạng ứng dụng CNTT trong các cơ sở GDMN

70

Bảng 2.2: Thống kê đội ngũ giáo viên sư phạm âm nhạc cấp học mầm non 73
Bảng 2.3: Tỷ lệ các loại hình XBP âm nhạc của các cơ sở GDMN …......... 74
Bảng 2.4: Hình thức XBP âm nhạc được sử dụng trong cơ sở GDMN …. 75
Bảng 2.5: Nội dung của XBP âm nhạc được sử dụng trong cơ sở GDMN

75

Bảng 2.6: Mức độ đáp ứng thực hiện Chương trình giáo dục mầm non của
XBP âm nhạc được sử dụng trong cơ sở GDMN ……………………………. 77
Bảng 2.7: Tần suất khai thác sử dụng XBP điện tử về âm nhạc …………

77

Bảng 2.8: Phương thức trang bị XBP âm nhạc tại các cơ sở GDMN …..

79

Bảng 2.9: Trang thiết bị, học liệu hỗ trợ tổ chức hoạt động âm nhạc …..

79


Bảng 3.1: Số lượng đăng ký và lưu chiểu XBP từ năm 2014 - 2017 .......... 97
Bảng 3.2: Số lượng phát hành cả nước từ năm 2014 - 2017 .......................... 100
Bảng 3.3: Tổng hợp số lượng XBP phát hành từ 2014 - 2017 ...................... 101
Bảng 3.4: Tổng hợp thực trạng trường mầm non có thư viện và quan điểm
về sự cần thiết có thư viện trong trường mầm non ………….…........…
103
Bảng 3.5: Số XBPAN được sử dụng trong các cơ sở GDMN của các Nxb 104
Bảng 3.6: Tổng hợp đề tài xuất bản phục vụ trẻ em có tác phẩm âm nhạc 106
Bảng 3.7: Thanh tra, kiểm tra hoạt động xuất bản từ năm 2014 - 2017 ...... 109
Biểu đồ 3.1: Chi tiêu của Chính phủ và hộ gia đình trên đầu học sinh các
cấp giai đoạn 2009-2013 …………………………………………………………. 89


1

MỞ ĐẦU
1. Lý do lựa chọn đề tài
Xuất bản phẩm âm nhạc dành cho cấp học mầm non là sản phẩm văn hóa
đặc trưng, phục vụ cho đối tượng trẻ ở độ tuổi từ 3 tháng tuổi đến 6 tuổi. Quá
trình hình thành và phát triển của loại hình xuất bản phẩm này diễn ra khoảng
gần một thế kỷ cùng với lịch sử hình thành và phát triển của cấp học.
Trong những năm qua, hoạt động xuất bản của nước ta đã có những bước
phát triển và thu nhận được những kết quả đáng kể, đó là sự tăng trưởng hàng
năm kể cả về chất lượng và số lượng xuất bản phẩm, đáp ứng yêu cầu phục vụ
nhiệm vụ chính trị của các ngành và địa phương, góp phần khẳng định vị trí
quan trọng của hoạt động của xuất bản trong đời sống xã hội nói chung, trong
lĩnh vực giáo dục nói riêng. Công tác chỉ đạo, quản lý xuất bản có tiến bộ, chú
trọng đảm bảo định hướng chính trị, tư tưởng và hiệu quả kinh tế của hoạt động
xuất bản, phát hiện xử lý và khắc phục những lệch lạc, sai phạm. Ngành xuất

bản nhìn chung giữ được sự ổn định và từng bước chấn chỉnh, kiện toàn hoạt
động, đáp ứng những điều kiện mới theo quy định.
Đối với cấp học mầm non, một trong những nhân tố được coi là công cụ
quan trọng phục vụ việc đổi mới, phương pháp, hình thức giáo dục cấp học
mầm non là học liệu, thiết bị dạy học như sách vở, tài liệu, băng, đĩa, tranh ảnh.
Các xuất bản phẩm được người dạy và người học khai thác sử dụng để hỗ trợ
cho việc học tập, nghiên cứu vấn đề được mở rộng và sâu hơn, đặc biệt đối với
việc giáo dục âm nhạc trong các cơ sở giáo dục mầm non. Chính vì vậy, nhu
cầu sử dụng đồ dùng, trang thiết bị, sách vở, tài liệu băng đĩa hỗ trợ cho việc tổ
chức các hoạt động âm nhạc được chú trọng và nâng cao. Để phục vụ cho nhu
cầu đó, các xuất bản phẩm âm nhạc và tài liệu liên quan được biên soạn, phát
hành dưới nhiều hình thức và nội dung đa dạng, phong phú với nhiều thành
phần tham gia. Việc xuất bản ồ ạt các xuất bản phẩm tung ra thị trường như vậy
sẽ không tránh khỏi sự lạm dụng, chồng chéo; một số xuất bản phẩm kém chất


2

lượng, nội dung không đúng về đường lối chính trị, tư tưởng, gây ảnh hưởng
không tốt đến đời sống xã hội và hoạt động giáo dục trong nhà trường. Khuynh
hướng thương mại hóa, chạy theo lợi nhuận kinh tế thuần túy tác động không
nhỏ đến hoạt động xuất bản. Nạn in lậu, nhập lậu băng, đĩa, xuất bản phẩm, vi
phạm bản quyền đối với các tác phẩm âm nhạc diễn ra tương đối phổ biến.
Mạng lưới phát hành chưa đến được nông thôn, vùng sâu, vùng xa và các vùng
đặc biệt khó khăn khác. Khoa học công nghệ phát triển liên tục đã tác động
mạnh mẽ đến phương thức hoạt động xuất bản, đến phương pháp, hình thức
giáo dục. Cơ cấu kinh tế xã hội có những thay đổi đáng kể làm cho cơ chế quản
lý, cơ chế đầu tư cho xuất bản phẩm cũng thay đổi theo.
Bên cạnh những mặt đạt được trong quản lý nhà nước đối với xuất bản
phẩm âm nhạc còn tồn tại không ít những khó khăn, thách thức và hạn chế: văn

bản quy phạm pháp luật đôi lúc chưa ban hành kịp thời, có văn bản chưa thể
hiện những nội dung phù hợp với tình hình thực tiễn; đội ngũ làm công tác quản
lý, điều hành còn thiếu và chưa đáp ứng được yêu cầu công việc; chưa thực sự
thiết lập được một mô hình quản lý hiệu quả, phương thức quản lý hiện nay cho
thấy sự chồng chéo, tồn tại những lỗ hổng trong quản lý; cơ chế phối hợp giữa
các cơ quan chức năng thực sự chưa hiệu quả v.v. Những vấn đề này tạo nên
nhiều bức xúc, khó giải quyết, đặc biệt mỗi khi có sự vụ vi phạm xảy ra.
Hệ thống hóa những nghiên cứu đi trước cho thấy, các vấn đề lý luận và
thực tiễn QLNN đối với XBPAN dành cho cấp học mầm non hiện nay hầu như
chưa được xem xét một cách cụ thể và chưa là đối tượng nghiên cứu của bất kỳ
tác giả nào. Qua tìm hiểu, phân tích và nhìn nhận các nghiên cứu mang tính phổ
quát, liên quan tới quản lý nhà nước đối với XBPAN dành cho cấp học mầm
non, NCS nhận thấy cần phải có một hướng nghiên cứu để giải quyết một số
vấn đề như sau:
- Sự đồng bộ, tính phổ quát, tính thực tiễn và tính khả thi của hệ thống
văn bản quy phạm pháp luật;


3

- Vấn đề phối hợp giữa các bộ ngành, cơ quan quản lý các cấp đối với
nhiệm vụ quản lý hoạt động xuất bản XBPAN dành cho cấp học mầm non;
- Những ưu điểm, hạn chế của mô hình/quy trình quản lý hiện nay;
- Các biện pháp phòng chống các hành vi vi phạm quy định cũng như
chế tài xử phạt và phương thức, phương pháp thanh tra, kiểm tra xử lý vi phạm
của các tổ chức, cá nhân tham gia quá trình xuất bản, in và phát hành XBPAN
dành cho cấp học mầm non;
- Chất lượng XBPAN sử dụng trong các cơ sở GDMN.
Những vấn đề trên cần phải được tìm hiểu, nghiên cứu dựa trên cơ sở lý
luận và thực tiễn, từ đó đưa ra mô hình phù hợp, những giải pháp khả thi nhằm

phát huy những điểm mạnh, khắc phục những điểm hạn chế, nâng cao chất
lượng quản lý nhà nước đối với xuất bản phẩm âm nhạc sử dụng trong ngành
giáo dục, đặc biệt là cấp học mầm non.
Nhận thức được các vấn đề nêu trên, trong khuôn khổ của luận án, NCS
lựa chọn đề tài Quản lý nhà nước đối với xuất bản phẩm âm nhạc dành cho
cấp học mầm non làm luận án tiến sĩ với mong muốn đóng góp một phần nhỏ
bé của mình vào việc nâng cao chất lượng quản lý nhà nước đối với sản phẩm
văn hóa - giáo dục này.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích
Luận án tập trung nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn để đưa ra khái
niệm QLNN đối với XBPAN dành cho cấp học mầm non; thông qua khảo sát,
nghiên cứu đánh giá thực trạng để tìm ra mô hình, giải pháp nâng cao hiệu quả
QLNN đối với XBPAN dành cho cấp học mầm non.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn về QLNN đối với XBPAN dành
cho cấp học mầm non, cụ thể:
Tìm hiểu, nghiên cứu hệ thống văn bản quy phạm pháp luật liên quan
đến lĩnh vực QLNN về văn hóa, giáo dục;


4

Hệ thống hóa cơ sở lý luận về quan điểm, khái niệm và lý thuyết liên
quan đến QLNN đối với XBPAN dành cho cấp học mầm non; đưa ra một khái
niệm về QLNN đối với XBPAN dành cho cấp học mầm non.
Khảo sát, đánh giá thực trạng QLNN đối với XBPAN dành cho cấp học
mầm non ở Trung ương và một số địa phương.
- Xây dựng mô hình quản lý, đề xuất một số giải pháp nâng cao hiệu quả
QLNN đối với XBPAN dành cho cấp học mầm non, cụ thể:

Trên cơ sở lý luận và thực tiễn, xây dựng một mô hình quản lý phù hợp
với tính chất, đặc thù của XBPAN dành cho cấp học mầm non;
Từ các cơ sở lý luận và thực tiễn, đề xuất hệ thống giải pháp nâng cao
chất lượng QLNN đối với XBPAN dành cho cấp học mầm non.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận án nghiên cứu các vấn đề về QLNN đối với XBPAN dành cho cấp
học mầm non.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về thời gian: NCS khảo sát, tìm hiểu thực trạng vấn đề nghiên cứu
trong khoảng thời gian từ năm 2014 đến năm 2017; rà soát văn bản quy phạm
pháp luật trong khoảng từ năm 2005 đến nay (Những tài liệu có nội dung liên
quan được NCS tham khảo chủ yếu là vào khoảng thời gian sau năm 2000 và
một số rất ít trước năm 2000).
- Về không gian: NCS tìm hiểu, nghiên cứu những vấn đề liên quan đến
đề tài tại Bộ GDĐT, Bộ TTTT (Cục Xuất bản, In và Phát hành), một số Nxb
như Nxb Giáo dục Việt Nam, Nxb Kim Đồng, Nxb Âm nhạc (nay là Công ty
TNHH một thành viên Nxb Âm nhạc) và khảo sát một số cán bộ quản lý giáo
dục, giáo viên, cha mẹ trẻ thuộc 9 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương: Đà
Nẵng, Đồng Nai, Đồng Tháp, Gia Lai, Hà Nội, Hà Tĩnh, Hòa Bình, Thái Bình


5

và thành phố Hồ Chí Minh (là những tỉnh, thành phố đại diện 9 tỉnh, thành phố
thuộc 9 cụm thi đua theo Công văn số 4171/BGDĐT-TĐKT ngày 25/8/2016
của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo về việc Tổ chức lại cụm thi đua khối
các sở giáo dục và đào tạo).
- Về nội dung: NCS nghiên cứu các vấn đề lý thuyết và hệ thống văn bản
quy phạm pháp luật liên quan đến nội dung QLNN đối với hoạt động xuất bản

XBPAN dành cho cấp học mầm non, mô hình/quy trình QLNN đối với hoạt
động xuất bản XBPAN dành cho cấp học mầm non; khảo sát, tìm hiểu thực
trạng quản lý quá trình xuất bản, in, phát hành và sử dụng XBPAN dành cho
cấp học mầm non.
4. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp tổng hợp và phân tích tài liệu: Hệ thống các văn bản quy
phạm pháp luật liên quan đến lĩnh vực quản lý nhà nước về văn hóa, giáo dục
nói chung, về hoạt động xuất bản, xuất bản phẩm âm nhạc và cấp học mầm
non; tìm hiểu, khái quát các nghiên cứu đi trước liên quan đến các vấn đề về
quản lý nhà nước đối với XBPAN dành cho cấp học mầm non; thu thập các báo
cáo, đánh giá, khảo sát thống kê các nội dung liên quan đến hoạt động quản lý
nhà nước về XBPAN dành cho cấp học mầm non từ Bộ Thông tin và Truyền
thông, Bộ Giáo dục và Đào tạo, các đơn vị liên quan.
Phương pháp mô hình hóa: nghiên cứu, tổng hợp và phân tích các mô
hình quản lý; tái hiện, xây dựng mô hình quản lý XBPAN dành cho cấp học
mầm non theo cơ cấu, chức năng của các chủ thể và khách thể quản lý.
Phương pháp quan sát tham dự: Lập kế hoạch điền dã, nghiên cứu thực
tiễn về hoạt động xuất bản của các đơn vị như đã nêu tại mục 3.2. “Phạm vi
nghiên cứu” của phần Mở đầu.
Phương pháp phỏng vấn: Dự kiến nội dung, lập kế hoạch làm việc,
phỏng vấn một số nhà quản lý, biên tập viên của một số cơ quan là chủ thể quản


6

lý và đối tượng quản lý hoạt động xuất bản. Tiến hành phỏng vấn lãnh đạo Nxb
Giáo dục Việt Nam, lãnh đạo và nhân viên Công ty cổ phần Mỹ thuật và Truyền
thông (Nxb Giáo dục Việt Nam), lãnh đạo và nhân viên Nxb Âm nhạc (nay là
Công ty TNHH một thành viên Nxb Âm nhạc), kết hợp điều tra bằng phiếu hỏi
và phỏng vấn một số nhà quản lý giáo dục, nhà nghiên cứu, giáo viên mầm non

và cha mẹ trẻ (phỏng vấn tổng cộng khoảng 30 người trong thời gian từ năm
2016 đến năm 2018).
Phương pháp điều tra: Xây dựng bộ phiếu hỏi gồm 3 phiếu: 1. Phiếu
dành cho cán bộ quản lý cơ sở GDMN, tập trung vào các nội dung về quan
điểm về XBPAN dành cho cấp học mầm non, quản lý việc mua sắm, sử dụng
và bảo quản XBPAN, lấy ý kiến đề xuất, kiến nghị về việc quản lý nhà nước
đối với XBPAN dành cho cấp học mầm non. 2. Phiếu dành cho giáo viên mầm
non gồm có các nội dung chủ yếu về chủng loại, số lượng, nội dung, hình thức,
bảo quản và sử dụng XBPAN tại trường, quan điểm đổi mới nội dung, hình
thức XBPAN dành cho cấp học mầm non, đề xuất, kiến nghị của giáo viên đối
với việc nâng cao chất lượng XBPAN. 3. Phiếu dành cho cha mẹ trẻ hỏi về sự
hiểu biết, sự tham gia của cha mẹ trẻ đối với hoạt động âm nhạc của trẻ, mong
muốn, đề xuất của họ để con họ được sử dụng XBPAN và tham gia hoạt động
âm nhạc được tốt hơn. Bộ phiếu hỏi được NCS thực hiện với sự hỗ trợ của
phòng GDMN, sở GDĐT của 9 tỉnh, thành phố nêu trên với 164 trường mầm
non công lập và sự tham gia trả lời của 190 cán bộ quản lý GDMN, 190 giáo
viên, 183 cha mẹ trẻ. Tỷ lệ phản hồi của người trả lời đối với cả bộ phiếu là
100%, tỷ lệ phản hồi đối với từng câu hỏi thấp nhất là 186/190 CBQL (97,9%),
181/190 giáo viên (95,3%), 182/183 cha mẹ trẻ (99,5%). Bộ phiếu hỏi được
xây dựng và xin ý kiến hoàn thiện từ tháng 9/2016 đến tháng 03/2017; gửi xin
ý kiến và thu thập từ tháng 3/2017 đến tháng 10/2017; xử lý kỹ thuật trên phần
mềm thống kê SPSS 20 (Statistical Product and Services Solutions).


7

5. Câu hỏi và giả thuyết nghiên cứu
5.1. Câu hỏi nghiên cứu
Từ những vấn đề nêu trên, NCS tập trung nghiên cứu để trả lời các câu
hỏi đặt ra như sau:

- Thực trạng quản lý nhà nước đối với XBPAN dành cho cấp học mầm
non ở Việt Nam hiện nay như thế nào?
- Mô hình/quy trình QLNN đối với XBPAN dành cho cấp học mầm non
hiện nay đã phù hợp chưa?
- Những vấn đề gì đặt ra và cần phải làm gì để nâng cao hiệu quả QLNN
đối với XBPAN dành cho cấp học mầm non trong thời gian tới?
5.2. Giả thuyết nghiên cứu
Giả thuyết nghiên cứu đặt ra đối với luận án là: Hoạt động QLNN hiện
nay đối với XBPAN dành cho cấp học mầm non chưa thực sự hiệu quả là do
mô hình quản lý chưa phù hợp, giải pháp quản lý chưa sát thực tiễn.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
Về mặt khoa học, luận án hệ thống hóa cơ sở lý luận và thực tiễn quản
lý nhà nước đối với XBPAN dành cho cấp học mầm non, từ đó đưa ra nhận
định, đánh giá những vấn đề tương đồng và khác biệt giữa việc quản lý XBPAN
dành cho cấp học mầm non với các loại hình XBP khác; phân tích vai trò của
từng chủ thể quản lý cũng như vấn đề phối hợp giữa các cơ quan quản lý nhà
nước đối với XBPAN dành cho cấp học mầm non; hệ thống hóa mô hình quản
lý để từ đó so sánh, đối chiếu, nhận xét trong quá trình triển khai đánh giá thực
trạng QLNN đối với XBPAN dành cho cấp học mầm non.
Về mặt thực tiễn, NCS cố gắng tìm hiểu, xây dựng bức tranh về hiện
trạng quá trình quản lý nhà nước đối với XBPAN dành cho cấp học mầm non,
từ khâu xuất bản, phát hành đến sử dụng loại hình XBP này; nhấn mạnh vai trò
của XBPAN đối với việc giáo dục thẩm mỹ cho trẻ, làm cơ sở để đề xuất mô


8

hình quản lý phù hợp với điều kiện hiện nay, đồng thời đưa ra những giải pháp,
biện pháp cụ thể nhằm phục vụ cho việc quản lý XBPAN dành cho cấp học
mầm non một cách hiệu quả, khoa học hơn.

7. Bố cục của luận án
Ngoài phần Mở đầu (8 trang), Kết luận (4 trang), Tài liệu tham khảo (12
trang) và Phụ lục (76 trang), nội dung luận án gồm 4 chương:
Chương 1: Tổng quan và cơ sở lý luận về quản lý nhà nước đối với xuất
bản phẩm âm nhạc dành cho cấp học mầm non (43 trang);
Chương 2: Âm nhạc đối với giáo dục mầm non và thực tiễn sử dụng xuất
bản phẩm âm nhạc dành cho cấp học mầm non (30 trang);
Chương 3: Thực trạng quản lý nhà nước đối với xuất bản phẩm âm nhạc
dành cho cấp học mầm non (41 trang);
Chương 4: Giải pháp nâng cao chất lượng quản lý nhà nước đối với xuất
bản phẩm âm nhạc dành cho cấp học mầm non (27 trang).


9

Chương 1
TỔNG QUAN VÀ CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ
QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI XUẤT BẢN PHẨM ÂM NHẠC
DÀNH CHO CẤP HỌC MẦM NON
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu
Hoạt động quản lý đã có từ xa xưa khi con người biết lao động theo từng
nhóm đòi hỏi có sự tổ chức, điều khiển và phối hợp hành động. Hoạt động quản
lý bắt đầu từ kinh nghiệm, sau đó phát triển ở mức cao hơn và phức tạp hơn.
Ở Trung Hoa thời cổ đại, tư tưởng đức trị của Khổng Tử đã chi phối hoạt
động quản lý, chủ yếu đối với việc quản lý xã hội, đất nước. Tư tưởng này áp
dụng trong việc quản lý do nền kinh tế thời đó chỉ là tiểu nông, thủ công nghiệp
và buôn bán nhỏ. Đến thời Chiến quốc (280 - 233 trước Công nguyên), kinh tế
khá phát triển song lại kém ổn định về chính trị - xã hội, Hàn Phi Tử đã chủ
xướng tư tưởng pháp trị, coi trọng pháp chế nghiêm khắc và đề cao thuật dùng
người. Các thuyết quản lý sau này kết hợp cả hai tư tưởng triết học đó để ngày

càng coi trọng hơn nhân tố văn hóa trong quản lý.
Với sự phát triển thương mại (thế kỷ XVI) và cách mạng công nghiệp ở
châu Âu (thế kỷ XVIII), hoạt động quản lý được tách ra thành một chức năng
riêng như một nghề chuyên nghiệp từ sự phân công lao động xã hội. Lý thuyết
quản lý từng bước tách ra khỏi triết học để trở thành một khoa học độc lập
- khoa học quản lý.
PGS.TS. Nguyễn Tri Nguyên xác định khái niệm về quản lý văn hóa:
“Quản lý văn hóa với tư cách là quản lý về nghệ thuật và văn hóa xác định tính
cách hoạt động được định hướng về kinh tế, về kế hoạch, về tính công khai,
hoạt động liên quan tới nội dung nghệ thuật và mục tiêu văn hóa, được tập trung
nhằm vào sự kiến tạo hiện tại và tương lai” [60, tr.81].
Cho đến nay đã có một số tài liệu, công trình nghiên cứu về quản lý hoạt
động xuất bản như tài liệu bồi dưỡng chức danh biên tập viên, phóng viên năm


10

2013 về Đường lối chính sách của Đảng và pháp luật Nhà nước về báo chí,
xuất bản của trường Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ quản lý thông tin và truyền
thông [99]. Chuyên đề 1 “Đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước hiện
nay về báo chí, xuất bản” xác định quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh về báo chí, xuất bản; đường lối, chính sách của Đảng, Nhà
nước về xuất bản, trong đó xác định ba chức năng chủ yếu của báo chí, xuất
bản là chức năng thông tin, chức năng giáo dục và chức năng chỉ đạo. Chuyên
đề 2 “Công tác QLNN về xuất bản hiện nay” đã nêu các khái niệm, quan điểm
chủ nghĩa Mác - Lê Nin, tư tưởng Hồ Chí Minh về QLNN về xuất bản cũng
như tình hình công tác QLNN về xuất bản từ Trung ương đến địa phương; tóm
tắt một số thực trạng quản lý hoạt động xuất bản thời điểm năm 2013 và những
năm trước đó, đánh giá khái quát những điểm tiến bộ trong công tác quản lý,
chỉ đạo xuất bản, chỉ ra một số điểm hạn chế, yếu kém và những nguyên nhân

của hạn chế, yếu kém mà nguyên nhân chủ yếu là do công tác lãnh đạo của các
cấp ủy đảng, công tác QLNN về xuất bản và sự lãnh đạo của các nhà xuất bản
còn nhiều hạn chế. Một nguyên nhân nữa là do việc ban hành chính sách, chế
độ, quy định phù hợp với thực tiễn còn chậm.
Các vấn đề về QLNN đối với văn hóa, giáo dục được nêu và phân tích ở
một số tài liệu như Quản lý nhà nước đối với ngành, lĩnh vực [37] của Học viện
Hành chính. Thứ nhất, về văn hóa: Đối tượng QLNN về văn hóa được xác định
phải giới hạn văn hóa ở một phạm vi hẹp và vào những hoạt động cụ thể của
văn hóa. Tài liệu cũng nêu các yêu cầu và nội dung QLNN về văn hóa, cấu trúc,
mô hình tổ chức bộ máy quản lý văn hóa. Thứ hai, về giáo dục: các quan điểm
phương hướng, chính sách và mục tiêu của nhà nước về giáo dục và đào tạo đã
được đưa ra một cách hệ thống và rõ ràng. Như vậy, tài liệu này đã hệ thống
hóa và xác định quan điểm, chủ trương và định hướng của nhà nước về quản lý
văn hóa và giáo dục nói chung. Các nội dung, luận điểm của tài liệu mang tính
vĩ mô, tổng quát về toàn ngành mà không cho một đối tượng quản lý cụ thể.


11

Chuyên đề thứ 12 “Công tác quản lý ngành văn hóa thông tin trong giai
đoạn hiện nay, mấy suy nghĩ” trong cuốn Văn hóa Việt Nam mấy vấn đề lý luận
và thực tiễn của GS.TS. Nguyễn Chí Bền [5] khái quát nghiên cứu của một số
tác giả về quản lý ngành văn hóa thông tin của Việt Nam và Trung Quốc; phân
tích nội dung quản lý, chủ thể quản lý, đối tượng quản lý và các sản phẩm của
ngành văn hóa thông tin; phân tích mô hình và những điểm mạnh, điểm yếu của
công cụ quản lý, cơ cấu tổ chức quản lý, đội ngũ cán bộ quản lý, từ đó đề ra
những giải pháp đổi mới cơ chế quản lý ngành văn hóa thông tin của Việt Nam.
Cuốn Quản lý văn hóa Việt Nam trong tiến trình đổi mới và hội nhập
quốc tế của TSKH. Phan Hồng Giang và TS. Bùi Hoài Sơn (đồng chủ biên)
[31] phân tích khái niệm về văn hóa, quản lý và quản lý văn hóa và mối quan

hệ giữa quản lý văn hóa và một số lĩnh vực chủ yếu như quản lý văn hóa và
chính trị, quản lý văn hóa và pháp luật, quản lý văn hóa và kinh tế, quản lý văn
hóa và thông tin - truyền thông, quản lý văn hóa và thể thao, quản lý văn hóa
và du lịch, hay quản lý văn hóa và gia đình; giới thiệu kinh nghiệm quản lý văn
hóa của một số quốc gia trên thế giới như Anh, Trung Quốc, Mỹ, Hàn Quốc,
Thái Lan, Ôxtrâylia để từ đó rút ra những bài học kinh nghiệm cho Việt Nam;
đánh giá thực trạng quản lý văn hóa ở Việt Nam từ khi bắt đầu tiến trình đổi
mới (1986) đến nay (2012); đề xuất những quan điểm, giải pháp và khuyến nghị
nhằm nâng cao năng lực và hiệu quả quản lý văn hóa trong tiến trình đổi mới
và hội nhập quốc tế trong đó có một nhóm giải pháp cho lĩnh vực quản lý hoạt
động xuất bản - phát hành - in ấn. Như vậy, cuốn sách đã trình bày những lý
luận cơ bản về quản lý văn hóa, áp dụng vào thực tiễn quản lý văn hóa Việt
Nam trong tiến trình đổi mới và hội nhập quốc tế hiện nay.
Luận án tiến sĩ Khoa học kinh tế năm 1996: Xuất bản và phát hành sách
giáo khoa trong nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước của tác giả
Trương Bích Châu [17] đi sâu vào nghiên cứu thực trạng xuất bản, phát hành
sách giáo khoa nói chung song không tập trung nghiên cứu về quản lý hoạt


12

động xuất bản, phát hành sách giáo khoa. Thời gian nghiên cứu của tác giả cách
đây khá lâu (tại thời điểm từ 1995 về trước).
Luận văn thạc sĩ Khoa học kinh tế năm 1999 của tác giả Mạc Văn Thiện
nghiên cứu Giải pháp chủ yếu đổi mới quản lý xuất bản và phát hành sách giáo
khoa ở nước ta hiện nay [94]. Nội dung của luận văn nghiên cứu về vấn đề quản
lý xuất bản và phát hành sách giáo khoa và đề xuất giải pháp góp phần nâng
cao chất lượng quản lý xuất bản và phát hành sách giáo khoa ở nước ta.
Luận án tiến sĩ Văn hóa học năm 2008 của tác giả Đỗ Thị Quyên với đề
tài Quản lý thị trường sách ở Việt Nam từ 1993 đến nay [76] đã hệ thống hoá

về mặt lý luận thị trường sách và quản lý thị trường sách trong điều kiện hiện
nay; nghiên cứu và đánh giá thực trạng thị trường sách, công trình khẳng định
những thành công và hạn chế cơ bản của công tác quản lý thị trường sách hiện
nay ở Việt Nam; đưa ra những luận cứ khoa học về xu hướng phát triển của thị
trường sách trong những năm tới và đề xuất những giải pháp có tính khả thi
nhằm nâng cao hiệu quả quản lý thị trường sách ở Việt Nam trong quá trình hội
nhập kinh tế quốc tế.
Tác giả đã tổng hợp, phân tích cơ sở lý luận về quản lý thị trường sách
từ một số học thuyết, quan điểm, khái niệm trên thế giới qua các thời kỳ, từ đó,
tác giả đưa ra khái niệm quản lý thị trường sách như sau:
Quản lý thị trường sách là sự tác động liên tục, có tổ chức, có hướng
đích của chủ thể quản lý lên đối tượng và khách thể quản lý thông
qua hệ thống công cụ và phương pháp để sử dụng có hiệu quả các
tiềm năng, các cơ hội của hệ thống trong môi trường nhằm đạt được
các mục tiêu trước mắt và lâu dài [76, tr.23].
Tác giả đã khái quát tình hình quản lý thị trường sách ở Việt Nam trước
1993, đi sâu tìm hiểu thực trạng quản lý thị trường sách giai đoạn 1993 - 2006.
Tác giả hệ thống hóa mô hình quản lý thị trường sách từ cấp Trung ương đến
địa phương. Chính vì có nhiều cấp, nhiều ngành tham gia quản lý dẫn tới trong


13

quá trình quản lý, có lúc, có nơi còn nhiều bất cập, chưa thật hiệu quả, quản lý
còn chồng chéo giữa cơ quan QLNN và cơ quan chủ quản. Từ thực trạng nêu
trên, tác giả đánh giá những ưu điểm, hạn chế của việc QLNN đối với thị trường
sách. Đặc biệt, trong 6 điểm hạn chế, đáng lưu ý là hạn chế về hệ thống văn bản
quy phạm pháp luật và vấn đề thanh tra, kiểm tra.
Luận án tiến sĩ Văn hóa học năm 2011 của tác giả Lê Thị Phương Nga
Nghiên cứu hoạt động quản lý xuất bản sách giáo khoa ở Việt Nam từ năm

1993 đến nay [57] đi sâu nghiên cứu thực trạng quản lý xuất bản sách giáo khoa
giai đoạn từ năm 1993 đến năm 2007 và đưa ra một số giải pháp hoàn thiện
quản lý xuất bản sách giáo khoa ở Việt Nam. Qua tổng hợp, phân tích và nghiên
cứu cơ sở lý thuyết, tác giả đã định nghĩa về quản lý sách giáo khoa. Tác giả đã
đưa ra hệ thống giải pháp nhằm giải quyết một số vấn đề nổi cộm như: giải
pháp chống độc quyền xuất bản sách giáo khoa; xiết chặt thanh tra, kiểm tra và
tăng mức xử phạt hành chính; chuẩn hóa chất lượng sách giáo khoa; cải tiến
cách thức tổ chức xuất bản, in và phát hành sách giáo khoa.
Luận án tiến sĩ Kinh tế Quản lý nhà nước đối với hoạt động xuất bản ở
Việt Nam năm 2015 [101], tác giả Nguyễn Anh Tú đã trình bày khái niệm và
đặc điểm hoạt động xuất bản; phân tích các loại hình XBP theo các khái niệm
quy chiếu từ Luật Xuất bản 2004, Luật Xuất bản 2012, “điều 1 Nghị định của
Chính phủ năm 2005” [101, tr.26] và giáo trình lý luận nghiệp vụ xuất bản của
Trung Quốc. Trong đó, XBPAN được nhắc đến như một loại hình không mấy
chính thống, “bổ sung” bởi cụm từ “Ngoài ra” trong câu “Ngoài ra xuất bản
phẩm còn bao gồm các hình thức xuất bản phẩm khác như: băng, đĩa nhạc,
hình (cả băng ghi âm, đĩa hát, đĩa lade, băng ghi hình, đĩa VCD và DVD)” [101,
tr.26] . Từ các căn cứ cơ sở lý luận, tác giả đã phân tích và đưa ra khái niệm về
QLNN đối với XBP. Các lập luận, nghiên cứu của tác giả tập trung chủ yếu vào
khía cạnh quản lý kinh tế - quản lý sản xuất kinh doanh trong QLNN đối với
hoạt động xuất bản mà chủ thể quản lý bao gồm cả các cơ quan lập pháp, hành


14

pháp và tư pháp. Tác giả đã nêu 3 hạn chế cơ bản của việc quản lý đối với hoạt
động xuất bản, trong đó đáng chú ý là điểm yếu trong sự phối hợp trong công
tác quản lý giữa các cơ quan Đảng với Nhà nước và các tổ chức xã hội nghề
nghiệp, giữa các cơ quan cùng hệ thống. Tác giả đã chỉ ra 4 nguyên nhân chủ
quan, 3 nguyên nhân khách quan dẫn đến các hạn chế trong việc quản lý mà

một trong những nguyên nhân là do tác động mạnh mẽ của cuộc cách mạng
công nghệ thông tin gây ra.
Cuốn Giáo dục mầm non - Những vấn đề lý luận và thực tiễn của
PGS.TS. Nguyễn Ánh Tuyết [103] nghiên cứu một số vấn đề liên quan đến học
liệu, đồ dùng, đồ chơi trong chăm sóc, giáo dục trẻ. Phần V “Giáo dục thẩm
mỹ” tác giả phân tích sâu hơn về vai trò, mục đích, ý nghĩa của âm nhạc với trẻ
thơ cũng như quan điểm về giáo dục âm nhạc cho trẻ. Tác giả đã chỉ ra những
tác động tích cực của âm nhạc khi được nghe hát ru, học hát, làm quen với tiết
tấu, vận động theo nhạc và đặt vấn đề cho trẻ em ở những gia đình có điều kiện
học một số nhạc cụ. Qua phần trình bày tại phần V của cuốn sách, tác giả đã
đặt XBPAN trong vai trò là một thành phần để trẻ em có thể tiếp cận với âm
nhạc một cách thuận lợi nhất.
Cuốn sách 60 năm giáo dục mầm non Việt Nam do CN. Phạm Thị Sửu
chủ biên [83] tổng hợp khái quát quá trình hình thành và phát triển giáo dục
mầm non giai đoạn từ năm 1945 đến năm 2006. Cuốn sách đã hệ thống các
quan điểm, chính sách pháp luật của Đảng và Nhà nước, thực trạng QLNN đối
với lĩnh vực GDMN qua từng thời kỳ. XBPAN dành cho cấp học mầm non
được liệt kê trong cuốn sách từ những ngày đầu hình thành cấp học một cách
khá cụ thể, chi tiết.
Trong cuốn Tổ chức hoạt động âm nhạc cho trẻ mầm non theo hướng
tích hợp do TS. Lê Thu Hương chủ biên [41], các tác giả hướng dẫn giáo viên
sử dụng từng học liệu, đồ dùng, đồ chơi âm nhạc vào từng hoạt động cụ thể.
Tương tự, các cuốn sách Hướng dẫn tổ chức thực hiện Chương trình giáo dục


15

mầm non (từng cuốn cho từng độ tuổi: 3-36 tháng tuổi; 3-4 tuổi; 4-5 tuổi; 5-6
tuổi) của các tác giả TS. Trần Thị Ngọc Trâm - TS. Lê Thu Hương - PGS.TS.
Lê Thị Ánh Tuyết (Đồng Chủ biên) [97] cũng chỉ đề cập đến việc sử dụng từng

XBP đó vào các hoạt động cụ thể như thế nào.
Từ việc tìm hiểu nghiên cứu của các tác giả đi trước liên quan đến QLNN
đối với XBPAN dành cho cấp học mầm non, có thể thấy một số điểm chính
như sau:
Thứ nhất, các công trình nghiên cứu đã tìm hiểu, thống kê, hệ thống hóa
nhiều khái niệm về vấn để quản lý, một số tài liệu nghiên cứu lý thuyết,
phương thức quản lý của một số nước trên thế giới, để xây dựng các khái niệm
tùy theo từng lĩnh vực, nội dung và góc độ nghiên cứu khác nhau đối với việc
QLNN đối với XBP như: khái niệm về QLNN đối với thị trường sách, thị
trường xuất bản phẩm, sách giáo khoa, hoạt động xuất bản. Các khái niệm này
là một trong những kết quả quan trọng để nhận diện đối tượng nghiên cứu một
cách khoa học và bảo đảm mối quan hệ chặt chẽ giữa lý luận và thực tiễn
nghiên cứu. Một số tài liệu trình bày quan điểm lý thuyết về QLNN đối với
cấp học mầm non và đối với XBP sử dụng trong cơ sở GDMN, với việc học
âm nhạc của trẻ mầm non. Bên cạnh đó, hầu hết các công trình nghiên cứu
đều khẳng định XBP là một loại sản phẩm đặc biệt bởi nó chứa đựng cả giá
trị vật chất, giá trị sử dụng và giá trị tinh thần; XBP biểu hiện mối liên hệ kinh
tế - văn hóa - giáo dục. Chính vì vậy, đây là một trong những đối tượng quản
lý mang tính chất đặc thù, đa dạng và phức tạp. Các nghiên cứu này là một
phần quan trọng giúp NCS đánh giá vai trò của XBPAN dành cho cấp học
mầm non cũng như tìm hiểu phương pháp, cách thức quản lý phù hợp đối với
loại hình XBP đặc biệt này.
Thứ hai, các tác giả thường tìm hiểu, phân tích, đánh giá thực tiễn QLNN
đối với đối tượng quản lý theo một cấu trúc khá phổ biến: Quan điểm, định
hướng - Việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật - Tổ chức thực hiện - Thanh


16

tra, kiểm tra, đánh giá. Từ đó, đánh giá những mặt mạnh, những hạn chế và

nguyên nhân của hạn chế. Cấu trúc này khá chặt chẽ và khoa học mà từ đó có
thể rà soát một cách tổng thể nhất nhưng cũng lại rất cụ thể đối với từng lĩnh
vực nghiên cứu về toàn bộ hoạt động xuất bản hoặc về một vài khâu nào đó
trong chuỗi xuất bản. Từ tìm hiểu thực trạng QLNN đối với lĩnh vực nghiên
cứu, một số tác giả đã khái quát hóa thành các mô hình QLNN đối với đối tượng
quản lý thuộc phạm vi nghiên cứu. Các mô hình này sẽ phản ánh một phần nào
đó những điểm mạnh và lỗ hổng/điểm yếu trong cơ cấu tổ chức quản lý. Mỗi
số liệu, mỗi nhận định, đánh giá thực trạng QLNN đối với các đối tượng liên
quan đến hoạt động xuất bản là những kết quả tiền đề quý giá để có thể áp dụng
vào những nghiên cứu tiếp theo sâu hơn, chi tiết hơn cho một đối tượng quản
lý hẹp hơn về lĩnh vực xuất bản nhưng lại mở rộng phạm vi quản lý sang lĩnh
vực văn hóa, giáo dục, đó là XBPAN dành cho cấp học mầm non.
Thứ ba, mỗi nghiên cứu đều đưa ra một hệ thống giải pháp nâng cao chất
lượng QLNN đối với đối tượng nghiên cứu, cụ thể là nâng cao chất lượng quản
lý đối với thị trường sách, thị trường xuất bản phẩm, sách giáo khoa, hoạt động
xuất bản. Mỗi hệ thống giải pháp chứa đựng những nội dung vĩ mô (QLNN hầu
như xuất phát từ quan điểm, định hướng mang tính vĩ mô), thêm vào đó là
những giải pháp rất cụ thể, giải quyết những bất cập mà kết quả nghiên cứu đã
nêu ra. Đây là những đề xuất quan trọng giúp NCS có căn cứ để áp dụng vào
việc xây dựng một hệ thống giải pháp nhằm nâng cao chất lượng QLNN đối
với XBPAN dành cho cấp học mầm non.
Đối chiếu với việc QLNN đối với XBPAN dành cho cấp học mầm non,
NCS nhận thấy còn có một số điểm còn trống như sau:
Các nghiên cứu đã tập trung vào các vấn đề về QLNN đối với hoạt động
xuất bản dưới góc độ quản lý kinh tế, xã hội, quản lý đội ngũ tham gia vào hoạt
động xuất bản và quản lý một số loại hình XBP như sách, sách giáo khoa. Toàn
bộ các nghiên cứu trước đó đều chưa đề cập tới việc quản lý XBPAN như một


17


đối tượng quản lý độc lập. Ví dụ, Luận án tiến sĩ văn hóa học năm 2008 của tác
giả Đỗ Thị Quyên với đề tài Quản lý thị trường sách ở Việt Nam từ 1993 đến
nay [76]. Tác giả tập trung vào XBP dạng sách mà sách là một trong các loại
hình XBP âm nhạc. Tuy nhiên, ngoài sách, XBPAN còn có nhiều loại hình
khác. Luận án tiến sỹ Văn hóa học năm 2011 của tác giả Lê Thị Phương Nga
Nghiên cứu hoạt động quản lý xuất bản sách giáo khoa ở Việt Nam từ năm
1993 đến nay [57]. Mặc dù sách giáo khoa là một trong các loại hình XBP phục
vụ trong nhà trường nhưng XBPAN dành cho cấp học mầm non không phải là
sách giáo khoa mà chỉ được coi là tài liệu tham khảo hoặc đồ dùng, đồ chơi,
học liệu phục vụ tổ chức hoạt động âm nhạc cho trẻ lứa tuổi mầm non.
Mỗi hoạt động xuất bản, mỗi loại hình XBP đều có đặc trưng riêng và
cũng cần có những phương pháp, cách thức quản lý khác nhau. Quản lý
XBPAN dành cho cấp học mầm non không chỉ dựa trên cơ sở lý luận về quản
lý kinh doanh sản xuất, cũng không chỉ tiếp cận theo cách quản lý một sản phẩm
làm công cụ hỗ trợ quá trình dạy - học nhằm hướng tới đạt mục tiêu giáo dục.
Đây là đối tượng quản lý đa chức năng, nó vừa là hàng hóa - sản phẩm của quá
trình xuất bản, vừa là sản phẩm nghệ thuật lại vừa là đối tượng sử dụng vào
mục đích giáo dục cụ thể. Những quan điểm, nhận thức về việc học âm nhạc
cấp học mầm non sẽ giúp xác định đáp án cho các câu hỏi quản lý ai? (tổ chức,
cá nhân tham gia vào hoạt động xuất bản, in, phát hành và sử dụng XBPAN),
quản lý cái gì? (XBPAN dành cho cấp học mầm non) và quản lý như thế nào?
(phương pháp, cách thức, mô hình QLNN đối với XBPAN).
Các tài liệu nêu trên cho thấy mỗi nghiên cứu đều có những phạm vi nhất
định, có tài liệu nghiên cứu về việc QLNN đối với hoạt động xuất bản theo góc
độ quản lý kinh tế đối với việc sản xuất, xuất nhập khẩu XBP; có tài liệu nghiên
cứu về QLNN đối với thị trường sách - cung cầu sách. Mặc dù XBPAN đã nằm
đâu đó trong các đối tượng quản lý XBP, vấn đề quản lý xuất bản và sử dụng
XBPAN hầu như chưa được đề cập tới trong các công trình nghiên cứu, mà đây



18

lại là khâu phản ánh đầy đủ nhất mối liên hệ giữa cung và cầu, phản ánh hiệu
quả, mức độ đáp ứng nhu cầu của người sử dụng sản phẩm xuất bản.
Hiện nay, nguồn kinh phí đầu tư mua sắm trang thiết bị, học liệu, đồ dùng
đồ chơi cấp học mầm non chủ yếu từ nhà nước, thêm vào đó là một số nguồn
kinh phí khác từ địa phương, từ nguồn xã hội hóa giáo dục, chương trình dự án
và một số nguồn hợp pháp khác. Ngoài một số văn bản quy định về tiêu chuẩn
kỹ thuật, số lượng, hình thức, nội dung XBP sử dụng cho lứa tuổi mầm non, việc
mua sắm trang thiết bị, học liệu, đồ dùng đồ chơi, hầu như việc sử dụng chúng
nói chung, sử dụng XBPAN dành cho cấp học mầm non nói riêng chỉ được đề
cập đến thông qua một số tài liệu hướng dẫn chuyên môn mà chưa có công trình
nghiên cứu một cách có hệ thống về việc QLNN đối với các XBP này.
1.2. Cơ sở lý luận về quản lý và mô hình quản lý
1.2.1. Những vấn đề lý luận về quản lý
Quản lý là một hoạt động tất yếu khách quan của một hoặc nhiều nhóm
người làm việc với nhau để thực hiện một công việc chung hoặc nhằm đạt một
mục tiêu chung nhất định. Hoạt động quản lý ra đời khi xã hội loài người xuất
hiện và phát triển từng bước từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp. Nhu
cầu và trình độ quản lý ngày càng tăng cùng với sự phát triển mạnh của các lĩnh
vực kinh tế, xã hội, khoa học công nghệ và sự phân công lao động xã hội trên
phạm vi quốc gia và thế giới. Để quản lý trở thành một khoa học, nó đã trải qua
một quá trình lâu dài với sự ra đời và phát triển của tư tưởng quản lý trong các
giai đoạn lịch sử.
Xuất phát từ những góc độ nghiên cứu khác nhau, rất nhiều học giả trên
thế giới đã đưa ra các quan điểm khác nhau về quản lý. Các trường phái quản
lý học đã đưa ra những định nghĩa, quan điểm về quản lý như:
Tailor: "Làm quản lý là bạn phải biết rõ: muốn người khác làm việc
gì và hãy chú ý đến cách tốt nhất, kinh tế nhất mà họ làm " .



19

Fayel: "Quản lý là một hoạt động mà mọi tổ chức (gia đình, doanh
nghiệp, chính phủ) đều có, nó gồm 5 yếu tố tạo thành là: kế hoạch,
tổ chức, chỉ đạo, điều chỉnh và kiểm soát. Quản lý chính là thực hiện
kế hoạch, tổ chức, chỉ đạo, điều chỉnh và kiểm soát ấy”.
Hard Koont: "Quản lý là xây dựng và duy trì một môi trường tốt giúp
con người hoàn thành một cách hiệu quả mục tiêu đã định" [31, tr.22].
Trong các định nghĩa trên cần lưu ý một số điểm sau:
Quản lý phải có chủ thể quản lý và đối tượng quản lý. Trong đó phải có
ít nhất một chủ thể quản lý và ít nhất một đối tượng bị quản lý chịu các tác động
của các chủ thể quản lý và các khách thể có quan hệ gián tiếp với chủ thể quản
lý. Tác động có thể chỉ là một lần mà cũng có thể là nhiều lần.
Quản lý phải có mục tiêu và một quỹ đạo đặt ra cho cả đối tượng bị
quản lý và chủ thể quản lý. Mục tiêu này là căn cứ để chủ thể quản lý tạo ra
các tác động.
Chủ thể quản lý phải thực hiện việc tác động. Vì vậy, sự tác động mang
tính chủ quan nhưng phải phù hợp với các qui luật khách quan.
Chủ thể quản lý có thể là một hay nhiều người. Đối tượng bị quản lý có
thể là con người hoặc sản phẩm của con người tạo ra. Khách thể là các yếu tố
tạo nên môi trường của hệ thống.
Về cơ bản, các quan điểm quản lý qua các giai đoạn lịch sử đều thể hiện
nội dung: Quản lý là một hoạt động trong đó nhân tố trung tâm của quản lý là
con người (con người vừa là chủ thể, vừa là đối tượng của quản lý) và những
đối tượng, những quan hệ ràng buộc, liên quan trong môi trường của hệ thống.
Quản lý đồng thời cũng là một khái niệm chỉ chức năng của các hệ thống có
tính tổ chức nhằm bảo vệ và duy trì các cơ cấu xác định của một tổ chức, duy
trì chế độ hoạt động thực hiện một chương trình và một mục đích của hoạt động

đã được ý thức hoá của một nhóm người, một tổ chức xã hội hay một cá nhân
nào đó với tư cách là một chủ thể của hoạt động quản lý.


×