Tải bản đầy đủ (.docx) (56 trang)

CƠ sở lí LUẬN về HUY ĐỘNG CỘNG ĐỒNG THAM GIA HOẠT ĐỘNG CHĂM sóc, NUÔI DƯỠNG TRẺ tại TRƯỜNG mầm NON

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (202.89 KB, 56 trang )

CƠ SỞ LÍ LUẬN VỀ HUY ĐỘNG CỘNG ĐỒNG
THAM GIA HOẠT ĐỘNG CHĂM SÓC, NUÔI

DƯỠNG TRẺ TẠI TRƯỜNG MẦM NON


- Sơ lược lịch sử nghiên cứu vấn đề
- Trên thế giới
Bắt đầu khoảng 30 năm cuối thế kỷ XX, đặc biệt những năm
đầu thế kỷ XXI, đa số các nước phát triển như Anh, Đức, Mỹ,
Pháp, Nhật Bản, Ôxtrâylia, Malaysia, Singapore, Hàn
Quốc...đều tiến hành nhận thức lại vai trò sứ mệnh của giáo dục,
coi giáo dục là nền tảng của mọi sự phát triển xã hội. Tại các
nước này rất nhiều chương trình cải cách giáo dục được thực
hiện, nhằm đổi mới toàn diện nền giáo dục đất nước, tạo ra
nguồn nhân lực chất lượng cao đáp ứng với yêu cầu phát triển
và sự thay đổi nhanh chóng trong xu hướng toàn cầu hóa tri
thức. Khuynh hướng cải cách giáo dục là tập trung thu hút và
tăng cường sự tham gia của các lực lượng xã hội, gia đình, tổ
chức trong và ngoài nước cùng với nhà nước tham gia phát triển
giáo dục. Việc huy động cộng đồng cùng với nhà nước tham gia
vào giáo dục đã đem lại nhiều thành công cho quá trình đẩy
mạnh cải cách giáo dục, mở rộng mối quan hệ giữa gia đình,
nhà trường và cộng đồng.


Có thể khái quát một số nghiên cứu tiêu biểu đã đề cập đến vai
trò quan trọng của cộng đồng tham gia vào sự nghiệp giáo dục
như sau:
Tác giả Laura Brannelly và Joan Sullivan-Owomoyela trong
cuốn sách “Thúc đẩy sự tham gia của cộng đồng đóng góp cho


giáo dục trong các điều kiện xung đột” đề cập đến sự tham gia
của cộng đồng và phát triển mô hình cộng đồng tham gia vào
giáo dục ở nước Jordan, Afghanistan, Iraq, Liberia, Uganda và
vùng lãnh thổ Palestine. Các tác giả đã nghiên cứu sự tham gia
của cộng đồng vào giáo dục trong hoàn cảnh chính trị của mỗi
quốc gia khác nhau. Tác giả khẳng định, giáo dục đóng góp rất
nhiều vào nỗ lực tái thiết và giải quyết xung đột đất nước,
nhưng trong bối cảnh đất nước như vậy cộng đồng sẽ phải đối
mặt với rất nhiều thách thức và khó khăn khi tham gia vào giáo
dục. Các tác giả đã khẳng định tầm quan trọng và vai trò của
cộng đồng trong việc tham gia vào bối cảnh tái thiết đất nước
sau xung đột và xây dựng lại giáo dục [36].
Tác giả Anne Henderson và Karen Mapp đã nghiên cứu hơn 50
công trình được công bố từ năm 1995 để biên dịch cuốn sách:


“Minh chứng mới về những tác động của nhà trường, gia đình
và cộng đồng đến kết quả học tập của học sinh”.
Epstein và đồng nghiệp đã đưa ra khái niệm về mối quan hệ
giữa Gia đình - Nhà trường - Xã hội như là những chiến lược
hành động của Gia đình-Nhà trường-Xã hội, giúp học sinh có
kết quả cao trong học tập, đồng thời sự tham gia của cộng đồng
vào giáo dục nhà trường là rất quan trọng [34].
Luận án của Marie Deluci, với đề tài “Nghiên cứu điển hình về
sự tham gia của xã hội vào các trường học ở ba trường của
Ethiopia” đã nêu tầm quan trọng của cộng đồng tham gia phát
triển nhà trường [37].
Nhìn chung các công trình nghiên cứu nói trên đều nghiên cứu
tới vai trò của cộng đồng, của xã hội đối với giáo dục. Các tác
giả đã nghiên cứu và khẳng định được tầm quan trọng, vai trò

của cộng đồng đối với giáo dục, đối với kết quả học tập của học
sinh, đối với sự phát triển nhà trường. Điều này khẳng định rằng
đề tài tôi đang nghiên cứu “Huy động cộng đồng tham gia hoạt
động chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ tại trường mầm non” có ý nghĩa
thiết thực và rất cần thiết để nâng cao chất lượng chăm sóc, nuôi


dưỡng trẻ tại trường, góp phần thúc đẩy nhà trường ngày càng
phát triển.
- Ở Việt Nam
Tại Việt Nam, sự tham gia của cộng đồng vào hoạt động chăm
sóc, nuôi dưỡng trẻ mầm non nói riêng và sự nghiệp giáo dục
nói chung đã được Đảng và nhà nước quan tâm và được thể
hiện trong một số văn bản pháp lý. Trong kho tàng và các dữ
liệu nghiên cứu đề cập rất nhiều đến sự cần thiết huy động cộng
đồng tham gia hoạt động chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ. Cùng với
việc biên soạn phát hành các tài liệu, Đảng và Nhà nước đã ban
hành các Nghị định, chiến lược phát triển giáo dục; Bộ giáo dục
đã ban hành nhiều văn bản làm cơ sở pháp lí của quá trình tổ
chức huy động cộng đồng tham gia vào hoạt động chăm sóc,
giáo dục trẻ như: Điều lệ tổ chức và hoạt động của Hội đồng
giáo dục các cấp chính quyền địa phương; Hướng dẫn thực hiện
điều lệ và hoạt động của Hội đồng giáo dục; tổ chức Đại hội
giáo dục các cấp; Nghị quyết số 90/ CP ngày 21/8/1997 của
chính phủ “Phương hướng và chủ trương xã hội hóa công tác
giáo dục, y tế, văn hóa”;

Nghị định của Chính phủ số

73/1999/NĐ-CP ngày 19/8/1999 về Chính sách khuyến khích xã



hội hóa đối với các hoạt động trong lĩnh vực giáo dục, y tế, văn
hóa, thể thao; Chính phủ ban hành nghị định số 69/2008/NĐ-CP
ngày 30/5/2008 về Chính sách khuyến khích xã hội hóa đối với
các hoạt động trong lĩnh vực giáo dục, dạy nghề, y tế, văn hóa,
thể thao, môi trường [21].
Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2011-2020 coi
việc phát triển giáo dục là quốc sách hàng đầu để đạt được mục
tiêu nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Nhà nước tăng đầu tư,
đồng thời đẩy mạnh XHHGD, huy động toàn xã hội chăm lo
phát triển giáo dục [15].
Chiến lược phát triển giáo dục giai đoạn 2011-2020 đưa ra quan
điểm chỉ đạo phát triển giáo dục là quốc sách hàng đầu, là sự
nghiệp của Đảng, Nhà nước và của toàn dân. Đồng thời cũng
quy định trách nhiệm tham gia, đóng góp nguồn lực của các
ngành, các tổ chức chính trị - xã hội, cộng đồng và gia đình, tạo
cơ hội học tập suốt đời cho mọi người, góp phần từng bước xây
dựng xã hội học tập [29].
Luật giáo dục sửa đổi năm 2009 tại điều 13 quy định “Đầu tư
cho giáo dục là đầu tư phát triển” và “Nhà nước ưu tiên đầu tư
cho giáo dục; khuyến khích và bảo hộ các quyền, lợi ích hợp


pháp của tổ chức, cá nhân trong nước, người Việt Nam định cư
ở nước ngoài, tổ chức, cá nhân nước ngoài đầu tư cho giáo
dục” [28].
Bên cạnh đó là các công trình nghiên cứu về sự tham gia của
cộng đồng của các tác giả khác đã tổng hợp những quan điểm lí
luận và thực tiễn về vai trò và nhiệm vụ của cộng đồng tham gia

vào giáo dục, có thể điểm qua một số nghiên cứu tiêu biểu sau:
- Trong cuốn “Giáo dục Việt Nam trước ngưỡng cửa của thế kỷ
XXI” tác giả Phạm Minh Hạc (2009) khẳng định sự nghiệp giáo
dục của Việt Nam không phải chỉ do nhà nước gánh vác, mà
phải có sự chung sức của các lực lượng xã hội cùng tham gia
vào sự nghiệp giáo dục nước nhà [19].
- Tác giả Trần Thị Hoa (2012) với nghiên cứu “Một số nội dung
cần đổi mới trong công tác xã hội hóa giáo dục”, ở huyện Năm
Căn, tỉnh Cà Mau [41]. Tác giả đã tìm hiểu thực trạng đánh giá
mặt mạnh, mặt yếu rút ra bài học kinh nghiệm về XHHGD ở
trường THCS và đề xuất 5 giải pháp quản lý công tác XHHGD.
- Theo tác giả Đào Thanh Âm, trong bài viết “Nhận thức cho
đúng khái niệm XHH công tác GDMN” [34] đã cho rằng XHH


sự nghiệp GDMN là một bài học thành công trong quá trình xây
dựng và phát triển hệ thống GDMN của nước ta. Đây cũng là
một tư tưởng giáo dục lớn của Đảng và chủ trương của Nhà
nước nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực và bồi dưỡng
nhân tài để giáo dục tạo ra lớp người lao động mới phát triển
toàn diện, năng động, sáng tạo để đáp ứng đòi hỏi của nền công
nghiệp hóa nước ta vào năm 2020 vì mục tiêu dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh mà Nghị quyết Đại
hội Đảng toàn quốc lần thứ VII và IX đã nêu ra.
Đối với nhiệm vụ chăm sóc nuôi dưỡng trẻ tại trường mầm non
đã và đang được nhà nước Việt Nam, Bộ GD&ĐT luôn quan
tâm và coi trọng. Trong “Chỉ thị của Bộ trưởng Bộ giáo dục và
đào tạo” số 15/1997/GD&ĐT ngày 9/8/1997 có nêu: “Đẩy
mạnh công tác chăm sóc bảo vệ sức khỏe cho trẻ. Nâng cao
chất lượng nuôi dạy trẻ trên cơ sở xây dựng nề nếp chuyên

môn…” và “Kết hợp chặt chẽ với UBBVCSTE, UBQG vì sự
tiến bộ của phụ nữ và Hội LHPN Việt Nam, Bộ Y tế…để phát
triển GDMN nhất là phổ biến kiến thức chăm sóc nuôi dạy trẻ
cho các bậc cha mẹ.”[8,9].


Một lần nữa Chỉ thị của Bộ trưởng bộ giáo dục và đào tạo số
42/1998/CT-BGD&ĐT ngày 4/8/1998 có nêu: “Quan tâm chăm
sóc sức khoẻ và đảm bảo an toàn cho học sinh [mục 9, trang 9]
và “Phối hợp các ban ngành có liên quan chăm sóc, bảo vệ trẻ
em; tuyên truyền, huấn luyện về kiến thức nuôi dạy trẻ em tại
gia đình và cộng đồng, thực hiện thí điểm đề án phổ biến kiến
thức nuôi dạy trẻ đến các gia đình.”[12].
Tóm lại, các công trình nghiên cứu trong và ngoài nước nói trên
đều tập trung nghiên cứu về công tác phát triển giáo dục, vai trò
của cộng đồng, của xã hội đối với giáo dục, các chủ trương của
nhà nước về công tác xã hội hóa giáo dục nói chung và công tác
chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ nói riêng. Các nghiên cứu đã chỉ ra vị
trí, ý nghĩa của giáo dục và vai trò của cộng đồng, của xã hội
đối với sự phát triển giáo dục; chỉ ra con đường phát triển giáo
dục tốt nhất là có sự tham gia đóng góp của cộng đồng, xã hội;
những nội dung cần đổi mới trong công tác xã hội hóa giáo dục.
Tuy nhiên, chưa có đề tài cụ thể nào nghiên cứu về việc huy
động cộng đồng tham gia hoạt động chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ
tại các trường mầm non.


Bản thân tôi nhận thấy nhiên cứu công tác huy động cộng đồng
tham gia hoạt động chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ tại trường mầm
non là sự lựa chọn phù hợp, cần thiết và có tính khả thi cao

nhằm nâng cao chất lượng CS, ND trẻ. Đề tài nghiên cứu sẽ xác
định được thực trạng, nhu cầu và vai trò của cộng động đối với
hoạt động chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ ở trường mầm non Kiến
Quốc. Phát hiện được những tồn tại, hạn chế trong công tác
HĐCĐ tham gia vào hoạt động chăm sóc nuôi dưỡng trẻ ở
trường mầm non hiện nay chưa đáp ứng được nhu cầu của xã
hội và mục tiêu hướng tới của giáo dục. Đề xuất được các biện
pháp huy động cộng đồng tham gia vào hoạt động chăm sóc,
nuôi dưỡng trẻ ở trường mầm non và góp phần nâng cao diều
kiện, chất lượng chăm sóc nuôi dưỡng trẻ tại trường mầm non
Kiến Quốc, huyện Kiến Thụy- Hải Phòng. Xuất phát từ thực tế
đó, chúng tôi đã lựa chọn nghiên cứu đề tài.
- Các khái niệm cơ bản của đề tài
- Cộng đồng và huy động cộng đồng
- Cộng đồng


Xã hội loài người bắt đầu từ những bầy, đàn, nhóm người cùng
nhau sống và lao động. Cộng đồng là một thuộc tính của xã hội
loài người từ lúc sơ khai và khái niệm cộng đồng đã tồn tại từ
lâu trong lịch sử. Tuy nhiên việc nghiên cứu chuyên sâu về khái
niệm này mãi đến cuối thế kỷ XIX mới được các nhà xã hội học
tiến hành, và một trong những người tiên phong là nhà xã hội
học người Đức F.Tonnies [36].
Cộng đồng (community) được khái niệm chung nhất là: “Một
cơ thể sống/cơ quan/tổ chức nơi sinh sống và tương tác giữa cái
này với cái khác”.
Theo quan điểm Mác - Xít, cộng đồng là mối quan hệ qua lại
giữa các cá nhân, được quyết định bởi sự cộng đồng hóa lợi ích
giống nhau của các thành viên về các điều kiện tồn tại và hoạt

động của những người hợp thành cộng đồng đó, bao gồm các
hoạt động sản xuất vật chất và các hoạt động khác của họ, sự
gần gũi các cá nhân về tư tưởng, tín ngưỡng, hệ giá trị chuẩn
mực cũng như các quan niệm chủ quan của họ về các mục tiêu
và phương tiện hoạt động.
Theo cuốn từ điển của Đại học Oxford, “Cộng đồng là tập thể
người sống trong cùng một khu vực, một tỉnh hoặc một quốc gia


và được xem là một khối thống nhất”; “Cộng đồng là một nhóm
người có cùng tín ngưỡng, chủng tộc, loại hình nghề nghiệp,
hoặc cùng mối quan tâm”; “Cộng đồng là một tập thể cùng chia
sẻ, hoặc có tài nguyên chung, hoặc có tình trạng tương tự nhau
về một số khía cạnh nào đó”.
Có thể phân ra thành hai loại cộng đồng: Cộng đồng địa lý và
Cộng đồng chức năng.
Cộng đồng địa lý bao gồm những người dân cư trú trong cùng
một địa bàn có thể có chung các đặc điểm văn hóa xã hội và có
thể có mối quan hệ ràng buộc với nhau. Họ cùng được áp dụng
chính sách chung.
Cộng đồng chức năng gồm những người có thể cư trú gần nhau
hoặc không gần nhau nhưng có lợi ích chung. Họ liên kết với
nhau trên cơ sở nghề nghiệp, sở thích, hợp tác hay hiệp hội có tổ
chức.
Trên cơ sở phân tích một số quan niệm của các tác giả khác
nhau, theo chúng tôi, cộng đồng là nhóm người sống trong cùng
một địa bàn nhất định; là một tập thể có tổ chức, có chung một


đặc tính xã hội, có chung các mối quan hệ nhất định, hoặc sinh

học nào đó và cùng chịu ảnh hưởng bởi một số yếu tố tác động.
- Huy động cộng đồng
Huy động cộng đồng là quá trình huy động các cá nhân và tập
thể (không phân biệt giai tầng, ý thức hệ, khoảng cách địa lí …)
bằng nhiều giải pháp và cách thức khác nhau, để thu hút và kéo
các nguồn lực xã hội ấy về với giáo dục, đồng thời thúc đẩy
phát triển của sự nghiệp GD&ĐT ở từng cơ sở và từng địa
phương nhằm thực hiện được mục tiêu xã hội hoá giáo dục.
- Chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ
Giáo dục là một nhân tố quan trọng đảm bảo cho sự tồn tại và phát
triển của xã hội loài người. Điều này chứng tỏ không thể tách giáo
dục ra khỏi đời sống xã hội. Giáo dục chính là một phương tiện để
xã hội đổi mới và phát triển.
Trong hệ thống giáo dục quốc dân, giáo dục mầm non là khâu
đầu tiên, là nền tảng của hệ thống giáo dục. “Mục tiêu của giáo
dục mầm non là giúp trẻ phát triển về thể chất, tình cảm, thẩm
mỹ, hình thành những yếu tố đầu tiên của nhân cách, chuẩn bị


cho trẻ em vào học lớp một”. [Điều 19 của Luật giáo dục số
11/1998/QH10, ngày 2/12/1998]
“Nội dung giáo dục mầm non phải bảo đảm hài hòa giữa nuôi
dưỡng, chăm sóc, giáo dục, phù hợp với sự phát triển tâm sinh lí
của trẻ em; giúp trẻ em phát triển cơ thể cân đối, khỏe mạnh,
nhanh nhẹn; biết kính trọng, yêu mến, lễ phép với ông bà, cha
mẹ, thầy giáo, cô giáo và người trên; yêu quý anh, chị, em, bạn
bè; thật thà mạnh dạn, hồn nhiên, yêu thích cái đẹp; ham hiểu
biết, thích đi học.” [Điều 20 của Luật giáo dục số
11/1998/QH10, ngày 2/12/1998]
Như điều 19 và điều 20 của Luật giáo dục số 11/1998/QH10,

ngày 2/12/1998 đã nêu ta có thể nhận thấy đối với giáo dục
mầm non mục tiêu giáo dục hướng đến đầu tiên là phát triển về
thể chất. Yêu cầu phương pháp giáo dục đầu tiên cũng phải bảo
đảm hài hòa giữa nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục. Như vậy ta
dễ dàng có thể nhận thấy trong giáo dục mầm non thì nhiệm vụ
chăm sóc nuôi dưỡng được đặt lên hàng đầu, là nhiệm vụ quan
trọng, là nhiệm vụ nền tảng để có điều kiện thực hiện tốt các
nhiệm vụ tiếp theo.


Trẻ em hôm nay, thế giới ngày mai. Muốn có được những chủ
nhân tương lai của đất nước khỏe mạnh, cần quan tâm tới việc
chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ ngay từ khi các cháu còn nhỏ tuổi, đặc
biệt là các cháu dưới sáu tuổi. Với quan điểm trên từ nhiều năm
nay Vụ giáo dục Mầm non –Bộ giáo dục và Đào tạo đã coi hoạt
động chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ là một hoạt động trọng tâm
không thể thiếu và là nhiệm vụ quan trọng của các trường mầm
non.
Chăm sóc là sự chào đón nhiệt tình, là những hành động cần
thiết phải làm để thỏa mãn nhu cầu và mong đợi của người được
chăm sóc theo cách mà họ mong muốn.
Nuôi dưỡng là sự nuôi nấng và chăm sóc để tồn tại sức khỏe và
phát triển. Vấn đề quan trọng của nuôi dưỡng là phải thỏa mãn
nhu cầu dinh dưỡng của cơ thể đang phát triển.
Công tác chăm sóc, nuôi dưỡng chính là những công việc cần
thiết phải làm nhằm thỏa mãn nhu cầu và sự mong đợi của
người được chăm sóc về mọi mặt, trong đó chú trọng đến chế
độ dinh dưỡng và môi trường sống lành mạnh đảm bảo phát
triển tốt cả về sức khỏe, trí tuệ…



Chế độ dinh dưỡng có vai trò rất quan trọng trong sự phát triển
toàn diện cả về thể chất và trí tuệ đối với trẻ ở độ tuổi mầm non,
bởi vì đây là giai đoạn tăng trưởng thể chất rất mạnh mẽ, đặc
biệt não bộ, hệ thần kinh của trẻ phát triển vượt trội, nó quyết
định quan trọng trong toàn bộ sự phát triển của con người.
Chính vì vậy, công tác tổ chức thực hiện hoạt động chăm sóc,
nuôi dưỡng trẻ trong các cơ sở giáo dục mầm non đã được xác
định là nhiệm vụ vô cùng quan trọng. Hoạt động chăm sóc, nuôi
dưỡng trẻ tại các cơ sở giáo dục mầm non được thực hiện theo
những hoạt động sau:
- Tổ chức ăn.
- Tổ chức ngủ
- Vệ sinh
- Chăm sóc sức khỏe và an toàn
Việc chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ được tiến hành thông qua các
hoạt động theo quy định của chương trình giáo dục mầm non
[Nhà xuất bản giáo dục Việt Nam Tái bản lần thứ tám vào
tháng 6/2017].


Như vậy, có thể hiểu: Chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ là là quá trình
gia đình, nhà trường và xã hội thực hiện những hoạt động cần
thiết nhằm thỏa mãn nhu cầu và mong đợi cả về mặt thể chất và
tinh thần của trẻ, giúp trẻ phát triển hài hòa, toàn diện, cân đối
ở tất cả các mặt.
- Huy động cộng đồng tham gia hoạt động chăm sóc, nuôi
dưỡng trẻ.
Huy động cộng đồng tham gia hoạt động chăm sóc nuôi dưỡng
trẻ chính là huy động các nguồn lực gồm các tổ chức, cá nhân

và phụ huynh … từ cộng đồng để tham gia vào gia hoạt động
chăm sóc nuôi dưỡng trẻ.
Trẻ em là đối tượng quan tâm của nhiều ngành, nhiều lực lượng
xã hội, nhiều chương trình. Vì vậy việc huy động các lực lượng
xã hội, tham gia vào quá trình chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục
trẻ là một việc làm hết sức quan trọng và cần thiết, đảm bảo cho
việc thực hiện mục tiêu chăm sóc giáo dục trẻ mầm non. Cộng
đồng địa phương và các bậc cha mẹ hoàn toàn có khả năng góp
phần cụ thể hóa mục tiêu chăm sóc, giáo dục trẻ mầm non vừa
phù hợp với địa phương và đáp ứng nguyện vọng của các gia
đình. Song tham gia như thế nào để tạo sự đồng bộ và hiệu quả


cao là nội dung khó khăn nhất của cuộc vận động này. Các lực
lượng xã hội có tiềm năng và thực sự có khả năng tham gia vào
quá trình chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục trẻ, giúp nhà trường
thực hiện các hoạt động theo nhiều cách thức khác nhau để đạt
hiệu quả cao nhất, như: Các cơ quan văn hóa thông tin đại
chúng giúp nhà trường quảng bá tuyên truyền kiến thức, kỹ
năng chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục trẻ…. Các ban ngành, các
tầng lớp nhân dân có thể cung cấp tài liệu, thông tin, công sức,
cách thức …để có sự phối kết hợp giữa nhà trường và cộng
đồng cùng hoàn thành nhiệm vụ chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo
dục trẻ.
Môi trường chăm sóc nuôi dưỡng giáo dục trẻ từ gia đình, nhà
trường, xã hội cùng đồng thời tác động sẽ làm cho thế hệ học
sinh được chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục ở mọi nơi, mọi lúc,
chất lượng chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục trẻ được nâng cao,
chủ nhân tương lai của thế kỷ XXI sẽ được được chuẩn bị chu
đáo hơn về sức khỏe và trí tuệ. Sự tham gia của cộng đồng vào

hoạt động chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục trẻ sẽ góp phần làm
cho mọi học sinh được hưởng sự chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo
dục toàn diện. Chính sự tham gia của các lực lượng xã hội vào


giáo dục mầm non sẽ làm cho giáo dục mầm non gắn bó với
cộng đồng, do cộng đồng thực hiện và lợi ích cộng đồng.
Trên cơ sở phân tích như trên, theo định hướng nghiên cứu của
đề tài, huy động cộng đồng tham gia hoạt động chăm sóc, nuôi
dưỡng trẻ tại trường mầm non là quá trình nhà trường thực
hiện các tác động nhằm huy động sự đóng góp về nguồn lực,
vật lực, trí lực của các lực lượng cộng đồng trong hoạt động
chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ.
- Huy động cộng đồng tham gia hoạt động chăm sóc, nuôi
dưỡng trẻ tại trường mầm non
- Các lực lượng tham gia hoạt động chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ
tại trường mầm non
- Các lực lượng tham gia trực tiếp vào việc chăm sóc giáo dục
trẻ và giải quyết các vấn đề về phát triển giáo dục
Các lực lượng tham gia trực tiếp vào việc chăm sóc giáo dục trẻ
và giải quyết các vấn đề về phát triển giáo dục đã được quy định
tại Luật giáo dục năm 2005 và Điều lệ trường mầm non ban
hành theo quyết định số: 27/2000/QĐ-BGD&ĐT ngày


20/7/2000 của bộ trưởng Bộ giáo dục và Đào tạo [Tr16,17] bao
gồm:
+ Hiệu trưởng: Là người chịu trách nhiệm quản lý các hoạt
động của nhà trường.
+ Phó hiệu trưởng: Mỗi trường có từ một đến hai Phó hiệu

trưởng. Phó hiệu trưởng là người giúp việc cho hiệu trưởng
+ Hội đồng trường: Thành viên là cán bộ giáo viên nhân viên
trong trường. Hội đồng trường chịu trách nhiệm quyết định về
phương hướng hoạt động của nhà trường, huy động và giám sát
việc sử dụng các nguồn lực dành cho nhà trường, gắn nhà
trường với cộng đồng và xã hội, bảo đảm thực hiện mục tiêu
giáo dục.
+ Các tổ chuyên môn: Thành viên là giáo viên trong trường.
Trong trường mầm non có 2 tổ chuyên môn đó là tổ giáo dục và
tổ nuôi dưỡng.. Tổ chuyên môn có nhiệm vụ xây dựng kế hoạch
hoạt động và tổ chức hoạt động theo kế hoạch….
+ Tổ hành chính quản trị: Thành viên là các nhân viên của
trường, có nhiệm vụ giúp hiệu trưởng thực hiện các nhiệm vụ
cho các hoạt động của trường.


+ Tổ chức Đảng và đoàn thể: Gồm tổ chức Đảng và tổ chức
Công đoàn, Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh. Các tổ
chức có nhiệm vụ giúp nhà trường trong việc thực hiện mục
tiêu giáo dục.
- Các lực lượng tham gia gián tiếp vào việc chăm sóc giáo dục
trẻ và giải quyết các vấn đề về phát triển giáo dục
+ Trách nhiệm của xã hội được quy định trong Điều 97 của Luật
giáo dục năm 2005 như sau: 1.Cơ quan nhà nước, tổ chức chính
trị, tổ chức chính trị -xã hội, tổ chức chính trị- xã hội- nghề
nghiệp, tổ chức nghề nghiệp, tổ chức kinh tế, đơn vị vũ trang
nhân dân và công dân có trách nhiệm: Giúp nhà trường tổ chức
các hoạt động giáo dục và nghiên cứu khoa học; tạo điều kiện
cho nhà giáo và người học tham quan, thực tập, nghiên cứu
khoa học. Góp phần xây dựng phong trào học tập và môi trường

giáo dục lành mạnh, an toàn, ngăn chặn những hoạt động xấu có
ảnh hưởng đến thanh niên, thiếu niên và nhi đồng. Tạo điều kiện
để người học được vui chơi, hoạt động văn hóa, thể dục, thể
thao lành mạnh. Hỗ trợ về tài lực, vật lực cho sự nghiệp phát
triển giáo dục theo khả năng của mình. 2. Ủy ban mặt trận Tổ


quốc Việt Nam, các tổ chức thành viên của Mặt trận có trách
nhiệm động viên toàn dân chăm lo cho sự nghiệp giáo dục.
- Các lực lượng tham gia vào quản lý giáo dục
+ Cán bộ quản lý của trường mầm non bao gồm Hiệu trưởng và
Phó hiệu trưởng. Cán bộ quản lý trong nhà trường chịu trách
nhiệm quản lý trực tiếp mọi hoạt động và chất lượng chăm sóc
giáo dục trẻ tại trường.
+ Ban đại diện cha mẹ trẻ em do cha mẹ trẻ em bầu ra để thay
mặt cha mẹ giải quyết các mối quan hệ giữa nhà trường và gia
đình nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả nuôi dưỡng chăm
sóc giáo dục trẻ [Tr28, Điều lệ trường mầm non/2000].
+ Cơ quan quản lý nhà nước về giáo dục được quy định trong
Điều 100 của Luật giáo dục năm 2005 như sau: Chính phủ
thống nhất quản lý nhà nước về giáo dục. Bộ giáo dục và Đào
tạo chịu trách nhiệm trước Chính phủ thực hiện quản lý nhà
nước về giáo dục. Bộ cơ quan ngang bộ phối hợp với Bộ Giáo
dục và Đào tạo thực hiện quản lý nhà nước về giáo dục theo
thẩm quyền. Ủy ban nhân dân các cấp thực hiện quản lý nhà
nước về giáo dục theo sự phân cấp của chính phủ và có trách


nhiệm bảo đảm các điều kiện về đội ngũ nhà giáo, tài chính, cơ
sở vật chất, thiết bị dạy học của các trường công lập thuộc phạm

vi quản lý, đáp ứng yêu cầu mở rộng quy mô, nâng cao chất
lượng và hiệu quả giáo dục tại địa phương.
- Các lực lượng tham gia góp cho giáo dục về tài chính
+ Điều 101 của Luật giáo dục năm 2005: Các nguồn tài chính
đầu tư cho giáo dục bao gồm; 1. Ngân sách nhà nước. 2. Học
phí, lệ phí tuyển sinh theo quy định của pháp luật và theo hướng
dẫn từng năm học.
+ Điều 104 của Luật giáo dục năm 2005: Khuyến khích đầu tư
cho giáo dục. 1.Nhà nước khuyến khích, tạo điều kiện cho tổ
chức cá nhân, đầu tư đóng góp trí tuệ, công sức, tiền của cho
giáo dục. 2.Các khoản đầu tư, đóng góp, tài trợ của doanh
nghiệp cho giáo dục được trừ khi tính thu nhập chịu thuế theo
Luật thế thu nhập doanh nghiệp.
+ Điều 98 của Luật giáo dục năm 2005 như sau: Nhà nước
khuyến khích tổ chức, cá nhân thành lập Quỹ khuyến học, Quỹ
bảo trợ giáo dục. Quỹ khuyến học, Quỹ bảo trợ giáo dục hoạt
động theo quy định của pháp luật.


+ Cha mẹ trẻ là người có trách nhiệm nuôi dưỡng, giáo dục và
chăm sóc, tạo điều kiện cho trẻ được học tập, rèn luyện, tham
gia các hoạt động của nhà trường. Vậy sự đóng góp về tài lực và
vật lực của cha mẹ trẻ là điều kiện tiên quyết để trường mầm
non có thể đạt được mục tiêu giáo dục nhất là trong điều kiện
hiện nay đại đa số các trường mầm non khu vực nông thôn là
loại hình trường công lập tự chủ một phần kinh phí, tức là nhà
nước chỉ phân bổ một phần kinh phí còn nhà trường phải tự chủ
từ nguồn kinh phí huy động từ cha mẹ trẻ và xã hội.
- Các lực lượng tham gia đa dạng hóa các loại hình trường
mầm non

Trong vòng 10 năm gần đây, nhu cầu của xã hội phát triển, dân
số tăng nhanh, hệ thống trường mầm non công lập không đáp
ứng đủ nhu cầu nguyện vọng được đến trường của trẻ mầm non
do đó cần mở rộng cơ sở trường lớp, cần đa dạng hóa các loại
hình trường lớp để đáp ứng kịp nhu cầu xã hội và giải quyết tình
trạng quá tải trong các trường công lập, để mọi trẻ đều được đến
trường theo nhu cầu của nhân dân. Điều này đã được nhà nước
quan tâm và thể hiện rõ trong Nghị quyết 4 Trung ương khóa
VII ghi: “Huy động toàn xã hội làm giáo dục, động viên các


tầng lớp nhân dân góp sức xây dựng nền giáo dục quốc dân
dưới sự quản lý của Nhà nước”[Tr6].
Luật giáo dục sửa đổi năm 2009 tại điều 13 quy định “Đầu tư
cho giáo dục là đầu tư phát triển” và “Nhà nước ưu tiên đầu tư
cho giáo dục; khuyến khích và bảo hộ các quyền, lợi ích hợp
pháp của tổ chức, cá nhân trong nước, người Việt Nam định cư
ở nước ngoài, tổ chức, cá nhân nước ngoài đầu tư cho giáo
dục” [Tr28].
Theo các chủ chương của nhà nước, khuyến khích đa dạng hóa
các loại hình trường lớp, đến nay ở nước ta đã có các loại hình
trường mầm non công lập, trường mầm non công lập tự chủ một
phần kinh phí, trường mầm non dân lập, trường mầm non tư
thục, trường mầm non chất lượng cao, nhóm trẻ gia đình độc
lập, trường giáo dục hòa nhập….Các loại hình trường mầm non
nói trên đều có chung mục tiêu chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục
trẻ từ 6 đến 72 tháng tuổi đật theo mục tiêu giáo dục mầm non.
Đặc điểm khác nhau cơ bản của các loại hình trường này là về
vốn đầu tư xây dựng cơ sở vật chất, về nguồn kinh phí cho hoạt
động, về quyền sở hữu tài sản:



×