Tải bản đầy đủ (.docx) (47 trang)

CƠ sở lý LUẬN về đào tạo NGHỀ CHO LAO ĐỘNG NÔNG THÔN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (158.8 KB, 47 trang )

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ ĐÀO TẠO NGHỀ CHO
LAO ĐỘNG NÔNG THÔN


- Tổng quan nghiên cứu vấn đề
Đào tạo nghề là hoạt động gắn liền với lịch sử phát
triển thăng trầm của mỗi quốc gia, dân tộc. Vì thế ở các
nước trên thế giới cũng như ở Việt Nam đều quan tâm đến
vấn đề này. Nhiều công trình nghiên cứu ở Việt Nam cũng
như ở một số nước trên thế giới đều cho thấy việc định
hướng phát triển ĐTN nói chung và ĐTN cho LĐNT nói
riêng luôn được Chính phủ các nước đặc biệt quan tâm, trở
thành thành tố chính trong chiến lược phát triển nguồn nhân
lực – là khâu then chốt để nâng cao tính bền vững của nền
kinh tế, của phát triển xã hội của mỗi quốc gia. Chính vì thế
các nước thường có chính sách nhất quán và đồng bộ về
phát triển ĐTN lồng ghép trong chiến lược phát triển nguồn
nhân lực. Đồng thời giao trách nhiệm cho các cơ quan quản
lí xây dựng hệ thống tiêu chuẩn để thống nhất quản lí chất
lượng đào tạo tương ứng với hệ thống bằng cấp và chứng
chỉ nghề trong cả nước.
Trong ĐTN có sự phân cấp quản lí theo ngành dọc,
theo phân vùng địa lý để cơ quan quản lí có thể chủ động,


linh hoạt trong ĐTN được phân bổ ở các địa phương theo
quy hoạch tổng thể của cả nước.
Năm 1993, tác giả W.Moelleman cho ra đời cuốn
“Thông tin chuyên đề hệ thống đào tạo kép ở Cộng hoà liên
bang Đức”. Cuốn sách giới thiệu về cơ cấu tổ chức của hệ
thống đào tạo nghề kép, quy chế đào tạo và chương trình


giảng dạy của các trường nghề ở Đức, đặc điểm của mô
hình ĐTN, trong đó nhấn mạnh yếu tố đào tạo theo nhu cầu,
gắn đào tạo với thực tiễn, vai trò của các doanh nghiệp trong
ĐTN.
Tác giả Roger Harris – Hugh và Cộng sự (1997) đưa ra
quan điểm dạy nghề dựa trên năng lực thực hiện được cấu
trúc theo Modul dựa trên thực hiện công việc của nghề và
dạy nghề dựa trên khả năng tiếp thu của người học nghề, tạo
điều kiện cho họ lựa chọn các khoá học phù hợp với khả
năng, điều kiện kinh tế, hoàn cảnh sống, thời gian… để học
và hành nghề không phụ thuộc vào việc phải học tất cả các
kĩ năng nghề.
Ở Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, hình thức
tổ chức ĐTN chính quy bắt đầu được hình thành và phát


triển. Vào năm 1898 thực dân Pháp cho xây dựng trường Kĩ
nghệ thực hành Hà Nội và trường Bách nghệ Sài Gòn. Năm
1899 xây dựng trường Kĩ nghệ thực hành Huế. Năm 1913
xây dựng trường Kĩ nghệ thực hành Hải Phòng. Đồng thời
nhiều cơ sở dạy nghề khác nhau cũng được thành lập với
nhiều loại hình khác nhau như trường nghề, lớp dạy nghề tại
xí nghiệp… với số lượng học sinh rất ít ỏi, chỉ đủ đáp ứng
nhu cầu cho các ngành công nghiệp tiêu dùng, công nghiệp
nhẹ, công nghiệp khai thác tài nguyên. Trong 9 năm kháng
chiến chống Pháp ĐTN ở Việt Nam cũng đã có những
chuyển biến kịp thời nhằm đào tạo đội ngũ cán bộ công
nhân quốc phòng, nông nghiệp, y tế, sư phạm theo phương
châm đào tạo ngắn hạn, trường lớp nhỏ, phân tán trong
chiến khu, vùng tự do, vừa làm vừa học, coi trọng thực hành

gắn với thực tiễn.
Khi đất nước bị chia cắt thành 2 miền thì tại miền Bắc
hoạt động dạy nghề đã có bước phát triển nhanh. Ngày
09/10/1969 Chính phủ ban hành Nghị định 200/CP về việc
thành lập Tổng cục đào tạo công nhân kĩ thuật, đây chính là
mốc lịch sử đánh dấu sự phát triển ĐTN theo hướng tập


trung, chính quy. Ở miền Nam từ 1954 – 1975 công tác đào
tạo nghề tập trung vào 4 nhóm ngành lớn: Nữ công gia
chánh, thương mại, kĩ công nghệ, tiểu thủ công nghiệp. Sau
ngày đất nước thống nhất, đến năm học 85-85 cả nước có
366 trường dạy nghề chính quy với quy mô đào tạo lên đến
256 nghìn học sinh. Có 212 trung tâm dạy nghề các cấp
quận, huyện thực hiện ĐTN, trong đó có ĐTN ngắn hạn và
phục hồi phát triển các ngành nghề truyền thống của địa
phương.
Tiếp sau đó để đáp ứng mục tiêu đào tạo nguồn nhân
lực cho CNH, HĐH đất nước và hội nhập quốc tế, khu vực
hệ thống các trường ĐTN không ngừng phát triển với quy
mô ngày càng rộng mở, đa dạng, từng bước nâng cao chất
lượng đào tạo.
Gần đây đã xuất hiện một số công trình nghiên cứu có
ý nghĩa lí luận và định hướng như “Một số xu thế về ĐTN
trước ngưỡng cửa của thế kỷ XXI” của Nguyễn Minh
Đường (2000); “Tình hình và xu thế phát triển hoạt động
bồi dưỡng và đào tạo lại người lao động trên thế giới” của
Đào Quang Ngoạn (17). Trong vòng 8 năm từ 1978 – 1986



tại Viện Khoa học dạy nghề thuộc Tổng cục dạy nghề đã có
một số công trình nghiên cứu liên quan đến ĐTN như “Mục
tiêu, cơ cấu hệ thống dạy nghề” của Nguyễn Minh Đường;
“Mô hình giáo viên dạy thực hành nghề” của Nguyễn Hùng
Sinh; Dự án giáo dục kĩ thuật và dạy nghề TA2761-VIE của
Bộ GD&ĐT với Ngân hàng phát triển Châu Á (ADB); Đề
tài nghiên cứu khoa học cấp Nhà nước KX07-14 về “Vấn đề
bồi dưỡng và đào tạo lại các loại hình lao động nghề nghiệp
nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế trong điều kiện
mới”. Năm 1912 Viện Chủ nghĩa xã hội khoa học cho ra đời
cuốn “Dân số - Lao động – Việc làm – Giải pháp” (25).
Cuốn sách đã cung cấp những số liệu cụ thể về sự gia tăng
dân số liên quan đến lao động và việc làm. Đồng thời đề
xuất một số giải pháp để giải quyết việc làm cho người lao
động. Năm 2009 NXB lao động xã hội cho ra đời cuốn “Lao
động, việc làm trong thời kì hội nhập” của tác giả Nguyễn
Thị Lan Hương. Trong cuốn sách này tác giả đã đánh giá
những vấn đề lao động, việc làm trong thời kỳ hội nhập và
định hướng các giải pháp để phát triển việc làm cho người
lao động (14).


Tác giả Phạm Xuân Thu (2010) với chuyên đề “Công
tác tư vấn chọn nghề, tìm và tự tạo việc làm cho LĐNT”
(19). Qua chuyên đề này tác giả đã giúp các giáo viên có
thêm những hiểu biết để tư vấn cho LĐNT, giúp họ chọn
nghề và tự tạo việc làm phù hợp với khả năng, năng lực của
bản thân và yêu cầu của xã hội. Chỉ sau đó 3 năm, tác giả
này cũng đã thực hiện và hoàn thành đề tài cấp Bộ “Một số
giải pháp nâng cao hiệu quả ĐTN cho LĐNT theo quyết

định 1956”. Trong đề tài này tác giả đã khái lược công tác
đào tạo nghề và đề xuất một số giải quyết nâng cao hiệu quả
ĐTN cho LĐNT. Năm 2012 tác giả Ngân Văn Đại bảo vệ
thành công Luận án Tiến sĩ Kinh tế nông nghiệp với đề tài
“Đào tạo nghề cho LĐNT vùng Đồng bằng sông Hồng trong
thời kỳ CNH, HĐH” (5). Ở đó tác giả đã cho người đọc thấy
rõ đặc điểm về đất đai, khí hậu, kinh tế… của vùng Đồng
bằng sông Hồng và hoạt động ĐTN cho LĐNT ở khu vực
này.
Năm 2014 cuốn sách “Mô hình đào tạo ĐTN cho
LĐNT” của tác giả Nguyễn Tiến Dũng được ra đời. Cuốn
sách này đã giới thiệu khái quát các mô hình ĐTN cho


LĐNT. Đây là tài liệu tham khảo bổ ích cho công tác ĐTN ở
các trường nghề, các trung tâm dạy nghề… ở các tỉnh thành,
các vùng miền (4).
Trong quá trình thực hiện quyết định 1956 của Thủ
tướng Chính phủ về ĐTN cho LĐNT (21), tác giả Vũ Viết
Trưởng đã nêu ra một số bài học kinh nghiệm thực tiễn của
Lào Cai để thực hiện tốt đề án ĐTN cho LĐNT (23). Cũng
trong năm 2014, tác giả Cao Nguyễn Minh Hiển đã bảo vệ
thành công đề tài “Đào tạo nghề cho LĐNT ở huyện Lệ
Thuỷ tỉnh Quảng Bình”. Đề tài đã phản ánh khái quát thực
trạng ĐTN cho LĐNT ở huyện Lệ Thuỷ tỉnh Quảng Bình,
từ đó đề xuất một số biện pháp nâng cao hiệu quả kinh tế
của hoạt động này.
Từ những phân tích trên ta thấy, việc ĐTN cho LĐNT
là quyết định sáng suốt, kịp thời của Chính phủ Việt Nam
trong tình hình mới. Nó phù hợp với xu thế phát triển của

một nước nông nghiệp, đồng thời phù hợp với xu thế hội
nhập quốc tế. Cùng với chủ trương đó, cũng xuất hiện nhiều
công trình nghiên cứu mới không chỉ định hướng phát triển
ĐTN cho LĐNT , mà còn có những nghiên cứu thực tế phản


ánh thực trạng hoạt động ĐTN cho LĐNT ở các khu vực,
vùng, miền khác nhau… Từ đó đưa ra một số giải pháp phù
hợp với thực trạng. Tuy nhiên trong ĐTN có nhiều trình độ
khác nhau nhưng còn ít có những nghiên cứu về ĐTN ngắn
hạn cho LĐNT, đặc biệt ở các vùng sâu, vùng xa, vùng đồng
bào dân tộc thiểu số… vì thế tôi đã lựa chọn và nghiên cứu
đề tài “Đào tạo nghề ngắn hạn cho LĐNT huyện miền núi
Sơn Hoà, tỉnh Phú Yên”.
- Một số khái niệm cơ bản của đề tài:
-Lao động và lao động nông thôn
- Lao động
Lao động là điều kiện cơ bản đầu tiên của toàn bộ đời
sống loài người và là hoạt động đặc thù của con người. Bởi
đó là hoạt động có mục đích, có ý thức của con người tác
động vào tự nhiên, cải biến nó để tạo ra của cải vật chất và
các giá trị tinh thần phục vụ cho nhu cầu của cá nhân và xã
hội. Không những thế, lao động còn sáng tạo ra bản thân
loài người. Lao động là nguồn gốc của mọi của cải.


Theo Liên hợp quốc, lao động là tổng thể sức dự trữ,
những tiềm năng, những lực lượng thể hiện sức mạnh và sự
tác động của con người vào cải tạo tự nhiên và cải tạo xã
hội.

Như vậy lao động là hoạt động quan trọng nhất của con
người, nó tạo ra của cải vật chất và các giá trị tinh thần của
xã hội. Lao động có năng suất, chất lượng và hiệu quả cao là
nhân tố quyết định sự phát triển của mỗi quốc gia.
- Lao động nông thôn
Theo quy định của Luật Lao động ở Việt Nam thì độ
tuổi lao động được quy định đối với nam là từ 15-60 tuổi,
với nữ là từ 15-55 tuổi.
Theo Tổ chức lao động thế giới (ILO) thì lực lượng lao
động là một bộ phận dân số trong độ tuổi quy định, thực tế
có tham gia lao động và những người không có việc làm
đang tích cực tìm kiếm việc làm. Như vậy xét về khía cạnh
việc làm thì lực lượng lao động gồm 2 bộ phận là có việc
làm và thất nghiệp đang tích cực tìm kiếm việc làm.


Với cách hiểu về khái niệm lao động ở trên ta thấy
LĐNT là những người trong độ tuổi lao động, không phân
biệt giới tính, tổ chức, cá nhân ở khu vực nông thôn. Tuy
nhiên trong thực tế khu vực nông thôn Việt Nam ta thấy có
những người ngoài độ tuổi lao động (nam trên 60 tuổi, nữ
trên 55 tuổi) vẫn có khả năng tham gia sản xuất xây dựng
kinh tế nông thôn.
- Nghề và đào tạo nghề
- Nghề
Nghề là một hiện tượng xã hội có tính lịch sử rất phổ
biến, gắn liền với sự phân công lao động xã hội, với nền văn
minh nhân loại với tiến bộ khoa học kĩ thuật.
Theo từ điển tiếng Việt thì “Nghề là một công việc
luôn làm theo sự phân công lao động của xã hội” (18).

Theo Tổ chức lao động quốc tế thì Nghề là một hình
thức phân công lao động, đòi hỏi kiến thức lí thuyết tổng
hợp và thói quen thực hành để hoàn thành những công việc
nhất định.


Tác giả Klimov E.A cho rằng “Nghề là một lĩnh vực
sử dụng sức lao động vật chất và tinh thần của con người
một cách có giới hạn, cần thiết cho xã hội. Nó tạo cho con
người khả năng sử dụng sức lao động của mình để thu lấy
những phương tiện cần thiết cho sự tồn tại và phát triển”
(dẫn theo 1 trang 28).
Theo tác phẩm “Tuổi trẻ với nghề truyền thống” tác giả
Nguyễn Viết Sự quan niệm “Nghề là công việc làm theo đòi
hỏi của đời sống xã hội hoặc theo sự phân công của xã hội”. Ở
Việt Nam hiện nay có một khái niệm nghề được nhiều tác giả
đồng tình sử dụng, đó là nghề là một tập hợp lao động do sự
phân công lao động xã hội quy định mà giá trị của nó trao đổi
được.
Nghề mang tính tương đối, nó phát sinh, phát triển hay
mất đi do trình độ của nền sản xuất hay do nhu cầu xã hội.
Mặc dù khái niệm nghề được hiểu dưới nhiều góc độ khác
nhau song chúng ta có thể thấy một số nét đặc trưng nhất
định:
- Nghề là hoạt động, là công việc lao động của con
người được lặp đi lặp lại.


- Nghề là sự phân công là động xã hội, phù hợp với
yêu cầu xã hội.

- Nghề là phương tiện để sinh sống.
- Nghề là lao động kỹ năng, kỹ xảo chuyên biệt có giá
trị trao đổi trong xã hội, đòi hỏi phải có quá trình đào tạo
nhất định.
Nghề biến đổi một cách mạnh mẽ và gắn chặt với xu
hướng phát triển kinh tế xã hội của đất nước.
Từ những phân tích ở trên ta hiểu nghề là một lĩnh vực
hoạt động lao động mà trong đó nhờ được đào tạo con người
có được những tri thức và kĩ năng để tạo ra sản phẩm vật
chất hoặc tinh thần đáp ứng nhu cầu của cá nhân và xã hội.
Nó là hình thức lao động đặc thù vừa mang tính cá nhân,
vừa mang tính xã hội. Ở đó con người phải sử dụng sức lao
động của mình để tạo ra sản phẩm vật chất hoặc tinh thần
phục vụ cho cá nhân và xã hội. Tính xã hội của nghề được
thể hiện ở chỗ làm theo sự phân công của xã hội, còn tính cá
nhân được thể hiện ở nhu cầu của bản thân. Còn sức lao
động ở đâu bao gồm cả sức lao động trí tuệ và cơ bắp. Nghề


khác với việc làm ở chỗ: Nghề là sự gắn bó lâu dài với công
việc chuyên môn. Nghề đòi hỏi trình độ kĩ năng kĩ xảo cao
hơn việc làm nhờ quá trình đào tạo ngắn hạn hoặc dài hạn
và được xã hội công nhận.
Căn cứ vào đối tượng lao động của nghề: Theo
Klimov có 5 nhóm nghề, mỗi nhóm bao gồm 1 số ngành,
mỗi ngành lại có rất nhiều nghề và chuyên môn. Các nhóm
nghề cụ thể sau:
1.

Nhóm nghề “Người- thiên nhiên”: nghề trồng trọt,

chăn nuôi, nuôi trồng thủy sản, lâm nghiệp, thú y, nghiên
cứu sinh học…

2.

Nhóm nghề “Người- kĩ thuật”: đối tượng lao động
chủ yếu là các hệ thống thiết bị kĩ thuật, năng lượng, các đối
tượng vật chất, nguyên liệu: thợ tiện, thợ nề, lắp ráp máy
truyền hình và máy tính, thợ sửa chữa công cụ, lái xe, kĩ sư
xây dựng, kĩ sư cơ khí…

3.

Nhóm nghề “người- người”: đối tượng lao động chủ
yếu là người, nhóm người. Các nghề trong nhóm: nhân viên
bán hàng, nhân viên phục vụ khách sạn, thầy thuốc, thầy


giáo, thẩm phán, sĩ quan quân đội…
4.

Nhóm nghề “người- dấu hiệu”: đối tượng lao động
chủ yếu là những dấu hiệu, ngôn ngữ, con số, mã số, sơ đồ,
bản vẽ, bảng biểu… Các nghề trong nhóm: thủ quĩ, kế toán,
nhân viên văn thư, lưu trữ, lập trình viên, cử nhân kinh tế,
kĩ sư công nghệ thông tin, lập trình viên cao cấp…

5.

Nghề “người- nghệ thuật”: đối tượng lao động chủ

yếu là các hình ảnh nghệ thuật, các bộ phận và các thuộc
tính của chúng. Các nghề trong nhóm nghề: họa sĩ, nhà soạn
nhạc, diễn viên điện ảnh, kịch, ca sĩ, thợ mĩ nghệ, kiến trúc,
đạo diễn, nhà văn…
Phân loại nghề căn cứ vào quá trình đào tạo: Dựa vào
mức độ phức tạp về kĩ thuật, chuyên môn của nghề nghiệp,
người ta chia nghề thành:

1.

Nghề không cần đào tạo là nghề đơn giản, thường là
nghề thủ công, kĩ thuật đơn giản, không cần nhiều thời gian
học hỏi và bất cứ ai có sức khỏe thể chất và tinh thần bình
thường đều có thể làm được.

2.

Nghề được đào tạo ở trường, lớp là nghề đòi hỏi


người hành nghề có kiến thức, kĩ năng thực hành nghề nhất
định được tích lũy thông qua quá trình học tập theo một
chương trình nhất định mới có thể hành nghề được.
Ngoài ra còn cách phân loại nghề trong xã hội: những
nghề thuộc lĩnh vực hành chính, những nghề thuộc lĩnh vực
tiếp xúc với con người, những nghề thợ (công nhân), những
nghề trong lĩnh vực kỹ thuật, những nghề trong lĩnh vực văn
học và nghệ thuật, những nghề thuộc lĩnh vực nghiên cứu
khoa học, những nghề tiếp xúc với thiên nhiên (đặc biệt với
lao động nông nghiệp) những nghề có điều kiện lao động

đặc biệt (phi công, thợ lặn…)
Xã hội ngày nay phát triển mạnh mẽ bởi các cuộc cách
mạng khoa học công nghệ, công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước. Do đó các lĩnh vực nghề trong xã hội cũng rất đa
dạng, phong phú và đòi hỏi người lao động phải có trình độ,
tay nghề nhất định mới tham gia hoạt động nghề được,
nghĩa là họ cần được đào tạo về nghề, đặc biệt đối với
LĐNT.


- Đào tạo nghề:
Có nhiều quan niệm khác nhau về ĐTN. Chẳng hạn:
William MC. Gehee (1979) quan niệm: ĐTN là những
quy trình mà những Công ty sử dụng để tạo thuận lợi cho
việc học tập sao cho kết quả hành vi đóng góp vào mục đích
và các mục tiêu của Công ty.
Max Forter (1979) coi ĐTN là phải gợi ra những giải
pháp ở người học; phát triển tri thức, kĩ năng và thái độ; tạo
ra sự thay đổi trong hành vi; đạt được những mục tiêu
chuyên biệt.
Còn Tack Soo Chung (1982) lại coi ĐTN là hoạt động
lao động phát triển năng lực lao động (tri thức, kĩ năng và
thái độ nghề nghiệp) cần thiết để đảm nhiệm công việc được
áp dụng đối với những người lao động và những đối tượng
sắp trở thành người lao động. ĐTN được thực hiện tại nơi
lao động, trung tâm đào tạo, các trường dạy nghề, các lớp
học không chính quy nhằm nâng cao năng suất lao động,
tăng cường cơ hội việc làm và cải thiện địa vị người lao



động, nâng cao năng suất lao động của các doanh nghiệp
góp phần phát triển kinh tế - xã hội.
Theo Tổ chức lao động thế giới thì ĐTN là cung cấp
cho người học những kĩ năng cần thiết để thực hiện tất cả
các nhiệm vụ liên quan đến công việc, nghề nghiệp được
giao.
Theo Luật Giáo dục nghề nghiệp ban hành ngày
27/11/2014 thì ĐTN là hoạt động dạy và học nhằm trang bị
kiến thức, kĩ năng và thái độ nghề nghiệp cần thiết cho
người học để họ có thể tìm được việc làm hoặc tự tạo việc
làm sau khi hoàn thành khoá học để nâng cao trình độ nghề
nghiệp.
Từ những khái niệm trên ta thấy ĐTN là hoạt động bao
gồm 2 quá trình dạy nghề và học nghề. Dạy nghề được thực
hiện bởi giáo viên dạy nghề. Còn học nghề được thực hiện
bởi người lao động. Mỗi quá trình này đều có mục đích
riêng. Hai quá trình này có quan hệ hữu cơ với nhau. Thực
hiện tốt cả 2 quá trình này thì việc ĐTN mới đảm bảo chất
lượng và hiệu quả. Hay nói cách khác đó là quá trình truyền
đạt, lĩnh hội những kiến thức và kỹ năng cần thiết để người


lao động có thể thực hiện một công việc nào đó trong tương
lai.
Đào tạo nghề cho người lao động bao gồm các hình
thức:
- Đào tạo nghề mới: Là đào tạo những người chưa có
nghề, gồm những người trong độ tuổi lao động nhưng trước
đó chưa được học nghề và cả những người đến độ tuổi lao
động chưa được học nghề. Việc đào tạo mới nhằm tăng

thêm lực lượng lao động qua đào tạo cho xã hội.
- Đào tạo lại nghề: Là đào tạo đối với những người đã
có nghề, có chuyên môn nhưng do yêu cầu mới của sản xuất
và tiến bộ kĩ thuật buộc phải thay đổi cơ cấu ngành nghề,
trình độ chuyên môn nên người lao động được đào tạo lại
cho phù hợp với cơ cấu ngành nghề và trình độ kĩ thuật mới.
Đây chính là quá trình tạo cho người lao động cơ hội được
học tập một lĩnh vực chuyên môn mới để thay đổi nghề.
- Bồi dưỡng nâng cao tay nghề: Là quá trình cập nhật hoá
kiến thức còn thiếu, bổ túc tay nghề củng cố kĩ năng nghề theo


từng chuyên môn. Loại hình này thường được xác nhận bằng 1
chứng chỉ hay nâng bậc cao hơn.

- Đào tạo nghề và đào tạo nghề ngắn
hạn cho lao động nông thôn
- Đào tạo nghề cho LĐNT
- Đặc điểm của LĐNT
- LĐNT là những người đang làm trong lĩnh vực nông
nghiệp hoặc lĩnh vực có liên quan. Họ làm nông nghiệp theo
kiểu “cha truyền con nối”, theo kinh nghiệm truyền từ đời
này qua đời khác theo kiểu truyền miệng, dạy trực tiếp trong
quá trình lao động. Nhiều khi họ làm việc một cách máy
móc, không hiểu tại sao phải làm việc như vậy, không hiểu
được cơ sở khoa học của những công việc cụ thể đó là gì…
Làm việc theo cách đó thì công việc kém hiệu quả, năng
suất lao động thấp, đời sống không đảm bảo.
- Là những người trong độ tuổi lao động nhưng chỉ
tham gia làm nông nghiệp rất ít, chỉ làm một số công đoạn,



các công đoạn còn lại họ đi thuê mướn lao động chứ không
trực tiếp làm. Bản thân họ lại đi làm các việc khác trong lĩnh
vực phi nông nghiệp.
- Là những người đã được giao ruộng đất nhưng không
trực tiếp làm mà cho thuê lại, rồi bản thân họ lại đi làm thuê
cho chính người đã thuê ruộng. Họ là những người đang
sinh sống ở nông thôn nhưng “không thích làm chủ mà chỉ
thích làm thuê” vì không có năng lực quản lí điều hành sản
xuất, do kém hiểu biết, do không có vốn đầu tư cho sản xuất
nông nghiệp…
- Là những người sinh sống ở khu vực nông thôn
nhưng không làm nông nghiệp mà kinh doanh buôn bán các
sản phẩm nông nghiệp hoặc sản phẩm phục vụ nông nghiệp
… họ trở thành “các thương lái” trong lĩnh vực nông nghiệp
hoặc lĩnh vực liên quan.
- Là những người lao động ở khu vực nông thôn, họ
chỉ tham gia sản xuất nông nghiệp theo mùa vụ. Khi nông
nhàn, họ tham gia buôn bán nhỏ các sản phẩm nông nghiệp
và phi nông nghiệp để kiếm tiền phục vụ cho cuộc sống.


- Là những người ngoài độ tuổi lao động (nam hơn 60
tuổi, nữ hơn 55 tuổi) hoặc thậm chí chưa đến tuổi lao động
nhưng cũng tham gia lao động ở nông thôn trong khu vực
nông nghiệp hoặc có liên quan. Những người này phần lớn
do cuộc sống khó khăn nên thay vì được nghỉ ngơi khi đã
lớn tuổi hoặc là trẻ em đang độ tuổi đi học bị buộc phải thôi
học phải tham gia lao động sản xuất để cải thiện cuộc sống

khó khăn.
- Là những người đã tốt nghiệp các trường đại học, cao
đẳng nhưng không xin được việc làm theo nghề đã học nên
phải trở về quê hương tham gia lao động sản xuất trong lĩnh
vực nông nghiệp hoặc phi nông nghiệp ở khu vực nông
thôn. Lực lượng lao động này có nhiều hiểu biết hơn nêu có
ưu điểm tiếp thu kinh nghiệm sản xuất nhanh hơn, một số
người lại chịu khó học hỏi qua sách báo, các phương tiện
truyền thông, mạng xã hội … nên năng suất lao động có
phần cao hơn.
- LĐNT đặc biệt ở vùng dân tộc thiểu số, vùng sâu,
vùng xa có trình độ học vấn thấp, ít hiểu biết, nhiều phong
tục tập quán lạc hậu, nhiều người chỉ biết tiếng dân tộc mình


mà không biết hoặc biết rất ít tiếng Việt nên giao tiếp rất hạn
chế. Họ chỉ quen sống ở trong các bản mường, thôn xóm…
của mình. Hơn nữa đời sống lại quá khó khăn, ít được học
hành và tiếp xúc với mọi người, với các phương tiện truyền
thông đại chúng… nên tầm hiểu biết rất hạn chế. Họ tham
gia sản xuất nông nghiệp với những kinh nghiệm lạc hậu
nên năng suất lao động thấp kém, chất lượng cuộc sống rất
thấp.
- Đào tạo nghề cho LĐNT
a. Khái niệm:
Đào tạo nghề cho LĐNT là hoạt động dạy và học
nhằm trang bị kiến thức, kĩ năng và thái độ nghề nghiệp cần
thiết cho LĐNT để khi hoàn thành khoá học họ có khả năng
tìm việc làm ở lĩnh vực nông nghiệp hoặc phi nông nghiệp
hoặc học lên trình độ cao hơn.

b. Đặc điểm của ĐTN cho LĐNT
- LĐNT được tham gia vào chương trình ĐTN 1956 do
Chính phủ ban hành. Trong đó ưu tiên những người được
hưởng chính sách ưu đãi, người có công với cách mạng,


những hộ nghèo, người dân tộc thiểu số, người tàn tật,
người bị thu hồi đất canh tác… những người này được
hưởng chính sách ưu đãi nếu họ tham gia học nghề ở các cơ
sở ĐTN của Nhà nước, hoặc các cơ sở liên kết với các
trường nghề của Nhà nước. Đặc biệt ưu tiên cho học nghề
ngắn hạn để đáp ứng nhu cầu trước mắt của LĐNT.
- Kinh phí hỗ trợ cho ĐTN được lấy chủ yếu từ ngân
sách Trung ương, ngoài ra còn có sự đóng góp của các
doanh nghiệp, của địa phương. Trong đó ngân sách trung
ương đảm bảo kinh phí ĐTN, hỗ trợ LĐNT học nghề. Các
doanh nghiệp, các cá nhân, hộ gia đình tham gia ĐTN cũng
được hưởng mức thuế ưu đãi theo quy định của pháp luật
hiện hành.
- Muốn ĐTN cho LĐNT có hiệu quả thì trước hết phải
có sự phối kết hợp với các tổ chức xã hội (hội Phụ nữ, hội
CCB, hội Nông dân, Đoàn TN…) để làm tốt công tác tuyên
truyền vận động các tầng lớp nhân dân, LĐNT hiểu được
tầm quan trọng của ĐTN cho người lao động để họ động
viên, khuyến khích, tạo điều kiện cho con em, người thân đi
học nghề.


- Phải có sự liên kết đào tạo giữa các trường nghề, cơ
sở ĐTN với các doanh nghiệp tư nhân và Nhà nước đóng

trên địa bàn để vừa kết hợp dạy lí thuyết ở trường nghề,
thực hành nghề ở các doanh nghiệp, các cơ sở sản xuất để
gắn lí thuyết với thực tiễn đào tạo nghề.
- Để xây dựng kế hoạch ĐTN phù hợp cho LĐNT thì
các trường nghề và các cơ sở dạy nghề cần điều tra xác định
nhu cầu học nghề của LĐNT, nhu cầu tuyển dụng ngắn hạn,
dài hạn người lao động của các doanh nghiệp, các cơ sở sản
xuất… trên địa bàn và các vùng lân cận để gắn đào tạo với
sử dụng, tạo cơ hội việc làm cho người lao động.
- Đào tạo nghề ngắn hạn cho LĐNT
- Khái niệm
Đào tạo nghề ngắn hạn cho LĐNT là hoạt động dạy và
học nhằm trang bị kiến thức, kĩ năng và thái độ nghề nghiệp
cần thiết phù hợp với trình độ đào tạo cho LĐNT để khi
hoàn thành khoá học họ có khả năng tìm việc làm ở lĩnh
vực nông nghiệp hoặc lĩnh vực có liên quan.
- Đặc trưng của ĐTN ngắn hạn cho LĐNT


×