Tải bản đầy đủ (.docx) (45 trang)

CƠ sở lý LUẬN về dạy NGHỀ CHO LAO ĐỘNG NÔNG THÔN tại TRUNG tâm GIÁO dục NGHỀ NGHIỆP GIÁO dục THƯỜNG XUYÊN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (160.97 KB, 45 trang )

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ DẠY NGHỀ CHO LAO ĐỘNG
NÔNG THÔN TẠI TRUNG TÂM GIÁO DỤC NGHỀ
NGHIỆP - GIÁO DỤC THƯỜNG XUYÊN


- Tổng quan nghiên cứu vấn đề
Trên thế giới, việc nghiên cứu về lao động và lao động
nông thôn đã được nhắc đến nhiều nhất là trong lĩnh vực kinh
tế, xã hội học. Trong cuốn “Của cải của các dân tộc” năm
1776 cuốn sách kinh điển lớn đầu tiên về thuyết kinh tế của
nhà kinh tế học Adam Smitd cũng đã có nhiều quan tâm đến
vấn đề lao động khi ông dành khá nhiều cho những vấn đề về
phân công lao động; nguyên tắc chi phối việc phân công lao
động, mức độ phân công lao động bị hạn chế bởi quy mô của
thị trường; tiền công lao động; tiền công và lợi nhuận trong
cách sử dụng lao động và vốn v.v. Điều hết sức quan trọng là
trong nghiên cứu của mình khi đi tìm nguồn gốc tạo ra của cải
của các dân tộc ông đã nhấn mạnh vai trò của sự phân công
lao động và cho rằng người ta chỉ trao đổi hàng hóa khi nhận
thức được là “chuyên môn hóa có lợi cho tất cả các bên”. Ông
đã chứng minh kết quả của việc phân công lao động bằng một
thí dụ mà chính ông đã biết. Ông nhận thức rằng, sự phân
công lao động không những làm cho công việc của con người
dễ chịu hơn, họ làm được nhiều sản phẩm hơn mà nó còn tăng
cường những quan hệ phụ thuộc lẫn nhau trong xã hội. Những
vấn đề cơ bản trên là nền tảng lý luận về chuyển dịch cơ cấu


lao động, coi đó như là tất yếu nếu muốn sản xuất phát triển,
tạo thêm của cải cho các dân tộc. Đây là cơ sở quan trọng cho
sự nghiên cứu về phân công lao động và tác động của nó đến


nền kinh tế, trong đó có vấn đề đặt ra đối với các hoạt động
dạy nghề cho lao động nông thôn [1].
Joseph E.Stinglitz là nhà kinh tế học, nhà giáo dục với
tác phẩm “Kinh tế công cộng” năm 1995 được ấn hành tại
New York và London cũng đã có những nghiên cứu về các
vấn đề lao động và việc làm như vấn đề về thuế và tác động
của thuế đến lao động; những tác động đến lao động. Những
nghiên cứu này được coi là những nghiên cứu về sự tác động
của các cá nhân tới chuyển dịch lao động gia đình từ hoạt
động kinh tế này sang hoạt động kinh tế khác. Đây là những
vấn đề tạo lập những cơ sở cho nghiên cứu về dạy nghề cho
lao động nông thôn [5].
Michael P.Todaro với tác phẩm “Kinh tế học cho thế giới
thứ ba” năm 1998 đã giới thiệu kết quả nghiên cứu về những
nguyên tắc, vấn đề và chính sách phát triển…đã dành thời
lượng đáng kể cho vấn đề nông nghiệp nông thôn, về lao động
và ảnh hưởng của nó đến phát triển kinh tế xã hội, những vấn
đề về dân số, nghèo đói và tấn công vào nghèo đói; vấn đề


thất nghiệp những khía cạnh của một số vấn đề toàn cầu; di cư
từ nông thôn ra thành thị: lý thuyết và chính sách; nông
nghiệp trì trệ và các cơ cấu ruộng đất. Những vấn đề trên có
thể tạo lập những cơ sở lý thuyết cơ bản cho những vấn đề về
công nghiệp hóa, hiện đại hóa và vấn đề dạy nghề cho lao
động nông thôn của nhiều nước, trong đó có nước ta [8].
E. Wayne Nafziger, trong tác phẩm “Kinh tế học cho thế
giới thứ ba” năm 1998 đã có những phần nghiên cứu rất quan
trọng liên quan đến chuyển dịch cơ cấu lao động và giải quyết
việc làm trong chuyển dịch cơ cấu lao động nông nghiệp, nông

thôn như: tài nguyên thiên nhiên, đất đai và khí hậu; sự nghèo
đói ở nông thôn và chuyển đổi nông nghiệp; việc làm, di cư và
đô thị hóa; dân số phát triển [4].
Như vậy, những công trình nghiên cứu ở nước ngoài
không những chỉ ra các vấn đề mang tính quy luật của các vấn
đề liên quan đến lao động và người lao động, mà có một số
nội dung gợi mở những giải pháp giải quyết những vấn đề
liên quan đến lao động nông thôn, trong đó có đào tạo nghề
cho người lao động. Chính những yếu tố ấy sẽ đóng góp rất
nhiều cho công trình nghiên cứu về dạy nghề cho trong xây
dựng nông thôn mới trong giai đoạn hiện nay.


Ở Việt Nam Vấn đề dạy nghề và dạy nghề cho người lao
động nông thôn đã được đề cập nhiều trong các văn kiện của
Đảng và Nhà nước, các công trình nghiên cứu khoa học dưới
nhiều góc độ khác nhau.
Nguyễn Quang Huề, Nguyễn Tuấn Doanh có bài viết về
“Đào tạo nguồn nhân lực cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước” trong Tạp chí Thông tin thị trường lao động, số 2 1999. Các tác giả đã nêu bật xu thế của công ngiệp hóa, hiện
đại hóa và những vấn đề đặt ra cho vấn đề đào tạo nguồn nhân
lực đáp ứng yêu cầu của CNH - HĐH [9].
Năm 2000, Trương Văn Phúc có bài viết đăng trên Tạp
chí Lao động - Xã hội số 11/2000, với tiêu đề “Thực trạng
lực lượng lao động 1996 - 2000 và một số vấn đề cần quan
tâm trong chiến lược phát triển nguồn nhân lực 2001 - 2005”.
Bài viết đã tập trung phân tích thực trạng lực lượng lao động
trên các mặt và biến động của nó trong giai đoạn 1996 - 2000;
nêu lên những thành tựu và những vấn đề đặt ra cho phát triển
nguồn nhân lực giai đoạn 2001 - 2005, trong đó vấn đề dạy

nghề được nhấn mạnh như là một trong các giải pháp trọng
yếu của hệ thống các giải pháp [17].
Năm 2000, tác giả Phạm Đức Thành và Lê Doãn Khải
đã xuất bản cuốn “Quá trình chuyển dịch cơ cấu lao động


theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở vùng Bắc Bộ
nước ta” [12]. Công trình khoa học trên đã hệ thống hóa cơ
sở khoa học của quá trình cơ cấu lao động theo hướng CNH HĐH trong nông nghiệp, nông thôn Việt Nam; đã đánh giá
thực trạng chuyển dịch cơ cấu lao động theo hướng CNH HĐH trong nông nghiệp, nông thôn ở vùng Đồng bằng Bắc
Bộ; đã đưa ra các quan điểm và giải pháp cơ bản nhằm đẩy
nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu lao động theo hướng
CNH - HĐH trong nông nghiệp, nông thôn vùng Đồng bằng
Bắc Bộ đến 2010. Công trình nghiên cứu của tập thể tác giả
đã tập trung vào các vấn đề của chuyển dịch cơ cấu lao động
trong điều kiện tác động của CNH - HĐH. Nó chỉ đề cập đến
nội dung nhỏ của đề tài luận văn. Hơn nữa đề tài lấy đối
tượng chính là cơ cấu lao động và sự tác động của CNH HĐH. Vì vậy, tuy công trình có những điểm liên quan với nội
dung đề tài luận văn, nhưng không đề cập đến vấn đề dạy
nghề cho người lao động với tư cách là đối tượng nghiên cứu
chính.
Năm 2004 - 2005 Chương trình khoa học cấp Nhà nước
mã số KX02 triển khai đề tài “Con đường, bước đi và các giải
pháp chiến lược để thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa
nông nghiệp và nông thôn” do Nguyễn Kế Tuấn làm chủ


nhiệm [16]. Đề tài tập trung vào các vấn đề như: những vấn đề
lý luận về CNH - HĐH nông nghiệp và nông thôn; hội nhập
kinh tế quốc tế của nông nghiệp nông thôn và tác động đến

việc thực hiện CNH - HĐH nông nghiệp và nông thôn; con
đường, bước đi và các giải pháp chiến lược đẩy nhanh quá
trình CNH - HĐH nông nghiệp và nông thôn. Đề tài đã hoàn
thành vào năm 2005 và kết quả nghiên cứu đã biên tập, xuất
bản thành sách. Đây là công trình nghiên cứu mới nhất về
CNH - HĐH nông nghiệp và nông thôn. Tuy nhiên trong
nghiên cứu, những vấn đề về dạy nghề chỉ được đề cập như là
những chịu sự ảnh hưởng của CNH - HĐH nông nghiệp và
nông thôn. Vì vậy, việc trình bày các vấn đề dạy nghề cho lao
động nông thôn chỉ là một bộ phận của giải pháp tạo việc làm
cho người lao động nông thôn.
Trong “Chiến lược phát triển Nông nghiệp nông thôn đến
năm 2010” của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn xây
dựng năm 2000, vấn đề đào tạo nghề cho lao động nông thôn
cũng đã được đề cập với các nội dung như: Sự cần thiết, nhu cầu
đào tạo, một số giải pháp chủ yếu cần triển khai để thực thi chiến
lược [10].


Khái quát những công trình nghiên cứu trên cho thấy: Tuy
đã có nhiều nghiên cứu về dạy nghề nói chung, dạy nghề cho
người lao động nông thôn nói riêng và các vấn đề liên quan,
song các công trình nghiên cứu trên chỉ nghiên cứu về dạy nghề
nói chung, hoặc nghiên cứu một vài lĩnh vực của dạy nghề của
từng địa phương. Hiện chưa có công trình nào ở trong và ngoài
nước nghiên cứu một cách tổng thể và chi tiết về“Dạy nghề
cho lao động nông thôn tại trung tâm GDNN - GDTX huyện
Kiến Thụy, thành phố Hải Phòng ”.
- Các khái niệm công cụ
- Dạy nghề

Nghề được hiểu là một lĩnh vực hoạt động lao động mà
trong đó, nhờ được đào tạo mà con người lao độngnắm vững
được những tri thức, hình thành và phát triển được những kỹ
năng để tạo ra các loại sản phẩm vật chất hoặc tinh thần nào
đó nhằm thỏa mãnvà đáp ứngđược những nhu cầu của bản
thân và xã hội.
Dạy nghề là những hoạt động giúp cho người học có
được các kiến thức về lý thuyết và kĩ năng thực hành một số
nghề nào đó để sau một thời gian nhất định người học có thể
đạt được một trình độ để tự hành nghề, tìm việc làm hoặc tiếp


tục học tập nâng cao tay nghề theo những chuẩn mực mới. Dạy
nghề có 3 giai đoạn cơ bản: (1) Dạy nghề cho người chưa biết
gì về nghề trở thành người bán lành nghề. (2) Dạy nghề cho
người bán lành nghề trở thành người lành nghề. (3) Dạy nghề
cho người lành nghề trở thành những người lành nghề ở trình
độ cao.
Luật dạy nghề năm 2006: “Dạy nghề là hoạt động dạy
và học nhằm trang bị kiến thức, kỹ năng và thái độ nghề
nghiệp cần thiết cho người học nghề để có thể tìm được việc
làm hoặc tự tạo việc làm sau khi hoàn thành khóa học” [15].
Trong nghiên cứu tôi sẽ sử dụng khái niệm “Dạy nghề” trong
Luật dạy nghề để phục vụ cho quá trình làm luận văn.
- Lao động nông thôn
Nông thôn là vùng lãnh thổ rộng lớn, trong đó hoạt động
nông nghiệp đóng vai trò chủ yếu và quan trọng, nông dân là
bộ phận dân cư chủ yếu của nguồn lao động nông thôn. Sự
khác nhau giữa khái niệm dạy nghề nói chung và dạy nghề
cho lao động nông thôn là ở đối tượng của dạy nghề - những

người lao động nông thôn và những điều kiện gắn với quá
trình dạy nghề đó.


Lao động nông thôn là những người thuộc lực lượng lao
động và hoạt động trong hệ thống kinh tế nông thôn. Lao động
nông thôn là những người dân không phân biệt giới tính, tổ
chức, cá nhân sinh sống ở vùng nông thôn, có độ tuổi từ 15 trở
lên, hoạt động sản xuất ở nông thôn [14]. Trong đó bao gồm
những người đủ các yếu tố về thể chất, tâm sinh lý trong độ tuổi
lao động theo quy định của Luật lao động và những người
ngoài độ tuổi lao động có khả năng tham gia sản xuất, trong
một thời gian nhất định họ hoàn thành công việc với kết quả đạt
được một cách tốt nhất.
- Dạy nghề cho lao động nông thôn
Từ các khái niệm về nghề, dạy nghề và khái niệm lao
động nông thôn như đã trình bày ở trên, trong phạm vi luận văn
tốt nghiệp này chúng tôi sử dụng khái niệm dạy nghề cho lao
động nông thôn là quá trình mà ở đó người dạy nghề tổ chức
các hoạt động giúp người lao động được trang bị hệ thống kiến
thức, kĩ năng, kĩ xảo và sự khéo léo, thành thục một nghề
nghiệp nhất định thông qua hoạt động thực hành nhằm đáp
ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội nông thôn trong một giai
đoạn nhất định.
Dạy nghề cho lao động nông thôn có tầm quan trọng đặc


biệt, vừa có tính nhân văn vừa có tính xã hội rất cao, có vai
trò quan trọng đối với phát triển vốn con người, nguồn nhân
lực, tăng trưởng kinh tế, tạo việc làm, tăng thu nhập cho con

người lao động, giảm nghèo, thực hiện công bằng xã hội, góp
phần phát triển kinh tế - xã hội bền vững. Dạy nghề là một
trong những giải pháp đột phá của chiến lược phát triển kinh
tế - xã hội, nhằm đào tạo nguồn nhân lực, phát triển nhanh đội
ngũ lao động kỹ thuật trực tiếp, phục vụ CNH - HĐH đất
nước; góp phần bảo đảm an sinh xã hội. Thực tiễn quá trình
phát triển kinh tế tại Việt Nam, khi lao động nông thôn được
sử dụng tốt thì kinh tế phát triển nhanh và bền vững, tránh rơi
vào “cái bẫy” đẩy nhanh CNH, không chú trọng đến phát triển
nông nghiệp, nông thôn đã có những thời điểm rơi vào tình
trạng khó khăn, gấy lãng phí sức lao động nông thôn và kéo
theo hệ quả thu nhập lao động nông thôn thấp, mất ổn định xã
hội. Vì vậy, dạy nghề và nâng cao chất lượng dạy nghề cho
lao động nói chung và lao động nông thôn nói riêng là yêu
cầu cấp bách của nên kinh tế, dạy nghề được coi là quốc sách
hàng đầu.
Như vậy, dạy nghề cho lao động là hoạt động có mục
đích, có kế hoạch, có tổ chức, có dung và bằng phương pháp
khoa học nhằm truyền đạt những kiến thức, kỹ năng, kỹ xảo


của một nghề nào đó cho người lao động ở khu vực nông
thôn, từ đó tạo ra năng lực cho người lao động để họ có thể
thực hiện thành công nghề đã được đào tạo, góp phần vào quá
trình xây dựng nông thôn mới trên địa bàn.
- Biện pháp
Từ điển Tiếng việt, Nhà xuất bản khoa học xã hội - Hà
nội 1994, định nghĩa khái niệm biện pháp như sau:
Biện pháp (danh từ): Cách làm, cách giải quyết một vấn
đề cụ thể, như: Biện pháp hành chính; Biện pháp kĩ thuật; Có

biện pháp đúng [13]
Cũng theo sách trên, nêu định nghĩa về phương pháp:
Phương pháp (danh từ) với nghĩa là: Hệ thống các cách sử
dụng để tiến hành một hoạt động nào đó. Như phương pháp
học tập, làm việc có phương pháp v.v[13]. Thực ra “Khái
niệm phương pháp là một phạm trù phức tạp, có phạm vi bao
quát rộng với nhiều cấp độ và rất phong phú về nội dung và
chủng loại” [6]. Tuy nhiên, trong phạm vi và mức độ nghiên
cứu ở đây ta có thể hiểu: Để đạt được mục đích hoặc cho ra
một kết quả nào đó chúng ta cần phải có một hệ thống các
cách thức tiến hành cụ thể trong hoạt động thực tiễn hay nói
cách khác là phải có các biện pháp.


- Đặc điểm của nông thôn và lao động nông thôn hiện nay
- Đặc điểm nông thôn hiện nay
Từ những khái niệm trên đây có thể đưa ra một số đặc
trưng cơ bản của vùng nông thôn như sau:
1/ Nông thôn là vùng sinh sống và làm việc của một
cộng đồng chủ yếu là nông dân. là vùng sản xuất nông nghiệp
là cơ bản, ngoài ra còn có các hoạt động sản xuất và phi sản
xuất khác phục vụ chủ yếu cho nông nghiệp và cho nông dân.
2/ So với thành thị thì nông thôn là vùng có kết cấu hạ
tầng kém phát triển hơn, trình độ sản xuất hàng hoá và tiếp
cận thị trường thấp hơn. Vì vậy nông thôn chịu sức hút của
thành thị về nhiều mặt. Dân cư nông thôn thường hay đổ xô
về thành thị để kém việc làm và tìm cơ hội sống tốt hơn.
3/ Nông thôn có thu nhập và đời sống thấp hơn, trình độ
văn hoá, khoa học công nghệ thấp hơn thành thị và ngay cả
trình độ dân chủ, tự do, công bằng xã hội trong một chừng

mực nào đó cũng thấp hơn thành thị.
4/ Nông thôn giàu tiềm năng về tài nguyên thiên nhiên
như đất đai, nguồn nước, khí hậu... nhưng rất đa dạng về
kinh tế, xã hội, đa dạng về các hình thức tổ chức quản lý,
đa dạng về quy mô và trình độ phát triển. Tính đa dạng đó
không chỉ diễn ra giữa các nước khác nhau mà ngay giữa


các vùng nông thôn khác nhau của mỗi nước. Điều đó có
ảnh hưởng không nhỏ đến khả năng khai thác tài nguyên và
các nguồn lực để đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững.
Xuất phát từ 4 đặc trưng cơ bản trên, có 4 vấn đề cần
quan tâm khi quy hoạch:
- Có những chương trình hợp lý để dần dần cải tạo và
phát triển nông thôn, rút ngắn khoảng cách nông thôn thành
thị, thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá ngay từ địa bàn
nông thôn như đầu tư về điện, đường, trường, trạm, áp dụng
các tiến bộ kỹ thuật để nâng cao các hoạt động kinh tế.
- Phải nắm chắc điều kiện cụ thể của từng vùng nhằm
khai thác tốt tiềm năng của vùng đó (mỗi vùng có những nhân
tố khác nhau về điều kiện tự nhiên và mỗi vùng luôn có
những tiềm năng đặc thù riêng). Cần phát huy tiềm năng của
từng vùng và không được áp đặt cho các vùng khác nhau.
- Cần phải phân loại nông thôn theo trình độ phát triển,
theo điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội. Từ đó có phương
hướng, giải pháp thích hợp để phát triển nông thôn.
- Tính chất đa dạng của nông thôn đòi hỏi khi xây dựng
và phát triển nông thôn phải nắm chắc các điều kiện cụ thể
của từng vùng, khai thác và sử dụng tốt nhất tiềm năng của
từng vừng. Tiếp tục nghiên cứu, phân loại các vùng nông thôn

theo trình độ phát triển, theo điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã


hội để có phương hướng và giải pháp thích hợp nhằm xây
dựng các vùng nông thôn khác nhau.
- Đặc điểm lao động nông thôn hiện nay
Lao động nông thôn là người làm công ăn lương ở nông
thôn, làm ngành nghề phi nông nghiệp trên các địa bàn cả ở
nông thôn và đô thị. Hiện nay, chỉ tính riêng số lượng lao
động nông thôn làm việc tại các khu công nghiệp và đô thị
trên cả nước (thường được biết qua các thuật ngữ lao động
nhập cư hay lao động ngoại tỉnh) ước tính cũng phải gần hai
triệu người. Ngoài ra, còn hàng triệu lao động thời vụ và
chuyên nghiệp “ly nông bất ly hương”, đặc biệt tập trung tại
các làng nghề.
Tác động của cuộc khủng hoảng kinh tế - tài chính thế
giới làm cho sản phẩm làng nghề tiêu thụ chậm, giá bán giảm
sút, sản xuất gặp khó khăn, thị trường tiêu thụ bị thu hẹp. Hiện
có một số làng nghề đã phá sản và nhiều làng nghề khác đang
cầm cự sản xuất. Suy thoái kinh tế toàn cầu đã ảnh hưởng xấu
đến cả thị trường trong nước. Hiệp hội làng nghề Việt Nam
cho biết, trong năm 2010-2013 khoảng 5 triệu lao động thời vụ
và chuyên nghiệp ở các làng nghề không có đủ việc làm.


Ảnh hưởng của suy thoái kinh tế thế giới trong thời gian
vừa qua - theo khảo sát của Viện Chính sách và Chiến lược
phát triển nông nghiệp và nông thôn tại 8 tỉnh Lạng Sơn, Bắc
Kạn, Nam Định, Nghệ An, Quảng Nam, Bình Thuận, Đăk Lăk
và An Giang - đã khiến cho 17,8% lao động nông thôn di cư

vào thành phố hoặc làm việc trong các doanh nghiệp tại địa
phương mất việc làm. Có tới 71% số xã trong tổng số các xã
được khảo sát có lao động mất việc trở về. Một trong những
nguyên nhân cơ bản khiến mức độ mất việc làm ở lao động
nông thôn nhập cư vào đô thị cao hơn các nhóm lao động
khác là do tay nghề thấp hoặc không có nghề chuyên môn cụ
thể.
Hậu quả cắt giảm nhân công tại các khu vực công
nghiệp và dịch vụ đã đẩy số lớn lao động trở về khu vực nông
thôn; từ đó làm chậm lại quá trình chuyển dịch lao động, đồng
thời tạo thêm sức ép cho khu vực nông thôn vốn thiếu việc
làm. Những tác động tiêu cực diễn ra cũng tạo khó khăn,
thách thức lớn cho việc thực hiện chương trình mục tiêu quốc
gia về việc làm. Theo kết quả điều tra về việc làm, tỷ lệ lao
động thiếu việc làm ở nước ta tăng dần qua các năm và tỷ lệ
thiếu việc làm ở nông thôn luôn lớn hơn ở khu vực thành thị.


Số lượng nhân lực đã qua đào tạo còn thấp, chất lượng
lại không cao, do vậy lao động nông thôn thường thiếu kinh
nghiệm trong công việc. Cơ cấu nguồn nhân lực đã qua đào
tạo trong các lĩnh vực nói chung, trong lĩnh vực nông nghiệp
nói riêng, còn mất cân đối với đặc điểm “thừa thầy - thiếu
thợ” hoặc “thiếu tổng thể - thừa cục bộ”. Cho đến nay, các
chương trình khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư tuy thu
được một số kết quả nhất định, nhưng về tổng thể, chưa đáp
ứng được yêu cầu hình thành những ngành, nghề mới ở nông
thôn. Trong khi đó, hiện vẫn chưa có chương trình dạy nghề
riêng cho đối tượng những người nông dân có đất sản xuất bị
thu hồi để phát triển công nghiệp, đô thị và kết cấu hạ tầng.

Hệ thống đào tạo nghề chuyên môn kỹ thuật nước ta
hiện có 300 cơ sở, mỗi năm đào tạo được từ 85 nghìn đến 90
nghìn lao động. Năng lực đào tạo các khóa ngắn hạn theo nhu
cầu chính sách đối với lao động nông thôn, bộ đội xuất ngũ,
người tàn tật và những đối tượng khác hằng năm mới đạt
khoảng từ 110 đến 120 nghìn người. Cùng với hệ đào tạo lao
động kỹ thuật, cả nước hiện có 345 trường đại học cao đẳng,
273 trường trung học chuyên nghiệp. Hệ thống đào tạo này
cung cấp cho nền kinh tế nguồn nhân lực theo một cơ cấu
trình độ: 1 đại học, 0,8 trung học và 3,7 công nhân. Trong khi


đó, theo nghiên cứu của các chuyên gia, cơ cấu lao động kỹ
thuật hợp lý phải là: 1 đại học, 4 trung học chuyên nghiệp và
15 - 20 công nhân (lao động kỹ thuật). Những tính toán của
chuyên gia Trung tâm Thông tin và Dự báo Kinh tế - Xã hội
Quốc gia (NCEIF) vào năm 2009 cho thấy, nếu tiếp tục đào
tạo theo hệ thống hiện hành, đến năm 2015 Việt Nam sẽ thiếu
từ 3,8 triệu đến 5,12 triệu lao động kỹ thuật, thiếu từ 3,14
triệu đến 3,4 triệu lao động có trình độ trung học chuyên
nghiệp và thừa từ 3,6 triệu đến 3,68 triệu lao động có trình độ
đại học, cao đẳng. Nếu tính riêng khu vực nông thôn, thì mức
độ thừa đại học và cao đẳng còn lớn hơn, và mức độ thiếu lao
động kỹ thuật cũng cao hơn.
Tình hình trên đây đòi hỏi phải triển khai dạy nghề cho
lao động nông thôn nói chung và lao động làm công ăn lương
nói riêng, trên diện rộng, từ những nghề nông, lâm, ngư
nghiệp cho đến các ngành, nghề tiểu - thủ công nghiệp và
dịch vụ v.v.
Từ đặc điểm nông thôn và những phân tích trên chúng

tôi đưa ra 3 đặc điểm sau về lao động nông thôn:
Đặc điểm thứ nhất:Đối tượng đào tạo nghề cho lao
động nông thôn có số lượng lớn. Trên thực tế, loài người xuất
hiện bắt đầu từ hoạt động sản xuất nông nghiệp, vì vậy tuyệt


đại đa số bắt đầu từ làm nông nghiệp. Xã hội ngày càng phát
triển ngành nghề mới càng xuất hiện, bộ phận dân cư nông
nghiệp chuyển dần sang các ngành nghề mới. Quá trình này
được đẩy nhanh khi các nước bước vào CNH. Vì vậy, đối với
những nước này, tỷ lệ dân số sống ở nông thôn và làm nông
nghiệp chiếm tỷ trọng lớn, thường 60 - 70%. Số lượng đào tạo
nghề cho lao động nông thôn không chỉ lớn do số lượng
nguồn lao động nông thôn, mà còn thể hiện ở chất lượng của
nguồn lao động nông thôn thấp nên yêu cầu đào tạo cao.
Đặc điểm thứ hai: Đối tượng đào tạo nghề của lao động
nông thôn rất đa dạng. Tính đa dạng của đối tượng đào tạo
được biểu hiện qua tính đa dạng của nguồn lao động nông
thôn.
Xét theo đối tượng của đào tạo nghề, nguồn lao động
nông thôn đa dạng theo độ tuổi, trạng thái sức khỏe, điều kiện
sản xuất kinh doanh và hoàn cảnh sống. Với mỗi đối tượng
trên, điều kiện tham gia đào tạo nâng cao chất lượng nguồn
lao động ở nông thôn có khác nhau. Vì vậy, đào tạo nghề cho
lao động nông thôn trong quá trình xây dựng nông thôn mới
cần được triển khai dưới nhiều hình thức thích hợp với điều
kiện và hoàn cảnh của họ. Với đặc điểm này, đào tạo nghề cho
lao động nông thôn có các hình thức đào tạo rất đa dạng và



nội dung phong phú.
Đặc điểm thứ ba:Đối tượng đào tạo nghề cho lao động
nông thôn có nguồn nội lực cho đào tạo rất hạn chế. Số lượng
các đối tượng đào tạo nghề rất lớn, phong phú về nghề và
hình thức đào tạo. Tuy nhiên, do đó là những cư dân ở nông
thôn nên điều kiện của họ cho việc học nghề rất hạn hẹp, nhất
là cho học ở bậc cao và theo các hình thức trường lớp.
Nguồn lao động trong nông nghiệp, nông thôn (đặc biệt là
bộ phận lao động sản xuất trực tiếp) làm việc có tính chất thời
vụ. Tính chất thời vụ của sản xuất nông nghiệp, đặc biệt trong
sản xuất trồng trọt, đòi hỏi việc tổ chức đào tạo nghề, tập huấn
các kiến thức liên quan về cây trồng, vật nuôi cũng phải được
sắp xếp phù hợp và kịp thời với thời vụ thì mới đạt hiệu quả
cao. Các hoạt động dạy nghề, vì vậy cần tạo điều kiện để các hỗ
trợ đào tạo liên quan như tiền vốn, tài liệu và các khuyến khích
khác được thông suốt để có thể tổ chức đào tạo tập huấn đúng
thời điểm yêu cầu. Việc đào tạo nâng cao nhận thức và các kiến
thức khác không phụ thuộc vào thời vụ cần được tổ chức vào
thời điểm nông nhàn để người dân có điều kiện tham gia đông
đủ hơn.
- Hoạt động dạy nghề cho lao động nông thôn tại trung
tâm Giáo dục nghề nghiệp - Giáo dục thường xuyên


- Ý nghĩa, vai trò, mục tiêu của dạy nghề cho lao động nông
thôn tại trung tâm Giáo dục nghề nghiệp - Giáo dục thường
xuyên
Dạy nghề cho lao động nông thôn ngay nay có vị trí, vai
trò rất quan trọng đối với phát triển vốn con người, nguồn
nhân lực, tăng trưởng kinh tế, tạo việc làm, tăng thu nhập cho

người lao động, giảm nghèo, thực hiện công bằng, đảm bảo an
sinh xã hội, góp phần phát triển kinh tế - xã hội bề vững ở khu
vực nông thôn nhất là nông thôn đang trong quá trình xây
dựng nông thôn mới.
Garry Becker, người Mỹ được giải thưởng Nobel kinh tế
năm 1992, khẳng định: “Không có đầu tư nào mang lại nguồn
lợi lớn như đầu tư vào nhân lực”.
Chúng ta tiến hành CNH - HĐH đất nước với thế mạnh
lớn nhất hiện có là nguồn lực lao động dồi dào. Nhưng chỉ với
nguồn lực lao động hiện có thì chưa thể đáp ứng được yêu cầu
phát triển kinh tế trong thời kỳ cách mạng KH - CN hiện đại;
thời kỳ trí tuệ hóa lao động, mở rộng quan hệ kinh tế, thương
mại quốc tế, hội nhập quốc tế hiện nay. Hiện nay, khi lượng
lao động của nước ta chưa qua đào tạo còn khá lớn chính vì
vậy chúng ta không còn sự lựa chọn nào khác, hoặc là đào tạo
nguồn nhân lực quý giá để phát triển đất nước hoặc là phải


chịu tụt hậu so với các nước khác.
(1) Vai trò cơ bản nhất của dạy nghề là đào tạo lực
lượng lao động có trí tuệ có trình độ chuyên môn kỹ thuật, tay
nghề cao.
Lịch sử nhân loại đã chứng minh rằng trí thức luôn có
vai trò to lớn đối với cuộc sống con người và sự phát triển xã
hội. Trong sự phát triển của lịch sử xã hội, sức mạnh của tri
thức được thể hiện ở sự phát triển KHKT và công nghệ được
vật chất hóa qua sự phát triển không ngừng và mạnh mẽ của
lực lượng sản xuất. Lực lượng sản xuất càng tiên tiến, hiện đại
bao nhiêu thì càng nói lên sức mạnh của trí tuệ con người bấy
nhiêu. Nghĩa là, trí tuệ con người có sức mạnh vô cùng to lớn

một khi nó được vật thể hóa trở thành lực lượng vật chất.
Yếu tố trí lực trong sức lao động đặc trưng cho lao động
hiện đại. Lao động hiện đại không còn là kinh nghiệm và thói
quen của họ mà là tri thức khoa học. Điều này được thể hiện
qua hàm lượng chất xám chiếm tỷ trọng lớn trong giá thành sản
phẩm; sự dịch chuyển mạnh mẽ cơ cấu kinh tế từ chiều rộng
sang chiều sâu; các ngành nghề có trình độ công nghệ cao được
tập trung phát triển; các lĩnh vực sản xuất phi vật chất ngày
càng chiếm tỷ trọng đáng kể trong nền kinh tế quốc dân. Cơ cấu
lao động cũng thay đổi theo hướng lao động trí tuệ tăng nhanh,


tầng lớp trí thức, nhân viên và công nhân có trí thức ngày càng
đông đảo. Phương thức hoạt động của con người đã chuyển từ
nguồn lực tự nhiên, lao động cơ bắp sang khai thác phổ biến
nguồn lao động trí tuệ.
(2) Đào tạo lực lượng lao động có phẩm chất đạo đức, bản
lĩnh nghề nghiệp
Phẩm chất đạo đức làm cho người ta biết sống cao đẹp,
lành mạnh, văn minh sống có ý nghĩa; biết hướng tới cái
đúng, cái hợp lý, chân, thiện, mỹ; biết cần cù, tiết kiệm, đoàn
kết hợp tác trong lao động để nhân thêm sức mạnh của con
người và dân tộc Việt Nam trong thời đại mới.
(3) Đào tạo lao động hợp lý, đáp ứng yêu cầu phát triển
và chuyển dịch cơ cấu kinh tế
Cơ cấu lực lượng lao động hợp lý sẽ cho phép sử dụng
có hiệu quả lực lượng lao động. Còn ngược lại, tất yếu sẽ gây
lãng phí sức lao động, hơn nữa còn gây ra hiệu quả tiêu cực
về kinh tế - xã hội.
- Đặc điểm của dạy nghề cho lao động nông thôn tại trung

tâm Giáo dục nghề nghiệp - Giáo dục thường xuyên
Dạy nghề cho lao động nông thôn có các đặc điểm sau:
Thứ nhất: đối tượng dạy nghề cho lao động nông thôn có
số lượng lớn. Trên thực tế, loài người xuất hiện bắt đầu từ


hoạt động sản xuất nông nghiệp, vì vậy tuyệt đại đa số bắt đầu
từ làm nông nghiệp. Xã hội ngày càng phát triển ngành nghề
mới càng xuất hiện, bộ phận dân cư nông nghiệp chuyển dần
sang các ngành nghề mới. Quá trình này được đẩy nhanh khi
các nước bước vào CNH. Vì vậy, đối với những nước này, tỷ
lệ dân số sống ở nông thôn và làm nông nghiệp chiếm tỷ trọng
lớn, thường 60 – 70%. Số lượng đào tạo nghề cho lao động
nông thôn không chỉ lớn do số lượng nguồn lao động nông
thôn, mà còn thể hiện ở chất lượng của nguồn lao động nông
thôn thấp nên yêu cầu đào tạo cao.
Thứ hai: đối tượng dạy nghề của lao động nông thôn rất
đa dạng. Tính đa dạng của đối tượng đào tạo được biểu hiện
qua tính đa dạng của nguồn lao động nông thôn.
Xét theo đối tượng của dạy nghề, nguồn lao động nông
thôn đa dạng theo độ tuổi, trạng thái sức khỏe, điều kiện sản
xuất kinh doanh và hoàn cảnh sống. Với mỗi đối tượng trên,
điều kiện tham gia đào tạo nâng cao chất lượng nguồn lao
động ở nông thôn có khác nhau. Vì vậy, dạy nghề cho lao
động nông thôn trong quá trình xây dựng nông thôn mới cần
được triển khai dưới nhiều hình thức thích hợp với điều kiện
và hoàn cảnh của họ. Với đặc điểm này, dạy nghề cho lao
động nông thôn có các hình thức đào tạo rất đa dạng và nội



dung phong phú.
Thứ ba: đối tượng dạy nghề cho lao động nông thôn có
nguồn nội lực cho đào tạo rất hạn chế. Số lượng các đối tượng
đào tạo nghề rất lớn, phong phú về nghề và hình thức đào tạo.
Tuy nhiên, do đó là những cư dân ở nông thôn nên điều kiện
của họ cho việc học nghề rất hạn hẹp, nhất là cho học ở bậc
cao và theo các hình thức trường lớp.
Nguồn lao động trong nông nghiệp, nông thôn (đặc biệt là
bộ phận lao động sản xuất trực tiếp) làm việc có tính chất thời
vụ. Tính chất thời vụ của sản xuất nông nghiệp, đặc biệt trong
sản xuất trồng trọt, đòi hỏi việc tổ chức đào tạo nghề, tập huấn
các kiến thức liên quan về cây trồng, vật nuôi cũng phải được
sắp xếp phù hợp và kịp thời với thời vụ thì mới đạt hiệu quả
cao. Các hoạt động dạy nghề, vì vậy cần tạo điều kiện để các hỗ
trợ đào tạo liên quan như tiền vốn, tài liệu và các khuyến khích
khác được thông suốt để có thể tổ chức đào tạo tập huấn đúng
thời điểm yêu cầu. Việc nâng cao nhận thức và các kiến thức
khác không phụ thuộc vào thời vụ cần được tổ chức vào thời
điểm nông nhàn để người dân có điều kiện tham gia đông đủ
hơn.
- Đặc điểm về chủ thể dạy nghề: Với đối tượng dạy nghề
trên đòi hỏi hệ thống dạy nghề, mà trước hết là chủ thể dạy


×