Tải bản đầy đủ (.pdf) (31 trang)

Tài liệu về quan hệ kinh tế quốc tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (328.12 KB, 31 trang )

PHẦN I: QUAN HỆ KINH TẾ QUỐC TẾ:
CÂU I: TRÌNH BÀY NHỮNG HIỂU BIẾT VỀ 2 HỌC THUYẾT KINH TẾ CỦA ADAM
SMITH VÀ DAVID RICARDO. NÊU Ý NGHĨA CỦA VIỆC NẮM VỮNG CÁC HỌC THUYẾT
NÀY ĐỐI VỚI CÁC NHÀ KINH DOANH QUỐC TẾ:
1. Học thuyết của Adam Smith: tư tưởng chính của Adam Smith về thương mại quốc tế
là:


Thương mại, đặc biệt là ngoại thương có tác dụng thúc đẩy sự phát triển kinh tế nước Anh
ghê ghớm. Nhưng theo ông nguồn gốc giàu có của nước Anh không phải là ngoại thương
mà là công nghiệp.



Mỗi quốc gia nên chuyên mơn hố vào những ngành sản xuất mà họ có lợi thế tuyệt đối,
có nghĩa sử dụng những lợi thế tuyệt đối đó cho phép họ sản xuất với chi phí thấp hơn các
nước khác, thì tổng sản lượng của cải vật chất của từng nước, cũng như của thế giới sẽ
tăng lên, kết quả làm cho mức sống tăng lên và nhờ đó nhu cầu ở các quốc gia thỏa mãn
tốt hơn. Quốc gia sẽ chỉ xuất khẩu những hàng hóa mà họ có lợi thế tuyệt đối, nhập khẩu
những hàng hóa mà họ khơng có lợi thế tuyệt đối. Thương mại khơng là quy luật trị chơi
bằng khơng mà là trị chơi tích cực, theo đó các quốc gia đều có lợi trong thương mại quốc
tế.



Tất cả các nước đều có lợi nếu tự do bn bán với nhau và không đồng ý sự can thiệp của
nhà nước. Trong tự do thương mại, nguồn lực của thế giới sẽ được phân phối có hiệu quả,
có lợi cho từng nước. Bất cứ sự can thiệp nào vào tiến trình tự nhiên của thương mại đều
cản trở sự phân phối có hiệu quả các nguồn lực của thế giới.




Cơ sở của lý thuyết này dựa trên thuyết lao động giá trị, nó cho rằng lao động là yếu tố duy
nhất của sản xuất vật chất, chất lượng lao động là như nhau, thời gian cần thiết để lao động
chuyển hóa thành vật chất như nhau.



Trong thực tế chúng ta thấy rằng:


Lao động khơng phải là yếu tố duy nhất của sản xuất.



Chất lượng lao động khơng thể đồng nhất.



Chi phí để sản xuất ra một hàng hóa khơng chỉ phụ thuộc vào số lượng lao động
đã sử dụng để tạo ra nó mà cịn phụ thuộc khoản thời gian cần thiết để lao động
chuyển hóa thành vật chất.



Do vậy, nếu chỉ có lợi thế tuyệt đối mới có thương mại quốc tế thì bao nhiêu nước có thể
thực hiện thương mại quốc tế? Một nước có mọi thế hơn hẳn các nước khác hoặc những
nước khơng có lợi thế tuyệt đối nào cả thì phải chăng khơng có thương mại quốc tế nói
riêng và quan hệ kinh tế quốc tế nói chung?




Tuy có những hạn chế, nhưng lý thuyết của A. Smith đã có những luận điểm hồn tồn
đúng đắn: lao động là thước đo thực tế của giá trị.

2. Học thuyết của David Ricardo: tư tưởng chính của David Ricardo về thương mại
quốc tế là:


Mọi nước ln có thể và rất có lợi tham gia vào q trình phân cơng lao động quốc tế. Bởi
vì phát triển ngoại thương cho phép mở rộng khả năng tiêu dùng của một nước: chỉ chun
mơn hố và sản xuất một số sản phẩm nhất định và xuất khẩu hàng hố của mình để đổi
lấy hàng nhập khẩu từ các nước khác.
Trang 1




Những nước có lợi thế tuyệt đối hồn tồn hơn các nước khác, hoặc bị kém lợi thế tuyệt
đối so với các nước khác trong sản xuất mọi sản phẩm, thì vẫn có thể và vẫn có lợi khi
tham gia vào phân công lao động và thương mại quốc tế bởi vì mỗi nước có một số lợi thế
nhất định về các mặt hàng khác.



Điều chính yếu trong lý thuyết của D. Ricardo là thương mại quốc tế không yêu cầu sự
khác nhau về lợi thế tuyệt đối. Thương mại quốc tế có thể xảy ra khi có lợi thế so sánh. Lợi
thế so sánh tồn tại bất cứ khi nào mà tương quan về lao động cho mỗi sản phẩm khác nhau
giữa hai hàng hóa.




Theo quy luật này, các quốc gia có thể chun mơn hóa và xuất khẩu sản phẩm mà họ
khơng có lợi thế tuyệt đối so với một nước khác, nhưng lại có lợi thế tuyệt đối lớn hơn
giữa hai sản phẩm trong nước (tức là họ có lợi thế tương đối hay lợi thế so sánh) và nhập
khẩu những sản phẩm mà lợi thế tuyệt đối nhỏ hơn giữa hai sản phẩm trong nước.



Lợi thế so sánh về một loại sản phẩm X nào đó thể hiện khả năng cạnh tranh của một quốc
gia trên thị trường thế giới. Xác định lợi thế so sánh giữa hai quốc gia, hay giữa các nước
trong khu vực có thể được xác định theo cơng thức sau:
RCA = E1/EC+E2/EW
Trong đó:





RCA (rate of comparative advantage): hệ số thể hiện lợi thế so sánh.



E1: Kim ngạch xuất khẩu sản phẩm X của quốc gia trong 01 năm.



EC: Tổng kim ngạch xuất khẩu của quốc gia trong 01 năm




E2: Tổng kim ngạch xuất khẩu sản phẩm X của thế giới trong 01 năm



EW: Tổng kim ngạch xuất khẩu của thế giới trong 01 năm.
Nếu RCA<= 1

: sản phẩm khơng có lợi thế so sánh

Nếu RCA<2.5

: Sản phẩm có lợi thế so sánh

Nếu RCA>= 2.5

: Sản phẩm có lợi thế so sánh rất cao

Tóm lại quy luật lợi thế so sánh của D. Ricardo là một trong những quy luật quan trọng
nhất của kinh tế quốc tế, đặt cơ sở, nền móng cho mậu dịch quốc tế. Cho đến nay bản chất
của quy luật lợi thế so sánh của ông vẫn không thay đổi, nó đúng với bất kỳ một quốc gia
nào. Tuy nhiên, học thuyết này cịn có những hạn chế cơ bản sau đây:


Trong chi phí sản xuất mới chỉ tính đến có một yếu tố duy nhất là lao động. Còn
các yếu tố khác như vốn, kỹ thuật, đất đai và trình độ của người lao động thì
khơng được đề cập đến. Do đó khơng thể tìm ra ngun nhân tại sao năng suất
lao động của nước này lại cao (thấp) hơn so với năng suất lao động của nước
khác. Thêm vào đó là khơng đề cập đến chi phí vận tải, bảo hiểm hàng hóa và
hàng rào bảo hộ mậu dịch mà các nước dựng lên. Các yếu tố này ảnh hưởng
quyết định đến hiệu quả của thương mại quốc tế.




Mặc dù học thuyết này có chứng minh được lợi ích của thương mại quốc tế,
nhưng vẫn khơng xác định được tỷ lệ giao hoán quốc tế, tức là giá cả quốc tế –
Căn bản vẫn là hàng đổi hàng.

Trang 2




Các phân tích của ơng khơng tính đến cơ cấu về nhu cầu tiêu dùng của mỗi nước,
cho nên dựa vào lý thuyết của ông người ta không thể xác định giá tương đối mà
các nước dùng để trao đổi sản phẩm.



Lý thuyết này khơng giải thích được nguồn gốc phát sinh của thuận lợi của một
nước đối với một loại sản phẩm nào đó, cho nên khơng giải thích triệt để nguyên
nhân sâu xa của quá trình thương mại quốc tế.

CÂU II: CÁC HÌNH THỨC LIÊN KẾT KINH TẾ QUỐC TẾ NHÀ NƯỚC. HÌNH THỨC
NÀO ĐƯỢC ÁP DỤNG PHỔ BIẾN? TẠI SAO?
Liên kết kinh tế quốc tế được xem là mối quan hệ kinh tế được hình thành dựa vào sự
thỏa thuận hai bên hoặc nhiều bên, ở tầm vĩ mô hoặc vi mô nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho
hoạt động kinh tế và thương mại phát triển.
Liên kết kinh tế quốc tế Nhà Nước là những liên kết kinh tế được hình thành trên cơ
sở Hiệp định được ký kết giữa hai hay nhiều chính phủ nhằm lập ra các liên minh kinh tế khu
vực nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động kinh tế đối ngoại phát triển.

Chủ yếu các liên kết kinh tế Nhà Nước được tổ chức và thực hiện dưới một trong năm
hình thức liên kết sau:
1. Khu vực mậu dịch tự do (Free Trade Area) – FTA:
Đây là hình thức liên kết kinh tế có tính thống nhất khơng cao, các nước trong liên kết
cùng nhau thỏa thuận:


Thuận lợi hóa hoạt động thương mại và đầu tư giữa các nước thành viên bằng cách thoả
thuận cắt giảm thuế quan và các biện pháp phi thuế; thuận lợi hóa hoạt động đầu tư vào
nhau.



Giữa các nước xây dựng các chương trình hợp tác kinh tế và đầu tư vì sự phát triển chung
cuả các nước thành viên.



Thực hiện đơn giản hóa thủ tục hải quan và thị thực xuất nhập cảnh tạo điều kiện cho hàng
hóa, dịch vụ, hoạt động đầu tư của các thành viên thâm nhập vào nhau.



Mỗi nước tùy vào điều kiện phát triển kinh tế của quốc gia mình mà đưa ra các giải pháp
về thuế quan, các biện pháp phi thuế riêng phù hợp với các nguyên tắc chung của khối.



Mỗi nước thành viên vẫn duy trì quyền độc lập tự chủ của mình trong quan hệ kinh tế đối
ngoại với các nước khác ngoài khối.




FTA là hình thức liên kết kinh tế phổ biến nhất vì đây là hình thức cho phép mỗi nước
thực hiện tự do hóa thương mại với các nước trong liên kết, nhưng vẫn thực hiện được
chính sách đa dạng hóa thị trường, đa phương hóa các mối quan hệ kinh tế.

2. Liên minh thuế quan (Customs Union):
Đây là hình thức liên kết có tính thống nhất tổ chức cao hơn so với hình thức FTA, nó
mang tồn bộ những đặc điểm của FTA, nhưng giữa các nước còn thỏa thuận thêm những
điều kiện hợp tác sau:


Các nước trong liên minh thỏa thuận xây dựng chung về cơ chế Hải quan thống nhất áp
dụng chung cho các nước thành viên.



Cùng nhau xây dựng biểu thuế quan thống nhất áp dụng trong hoạt động thương mại với
các nước ngoài liên kết.
Trang 3




Tiến tới xây dựng chính sách ngoại thương thống nhất mà mỗi nước thành viên phải tuân
thủ.

3. Thị trường chung (Common Market):
Đây là hình thức phát triển cao hơn của liên kết kinh tế giữa các nước. Các nước hội

viên thuộc thị trường chung thỏa thuận:


Xóa bỏ những trở ngại đến q trình bn bán với nhau: như thuế quan, hạn ngạch giấy
phép...



Xóa bỏ các trở ngại cho q trình tự do di chuyển tư bản và sức lao động giữa các nước hội
viên.



Xây dựng cơ chế chung điều tiết thị trường của các nước thành viên.



Tiến tới xây dựng chính sách kinh tế đối ngoại chung trong quan hệ với các nước ngoài
khối.

4. Liên minh kinh tế (Economic Union):
Là hình thức liên kết kinh tế có tính tổ chức thống nhất cao hơn so với thị trường
chung. Nó mang toàn bộ đặc điểm của liên kết thị trường chung, nhưng nó có thêm các đặc
điểm khác như:


Các nước xây dựng chung nhau chính sách kinh tế đối ngoại và chính sách phát triển kinh
tế ngành, phát triển kinh tế vùng mà không bị chia cắt bởi biên giới lãnh thổ giữa các nước
thành viên.




Thực hiện việc phân công lao động sâu sắc giữa các nước thành viên.



Cùng nhau thiết lập một bộ máy tổ chức điều hành sự phối hợp kinh tế giữa các nước (thay
thế một phần chức năng quản lý kinh tế của chính phủ từng nước).

5. Liên minh về tiền tệ (Monetary Union):
Đây là hình thức liên kết kinh tế cao nhất, tiến tới thành lập một “quốc gia kinh tế
chung” của nhiều nước với những đặc điểm:


Xây dựng chính sách kinh tế chung



Xây dựng chính sách đối ngoại, trong đó có chính sách ngoại thương chung.



Hình thành một đồng tiền chung thống nhất thay thế cho đồng tiền riêng của các nước hội
viên.



Quy định chính sách lưu thông tiền tệ thống nhất.




Xây dựng Ngân hàng chung thay thế cho Ngân hàng Trung Ương của các nước.



Xây dựng quỹ tiền tệ chung.



Xây dựng chính sách quan hệ tài chính tiền tệ chung đối với các nước đồng minh và các tổ
chức tài chính tiền tệ quốc tế.



Tiến tới thực hiện liên minh về chính trị.

CÂU III: TRÌNH BÀY NHỮNG HIỂU BIẾT VỀ ASEAN, AFTA, CEPT. PHÂN TÍCH
NHỮNG CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC KHI VIỆT NAM THỰC HIỆN XONG LỘ TRÌNH
CEPT CỦA AFTA VÀO NĂM 2006:
Lịch sử hình thành và phát triển Asean:
Trang 4




Hiệp hội các nước Đông Nam Á (The Association of Southeast Asians Nation –
ASEAN) được thành lập ngày 08/08/1967 sau khi Bộ trưởng Ngoại giao các nước
Indonesia, Malaysia, Philippines, Singapore và Thái Lan ký bản tuyên bố Asean
(hay còn được gọi là tuyên bố Băng Cốc). Mười bảy năm sau, ngày 08/01/1984
Brunei được kết nạp vào Asean, Việt Nam gia nhập tháng 07/1995 và tháng

07/1997 Lào và Mianma đã trở thành hội viên chính thức của Asean. Ngày
30/04/1999 Campuchia gia nhập Asean.

Mục tiêu hoạt động ban đầu của Asean nhằm giữ gìn sự ổn định và an ninh trong khu
vực, tức là tổ chức Asean lúc đầu được xem là khối mang màu sắc chính trị là chủ yếu, mặc
dù tuyên bố Băng Cốc 08/08/1967 nêu rõ mục tiêu hoạt động của Asean bao gồm 7 điểm:
1. Thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế, tiến bộ xã hội và phát triển văn hóa trong khu vực thơng
qua các nỗ lực chung trên tinh thần bình đẳng và hợp tác nhằm tăng cường cơ sở cho một
cộng đồng các nước Đông Nam Á hịa bình và thịnh vượng.
2. Thúc đẩy hịa bình và ổn định khu vực bằng việc tơn trọng công lý và nguyên tắc luật pháp
trong quan hệ giữa các nước trong vùng và tuân thủ các nguyên tắc của hiến chương Liên
Hiệp Quốc.
3. Thúc đẩy sự cộng tác tích cực và giúp đỡ lẫn nhau trong các vấn đề cùng quan tâm trên các
lĩnh vực kinh tế, xã hội, văn hóa, khoa học-kỹ thuật và hành chính.
4. Giúp đỡ lẫn nhau dưới các hình thức đào tạo và cung cấp các phương tiện nghiên cứu
trong các lĩnh vực giáo dục, chuyên môn, kỹ thuật và hành chánh.
5. Cộng tác có hiệu quả hơn, để sử dụng tốt hơn nền nông nghiệp và các ngành công nghiệp
của nhau, mở rộng mậu dịch kể cả việc nghiên cứu các vấn đề bn bán hàng hóa giữa các
nước, cải thiện các phương tiện giao thông liên lạc và nâng cao mức sống nhân dân.
6. Thúc đẩy việc nghiên cứu về Đông Nam Á.
7. Duy trì sự hợp tác chặt chẽ cùng có lợi với các tổ chức quốc tế và khu vực có tơn chỉ và
mục đích tương tự và tìm kiếm cách thức nhằm đạt được sự hợp tác chặt chẽ hơn giữa các
tổ chức này.
Hội nghị cấp cao Asean lần thứ VIII tại Phnôm – pênh, Campuchia, ngày 04/05/2002,
ASEAN nhất trí cần tiếp tục duy trì hồ bình ổn định, tăng cường hợp tác chính trị, an ninh,
cải thiện hình ảnh và vị thế của ASEAN, giải quyết các bất đồng theo phương thức ASEAN;
nhấn mạnh cần triển khai nhanh các sáng kiến, chương trình đã có qua các biện pháp chính
sau:
- Tăng cường liên kết nội khối, giảm hàng rào phi quan thuế, cải thiện môi trường
đầu tư để tăng buôn bán, đầu tư nội khối trước bối cảnh các thị trường truyền thống của

ASEAN giảm mạnh bởi suy thoái kinh tế thế giới.
- Nâng cao khả năng cạnh tranh của ASEAN.
- Tập trung triển khai các dự án ưu tiên, nhất là về thu hẹp khoảng cách, giúp các
thành viên mới, phát triển Tiểu vùng như Mê-công.
- Xác định lại mục tiêu phát triển của ASEAN và nghiên cứu chiến lược phát triển
của Hiệp hội để tiến tới hình thành Cộng đồng kinh tế ASEAN có tính đến những kinh
nghiệm của Liên minh Châu âu.
Nhân dịp này, Cấp cao ASEAN - Ấn Độ lần đầu tiên được tổ chức và các nhà Lãnh
đạo ASEAN đã nhất trí họp Cấp cao ASEAN + Ấn Độ hàng năm. ASEAN và Trung Quốc đã
Trang 5


ký Tuyên bố về cách ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC), coi đây là một bước quan trọng
tiến đến hình thành Bộ Quy tắc ửng xử ở Biển Đông (COC); và ký Hiệp định khung về Hợp
tác kinh tế tồn diện ASEAN – Trung Quốc, theo đó dự kiến thời điểm hoàn thành Khu vực
Mậu dịch Tự do ASEAN - Trung Quốc là năm 2010 (với 6 nước ASEAN cũ) và 2015 với 4
nước ASEAN mới.)
Tại Hội nghị Cấp cao ASEAN lần thứ IX tại Ba-li, In-đô-nê-xi-a, 7-8/10/2003, kết quả quan
trọng nhất là các Lãnh đạo ASEAN đã ký Tuyên bố Hoà hợp ASEAN II (Tuyên bố Bali II) nêu
những định hướng chiến lược lớn của ASEAN với mục tiêu thành lập một cộng đồng ASEAN
liên kết mạnh, tự cường vào năm 2020 với ba trụ cột chính là hợp tác chính trị-an ninh (Cộng
đồng An ninh ASEAN-ASC), hợp tác kinh tế (Cộng đồng kinh tế ASEAN-AEC), và hợp tác
xã hội/văn hoá (Cộng đồng xã hội/văn hoá ASEAN-ASCC). Nhằm triển khai Tuyên bố Ba-li
II, ASEAN sẽ xây dựng Chương trình Hành động để thơng qua tại Cấp cao ASEAN-10 tại
Viêng-chăn tháng 11/2004.
Trung Quốc chính thức tham gia Hiệp ước Thân thiện và hợp tác (TAC). Nhật Bản
ký với ASEAN Khn khổ Đối tác Kinh tế tồn diện (CEP), cụ thể hoá các bước đi xây dựng
CEP ASEAN-Nhật trong đó có Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Nhật; nêu sáng kiến tổ chức
hội nghị ASEAN-Nhật Bản về đầu tư bên lề Cấp cao Kỷ niệm ASEAN-Nhật bản tháng
12/2003. Tại Cấp cao ASEAN+ấn Độ: Hai bên ký Hiệp định khung về hợp tác kinh tế toàn

diện ASEAN-ấn Độ, trong đó có lộ trình xây dựng Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-ấn Độ
(FTA) và chương trình Thu hoạch sớm. ấn Độ cũng chính thức tham gia Hiệp ước TAC
Như vậy, sau 37 năm tồn tại và phát triển, ASEAN đã phát triển dần từ một tổ chức
chính trị khu vực có hình ảnh mờ nhạt, khả năng tồn tại yếu ớt, thành một tổ chức chính trịkinh tế khu vực đang lớn mạnh và thành công. Hiện nay, ASEAN là một trong các tổ chức
khu vực có vai trị và vị trí nhất định trên thế giới, là tổ chức khu vực duy nhất có mối quan
hệ chặt chẽ, thường xun mang tính cơ chế với các nước cơng nghiệp phát triển, trong đó có
5 nước Uỷ viên thường trực Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc, 7 nước công nghiệp hàng đầu
thế giới.
Năm 1992, tại Hội nghị thường đỉnh lần thứ IV ở Singapore, các thành viên Asean đã
ký một hiệp định về khu vực mậu dịch tự do Asean (AFTA).
Mục tiêu căn bản của Afta:
1. Thúc đẩy buôn bán giữa các nước trong khu vực nhờ chế độ thuế quan ưu đãi (CEPT) và
các ưu đãi khác.
2. Tăng khả năng cạnh tranh của Asean trên trường quốc tế.
3. Tăng sức hấp dẫn của môi trường đầu tư nhằm thu hút vốn FDI.
4. Xây dựng các cơ chế và điều kiện chung thúc đẩy phát triển kinh tế của các nước thành
viên.
Trong khuôn khổ hợp tác kinh tế Asean, chương trình thuế quan ưu đãi có hiệu lực
chung (CEPT) là cơ chế chủ yếu để thiết lập mậu dịch tự do trong khu vực Asean. Thực chất
của chương trình Cept là các nước thành viên Asean đạt được sự thỏa thuận giảm thuế quan
chung xuống còn ở mức 0%-5% trong thương mại nội bộ các nước Asean trong vịng 10 năm,
bắt đầu từ ngày 01/01/1993 và hồn thành vào ngày 01/01/2003. Các sản phẩm thực hiện
giảm thuế nhập khẩu do các nước thành viên tự đề nghị căn cứ vào điều kiện hoàn cảnh kinh
tế mỗi nước. Chương trình Cept thực hiện theo 4 danh mục:
Trang 6


- Danh mục cắt giảm thuế nhập khẩu.
- Danh mục loại trừ tạm thời.
- Danh mục loại trù hoàn toàn.

- Danh mục nông sản chưa chế biến nhạy cảm
Điều kiện để được hưởng thuế nhập khẩu ưu đãi theo chương trình Cept:
1. Sản phẩm đó phải nằm trong danh mục cắt giảm của cả nước xuất khẩu và nước nhập
khẩu và phải có mức thuế quan (nhập khẩu) bằng hoặc thấp hơn 20%;
2. Sản phẩm đó phải có chương trình giảm thuế được hội đồng AFTA thông qua;
3. Sản phẩm đó phải là một sản phẩm của khối Asean, tức phải thỏa mãn yêu cầu hàm
lượng xuất xứ từ các nước thành viên Asean (hàm lượng nội địa) ít nhất là 40%. (Chủ hàng
nhập khẩu phải xuất trình được giấy chứng nhận xuất xứ hàng hóa mẫu D do cơ quan có thẩm
quyền ở nước xuất khẩu cấp – C/O form D).
4. Hàng nhập khẩu phải được vận chuyển thẳng từ nước xuất khẩu.
Thuận lợi đối với các DNVN khi VN thực hiện xong chương trình CEPT:


Các DN VN sẽ được ưu tiên về thuế khi nhập khẩu MMTB, NPL phục vụ cho nhu cầu sản
xuất cơng nghiệp.



Các DN VN sx mặt hàng nông sản thô và nông sản chế nếu có sự cắt giảm thuế sẽ trở
thành yếu tố kích thích sản xuất để xuất khẩu sang ASEAN



DN VN có lợi thế về một số ngành sản xuất tiêu tốn nhiều lao động như sản xuất giầy dép,
quần áo, hàng cơng nghiệp nhẹ...
Khó khăn và thách thức

Một số mặt hàng chúng ta vẫn chưa đăng ký bảo hộ, có một số lượng hàng mang nhãn
hiệu Việt Nam nhưng không có xuất xứ từ Việt Nam XK sang thị trường EU làm số lượng,
giá trị hàng xuất khẩu của DN VN giảm.

Các DN dệt may, da giày VN chưa tự túc được nguyên liệu mà phải nhập khẩu từ bên
ngoài tới 40-50% giá trị sản phẩm xuất khẩu đó sẽ ảnh hưởng rất lớn đến chi phí cho giá
thành sản phẩm.
Các DN VN sx các nông sản phẩm chưa qua chế biến như: chè, cà phê, hải sản và một
số nguyên liệu thô như dầu lưả, cao su không được hưởng các quy chế do AFTA ấn định bởi
vì hàng xuất sang thị trường ASEAN
Các DNVN sẽ thua kém về vốn, kỹ thuật, chất lượng và kinh nghiệm thị trường Quốc
tế
Ngành Phân bón: trên thị trường thế giới diễn biến phức tạp, nguồn cung cấp phân
bón khơng ổn định, giá cả tăng liên tục, nên giá nhập khẩu phân urê trước AFTA chỉ ở mức
125-130 USD/T, VN sau 6 tháng hội nhập giá nhập khẩu tăng lên đến 185-187 USD/T.
Ngành giấy: Đây là ngành được nhận định là khó khăn nhất trong tiến trình giảm thuế.
Trên thực tế Việt Nam vẫn phải nhập khẩu 46% giấy báo in, 18% giấy in và viết, chủ yếu từ
Indonesia và Thái Lan. Bên cạnh đó, các sản phẩm giấy chuyên dụng cũng là loại sản phẩm
gặp phải sự cạnh tranh lớn. Sản xuất trong nước mới sản xuất được lượng rất nhỏ trong khi
kim ngạch nhập khẩu sản phẩm này chiếm 25% tổng kim ngạch nhập khẩu giấy nói chung.
Trang 7


Hiện thuế nhập khẩu giảm chỉ còn 20%, nhưng giá nhập khẩu bột giấy liên tục tăng 16-19%
so với năm 2002.
Những giải pháp giúp DN nắm bắt cơ hội hạn chế và thách thức
Đv DN:
-DNVN phải chuyển dịch cơ cấu sản xuất và xuất khẩu, loại bỏ những chi phí khơng
cần thiết, nâng cao trình độ quản lý của đội ngũ lãnh đạo doanh nghiệp, tập trung xuất khẩu
những hàng hóa nằm trong danh mục cắt giảm thuế CEPT. Có như vậy thì các doanh nghiệp
mới có điều kiện phát triển, có lợi về giá cả khi xuất khẩu hàng hóa sang thị trướng ASEAN.
Đv Nhà Nước:
Cần chú trọng đến xuất nhập khẩu những mặt hàng, những sản phẩm tạo điều kiện bổ
sung kinh tế giữa các quốc gia như xuất khẩu gạo, dầu mỏ, thiếc và nhập khẩu các thiết bị,

máy móc phục vụ sản xuất nơng nghiệp, cơng nghiệp chế biến, sản xuất hàng tiêu dùng, sản
phẩm hóa chất. cơng nghệ sản xuất xe máy...
Khuyến khích các doanh nghiệp trong nước thu hút công nghệ của các thành viên
AFTA dưới hình thức liên doanh, liên kết, nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng hóa,
dịch vụ
Khuyến khích sản xuất tư nhân như ưu đãi trong việc vay vốn, thuế, cam kết ổn định
chính sách kinh tế vĩ mơ của Chính phủ
Sắp xếp cơ cấu lại các doanh nghiệp Nhà nước, thành lập một số tổng công ty mạnh
trong một số lĩnh vực như dệt may, điện tử, giày dép... Các doanh nghiệp Nhà nước có quy
mơ nhỏ, sức cạnh tranh thấp sẽ được tập trung lại để hình thành nên một dạng Cơng ty mẹ có
tiềm lực và sức cạnh tranh lớn hơn, đủ sức chống chọi lại với các công ty lớn của ASEAN.
Với các công ty lớn, việc sản xuất - xuất khẩu một mặt hàng nào đó sẽ được cân nhắc kỹ hơn
và đầu tư với quy mơ lớn hơn, có chiều sâu và phạm vi rộng hơn.
CÂU IV: APEC (DIỄN ĐÀN CHÂU Á THÁI BÌNH DƯƠNG): PHÂN TÍCH NHỮNG CƠ
HỘI VÀ THÁCH THỨC TỪ NHỮNG CHƯƠNG TRÌNH HỘI NHẬP CỦA APEC. ĐỀ XUẤT
NHỮNG GIẢI PHÁP ĐỂ CÁC DOANH NGHIỆP VIỆT NAM NẮM BẮT ĐƯỢC NHỮNG
CƠ HỘI VÀ HẠN CHẾ ĐƯỢC THÁCH THỨC TỪ VIỆC THỰC THI NHỮNG HIỆP ĐỊNH
CỦA APEC.


Tháng 1 năm 1989, tại Xê-un, Hàn Quốc, Thủ tướng Bob Hawke đã nêu ý tưởng về việc
thành lập một Diễn đàn tư vấn kinh tế cấp Bộ trưởng ở châu á - Thái Bình Dương với mục
đích phối hợp hoạt động của các chính phủ nhằm đẩy phát triển kinh tế ở khu vực và hỗ trợ
hệ thống thương mại đa phương. Nhật Bản, Ma-lai-xia, Hàn Quốc, Thái Lan, Phi-líp-pin,
Xinh-ga-po, Bru-nây, In-đơ-nê-xia, Niu Di-lân, Ca-na-đa và Mỹ đã ủng hộ sáng kiến này.
Tháng 11 năm 1989, các Bộ trưởng Ngoại giao và Kinh tế của các nước nói trên đã họp tại
Can-bê-ra, Ơt-xtrây-lia quyết định chính thức thành lập APEC.




Sau đó, APEC kết nạp thêm Trung Quốc, Hồng Công và Đài Loan (với tên gọi theo tiếng
Anh là Chinese Taipei) vào tháng 11 năm 1991; Mê-hi-cô, Pa-pu-a Niu Ghi-nê tháng 11
năm 1993; Chi-lê tháng 11 năm 1994 và tạm ngừng thời hạn xét kết nạp thành viên trong
ba năm. Đến tháng 11 năm 1998, APEC kết nạp thêm ba thành viên mới là Pê-ru, Liên
bang Nga và Việt Nam, đồng thời quyết định tạm ngừng thời hạn xem xét kết nạp thành
viên mới trong mười năm để củng cố tổ chức.



Đến nay, APEC đã có 21 nền kinh tế thành viên với khoảng 2,5 tỷ dân; 19.000 tỷ đô la Mỹ
Trang 8


GDP mỗi năm và chiếm 47% thương mại thế giới (xem bảng 1). APEC bao gồm cả hai
khu vực kinh tế mạnh và năng động nhất thế giới: khu vực Đông á và khu vực Bắc Mỹ
(gồm Mỹ, Ca-na-đa và Mê-hi-cô) với những nét đặc thù và vô cùng đa dạng về chính trị,
xã hội, kinh tế và văn hóa. Chỉ trong mười năm đầu tồn tại và phát triển, các nền kinh tế
thành viên APEC đã đóng góp gần 70% cho sự tăng trưởng chung của nền kinh tế tồn
cầu.


Như vậy, chính sự tăng trưởng cao liên tục và phát triển của nền kinh tế ở khu vực châu á Thái Bình Dương, xu thế tồn cầu hóa và khu vực hóa cũng như sự tuỳ thuộc lẫn nhau
ngày càng tăng giữa các nền kinh tế đã đặt ra yêu cầu khách quan, cấp bách cho việc hình
thành một diễn đàn mở rộng trong khu vực nhằm phối hợp chính sách về các lĩnh vực kinh
tế, thúc đẩy tự do hóa và khuyến khích thương mại hàng hố, dịch vụ và đầu tư, tăng
cường hợp tác kinh tế, khoa học - công nghệ giữa các nền kinh tế ở châu á - Thái Bình
Dương, qua đó duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế cao và bảo đảm sự phát triển bền vững
của khu vực châu á - Thái Bình Dương khi bước vào thế kỷ XXI.




Việc soạn thảo qui chế thành viên của APEC được giao cho các quan chức cao cấp của
APEC thực hiện và đệ trình lên Hội nghị Bộ trưởng xem xét và Hội nghị các nhà Lãnh đạo
Cấp cao APEC thông qua vào kỳ họp hàng năm tại Van-cu-vơ, Ca-na-đa, tháng 11 năm
1997. Về cơ bản, nước hoặc vùng lãnh thổ kinh tế, muốn trở thành thành viên APEC phải
có đủ một số điều kiện cần thiết như sau:
– Vị trí địa lý: nằm ở khu vực châu á - Thái Bình Dương, tiếp giáp với bờ biển Thái
Bình Dương.
– Quan hệ kinh tế: có các mối quan hệ kinh tế chặt chẽ với các nền kinh tế thành
viên APEC về thương mại hàng hóa và dịch vụ, đầu tư trực tiếp nước ngồi và sự
tự do đi lại của các quan chức.


Tương đồng về kinh tế: chấp nhận chính sách kinh tế mở cửa theo hướng thị
trường.



Quan tâm và chấp thuận các mục tiêu của APEC: tỏ rõ mối quan tâm mạnh mẽ tới
các lĩnh vực hoạt động của APEC bằng cách tham gia vào các Nhóm cơng tác hoặc
nghiên cứu độc lập và các hoạt động khác của APEC. Tuy nhiên, không có mối
liên quan đặc biệt nào giữa việc tham gia vào các Nhóm cơng tác của APEC và
việc trở thành thành viên. Nước muốn trở thành thành viên phải hoàn toàn chấp
nhận những mục tiêu và nguyên tắc cơ bản được đề ra trong các Tuyên bố và
Quyết định của APEC, kể cả các nguyên tắc đồng thuận và tự nguyện.



Ngồi quy chế thành viên chính thức, APEC cịn có quy chế quan sát viên dành cho ba tổ
chức khu vực là Ban Thư ký ASEAN, Hội đồng Hợp tác Kinh tế Thái Bình Dương

(PECC) và Diễn đàn Đảo Thái Bình Dương (PIF), khơng có quy chế quan sát viên cho một
nước hay vùng lãnh thổ riêng biệt. Quan sát viên có thể tham dự các cuộc họp từ cấp Bộ
trưởng trở xuống và tham gia vào các hoạt động của APEC. Các nước khơng phải thành
viên APEC có thể được tham gia các hoạt động với tư cách khách mời tại các Nhóm cơng
tác của APEC.



Mục tiêu của APEC:
Duy trì sự tăng trưởng và phát triển của khu vực vì lợi ích chung của các dân tộc trong khu
vực, và bằng cách đó đóng góp vào sự tăng trưởng và phát triển của nền kinh tế thế giới;
Phát huy các kết quả tích cực đối với khu vực và nền kinh tế thế giới do sự tuỳ thuộc lẫn
nhau ngày càng tăng về kinh tế tạo ra, khuyến khích các luồng hàng hoá, dịch vụ, vốn và
Trang 9


công nghệ;
Phát triển và tăng cường hệ thống thương mại đa phương mở vì lợi ích của các nước châu á
- Thái Bình Dương và các nền kinh tế khác;
Cắt giảm những hàng rào cản trở việc trao đổi hàng hoá, dịch vụ và đầu tư giữa các thành
viên phù hợp với các nguyên tắc của GATT/WTO ở những lĩnh vực thích hợp và khơng
làm tổn hại tới các nền kinh tế khác.


Nguyên tắc hoạt động của APEC:

Nguyên tắc cùng có lợi: uyên bố Xê-un của Hội nghị Bộ trưởng lần thứ ba năm 1991
nêu rõ: "Việc hợp tác trong APEC dựa trên ngun tắc cùng có lợi, có tính đến sự khác biệt
trong các giai đoạn phát triển kinh tế trong các hệ thống chính trị - xã hội, và chú ý đầy đủ
đến các nhu cầu của những nền kinh tế đang phát triển"

Việc duy trì nguyên tắc bình đẳng, cùng có lợi đóng vai trị quyết định đối với sự phát triển
của APEC vì diễn đàn này là tập hợp lực lượng của các nền kinh tế rất đa dạng về điều kiện
địa lý, lịch sử và văn hố, về chế độ chính trị - xã hội và đặc biệt có sự chênh lệch rất lớn về
trình độ phát triển. Trong điều kiện APEC bao gồm cả những nền kinh tế lớn và phát triển
nhất, cũng như những nền kinh tế nhỏ và kém phát triển hơn, APEC đã nhấn mạnh tới các
mối quan tâm chung, lợi ích chung của các thành viên và tập trung vào các vấn đề hợp tác
kinh tế và phát triển. Nhờ vậy, APEC có sức hấp dẫn lớn đối với các nước trong và ngoài khu
vực. Chỉ gần mười năm sau khi thành lập, APEC đã bao gồm 21 thành viên, trong đó có
những nền kinh tế hùng mạnh bậc nhất thế giới như Mỹ, Nhật Bản, Trung Quốc.
Trong khi thừa nhận mối quan hệ hợp tác giữa các nước trong khu vực phải dựa trên
cơ sở cùng có lợi, để phù hợp với tính đa dạng của khu vực, nguyên tắc này cũng nhấn mạnh
cần chú ý tới sự khác biệt về trình độ phát triển, chế độ chính trị - xã hội và yêu cầu của các
nền kinh tế đang phát triển. Đây là điểm rất quan trọng trong nguyên tắc hoạt động của APEC
nhằm giải toả mối lo ngại của một số thành viên là nước đang phát triển trong APEC rằng sự
khác biệt lớn về trình độ phát triển kinh tế, khoa học và cơng nghệ có thể dẫn tới sự lệ thuộc
bất bình đẳng của họ vào các nền kinh tế tiến tiến hơn, làm tăng mâu thuẫn và phân cực Bắc Nam ngay trong APEC.
Các nước ASEAN đã thơng qua ngun tắc nhất trí Cun-ching (1989), trong đó nhấn
mạnh: "Việc tăng cường APEC cần phải dựa trên cơ sở cơng bằng, bình đẳng và cùng có lợi,
có chú ý đầy đủ đến sự khác biệt trong các giai đoạn phát triển kinh tế và hệ thống chính trị xã hội của các nước trong khu vực".
Trong các hoạt động của APEC, các thành viên đang phát triển đã được dành cho
những ưu đãi nhất định. Trước hết, việc đạt mục tiêu tự do hóa thương mại và đầu tư được
chia làm hai thời biểu, theo đó các nước phát triển sẽ hồn thành mục tiêu này vào năm 2010
và các nền kinh tế đang phát triển sẽ chậm hơn 10 năm (2020). Hợp tác trong APEC khơng
chỉ nhấn mạnh tới mục tiêu tự do hóa thương mại và đầu tư mà còn triển khai trên các lĩnh
vực cụ thể nhằm hỗ trợ các nền kinh tế đang phát triển vươn lên rút ngắn khoảng cách giàu
nghèo. Vì thế, tại Hội nghị Bộ trưởng Ơ-xa-ca năm 1995, các thành viên đã thơng qua
Chương trình Hành động Ô-xa-ca, trong đó coi hợp tác kinh tế và kỹ thuật như là nội dung
thứ hai trong hoạt động của APEC, có tác động hỗ trợ để đạt tới mục tiêu tự do hóa thương
mại và đầu tư trong khu vực.
Nguyên tắc đồng thuận (consensus):Một trong những nguyên tắc quan trọng nhất

của hợp tác trong APEC, như Tuyên bố Xê-un đã nêu rõ, là dựa trên "cam kết về sự đối thoại
cởi mở và xây dựng sự đồng thuận, bình đẳng, tôn trọng quan điểm của tất cả thành viên tham
Trang 10


gia".
Khác với hoạt động trong GATT/WTO, trong đó các nước phải qua một quá trình
thương thuyết, đàm phán lâu dài và thường là gay gắt để đạt được những thoả thuận và hiệp
định có tính pháp lý quốc tế cao, APEC đi tới các quyết định thơng qua q trình xây dựng sự
đồng thuận. Tất cả các Hội nghị, từ Hội nghị Cấp cao đến Hội nghị cấp Bộ trưởng hay cấp
chuyên viên đều mang tính chất tư vấn, theo nghĩa là các thành viên không tham gia vào
những cuộc thương lượng, mặc cả thực sự để đạt tới những quyết định có tính ràng buộc.
Tồn bộ quyết định của các nhà Lãnh đạo Cấp cao, các Bộ trưởng đều được đưa ra trong
Tuyên bố chung phản ánh ý chí của tất cả các thành viên.
Nguyên tắc đồng thuận thể hiện một mơ hình hợp tác tương đối thành cơng trong khu
vực do ASEAN khởi xướng. Do tính chất đa dạng của các nền kinh tế trong khu vực, nguyên
tắc đồng thuận tỏ ra khá hiệu quả. Thông qua nguyên tắc này, APEC đã xây dựng được những
nền tảng có ý nghĩa quan trọng và thực tế để đẩy mạnh hợp tác, một chương trình làm việc
tồn diện và một thoả thuận lịch sử về tự do hóa thương mại và đầu tư trong khu vực tới năm
2020.
Duy trì nguyên tắc nhất trí trong một tập hợp đa dạng như APEC là một điều khó
khăn, đặc biệt khi APEC đi vào những vấn đề hành động cụ thể. Tuy nhiên, các thành viên
APEC coi đây là một trong những nguyên tắc cơ bản của quá trình hoạt động và ra quyết định
của APEC, bảo đảm sự bình đẳng giữa các thành viên trong Diễn đàn này.
Nguyên tắc tự nguyện: Xuất phát từ đặc điểm của các nền kinh tế thành viên và các
mối quan hệ kinh tế quốc tế trong khu vực châu á - Thái Bình Dương, sự hợp tác giữa các
thành viên trong APEC mang tính chất tự nguyện. Nguyên tắc tự nguyện thể hiện trên hai
điểm:
Trước hết, APEC chỉ là một Diễn đàn tư vấn kinh tế, một cơ chế liên chính phủ nhằm
xúc tiến sự hợp tác, tăng trưởng và phát triển của khu vực. Ngay từ Hội nghị đầu tiên, các Bộ

trưởng APEC đã nhất trí coi APEC như một Diễn đàn tham khảo ý kiến về các vấn đề kinh tế
nhằm tăng cường trao đổi quan điểm giữa các nước châu á - Thái Bình Dương. Tính chất tự
nguyện trong hoạt động của APEC được thể hiện trong nguyên tắc Cun-ching do các nước
ASEAN đề xướng: "APEC cần cung cấp một Diễn đàn tư vấn kinh tế và không nhất thiết dẫn
tới sự thông qua các quyết định có tính chất bắt buộc bất cứ thành viên nào phải chấp nhận
hay thực hiện". Cơ chế hoạt động tự nguyện còn được khẳng định lại trong Tuyên bố Xê-un
năm 1991: "APEC sẽ hoạt động thông qua quá trình tư vấn và trao đổi quan điểm giữa các đại
điện cao cấp của các nền kinh tế thành viên APEC, dựa trên các nghiên cứu, phân tích và các
ý tưởng về chính sách do các nền kinh tế tham gia và các tổ chức liên quan bao gồm các Ban
Thư ký của ASEAN, PECC và PIF đóng góp"
Thứ hai, do APEC chỉ là một Diễn đàn tư vấn kinh tế nên nó khơng đưa ra những
quyết định, ngun tắc có tính bắt buộc đối với các thành viên. Mọi hoạt động hợp tác đều
dựa trên cơ sở tự nguyện, phù hợp với lợi ích của các bên. Điều này phản ánh tính đặc thù của
q trình hội nhập kinh tế trong khu vực. Trong khi các tổ chức hợp tác khu vực khác, đặc
biệt là Liên hiệp châu Âu (EU) có cơ cấu tổ chức hết sức chặt chẽ với các cơ quan liên chính
phủ như Hội đồng châu Âu, Toà án châu Âu và Quốc hội châu Âu để điều phối sự hợp tác
giữa các nước thành viên, APEC đến nay về cơ bản vẫn là một cấu trúc tương đối lỏng lẻo với
một Ban Thư ký, Uỷ ban Ngân sách và Quản lý để điều phối hoạt động trong APEC và của
các thành viên. Ngay từ khi Cộng đồng châu Âu được thành lập vào những năm 1950, q
trình phát triển của nó đã được đặc trưng bởi sự hội nhập thể chế, trong đó những yếu tố
chính trị tác động rất quan trọng và đã hình thành một cơ cấu liên chính phủ có khả năng phán
Trang 11


quyết trên một số lĩnh vực của các thành viên. Trong khi đó, sự hội nhập kinh tế ở khu vực
châu á - Thái Bình Dương được dẫn dắt và thúc đẩy chủ yếu bởi các lực lượng thị trường. Sự
phát triển về cơ cấu tổ chức cho đến nay mới chỉ mang tính chất hỗ trợ cho q trình hợp tác
trong APEC chứ không phải là mục tiêu tự thân của nó. Con đường phát triển của APEC như
vậy phù hợp với đặc điểm đa dạng về chế độ chính trị - xã hội của khu vực vì nó cho phép
trong khi khai thác được những lợi ích từ sự hợp tác kinh tế, các thành viên vẫn giữ được chủ

quyền kinh tế, bảo đảm khơng có sự can thiệp từ bên ngồi vào chế độ chính trị - xã hội của
các thành viên.
Mặc dù có cơ cấu tổ chức lỏng lẻo, thời gian qua APEC vẫn có những bước tiến đáng kể. Nếu
như EU cần tới hơn 40 năm để có được mức độ liên kết kinh tế như ngày nay, GATT/WTO
cũng cần tới một thời gian gần 50 năm để đạt tới những mức độ nhất định về tự do hóa
thương mại và đầu tư thì trong vòng gần mười năm, APEC đã đi từ nhận thức chung tới
những hành động cụ thể nhằm đạt mục tiêu tự do hóa thương mại và đầu tư. Tại Hội nghị Bộ
trưởng lần thứ năm ở Bô-go, In-đô-nê-xi-a, các Bộ trưởng đã thông qua 10 nguyên tắc đầu tư
không ràng buộc nhằm thúc đẩy đầu tư và luồng tư bản trong khu vực. Phù hợp với nguyên
tắc tự nguyện, trong Tun bố chung về Chương trình Hành động Ơ-xa-ca, các Bộ trưởng đã
nhấn mạnh cách tiếp cận duy nhất của APEC đối với tự do hóa và thuận lợi hóa thương mại
và đầu tư là phải kết hợp giữa ba mặt hành động: Hành động đơn phương có phối hợp, hành
động tập thể và hành động đa phương. Hành động đơn phương có phối hợp là các việc làm tự
nguyện của mỗi thành viên trên lĩnh vực thuế quan, phi thuế quan, dịch vụ, sở hữu trí tuệ...
phù hợp với phương hướng, mục tiêu và Chương trình hành động của APEC.
Sau Hội nghị Cấp cao lần thứ ba ở Ô-xa-ca năm 1995, các nhà Lãnh đạo của các nền
kinh tế thành viên đã lần lượt công bố các cam kết ban đầu nhằm thực hiện Chương trình
Hành động của APEC. Trung Quốc đã công bố cam kết lớn nhất cắt giảm 30% thuế quan cho
2/3 các mặt hàng[8]. Tại Hội nghị Cấp cao lần thứ tư ở Ma-ni-la năm 1996, Phi-li-pin tuyên
bố tự nguyện giảm hàng rào thuế quan (trừ hàng nông phẩm) xuống mức 5% vào năm 2004,
Thái Lan cam kết giảm thuế quan trung bình xuống 17% vào năm 1997 và In-đơ-nê-xia giảm
thuế quan xuống cịn từ 0-10% vào năm 2003[9]. Các nhà lãnh đạo APEC cũng đã thông qua
Kế hoạch Hành động Ma-ni-la (MAPA) năm 1996 bao gồm các biện pháp hành động cho thời
gian trước mắt, trung hạn và dài hạn trong 15 lĩnh vực cụ thể để thực hiện Chương trình Hành
động Ơ-xa-ca (1995).
APEC là diễn đàn mở, hoạt động phù hợp với các nguyên tắc của GATT/WTO :
APEC là một diễn đàn "mở" theo nghĩa APEC ủng hộ chế độ thương mại đa phương, không
tạo ra sự phân biệt đối xử giữa APEC với các nước và nhóm nước khác trên thế giới, đồng
thời APEC mở cửa cho các nền kinh tế không phải thành viên APEC trong khu vực tham gia.
Ủng hộ chế độ thương mại đa phương mở không chỉ là một nguyên tắc mà còn là một

trong những mục tiêu của APEC. Ngay từ giai đoạn đầu của APEC (1989 - 1993), khi Vòng
đàm phán U-ru-goay của GATT bị mất động lực và rơi vào bế tắc, APEC đã đặt việc phấn
đấu để kết thúc thành cơng vịng đàm phán này thành một trong những mục tiêu chủ yếu của
mình. Các thành viên châu á của APEC cùng chung mối lo ngại về xu hướng bảo hộ ở châu
Âu và Bắc Mỹ vì nó có thể sẽ gây tổn hại tới chiến lược hướng về xuất khẩu của họ. Vì thế,
sự cam kết về một chế độ thương mại đa phương mở - thể hiện trong thuật ngữ "chủ nghĩa
khu vực mở", là một trong những nhân tố quan trọng gắn kết các thành viên APEC với nhau.
APEC đã đi đầu trong những nỗ lực nhằm tăng cường hệ thống thương mại đa phương mở.
Là một khu vực chiếm tới 47% thương mại tồn cầu và có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao nhất
thế giới, những sáng kiến của APEC trong các cuộc đàm phán toàn cầu đủ để thúc đẩy châu
Âu và các nước khác xúc tiến tự do hóa thương mại mà khơng cần tạo ra sự phân biệt đối xử
Trang 12


mới trong hệ thống thương mại thế giới. Trong Tuyên bố chung tại Xơ-un năm 1991, các Bộ
trưởng đã ghi nhận rằng: "Một trong những nguyên tắc cơ bản của APEC là tạo ra ảnh hưởng
mạnh mẽ, tích cực tới sự tiến triển của hệ thống thương mại toàn cầu, và khả năng của APEC
để thực hiện điều đó sẽ được tăng cường mạnh mẽ qua việc tự mình làm một hình mẫu tích
cực. Việc theo đuổi tự do hóa thương mại trong APEC phù hợp với cơ sở của GATT/WTO và
không làm tổn hại tới các nước khác sẽ tạo ra sự hỗ trợ mạnh mẽ cho hệ thống thương mại
tồn cầu...
Tun bố Xê-un cịn nêu rõ: "Về ngun tắc, việc tham gia vào APEC sẽ rộng mở đối
với những nền kinh tế trong khu vực châu á - Thái Bình Dương có những mối quan hệ kinh tế
chặt chẽ với khu vực châu á - Thái Bình Dương và chấp nhận những mục tiêu và nguyên tắc
của APEC". Từ khi thành lập tới nay, APEC đã kết nạp thêm 9 thành viên mới (Trung Quốc,
Đài Loan, Hồng Công, Pa-pua Niu Ghi-nê, Mê-hi-cô, Chi-lê, Pê-ru, Liên bang Nga, Việt
Nam). Nguyên tắc "mở" của APEC còn thể hiện ở chỗ các thành viên của APEC không chỉ là
những quốc gia có chủ quyền với chế độ chính trị - xã hội riêng biệt và được cộng đồng quốc
tế công nhận mà còn bao gồm cả các lãnh thổ kinh tế.
CÂU V: WTO: CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC ĐỐI VỚI CÁC DOANH NGHIỆP VIỆT NAM

KHI VIỆT NAM GIA NHẬP TỔ CHỨC NÀY.
Lịch sử hình thành và phát triển của WTO:
WTO được thành lập vào ngày 01/01/1995 là một điểm nhấn lớn nhất của thương mại
thế giớ từ sau thế chiến lần thứ II. Tổ chức tiền thân của WTO là GATT được thành lập năm
1947 và tồn tại đến năm 1994, khi WTO ra đời thay thế cho GATT. Trong suốt quá trình tồn
tại, GATT đã đưa ra rất nhiều luật lệ và chủ trì suốt thời gian đó trong thương mại quốc tế.
Dường như GATT đã đứng vững và có thể tồn tại lâu dài, nhưng trong suốt 47 năm hoạt
động, tất cả các hiệp định và cơ cấu tổ chức của GATT chỉ là tạm thời. Do vậy sự ra đời của
WTO để thay thế GATT cũng là một điều tất yếu.
Sự khác biệt giữa WTO và GATT:
Chỉ tiêu
GATT
Cơ cấu tổ Khơng có nền tảng về thể chế, chỉ là
chức
một loạt các quy định, hiệp định đa
biên. Điều hành chỉ là một ban thư ký
nhỏ.

WTO
Là một tổ chức thường trú, có
ban thư ký riêng với 450 nhân
viên, được lãnh đạo bởi một
tổng giám đốc và 4 phó tổng
giám đốc.

Thời hiệu Các hiệp định của GATT mang tính Các hiệp định của WTO mang
của
các tạm thời, được thay đổi bổ sung qua tính cam kết cố định và vĩnh
hiệp định
các vòng đàm phán thương mại.

viễn.

Trang 13


Chỉ tiêu

GATT

WTO

Lĩnh
vực Các quy định của GATT chỉ được áp Các quy định cảu WTO được áp
điều phối
dụng cho thương mại hàng hoá.
dụng cho thương mại hàng hoá,
thương mại dịch vụ, các khía
cạnh liên quan đến thương mại
như vấn đề sở hữu trí tuệ, hoạt
động đầu tư...
GATT là một cơng cụ đa biên, đến
những năm 80 nhiều hiệp định mới
được bổ sung có tính chất đa phương
và do đó mang tính chọn lọc và tự
nhiên.
Vai trị

Các hiệp định của WTO phần
lớn là đa biên và do đó bao gồm
các cam kết của các nước để trở

thành thành viên đầy đủ.
WTO là tổ chức quốc tế duy
nhất quản lý luật lệ giữa các
quốc gia trong hoạt động
thương mại quốc tế.

Chức năng của WTO:WTO thực hiện 5 chức năng sau:
• Thống nhất quản lý việc thực hiện các hiệp định và thoả thuận thương mại đa phương và
nhiều bên; giám sát, tạo thuận lợi, kể cả trợ giúp kỹ thuật cho các nước thành viên thực
hiện các nghĩa vụ thương mại quốc tế của họ


Là khn khổ thể chế để tiến hành các vịng đàm phán thương mại đa phương trong khn
khổ WTO, theo quyết định của Hội nghị Bộ trưởng WTO.



Là cơ chế giải quyết tranh chấp giữa các nước thành viên liên quan đến việc thực hiện và
giải thiứch Hiệp định WTO và các hiệp định thuơng mại đa phương và nhiều bên.



Là cơ chế kiểm điểm chính sách thương mại của các nước thành viên, bảo đảm thực hiện
mục tiêu thúc đẩy tự do hoá thương mại và tuân thủ các quy định của WTO, Hiệp định
thành lập WTO (phụ lục 3) đã quy định một cơ chế kiểm điểm chính sách thương mại áp
dụng chung đối với tất cả các thành viên.



Thực hiện việc hợp tác với các tổ chức kinh tế quốc tế khác như Quỹ Tiền tệ Quốc tế và

Ngân hàng Thế giới trong viêc hoạch định những chính sách và dự báo về những xu hướng
phát triển tương lai của kinh tế toàn cầu.
Nội dung chính các hiệp định của WTO:

1. Hiệp định thương mại hàng hóa – GATT:


Thực hiện nguyên tắc đối xử tối hệ quốc (MFN) đối với hàng hố nhập khẩu có xuất xứ từ
các nước khác nhau và nguyên tắc đối xử quốc gia (NT) đối với hàng nhập khẩu và hàng
sản xuất trong nước. Tức là khơng có sự phân biệt đối xử về thuế nội địa, về chính sách
giá, các loại phí, các phương pháp tiếp cận thị trường, vận tải, phân phối hàng hố, lưu
kho... giữa hàng hóa sản xuất trong nước và hàng nhập khẩu. Các hàng rào bảo hộ mậu
dịch phi thuế quan như: hệ thống giấy phép, hạn ngạch và các biện pháp hạn chế mậu dịch
khác cần được bãi bỏ.Các nước thuộc WTO phải cắt giảm thuế quan và không tăng thuế
nhập khẩu để tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động thương mại.



Công nhận quyề kinh doanh xuất nhập khẩu của các tổ chức và cá nhân, không phân biệt
thành phần kinh tế của nước mình cũng như các tổ chức và cá nhân của các nước thành
Trang 14


viên trên lãnh thổ mình.


Hạn chế trợ cấp tràn lan của chính phủ và chống bán phá giá làm sai lệch thương mại cơng
bằng.




Quy định giá trị tính thuế quan và giá giao dịch thực tế chứ không phải là giá do các cơ
quan quản lý áp đặt.



WTO cho phép các nước thành viên được duy trì Doanh nghiệp thương mại Nhà nước với
điều kiện các doanh nghiệp này hòan toàn trên cơ chế thị trường.



Các nước thuộc WTO được áp dụng các biện pháp bảo vệ tạm thời để bảo vệ thị trường
nội địa, đó là các biện pháp: thuế chống bán phá giá; thuế đối kháng; biện pháp tự vệ khẩn
cấp.

2. Hiệp định thương mại dịch vụ – GATS.


Mục tiêu của GATS: mở cửa thị trường dịch vụ để kích thích cạnh tranh nhằm tạo ra nhiều
dịch vụ sẵn sàng hơn, rẻ hơn, chất lượng hoàn hảo hơn.. nhằm thỏa mãn các nhu cầu kinh
doanh sản xuất, thương mại và nâng cao sức sống nhân dân.



Phạm vi áp dụng của GATS: ngoại trừ các dịch vụ được cung cấp thuộc phạm vi hoạt động
chức năng của cơ quan Chính phủ, cụ thể là các dịch vụ đó khơng mang tính chất thương
mại và cạnh tranh với bất kỳ nhà cung cấp nào, các loại dịch vụ khác đều thuộc phạm vi
điều chỉnh chủa GATS.




Các nguyên tắc áp dụng trong mở cửa thị trường thương mại dịch vụ:


Nguyên tắc tối huệ quốc: đây là một nguyên tắc bắt buộc nhằm tạo ra một sân chơi
bình đẳng cho các nhà dịch vụ nước ngoài trên thị trường của nước nhập khẩu dịch
vụ.



Nguyên tắc đối xử quốc gia: nguyên tắc này trong lĩnh vực thương mại dịch vụ chỉ
thực hiện trên cơ sở kết quả của các cuộc đàm phán và cam kết về tiến trình tự do
hóa dịch vụ giữa các nước thành viên.

3. Hiệp định về sở sở hữu trí tuệ – TRIPS.


Đối tượng điều chỉnh của hiệp định TRIPS: bản quyền và các quyền có liên quan; nhãn
hiệu hàng hóa; chỉ dẫn địa lý; kiểu dáng cơng nghiệp; sáng chế; thiết kế bố trí mạch thích
hợp; bí mật thông tin thương mại; hạn chế các hoạt động chống cạnh tranh trong các
trường hợp chuyển giao công nghệ,



Nguyên tắc chính của hiệp định TRIPS:


Ngun tắc tối huệ quốc: địi hỏi một nước thành viên của WTO giành những ưu
đãi, ưu tiên hoặc miễn trừ áp dụng bảo hộ độc quyền sở hữu trí tuệ liên quan đến
hoạt động thương mại cho cơng dân của một quốc gia thì cũng phải giành những

điều kiện tương tự cho các công dân của tất cả các nước thành viên khác thuộc
WTO.



Nguyên tắc đối xử quốc gia: mỗi nước thành viên WTO cho các công dân của các
nước thành viên khác những đối xử không kém thuận lợi hơn về bảo hộ quyền sở
hữu trí tuệ có liên quan đến thương mại so với cơng dân của nước mình.

4. Hiệp định về quan hệ đầu tư – TRIMs.

Trang 15




Đối tượng điều chỉnh của TRIMs: chỉ áp dụng các biện pháp có liên quan đến thương mại
hàng hóa.



Mục tiêu của TRIMs: tạo điều kiện cho hoạt động đầu tư quốc tế.



Nội dung cơ bản của TRIMs:


Cho phép các nhà đầu tư nước ngoài được hưởng nguyên tắc đối xử quốc gia trong
hoạt động đầu tư sang nước thành viên thuộc WTO.




Loại bỏ các biện pháp thương mại gây trở ngại cho hoạt động đầu tư.

Bối cảnh nền kinh tế Việt Nam trước thời điểm gia nhập WTO:


Xuất khẩu của Việt Nam hiện nay đang là một trong những động lực tăng trưởng kinh tế
chiếm hơn 50% GDP. Cùng với quá trình mở cửa và đàm phán để gia nhập WTO, kinh tế
VN tăng trưởng khá ấn tượng. Tính cho giai đoạn 1990-2000, tăng trưởng ngoại thương
đạt bình quân 20%, ở mức rất cao. Từ mức xuất khẩu chỉ đạt con số khiêm tốn 2,087 tỷ
USD (1991), sau những nỗ lực quyết tâm cao tham gia hội nhập kinh tế quốc tế, tổng kim
ngạch xuất khẩu của Việt Nam đã đạt mức 16,530 tỉ USD (2002). Sự tăng trưởng mạnh mẽ
của hàng hóa xuất khẩu khơng những giúp cho VN khai thác tốt lợi thế từ nguồn tài
nguyên phong phú, nguồn lao động giá rẻ mà còn giúp VN thu được những khoản ngoại tệ
lớn làm cơ sở cho việc chuyển đổi nền kinh tế hiệu quả và linh hoạt hơn trong bối cảnh
cạnh tranh kinh tế toàn cầu.



Thị trường xnk của VN ngày càng được mở rộng. Hiện nay VN đã đặt quan hệ mua bán
với hơn 100 nước trên thế giới. Hàng xk của VN đã dần được chấp nhận trên các thị
trường khó tính như Châu Âu và Bắc Mỹ. Việc mở rộng thị trường này, một mặt giúp VN
tiếp tục khai thác lợi thế so sánh ở những thị trường quen thuộc, đồng thời giúp VN tiếp
cận được nền khoa học kỹ thuật và quản lý tiên tiến.



Bên cạnh mức tăng trưởng cao về thương mại mậu dịch, dịng vốn đầu tư trực tiếp nước

ngồi (FDI) cũng tạo những chuyển biến to lớn trong nền kinh tế nước ta trong thập niên
vừa qua.



Nền kinh tế VN tăng trưởng khá cao và ổn định thể hiện sự gian tăng ở 3 khu vực kinhh tế:
công nghiệp; dịch vụ; nông nghiệp.



Kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội phát triển nhanh chóng, cơ cấu kinh tế chuyển biến tích cực
theo hướng cơng nghiệp hóa phù hợp với xu hướng hội nhập.



Tuy nhiên, mấy năm gần đây tốc độ chuyển dịch cơ cấu kinh tế diễn ra chậm hơn và VN
vẫn bị đánh giá là sức mạnh kinh tế kém.



Năng lực nội tại vẫn cón kém. Ngay ngành cơng nghiệp dù đóng vai trị tiên phong thúc
đẩy nền kinh tế nhưng trình độ cơng nghệ cịn thấp, đầu tư của doanh nghiệp chủ yếu là
vào lĩnh vực lắp ráp gia công.

Cơ hội của các DNVN khi VN gia nhập WTO:

Trang 16





Hàng hóa, dịch vụ của VN sẽ được đối xử bình đẳng như với mọi thành viên khác và như
với nước nhập khẩu. Điều này giúp Việt Nam cải thiện mơi trường đầu tư, kinh doanh
trong và cả ngồi nước. Tạo điều kiện cạnh tranh công bằng. Tạo cơ hội cho Việt Nam
phát triển những thế mạnh hiện có (nơng sản, dầu thô, dệt may, giày dép, hàng thủ công
mỹ nghệ). Ngồi ra, dựa vào hội nhập, Việt Nam cịn có thể vận dụng sự ủng hộ cũng như
các tiến bộ về khoa học, kỹ thuật của các quốc gia phát triển trong công cuộc xây dựng và
đổi mới đất nước.



Hàng hoá và dịch vụ của Việt Nam được đối xử bình đẳng như hàng hố và dịch vụ của
nước nhập khẩu. Với cơ hội trên, Việt Nam sẽ được áp dụng nguyên tắc không phân biệt
đối xử trong quan hệ quốc tế theo tinh thần của hệ thống tư pháp quốc tế. Khi tiến hành
hoạt động xuất khẩu, các sản phẩm của Việt Nam sẽ được hưởng các quy chế về thuế
quan, mậu dịch tự do … Đơn cử một thực tiễn điển hình mà tất cả các nhà doanh nghiệp
Việt Nam rất quan tâm trong thời gian qua, đó là sự kiện Hội nơng dân Mỹ kiện Việt Nam
xuất khẩu phá giá cá basa vào thị trường Mỹ. Nếu đã là thành viên của WTO thì Việt Nam
đã có thể bảo vệ mình tốt hơn, tránh được những thiệt hại khơng đáng có nhờ vào sự hiểu
biết pháp luật Mỹ và có thể khơng bị thua kiện.



Qua các vòng đàm phán đa phương, thuế quan của mọi thành viên giảm khá nhanh. Các
hàng rào phi thuế quan, hạn chế nhập khẩu cũng được cắt giảm dần, các biện pháp hạn chế
định lượng bị cấm sử dụng. Cơ hội sẽ ngang bằng với mọi doanh nghiệp.



Các DN sản xuất và kinh doanh xuất khẩu có thể vạch ra được kế hoạch kinh doanh dài

hạn trên cơ sở hàng rào bảo hộ của ác đối tác chỉ giảm đi chứ không tăng.



Các nước phát triển phải giảm trợ cấp cho nhiều hàng hóa của họ khiến cho một số hàng
hóa của ta có sức cạnh tranh tăng lên.



Có thể duy trì chính sách bảo hộ cho các ngành sản xuất non trẻ có tiềm năng trong tương
lai trong một thời gian xác định.











Thách thức của các Doanh nghiệp VN khi VN gia nhập WTO:
Bên cạnh những cơ hội có thể đạt được khi gia nhập WTO, Việt Nam phải đối đầu với
khơng ít thách thức. Vì sự hội nhập, hợp tác nào cũng có những mặt ưu và khuyết điểm
của nó.
Theo nhận định của các chuyên gia kinh tế của Việt Nam và qua thực tế ở những nước đã
là thành viên của WTO, nền kinh tế Việt Nam phải đối mặt với những thách thức sau :
Một số cam kết song phương, ví dụ như giảm thuế suất thấp nhất áp dụng với một hàng
nhập cụ thể từ một nước phải cho tất cả các thành viên hưởng.

Ta sẽ phải loại bỏ một số đối xử ưu đãi hơn cho hàng hoá và dịch vụ trong nước, chẳng
hạn ưu về thuế tiêu thụ đặc biệt hay chi phí sử dụng điện nước…
Để có thể gia nhập WTO, Việt Nam phải có cam kết thuế trần hoặc ràng buộc thuế nhập
khẩu với rất nhiều mặt hàng. Một số trong số các doanh nghiệp đang được hưởng đặc
quyền sẽ mất toàn bộ hay một phần các đặc quyền bất cập với thực hành quốc tế.
Một số nhà sản xuất hàng hoá và cung cấp dịch vụ của ta sẽ phải chấp nhận những thách
thức trực diện lớn trong cạnh tranh với hàng nhập khẩu giữa các nhà cung cấp dịch vụ
trong nước và nước ngoài.
Cần xây dựng cơ chế và bộ máy hành chính chống cạnh tranh khơng lành mạnh. Một số
doanh nghiệp sẽ mất các đặc quyền, đặc biệt là trong lĩnh vực xuất nhập khẩu và phân
phối.
Ưu đãi là mầm mống của sự ỷ lại, đe doạ hạn chế sức cạnh tranh lâu dài khi phải cạnh
tranh ở điều kiện khơng có ưu đãi.
Trang 17









Trong điều kiện hiện nay của Việt Nam thì những thách thức trên thực sự gây nhiều khó
khăn cho cơng cuộc xây dựng và phát triển đất nước.
Việt Nam là một quốc gia mới phát triển, cơ cấu kinh tế tập trung cao ở lĩnh vực nông
nghiệp. Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở ngành công nghiệp và dịch vụ chỉ mới bắt đầu.
Nên khi thuế suất được áp dụng chung ở một mức nhất định cho mọi quốc gia tham gia
hợp tác kinh tế thì áp lực cạnh tranh sẽ tăng cao. Khả năng ảnh hưởng tới hiệu quả kinh
doanh, thậm chí đến sự tồn tại của những doanh nghiệp trong nước là rất lớn. Mức thuế

trần, chính sách bảo hộ giảm dần, áp lực cạnh tranh tăng cao … là những khó khăn tất yếu
mà nền kinh tế Việt Nam phải đối mặt. Nếu biết chủ đông hội nhập phù hợp với điều kiện
cụ thể của mình sẽ vượt qua được trở ngại và tận dụng được các cơ hội để phát triển kinh
tế đất nước, trụ vững trong bối cảnh cạnh tranh toàn cầu ngày càng khốc liệt hiện nay.
Ngược lại nếu không xây dựng được cơ cấu kinh tế có khả năng cạnh tranh cao, thích ứng
với sự vận động ngày càng linh hoạt trên thị trường thế giới thì khơng những bỏ qua cơ hội
tự khẳng định ưu thế của đất nước thông qua khai thác lợi thế so sánh mà còn phải đối diện
với những thực tế khơng thân thiện của q trình hội nhập. Vấn đề ở đây là xây dựng cơ
cấu kinh tế không chỉ hướng theo yêu cầu phát triển trong nước mà phải đáp ứng nhu cầu
thị trường nước ngồi.
Để có thể đứng vững trong cơng cuộc hội nhập, khơng những chúng ta phải tìm hiểu kỹ
để nắm bắt những cơ hội và loại bỏ những nguy cơ mà chúng ta cịn phải có những chuẩn
bị về chính sách thương mại, hệ thống pháp luật,… sao cho phù hợp với các quy định và
đòi hỏi của WTO, tổ chức mà chúng ta cần phải tham gia.
Giải pháp:
1. Chuẩn bị về chính sách mở cửa thương mại:












Việc gia nhập tổ chức WTO, chúng ta phải mở cửa thị trường theo phương thức có đi có
lại với 3 nội dung chính: mở cửa thị trường hàng hóa (giảm thuế quan, bải bỏ hàng rào phi

thuế quan) mở cửa thị trường đầu tư, dịch vụ và bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ.
1.1Mở cửa thị trường hàng hóa thơng qua cắt giảm thuế quan và hàng rào phi thuế quan:
Việt Nam cam kết ràng buộc các mức thuế quan của mình. Khi đó thuế đánh trên một sản
phẩm được duy trì ở mức bằng hoặc thấp hơn mức cam kết.
Mơ hình cắt giảm thuế quan mạnh mẽ như “cắt giảm thuế quan theo ngành” và hài hịa
hóa thuế quan” theo đó thuế quan của các sản phẩm liên quan đều được cam kết ở mức rất
thấp, chủ yếu là 0%. Các ngành chủ yếu đã được giảm thuế quan theo mơ hình này là các
sản phẩm công nghệ thông tin, dược phẩm, hóa chất, thiết bị xây dựng, thiết bị y tế, máy
móc cơng nghiệp, đồ gia dụng, bia rượu và sắt thép.
Chúng ta phải đàm phán song phương với các thành viên WTO để họ đồng ý kết nạp Việt
Nam vào tổ chức này. Lúc đó họ sẽ yêu cầu Việt Nam giảm thuế đáng kể đối với những
mặt hàng mà họ có lợi ích.
Như vậy thực hiện nghĩa vụ giảm thuế sẽ làm giảm đầu vào cho nguyên liệu sản xuất. Điều
này tưởng chừng như sẽ dẫn đến việc nhập siêu nhưng thực chất sẽ gây cho các doanh
nghiệp Việt Nam một áp lực cạnh tranh gay gắt của hàng ngoại nhập. Chỉ những doanh
nghiệp có năng lực cạnh tranh cao, sử dụng hiệu quả các nguồn lực mới có khả năng tồn
tại và phát triển.
Theo qui định của WTO, như vậy sau khi gia nhập tổ chức này, Việt Nam không được áp
dụng các biện pháp hạn chế số lượng nhập khẩu và không được phép thu các khoản phí và
phụ thu vì mục đích bảo hộ hay thu ngân sách. Các biện pháp đầu tư liên quan đến thương
mại vi phạm nguyên tắc đãi ngộ tối huệ quốc hoặc gây hạn chế hay bóp méo thương mại
Trang 18


















như qui định về tỉ lệ nội địa hoá hoặc hạn chế tiếp cận ngoại hối cũng bị cấm áp dụng.
Như vậy, Việt Nam sẽ khơng được phép duy trì các biện pháp “cấm nhập khẩu” hoặc
tương tự hoặc các biện pháp mang tính chất hạn ngạch kiểu chỉ tiêu định hướng sẽ phải
loại bỏ. Các ngành hàng như xi măng, thuốc lá, ô tô, xe máy, xăng dầu… là những mặt
hàng được bảo hộ trực tiếp hay gián tiếp sẽ phải đối diện với những khó khăn về cạnh
tranh.
1.2Mở cửa thị trường dịch vụ:
Tự do thương mại dịch vụ nghĩa là mở cửa thị trường dịch vụ, không phân biệt đối xử với
dịch vụ nước ngoài cũng như nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài.
Về khách quan, hiệu quả của thương mại dịch vụ luôn phụ thuộc rất nhiều vào khả năng
tập trung vốn đầu tư và đặc biệt là các ứng dụng công nghệ kỹ thuật hiện đại điển hình như
ngành viễn thơng, tài chính, tư vấn kiến trúc, kỹ thuật hàng không…. Các nước phát triển
hầu như có ưu thế cạnh tranh tuyệt đối trong thương mại dịch vụ. Do đó, tự do hóa thương
mại dịch vụ có thể sẽ buộc các doanh nghiệp Việt Nam phải đối mặt với cạnh tranh khốc
liệt trong khi các yếu tố căn bản về vốn và công nghệ chưa sẵn sàng. Thực tiễn cho thấy
mở cửa thị trường thương mại ngày càng đối trọng quan trọng mà các nước phát triển
muốn nhận được từ các nước đang phát triển để đổi lại sự nhượng bộ của họ trong các lãnh
vực thương mại khác.
1.3Bảo vệ quyền sở hửu trí tuệ:
Để thực hiện các nghĩa vụ khi đàm phán gia nhập WTO hoặc là thành viên của tổ chức
này, Việt Nam phải thực hiện đầy đủ các tiêu chuẩn quốc tế về bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ.

Cụ thể phải mở rộng phạm vi bảo hộ với các đối tượng sở hữu trí tuệ và áp dụng hệ thống
thực thi hiệu quả các quyền sở hữu trí tuệ.
Như vậy, sẽ đảm bảo cho hàng hóa Việt Nam được bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ ở tất cả các
nước thành viên WTO. Tuy nhiên các doanh nghiệp phải chịu chi phí lớn để có được các
thiết kế, nhãn hiệu hàng hóa, quyền sao chép, cho thuê các tác phẩm văn học nghệ thuật
mà lâu nay chúng ta chỉ trả những chi phí rất thấp.
Như vậy chúng ta cần bỏ ra thêm một chi phí đáng kể để thực thi quyền này, làm cho sản
phẩm có một mức giá cao hơn. Nhưng đổi lại hàng hóa xuất khẩu của chúng ta được thừa
nhận và đánh giá cao.
2. Nâng cao tính cạnh tranh của kinh tế việt nam trong điều kiện hội nhập kinh tế
quốc tế:
Việt Nam với chủ trương: “Hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực theo tinh thần phát huy tối
đa nội lực, đồng thời tranh thủ nguồn lực bên ngồi để phát triển nhanh, có hiệu quả và
bền vững, đảm bảo tính độc lập tự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích dân
tộc, giữ gìn an ninh quốc gia, phát huy bản sắc và văn hố dân tộc, bảo vệ mơi trường sinh
thái”, thì hội nhập kinh tế quốc tế trong điều kiện tồn cầu hóa kinh tế là một q trình mà
trọng tâm là chủ động mở cửa kinh tế, tham gia phân công hợp tác quốc tế tạo điều kiện
kết hợp có hiệu quả nguồn nhân lực trong nước và nước ngồi, mở rộng khơng gian và mơi
trường để phát triển và chiếm lĩnh vị trí phù hợp trong quan hệ kinh tế quốc tế. Hội nhập
kinh tế quốc tế vừa là đòi hỏi khách quan của nền kinh tế quốc tế nói chung, vừa là nhu
cầu nội tại của sự phát triển kinh tế đất nước. Hội nhập giúp cho việc mở rộng kinh doanh,
thâm nhập thị trường thế giới, tìm kiếm và tạo lập thị trường ổn định, từ đó có điều kiện
thuận lợi để xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý, phát triển kinh tế trong nước.
Trên cơ sở phân tích những cơ hội mà nền kinh tế Việt Nam có được cũng như những
thách thức đối với nền kinh tế Việt Nam trong điều kiện hội nhập nền kinh tế quốc tế (khi
gia nhập WTO), để nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế Việt Nam Đảng và Nhà nước
ta cần xây dựng chiến lược cạnh tranh quốc gia của mà cốt lõi là hệ thống các chính sách
Trang 19













cạnh tranh (dưới 3 gốc độ nền kinh tế, doanh nghiệp và hàng hóa).
2.1 Nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế:
Trong thời gian qua nền kinh tế Việt Nam đã đạt được những kết quả quan trọng như: tăng
trưởng GDP ở nhịp độ cao, (2001 6,9%, năm 2002 là 7, 04%; năm 2003 là 7,2-7,3%), cơ
cấu kinh tế tiếp tục chuyển dịch theo hướng tăng tỉ trong của công nghiệp, dịch vụ, giảm
dần tỉ trọng nông nghiệp. Cơ cấu của từng ngành cũng có sự chuyển dịch dần theo hướng
phát huy lợi thế cạnh tranh hơn đối với thị trường trong và ngoài nước. Tỉ lệ huy động vốn
cho đầu tư phát triển có xu hướng tăng (năm 2003 chiếm tới 35,6% GDP), các nguồn lực
trong xã hội được huy động tốt hơn, đặc biệt trong khu vực kinh tế tư nhân, đầu tư cho cơ
sở hạ tầng có tiến bộ, năng lực sản xuất của nhiều ngành tăng lên.
Tuy nhiên tốc độ tăng trưởng nền kinh tế vẫn chưa tương xứng với mức đầu tư, cơ cấu
chuyển dịch còn chậm, chưa phát huy được lợi thế cạnh tranh của ngành, sản phẩm. Chủ
trương của Đảng và Nhà nước ta là đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế thông qua hệ
thống điều chỉnh cơ cấu đầu tư nhằm phát huy lợi thế so sánh, lợi thế cạnh tranh thực hiện
chủ động hội nhập kinh tế quốc tế.
Việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu đầu tư cần phải dựa trên việc phát huy các thế
mạnh, các lợi thế so sánh quốc tế của đất nước, gắn với nhu cầu trong nước và ngồi nước
thì mới phát huy được hiệu quả và hỗ trợ cho tiến trình hội nhập. Xác định những ngành
mũi nhọn, những ngành, hàng, lĩnh vực cần ưu tiên phát triển trong 10-20 năm tới, những
ngành cần chun mơn hố…để làm cơ sở xây dựng các lộ trình mở cửa và các chính sách

bảo hộ cụ thể theo phương châm có chọn lọc , hợp lý và có thời hạn.
Sự chuyển dịch cơ cấu xuất nhập khẩu về hàng hoá, dịch vụ, đầu tư, lao động…với nước
ngồi sẽ tác động tích cực tới sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong nước. Cần xác định
được những yếu tố vĩ mô ảnh hưởng lớn đến khả năng cạnh tranh xuất khẩu của Việt Nam
trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế để tìm giải pháp cho việc nâng cao khả năng cạnh
tranh xuất khẩu của Việt Nam. Trước tiên cần khẳng định được những cải cách căn bản và
đồng bộ về hệ thống chính sách, pháp luật về XNK phù hợp với thể chế tương ứng của
WTO, ASEAN…(gồm các quy định về kinh doanh, về thuế, về ngân hàng, về thủ tục hải
quan…). Tiếp theo là tăng cường các biện pháp thu hút đầu tư nước ngồi vào các ngành
cơng nghiệp chế biến xuất khẩu và cơng nghệ cao, cơng nghiệp cơ khí, điện tử, dầu khí,
những ngành ta có thế mạnh về tài nguyên, nguyên liệu và lao động vì triển vọng tăng
trưởng xuất khẩu của Việt Nam chủ yếu phụ thuộc vào các doanh nghiệp FDI (chiếm gần
50% kim ngạch XK của toàn quốc). Cơ cấu chuyển dịch trong nước phải làm cho tỷ trọng
hàng thô hoặc sơ chế giảm và làm tăng sản phẩm công nghiệp chế biến và chế tạo, các dịch
vụ và sản phẩm của các ngành có cơng nghệ cao, hàm lượng chất xám nhiều phải chiếm vị
trí ngày càng cao. Bên cạnh đó, thực hiện q trình cải cách hệ thống thuế, tiến tới xây
dựng hệ thống thuế thống nhất cho các thành phần kinh tế. Thực hiện nhất quán lộ trình cắt
giảm thuế theo hiệp định song phương và đa phương mà Việt Nam đã ký và sẽ ký, đồng
thời cần công bố công khai thời gian và mức độ cắt giảm thuế nhập khẩu để các doanh
nghiệp thuộc các thành phần kinh tế chủ động hội nhập và cạnh tranh ở thị trường trong
nước và quốc tế. Bên cạnh đó, đẩy mạnh xúc tiến thương mại, xúc tiến đầu tư nhất là đối
với các đối tác lớn như: EU, Mỹ, Nhật Bản, để mở rộng thị trường , tranh thủ công nghệ
nguồn, kinh nghiệm quản lý….
2.2 Nâng cao sức cạnh tranh của doanh nghiệp và hàng hố trong tiến trình hội nhập kinh
tế thế giới:
Hội nhập kinh tế quốc tế là quá trình tất yếu khách quan, khơng doanh nghiệp nào có thể
né tránh được, tư tưởng bảo hộ trông chờ vào Nhà nước cũng sẽ bị đào thải. Vì vậy doanh
nghiệp Việt Nam (đặc biệt là những doanh nghiệp vừa và nhỏ) cần phải có q trình chuẩn
Trang 20




×