Tải bản đầy đủ (.doc) (11 trang)

Một số kiến nghị xây dựng cơ chế phối hợp trong hoạt động đào tạo luật sư thương mại quốc tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (105.95 KB, 11 trang )

Một số kiến nghị xây dựng cơ chế phối hợp trong hoạt động
đào tạo luật sư thương mại quốc tế1
LS. Nguyễn Mạnh Dũng2
I.

Đặc trưng cơ bản của Chương trình đào tạo luật sư thương mại quốc tế

Chương trình đào tạo luật sư thương mại quốc tế được thực hiện theo Quyết định 123
của Thủ tướng Chính Phủ ban hành ngày 18/01/2010 phê duyệt đề án phát triển đội
ngũ luật sư phục vụ hội nhập kinh tế quốc tế. Chương trình đào tạo này được trực tiếp
tham gia soạn thảo bởi các luật sư chuyên nghiệp hàng đầu của Việt Nam trong lĩnh
vực thương mại và đầu tư quốc tế xuất phát từ thực tiễn của thị trường dịch vụ pháp lý
của Việt Nam. Nội dung chương trình đào tạo này có những nét khác biệt về cơ bản
với các chương trình đào tạo nghề và đào tạo sau đại học luật ở Việt Nam hiện nay, thể
hiện ở một số điểm chính sau đây:
-

Nội dung cơ bản về kiến thức thuộc lĩnh vực luật quốc tế, chủ yếu theo hệ thống
luật án lệ (thông pháp – common law) với nền tảng pháp luật dự kiến là pháp luật
Anh.

-

Chương trình đào tạo này kết hợp giữa đào tạo cả kỹ năng nghề (module 2) với
kiến thức nâng cao sau đại học (module 3) và mang tính ứng dụng (course works)
khi yêu cầu thời gian thực tập bắt buộc (Module 4).

II.

Những yêu cầu đặc thù của chương trình đối với đội ngũ luật sư tham gia:


Ngoài những yêu cầu bắt buộc chung đối với giảng viên thỉnh giảng ở các cơ sở đào
tạo thì việc lựa chọn một đội ngũ luật sư có hiểu biết một cách có hệ thống về pháp
luật quốc tế và có kinh nghiệm thực tiễn trong các lĩnh vực thương mại và đầu tư quốc
tế ở thị trường dịch vụ pháp lý của Việt Nam có ảnh hưởng quan trọng đến chất lượng
đào tạo của chương trình. Do đó sáng kiến thành lập một Hội đồng tư vấn đào tạo và
tuyển chọn chặt chẽ học viên để đảm bảo chất lượng của chương trình nên được xem
xét một cách kỹ lưỡng. Rõ ràng là sự tham gia trực tiếp của tổ chức hành nghề luật sư
trong lĩnh vực thương mại và đầu tư quốc tế là cần thiết và hữu ích cả dưới góc độ là
người sử dụng lao động (cung cấp và tiếp nhận học viên), phản ảnh như cầu thực tiễn
của thị trường dịch vụ pháp lý ở Việt Nam thông qua việc phối hợp với giảng viên
1

Đây chỉ là quan điểm cá nhân, không phản ánh hay đại diện cho bất kỳ tổ chức nào nên có thể không đầy đủ và
toàn diện.
2

Luật sư Nguyễn Mạnh Dũng, giám đốc Công ty Luật TNHH Tư vấn Độc Lập – Dzungsrt & Associates LLC
(www.dzungsrt.com/) là thành viên Nhóm tư vấn nội dung đào tạo luật sư phục vụ hội nhập quốc tế và tìm kiếm
đối tác liên kết đào tạo theo Quyết định Số: 1544/BTP-BST ngày 28/03/2011.

1


quốc tế để thiết kế học phần chương trình về luật Việt Nam cũng như sắp xếp, lựa
chọn giảng viên Việt Nam là luật sư thích hợp với nhu cầu của chương trình.
Ngoài ra, chúng tôi đề nghị xây dựng những tiêu chí cụ thể để lựa chọn một đội ngũ
luật sư thích hợp tham gia giảng dạy cho chương trình đào tạo này:
-

Luật sư tham gia giảng dạy đã được đào tạo một cách có hệ thống về pháp luật

quốc tế theo chương trình đào tạo bằng tiếng Anh của các nước theo hệ thống
common law (trừ Module giảng dạy về kỹ năng nghề). Yêu cầu này để đảm bảo sự
tương thích với nội dung giảng dạy của giảng viên quốc tế. Và/hoặc

-

Luật sư tham gia giảng dạy phải có kinh nghiệm thực tiễn chuyên sâu trong các
lĩnh vực thương mại – đầu tư quốc tế có liên quan đến từng Module cụ thể của
chương trình ít nhất từ 7 đến 10 năm.

Bên cạnh đó, Chương trình cũng có thể xem xét cho phép các luật sư nước ngoài hiện
hành nghề ở Việt Nam tham gia giảng dạy. Các luật sư này có thể mang đến cho học
viên nhiều kiến thức và kinh nghiệm quý báu do phần lớn họ đều có thời gian hành
nghề quốc tế trong các lĩnh vực có liên quan. Hơn thế nữa, luật sư nước ngoài cũng
giúp bổ sung đội ngũ giảng viên cho trường trình bởi số lượng luật sư Việt Nam được
đào tạo một cách có hệ thống về pháp luật quốc tế hiện nay có thể là chưa nhiều.
III. Chính sách khuyến khích luật sư và các tổ chức hành nghề luật sư tham gia
chương trình đào tạo
Ngoài những đề xuất chính sách khuyến khích luật sư tham gia chương trình đào tạo
như:
-

Chính sách miễn, giảm thuế cho các tổ chức hành nghề luật sư nhận học viên thực
tập của Trung tâm theo điểm 2.4 Mục II điều 1 của Quyết định 123.

-

Tạo điều kiện phát triển các tổ chức hành nghề luật sư Việt Nam thông qua việc
thực hiện chính sách giao cho các tổ chức này thực hiện các giao dịch, dự án lớn
của Chính phủ, huy động sự tham gia của luật sư nước ngoài trong trường hợp cần

thiết.

-

Giảng viên tham gia giảng dạy được miễn điều kiện để tham gia học tập thường
xuyên theo Quy định của Luật Luật sư – khoản 2 Điều 10 Thông tư 10/2014/TTBTP ngày 7 tháng 10 năm 2014 quy định nghĩa vụ tham gia bồi dưỡng về chuyên
môn nghiệp vụ luật sư.
2


-

Đối với các học viên có cam kết của tổ chức hành nghề luật sư về việc phục vụ
yêu cầu của Chính phủ sẽ được Nhà nước hỗ trợ 50% học phí, v.v.

Điểm quan trọng cần cân nhắc kỹ lưỡng hơn là việc truyền tải một cách hữu hiệu
thông điệp về “trách nhiệm xã hội của luật sư” cũng như kêu gọi sự chung tay đóng
góp của thế hệ luật sư đi trước đối với thế hệ luật sư trẻ đầy hứa hẹn khi tham gia
chương trình đào tạo.
Các chính sách khuyến khích cụ thể như kêu gọi tổ chức hành nghề luật sư tham gia
cấp học bổng từng phần hay toàn phần cho học viên, trao tặng phần thưởng mang tên
tổ chức hành nghề luật sư cho từng môn học cụ thể, miễn giảm yêu cầu trợ giúp pháp
lý, vinh danh những tổ chức hành nghề luật sư hay cá nhân luật sư tham gia thỉnh
giảng cho chương trình cũng nên được phổ biến một cách rộng rãi và chuyên nghiệp
hơn.
IV. Vai trò cụ thể của Luật sư Việt Nam tham gia chương trình đào tạo các môn
học về giải quyết tranh chấp quốc tế3:
Các môn học giải quyết tranh chấp (ví dụ như: Tranh tụng thương mại quốc tế, Trọng
tài thương mại quốc tế, Hòa giải thương mại quốc tế, Đàm phán, thương lượng quốc
tế, vv.) là các môn học mang tính chất thực hành cao. Để tăng tính hiệu quả trong việc

tiếp thu của sinh viên, các môn học này thường được giảng dạy thông qua các phương
pháp: nghiên cứu tài liệu (sách giáo khoa, sách bổ trợ, án lệ) ở nhà, giảng dạy lý
thuyết và thực hành trên lớp. Việc sử dụng các phương pháp này tạo điều kiện cho
sinh viên phát huy khả năng tự nghiên cứu, đồng thời có thể kết hợp lý thuyết và thực
hành. Cụ thể như sau:
1.

Nghiên cứu tài liệu ở nhà

Giảng viên quốc tế phụ trách môn học sẽ phải thông báo cho học viên về tóm lược
chương trình giảng dạy của môn học (syllabus) ngay từ đầu khóa học. Chương trình
giảng dạy này phải chi tiết (nêu rõ mục đích của từng bài giảng, nội dung chính,
phương pháp nghiên cứu, các tài liệu tham khảo cơ bản…). Về các tài liệu tham khảo,
giảng viên có thể chia thành nguồn chính (primary source) như văn bản luật, án lệ
(case law) và các nguồn bổ trợ (secondary source) như sách giáo khoa, sách tham
khảo, bài nghiên cứu, tạp chí... Các loại sách tham khảo cũng được sắp xếp theo thứ tự
từ những tài liệu cơ bản (key books) đến những tài liệu mở rộng. Dựa trên chương
trình này, giảng viên Việt Nam cũng phải xây dựng những nội dung tương ứng về thực
tiễn pháp luật Việt Nam có tính so sánh đối chiếu.
3

Phần trình bày này được thực hiện với sự trợ giúp của Đặng Vũ Minh Hà, thạc sỹ Luật thương mại quốc tế,
Đại học Leicester, Vương quốc Anh.

3


Trước mỗi buổi học, học viên sẽ được cung cấp tài liệu giới thiệu về bài học hôm đó
hoặc thậm chí giảng viên có thể cung cấp trước bài giảng của mình (lecture notes hoặc
slide), trong đó giảng viên sẽ nêu ra mục đích của bài học và các tài liệu cần nghiên

cứu để phục vụ cho bài học đó. Giảng viên cũng có thể đặt một số câu hỏi cho học
viên tự nghiên cứu trước hoặc để thảo luận tại lớp. Học viên bắt buộc phải chuẩn bị
bài trước khi đến lớp. Có thể giảng viên chỉ yêu cầu học viên nghiên cứu án lệ và đọc
trước sách (bài báo, tạp chí…) ở nhà nhưng cũng có những giảng viên yêu cầu học
viên phải viết bài thu hoạch (tóm tắt án lệ, phân tích nội dung có liên quan đến bài
học) hoặc trả lời một số câu hỏi được đặt ra trong lecture notes đó.
Nước Anh là “cha đẻ” của hệ thống thông luật, hệ thống luật pháp của Anh cơ bản dựa
trên các án lệ. Mặc dù gần đây cũng có rất nhiều các văn bản luật thành văn (Sale of
Goods Act 1979, Arbitration Act 1996…) nhưng các văn bản đó cũng được xây dựng
dựa trên sự tổng hợp các án lệ. Chính vì vậy, để hiểu rõ được các văn bản luật, học
viên không có cách nào khác ngoài việc nghiên cứu các án lệ. Các án lệ có thể được
nghiên cứu thông qua việc đọc trực tiếp các bản án của tòa án (thường là House of
Lords và Court of Appeal) hoặc đọc các sách tổng hợp các bản án và chia theo từng
vấn đề (Cases and Materials) tùy theo yêu cầu của giảng viên.
Như vậy, giảng viên Việt Nam cũng phải đưa ra được những tình huống điển hình
(case studies) của Việt Nam dựa trên những bản án của Tòa phúc thẩm hoặc Quyết
định giám đốc thẩm của Tòa án tối cao hay những phán quyết trọng tài điển hình để
làm tài liệu phục vụ cho mục đích nghiên cứu của học viên.
2.

Giảng dạy trên lớp

Buổi giảng dạy trên lớp có thể là buổi học lý thuyết đơn thuần (lecture) hoặc kết hợp
với thảo luận (seminar). Các buổi học lecture thường được tổ chức với quy mô lớn
trong khi các lớp học seminar thường nhỏ hơn (thường chỉ có khoảng 20 học viên trở
xuống).
a.

Lecture


Đối với các buổi lecture, giảng viên sẽ trình bày tất cả những nội dung của bài học.
Giảng viên cũng có thể phân tích một số án lệ để củng cố cho phần lý thuyết. Mặc dù
giảng viên là người làm việc chính trong các giờ giảng lý thuyết nhưng nếu học viên
không nghiên cứu trước tài liệu ở nhà thì việc tiếp thu bài sẽ kém hiệu quả hơn.
Giảng viên Việt Nam sẽ ít có cơ hội để tham gia song giảng cùng giảng viên quốc tế
trong các buổi lecture nhưng có thể tham gia một cách tích cực vào các seminar.
b.

Seminar
4


Các giờ học seminar có thể được kết hợp chung với buổi học lý thuyết hoặc tách riêng
thành một buổi sau buổi học lý thuyết. Tại buổi seminar, học viên là người chủ động
trong giờ học dưới sự hướng dẫn trực tiếp của giảng viên quốc tế và hoặc giảng viên
thỉnh giảng của Việt Nam. Trước các buổi học seminar, học viên có thể được chia
nhóm để chuẩn bị trước nội dung của buổi seminar hoặc giảng viên có thể chia nhóm
ngay trên lớp để thảo luận. Trước các buổi học seminar, học viên bắt buộc phải chuẩn
bị trước ở nhà, nếu không sẽ không thể tham gia các hoạt động ở trên lớp. Thông
thường buổi học seminar có thể có một số hoạt động như sau:
-

Thuyết trình về án lệ: Giảng viên có thể yêu cầu học viên hoặc một nhóm học viên
thuyết trình về một (hoặc một vài) án lệ quốc tế và/hoặc Việt Nam có liên quan
đến nội dung lý thuyết đã được học. Học viên phải tóm tắt được án lệ và nêu ra
được các vấn đề cơ bản trong phán quyết đó, liên hệ với lý thuyết.

-

Thảo luận trực tiếp về một (một vài) án lệ cụ thể: học viên không bắt buộc phải

thuyết trình nhưng sẽ cùng với giảng viên thảo luận trực tiếp về một án lệ cụ thể
nào đó. Án lệ này thường là các phán quyết tiêu biểu gắn liền với các nội dung lý
thuyết. Giảng viên Việt Nam có thể tham gia thảo luận cùng với các học viên
thông qua phân tích các bản án của Việt Nam và so sánh đối chiếu các án lệ quốc
tế với Việt Nam.

-

Trả lời các câu hỏi đã được chuẩn bị sẵn ở nhà: các câu hỏi này có thể dựa trên
nội dung lý thuyết và được mở rộng ra các khía cạnh thực tiễn ở Việt Nam. Các
câu hỏi mang tính thảo luận dựa trên các quan điểm được nêu trong sách giáo
khoa hoặc sách tham khảo bổ trợ hoặc được trích dẫn trong một án lệ nào đó.

-

Trả lời các câu hỏi được giảng viên đặt ra trực tiếp trên lớp: học viên có thể được
chia nhóm để thảo luận các câu hỏi được giảng viên đặt ra trực tiếp trên lớp. Học
viên sẽ phải áp dụng các án lệ đã chuẩn bị ở nhà để trả lời cho các câu hỏi này.
Giảng viên Việt Nam, với những kinh nghiệm của mình, có thể đặt ra những câu
hỏi hoặc đưa ra các tình huống thực tiễn để học viên trả lời và thảo luận.

-

Ngoài các buổi seminar còn có thể được thay thế hoặc bổ trợ bằng các lớp học
nhóm (tutorial). Tại các giờ học đó, giảng viên (hoặc trợ giảng là giảng viên Việt
Nam) sẽ hướng dẫn học viên nghiên cứu án lệ. Giảng viên Việt Nam có thể đóng
vai trò rất tích cực trong hoạt động này.

3.


Thực hành

Các môn học giải quyết tranh chấp thường mang tính thực tiễn cao, chính vì vậy,
ngoài các giờ học lý thuyết và seminar, trong một số môn, học viên sẽ có các hoạt
động thực hành (soạn thảo hợp đồng/điều khoản tranh chấp trong hợp đồng, tham gia
5


phiên tòa giả định (moot) hoặc tiến hành đàm phán/hòa giải). Đối với phần thực hành
thì giảng viên Việt Nam nên giữ vai trò chính để bảo đảm tính ứng dụng của các bài
học thực hành.
a.

Soạn thảo hợp đồng

Học viên sẽ được chia nhóm để thảo luận và đàm phán nội dung của hợp đồng hoặc
chỉ riêng điều khoản giải quyết tranh chấp của hợp đồng. Hình thức thực hành này có
thể được gắn vào buổi seminar.
b.

Tham gia phiên tòa giả định

Đây là hình thức thực hành hiệu quả nhất đối với các môn học giải quyết tranh chấp.
Học viên sẽ được trực tiếp cọ sát với vụ việc thực tế. Học viên sẽ được chia nhóm và
cung cấp một tình huống giả định và được yêu cầu chuẩn bị bản luận cứ để bảo vệ
nguyên đơn hoặc bị đơn hoặc lần lượt cả hai bên. Bản luận cứ được đánh giá dựa trên
việc áp dụng pháp luật, án lệ và các nguồn thứ cấp khác (sách giáo khoa, sách tham
khảo).
Sau khi chuẩn bị bản luận cứ, học viên sẽ được tham gia tranh tụng tại phiên tòa giả
định, nơi các giảng viên quốc tế và giảng viên thỉnh giảng Việt Nam sẽ đóng vai trò

thẩm phán hoặc trọng tài viên. Để tham gia tranh tụng trực tiếp với các giảng viên, đòi
hỏi học viên phải nắm rất chắc các án lệ và thực tiễn chứ không chỉ còn là lý thuyết
nữa. Hình thức thực hành này không chỉ củng cố kiến thức đã được học cho học viên
mà còn rèn luyện kĩ năng tranh tụng, một yếu tố quan trọng đối với nghề luật sư.
c.

Tham gia đàm phán/hòa giải

Tương tự như việc tham gia phiên tòa giả định, học viên cũng được cung cấp một tình
huống giả định và chia nhóm để chuẩn bị đàm phán hoặc hòa giải. Đối với đàm phán,
học viên sẽ trực tiếp đàm phán với nhau về một tranh chấp cụ thể dưới sự giám sát của
giảng viên. Đối với phiên hòa giải, một hoặc một vài học viên sẽ được đóng vai trò
làm hòa giải viên trong khi các nhóm khác đóng vai các bên tranh chấp. Hình thức này
thường không viện dẫn nhiều đến án lệ nhưng cũng là một hình thức thực hành hiệu
quả, củng cố kĩ năng giải quyết tranh chấp của học viên. Các giảng viên Việt Nam
chuyên sâu trong lĩnh vực tư vấn sẽ hỗ trợ tích cực trong hoạt động thực hành này.
Việc nghiên cứu án lệ là một điều không thể thiếu trong tất cả các môn học có liên
quan đến luật tại các quốc gia thuộc hệ thống thông luât. Đặc biệt, đối với các môn
giải quyết tranh chấp, việc nghiên cứu án lệ còn có vai trò quan trọng hơn bởi nó
không chỉ củng cố lý thuyết mà còn là cơ sở để thực hành các kỹ năng tranh tụng.
Chính vì vậy, các phương pháp nghiên cứu án lệ kết hợp với lý thuyết luôn được chú
trọng để đảm bảo tính hiệu quả khi học các bộ môn giải quyết tranh chấp. Ngoài các
6


bài giảng lý thuyết của giảng viên nước ngoài, giảng viên Việt Nam sẽ đóng vai trò hỗ
trợ rất tích cực trong việc nghiên cứu các vấn đề thực tiễn ở Việt Nam trong các buổi
thảo luận cũng như các giờ học thực hành.
V.


Sự cần thiết của phương pháp tiếp cận trong việc tiếp nhận và tổ chức tập
sự cho luật sư4

Thực tập hành nghề tại các tổ chức hành nghề luật sư là giai đoạn cuối cùng trong
Chương trình đào tạo luật sư thương mại quốc tế. Đây là khoảng thời gian hết sức
quan trọng bởi nó mang đến cho các học viên của Chương trình cơ hội đưa các kiến
thức đã tiếp thu được trong giai đoạn trước đó vào áp dụng trong thực tế và cũng giúp
học viên có được cái nhìn trực tiếp về nghề luật sư.
Tuy nhiên, khoảng thời gian thực tập ngắn ngủi cũng như đặc điểm của quá trình thực
tập có thể ảnh hưởng đến sự tin tưởng và gắn kết giữa học viên thực tập và tổ chức
hành nghề luật sư. Bên cạnh đó, công ty luật và văn phòng luật sư, trong quá trình
hành nghề, có nghĩa vụ tuân thủ Luật luật sư 5 và Quy tắc đạo đức hành nghề luật sư 6
mà cụ thể ở đây là nguyên tắc bảo mật thông tin khách hàng 7. Ngoài ra, các luật sư
trong tổ chức hành nghề cũng có thể chưa sẵn sàng chia sẻ các kinh nghiệm làm việc
quý báu và bí mật nghề nghiệp nếu quan hệ giữa họ và người tập sự chưa phát triển
được đến một mức độ nhất định. Trên thực tế, mỗi người tập sự đều có thể trở thành
một đối thủ cạnh tranh của luật sư hướng dẫn cũng như tổ chức hành nghề luật sư
trong tương lai.

4

Phần trình bày này được thực hiện với sự trợ giúp của Nguyễn Ngọc Minh, thạc sỹ Luật, Đại học Monash (Úc)

5

Luật Luật sư số 65/2006/QH11 sửa đổi bổ sung theo Luật số 20/2012/QH13 có hiệu lực từ ngày 01 tháng 7
năm 2013 (“Luật Luật sư”)
6

Quy tắc Đạo đức và Ứng xử nghề nghiệp Luật sư Việt Nam (ban hành kèm theo quyết định số 68/QĐHĐLSTQ ngày 20 tháng 7 năm 2011 của Hội đồng Luật sư toàn quốc)

7

Điều 25. Bí mật thông tin (Luật Luật sư)

1. Luật sư không được tiết lộ thông tin về vụ, việc, về khách hàng mà mình biết được trong khi hành nghề, trừ
trường hợp được khách hàng đồng ý bằng văn bản hoặc pháp luật có quy định khác.
2. Luật sư không được sử dụng thông tin về vụ, việc, về khách hàng mà mình biết được trong khi hành nghề vào
mục đích xâm phạm lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng, quyền, lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá
nhân.
3. Tổ chức hành nghề luật sư có trách nhiệm bảo đảm các nhân viên trong tổ chức hành nghề không tiết lộ thông
tin về vụ, việc, về khách hàng của mình.
Quy tắc 12. Giữ bí mật thông tin (Quy tắc đạo đức và Ứng xử nghề nghiệp Luật sư Việt Nam)
Luật sư có nghĩa vụ giữ bí mật thông tin của khách hàng khi thực hiện dịch vụ pháp lý và cả khi đã kết thúc dịch
vụ đó, trừ trường hợp được khách hàng đồng ý hoặc theo quy định của pháp luật; luật sư có trách nhiệm yêu cầu
các đồng nghiệp có liên quan và nhân viên của mình cam kết không tiết lộ những bí mật thông tin mà họ biết
được và giải thích rõ nếu tiết lộ thì phải chịu trách nhiệm trước pháp luật.

7


Mặt khác, công ty luật và văn phòng luật sư, khi đã đồng ý tiếp nhận người tập sự, có
nghĩa vụ tạo điều kiện cho học viên cũng như phải hướng dẫn, theo dõi và kiểm tra
quá trình tập sự của học viên. Bởi vậy, luật sư hướng dẫn cũng như tổ chức hành nghề
luật sư cũng không thể chỉ giới hạn người tập sự trong các công việc có tính chất
nghiên cứu đơn thuần và không cho họ trực tiếp tham gia vào các vụ việc thực tế hay
làm việc với khách hàng. Làm như vậy sẽ khiến quá trình tập sự trở thành một giai
đoạn chỉ có tính hình thức mà các học viên phải hoàn thành để có thể kết thúc Chương
trình đào tạo.
Do đó, vấn đề đặt ra đối với tổ chức hành nghề luật sư đồng ý tiếp nhận người thực
tập và luật sư được phân công hướng dẫn chính là làm thế nào để có được phương

pháp tiếp cận phù hợp, vừa phát huy được tối đa hiệu quả của quá trình thực tập và
vừa đảm bảo các nguyên tắc hành nghề cũng như bí mật kinh doanh. Để đạt được mục
tiêu này, quá trình tập sự có thể được chia thành nhiều bước khác nhau và sau mỗi
bước, học viên lại được tiếp cận gần hơn tới các vụ việc thực tế của tổ chức hành nghề
luật sự.
Trong mỗi bước, người tập sự sẽ có cơ hội để đưa các kỹ năng và kiến thức mà mình
đã học vào áp dụng, bao gồm nghiên cứu, soạn thảo tư vấn, gặp gỡ khách hàng, ghi
chép cũng như hỗ trợ và phối hợp với đồng nghiệp. Sau mỗi bước, luật sư hướng dẫn
có thể kiểm tra kết quả tập sự của học viên và dựa trên những gì mà họ thể hiện, đánh
giá độ tin cậy cũng như năng lực của từng người để từ đó quyết định cho họ tiếp cận
sâu hơn với công việc của tổ chức hành nghề.
VI. Các nội dung cụ thể của quá trình tiếp nhận và tổ chức tập sự cho luật sư
1.

Nguyên tắc bảo mật thông tin8

Theo Quy tắc đạo đức hành nghề, có nghĩa vụ giữ bí mật thông tin của khách hàng khi
thực hiện dịch vụ pháp lý và cả khi đã kết thúc dịch vụ đó, trừ trường hợp được khách
hàng đồng ý hoặc theo quy định của pháp luật và cũng có trách nhiệm yêu cầu các
đồng nghiệp có liên quan và nhân viên của mình cam kết không tiết lộ những bí mật
thông tin mà họ biết. Liên quan đến vấn đề này, thỏa thuận bảo mật thông tin sẽ giúp
đạt được hai mục đích:
-

Tạo ra nghĩa vụ pháp lý ràng buộc học viên tập sự với tổ chức hành nghề luật sư
và luật sư hướng dẫn; và

-

Giúp người tập sự hiểu rõ hơn và ý thức được tầm quan trọng của nghĩa vụ bảo

mật thông tin của luật sư, qua đó giúp họ có trách nhiệm hơn trong quá trình tập
sự cũng như quá trình hành nghề sau này.

8

Điều 25 Luật Luật sư và Quy tắc 12 Quy tắc Đạo đức và Ứng xử nghề nghiệp Luật sư Việt Nam

8


Học viên cần ký thỏa thuận bảo mật thông tin ngay từ khi bắt đầu quá trình tập sự tại
tổ chức hành nghề luật sư. Thỏa thuận này sẽ có hiệu lực ràng buộc không chỉ trong
suốt thời gian tập sự mà còn kéo dài tới sau khi quá trình này kết thúc. Tuy nhiên để
bảo đảm tính pháp lý và thực tiễn thì nghĩa vụ bảo mật thông tin cần được quy định
trong quy chế đào tạo (hoặc ít nhất là quy chế thực tập tốt nghiệp) của chương trình
kèm theo chế tài xử lý kỷ luật nếu có vi phạm ở mức nghiêm khắc như đình chỉ học
hoặc đánh trượt tốt nghiệp, v.v.
Bên cạnh đó, cũng nên xem xét công nhận quá trình tập sự của học viên trong Chương
trình là tập sự chính thức như được quy định tại Luật Luật sư hoặc tính khoảng thời
gian này vào thời gian miễn tập sự theo Luật Luật sư cho học viên. Như vậy, tổ chức
hành nghề sẽ có cơ sở để ký kết hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp luật sư
bao gồm cả phạm vi công việc do học viên thực hiện trong quá trình tập sự để có thể
kiểm soát được rủi ro phát sinh từ việc người thực tập vi phạm nghĩa vụ bảo mật
thông tin.
2.

Đăng ký tập sự tại tổ chức hành nghề luật sư và Phân công luật sư hướng
dẫn người tập sự

Để bảo đảm sự phù hợp của học viên với hoạt động của tổ chức hành nghề luật sư thì

nên cho phép học viên đăng ký nguyện vọng tập sự tại một tổ chức hành nghề luật sư
hợp tác với chương trình đào tạo. Tổ chức hành nghề luật sư căn cứ vào nguyện vọng
cá nhân của học viên đối chiếu với khả năng tiếp nhận thực tế sẽ quyết định việc có
đồng ý tiếp nhận học viên cụ thể đó vào tập sự hay không. Cơ chế này sẽ tránh được
các vấn đề liên quan đến bí mật kinh doanh và năng lực cạnh tranh của tổ chức hành
nghề luật sư. Trong trường hợp không có sự cân đối giữa nguyện vọng của học viên
và nhu cầu tiếp nhận của tổ chức hành nghề luật sư thì Hội đồng tư vấn đào tạo sẽ tư
vấn cho chương trình phướng hướng xử lý phù hợp.
Tổ chức hành nghề luật sư cần phân công một luật sư hướng dẫn người tập sự, phù
hợp với lĩnh vực pháp luật mà học viên đăng ký tập sự và chịu trách nhiệm đánh giá
kết quả tập sự của học viên. Như vậy, hiệu quả của quá trình tập sự sẽ được đảm bảo
do học viên luôn có được sự chỉ dẫn cụ thể, trực tiếp và kịp thời. Bên cạnh đó, luật sư
hướng dẫn cũng có thể trực tiếp phân công công việc cho người tập sự và chủ động
kiểm tra, giám sát người tập sự trong quá trình thực hiện công việc được giao. Điều
này cũng có nghĩa là tổ chức hành nghề luật sư sẽ luôn chủ động kiểm soát được các
thông tin vụ việc mà người tập sự có thể tiếp cận, qua đó hạn chế được việc các thông
tin quan trọng, có tính chất nhạy cảm bị tiết lộ ra ngoài.
3.

Nghiên cứu và đưa ra ý kiến pháp lý đối với các vụ việc đã được luật sư
hướng dẫn hoặc tổ chức hành nghề luật sư thực hiện trước đó
9


Ở bước này, luật sư hướng dẫn giao cho học viên một số vụ việc cụ thể mà mình hoặc
tổ chức hành nghề luật sư đã thực hiện để học viên có thể nghiên cứu và tự đưa ra ý
kiến đánh giá cũng như phương hướng giải quyết cụ thể. Để kiểm tra, luật sư hướng
dẫn có thể yêu cầu học viên thuyết trình và đặt câu hỏi đối với các vấn đề chưa rõ
ràng. Sau đó, người tập sự sẽ được tham khảo ý kiến tư vấn và cách giải quyết vụ việc
mà luật sư hướng dẫn đã đưa ra để qua đó, học viên có thể so sánh và rút ra điểm khác

biệt giữa hai hướng tiếp cận cùng một vấn đề. Tùy thuộc vào tính chất và mức độ quan
trọng, một số chi tiết liên quan đến khách hàng và vụ việc có thể được sửa đổi để hạn
chế khả năng người tập sự có thể vô ý để lộ thông tin. Tuy nhiên, cần đảm bảo không
thay đổi cơ bản các nội dung chính để tránh dẫn đến học viên đưa ra ý kiến giải quyết
một vụ việc hoàn toàn khác so với vụ việc mà luật sư hướng dẫn đã tư vấn.
4.

Tham gia gặp gỡ khách hàng cùng luật sư hướng dẫn

Luật sư hướng dẫn có thể cho người tập sự tham gia gặp gỡ khách hàng trong một số
trường hợp cụ thể, ví dụ như ở giai đoạn thu thập thông tin sơ bộ để xem xét nhận vụ
việc hoặc ở giai đoạn bắt đầu vụ việc. Khi tham gia cùng luật sư hướng dẫn tiếp xúc
với khách hàng, công việc chính của học viên sẽ bao gồm quan sát cách làm việc của
luật sư hướng dẫn và ghi chép lại nội dung chính của buổi họp. Tiếp theo đó, luật sư
hướng dẫn có thể phân công người tập sự tóm tắt lại nội dung làm việc và trong một
số trường hợp, đề xuất với luật sư hướng dẫn để yêu cầu khách hàng cung cấp thêm
thông tin hoặc bổ sung tài liệu. Như vậy, một mặt học viên sẽ có cơ hội để được trực
tiếp tham gia vào quá trình làm việc với khách hàng và hỗ trợ luật sư hướng dẫn và
mặt khác, luật sư hướng dẫn cũng có thể kiểm soát được thông tin mà người thực tập
có thể thu thập từ khách hàng.
5.

Tham gia đánh giá và giải quyết sơ bộ vụ việc của khách hàng

Sau khi học viên đã có cơ hội tham gia tiếp xúc khách hàng và tóm tắt nội dung làm
việc, luật sư hướng dẫn có thể phân công họ nghiên cứu vụ việc và đưa ra các ý kiến
pháp lý của mình. Luật sư hướng dẫn sẽ cùng người tập sự rà soát lại các ý kiến này
và đưa ra góp ý hoặc có bổ sung nếu thấy cần thiết. Sau đó, học viên có thể được giao
chuẩn bị một bản tư vấn sơ bộ để luật sư hướng dẫn xem xét lại.
Thông thường và tùy vào từng trường hợp cụ thể, các tư vấn sơ bộ do người tập sự

soạn thảo sẽ không được luật sư hướng dẫn phát hành cho khách hàng như là một bản
ý kiến pháp lý chính thức. Luật sư hướng dẫn vẫn tự nghiên cứu vụ việc và đưa ra ý
kiến pháp lý của riêng mình chứ không chỉ dựa vào các đánh giá, nhận xét của học
viên và từ đó phát triển thêm.
Tuy nhiên, người tập sự, khi được đặt vào vị trí của môt luật sư chính thức, sẽ có cơ
hội để rèn luyện ý thức trong công việc cũng như thái độ nghiêm túc khi giải quyết vụ
10


việc của khách hàng. Điều này có thể sẽ không đạt được nếu ngay từ đầu học viên đã
biết là các ý kiến của mình sẽ chỉ được sử dụng để đánh giá kết quả tập sự của họ mà
không được đưa vào bản tư vấn cuối cùng cho khách hàng.
6.

Hỗ trợ luật sư hướng dẫn tham gia tố tụng

Tùy vào tính chất công việc của từng tổ chức hành nghề luật sư cụ thể, người tập sự
có thể tham gia hỗ trợ luật sư hướng dẫn tham gia vào một số phiên tòa hoặc phiên
họp giải quyết tranh chấp tại trọng tài trong một số vụ việc không phức tạp. Tuy
nhiên, do người tập sự không phải là luật sư hay nhân viên chính thức của tổ chức
hành nghề luật sư nên các công việc liên quan thường chỉ dừng lại ở tóm tắt lại vụ
việc và sắp xếp hồ sơ. Trong một số trường hợp nhất định và với sự đồng ý của khách
hàng, người tập sự có thể được tham gia vào một số phiên tòa hoặc phiên họp để hỗ
trợ luật sư hướng dẫn ghi chép và chuẩn bị các tài liệu, chứng cứ mà luật sư hướng
dẫn cần sử dụng đến. Qua đó, học viên sẽ có cơ hội quan sát và học hỏi cách thức
trình bày cũng như tranh luận trước Hội đồng xét xử và Hội đồng trọng tài.
Tuy chỉ diễn ra trong một khoảng thời gian ngắn, thực tập hành nghề tại các tổ chức
hành nghề luật sư là một giai đoạn hết sức quan trọng trong Chương trình đào tạo luật
sư thương mại quốc tế. Nó mang lại cho học viên của Chương trình cơ hội tiếp cận với
thực tế hành nghề luật sư và đưa lý thuyết cũng như kỹ năng đã học áp dụng vào

những vụ việc cụ thể. Do đó, mỗi tổ chức hành nghề cần phải có phương pháp thích
hợp để một mặt, có thể tiếp nhận và tổ chức tập sự một cách có hiệu quả và mặt khác,
có thể đảm bảo được các quy tắc đạo đức nghề nghiệp cũng như bí mật kinh doanh
trong công việc./.

11



×