Tải bản đầy đủ (.pdf) (86 trang)

Vai trò người bào chữa trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự từ thực tiễn thành phố hồ chí minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.91 MB, 86 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

LÊ HỒNG SINH

VAI TRÒ NGƯỜI BÀO CHỮA TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA
VỤ ÁN HÌNH SỰ TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

LUẬN VĂN THẠC SĨ
LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ


HÀ NỘI, năm 2019


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

LÊ HỒNG SINH

VAI TRÒ NGƯỜI BÀO CHỮA TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA
VỤ ÁN HÌNH SỰ TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

Ngành : Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số : 8.38.01.04

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
GS.TS. VÕ KHÁNH VINH


HÀ NỘI, năm 2019


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn “ Vai trò người bào chữa trong giai đoạn điều tra
vụ án hình sự từ thực tiễn thành phố Hồ Chí Minh” là công trình nghiên cứu của
riêng tôi, dưới sự hướng dẫn khoa học của GS-TS Võ Khánh Vinh. Các số liệu ghi
trong luận văn là có thật, kết quả nghiên cứu là trung thực.Tôi hoàn toàn chịu
trách nhiệm về kết quả nghiên cứu và tính trung thực của luận văn .

Tác giả luận văn

Lê Hồng Sinh


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ..................................................................................................................1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ LỊCH SỬ PHÁP LUẬT VỀ VAI
TRÒ NGƯỜI BÀO CHỮA TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA VỤ ÁN HÌNH
SỰ .............................................................................................................................9
1.1. Khái niệm người bào chữa ..............................................................................9
1.2. Vai trò của người bào chữa trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự ..............14
1.3. Lịch sử hình thành và phát triển địa vị pháp lý của người bào chữa trong tố
tụng hình sự Việt Nam .........................................................................................25
1.4. Những yếu tố tác động đến vai trò của người bào chữa trong giai đoạn điều
tra vụ án hình sự ...................................................................................................26
Chương 2: THỰC TRẠNG VAI TRÒ CỦA NGƯỜI BÀO CHỮA TRONG
GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA VỤ ÁN HÌNH SỰ TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ
MINH......................................................................................................................30
2.1. Quy định của pháp luật tố tụng hình sự hiện hành về vai trò của người bào
chữa trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự .........................................................30
2.2. Thực tiễn thực hiện các quy định của pháp luật Tố tụng hình sự về vai trò
của người bào chữa trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự tại Thành phố Hồ Chí

Minh trong bốn năm ( 2015-2018). .....................................................................31
2.3. Thực trạng tác động đến việc thực hiện quy định của pháp luật Tố tụng hình
sự về vai trò của người bào chữa trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự tại thành


phố Hồ Chí Minh .................................................................................................42
2.4. Vai trò của người bào chữa là luật sư trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự
của một số nước trên thế giới ...............................................................................51
Chương 3: CÁC GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM VAI TRÒ CỦA NGƯỜI BÀO
CHỮA TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA VỤ ÁN HÌNH SỰ...........................59
3.1. Hoàn thiện quy định của pháp luật tố tụng hình sự về địa vị pháp lý của
người bào chữa trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự........................................59
3.2. Hoàn thiện tổ chức thực hiện các quy định của pháp luật tố tụng hình sự về
địa vị pháp lý của người bào chữa trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự ..........67
3.3. Các giải pháp khác ........................................................................................68
KẾT LUẬN ............................................................................................................72
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

BLHS

: Bộ luật hình sự

BLTTHS

: Bộ luật tố tụng hình sự

CQĐT


: Cơ quan điều tra

CQTHTT

: Cơ quan tiến hành tố tụng

KSV

: Kiểm sát viên

LSBC

: Luật sư bào chữa

NBC

: Người bào chữa

NBBT

: Người bị buộc tội

TPHCM

: thành phố Hồ Chí Minh

TTHS

: Tố tụng hình sự


VAHS

: Vụ án hình sự

VKS

: Viện kiểm sát


DANH MỤC CÁC BẢNG

Bảng số liệu về số lượng luật sư và tổ chức hành nghề luật sư trên địa bàn
cả nước trong bốn năm ( 2015 - 2018 ).
Kết quả khảo sát hoạt động bào chữa của luật sư thuộc Đoàn Luật sư thành
phố Hồ Chí Minh trong bốn năm ( 2015 - 2018 ).


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Bảo vệ quyền con người luôn là nhiệm vụ quan trong của nhà nước Xã hội
Chủ nghĩa ở nước ta, ngày nay nhiệm vụ này càng quan trọng hơn bao giờ,trong
bối cảnh lịch sử Việt nam đang tiến hành công cuộc đổi mới, hội nhập sâu rộng
cùng bạn bè trong khu vực và trên thế giới. Song song với nhiệm vụ phát triển
kinh tế Đảng và Nhà nước ta chú trọng xây dựng một nhà nước pháp quyền ” của
dân, do dân, vì dân”, xây dựng hệ thống pháp luật nhằm đảm bảo cho việc phát
triển các quyền tự do, dân chủ của công dân. Quyền bào chữa của người bị tạm
giữ, bị can, bị cáo là quyền cơ bản quan trọng của công dân khi tham gia vào quá
trình tố tụng. Đảm bảo quyền bào chữa luôn là nguyên tắc Hiến định được thể chế
hoá từ Hiến pháp năm 1946 đến Hiến pháp năm 2013. Đặc biệt trong giai đoạn

điều tra vụ án hình sự thì việc bảo đảm quyền bào chữa thì càng có ý nghĩa quan
trọng đối với người bị tạm giữ, bị can. Điều tra là giai đoạn trước truy tố trong quá
trình tiến hành tố tụng hình sự, chính vì vậy quyền bảo đảm cho quyền bào chữa
trong giai đoạn điều tra sẽ giúp cho việc gỡ tội, chứng minh sự vô tội, làm giảm
nhẹ trách nhiệm hình sự của người bị tạm giữ, bị can. Đồng thời bảo vệ được
quyền và lợi ích hợp pháp của các đối tượng này. Quy định của pháp luật về tư
cách người bào chữa với người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự là
khác nhau. Mặc dù vậy, nội dung của Hiến pháp năm 2013 quy định: vai trò người
bào chữa tham gia tố tụng với tư cách nào, ở giai đoạn tố tụng nào đều có ý nghĩa
to lớn trong việc bảo vệ công lý, bảo đảm cho các hoạt động tố tụng được tiến
hành khách quan, đúng pháp luật.
1


BLTTHS năm 2015 là quan điểm, tư tưởng xuyên suốt quá trình xây
dựng,vận hành của cơ chế, trình tự tố tụng hình sự, là nền tảng cho các chủ thể tiến
hành và tham gia tố tụng thực hiện đúng chức năng, quyền hạn, nghĩa vụ của mình,
nhằm bảo đảm mục tiệu, nhiệm vụ của tố tụng hình sự phù hợp với điều kiện lịch sử,
cụ thể của Việt Nam.Trong các giai đoạn tiến hành tố tụng có nhiều đụng chạm,có
thể dẫn đến việc hạn chế quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân,
nên đòi hỏi giai đoạn điều tra vụ án hình sự phải có sự tham gia của người bào chữa
để các cơ quan tiến hành tố tụng thực hiện chức năng tuân thủ đúng pháp luật và
các nguyên tắc cơ bản được quy định trong Bộ luật tố tụng hình sự.
Những năm gần đây,tình hình vi phạm pháp luật ở nước ta trong lĩnh vực
hình sự diễn biến phức tạp về tính chất và mức độ. Tuy nhiên, chất lượng công tác
cải cách tư pháp vẫn chưa đáp ứng yêu cầu và nhiệm vụ trong đời sống xã hội, còn
bộc lộ nhiều yếu kém, như bỏ lọt tội phạm, làm oan sai người vô tội; xâm phạm
đến các quyền và lợi ích hợp pháp của Nhà nước, của xã hội và công dân,gây
nhiều hậu quả đáng tiếc cho người bị kết án oan, người thân của họ và cho xã hội.
Đây chính là điều kiện để bảo đảm tính hiện thực của quyền con người, quyền

công dân, bảo đảm sự cân bằng, minh bạch và lành mạnh giữa các lợi ích trong
mối quan hệ giữa Nhà nước với con người, công dân, cá nhân và phù hợp với các
công ước quốc tế về quyền con người mà Việt Nam là thành viên.
Tố tụng hình sự nhằm giải quyết vụ án hình sự mà mục tiêu là đấu tranh
phòng và chống tội phạm. Trong hoạt động ấy đã hình thành một bên nhân danh
nhà nước, gồm có: Cơ quan tiến hành tố tụng và cơ quan có thẩm quyền tiến hành
tố tụng. Theo đó, cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng gồm cơ quan tiến hành
2


tố tụng và cơ quan có chức năng, nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra.
Cơ quan tiến hành tố tụng là: Cơ quan điều tra; Viện kiểm sát; Tòa án. Như
vậy, phạm vi chủ thể của cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng bao hàm cả cơ
quan tiến hành tố tụng trong đó.
Một bên thực hiện việc buộc tội đối với bị can, bị cáo còn bên kia thực hiện
chức năng gỡ tội (gọi chung là người bào chữa bao gồm: Luật sư, BCVND,
TGVPL ...). Trong hoạt động tố tụng, đều có chung một mục đích là làm rõ sự thật
của vụ án, chính xác, khách quan, nhanh chóng và xử lý công minh, kịp thời mọi
hành vi phạm tội, đảm bảo xét xử đúng người đúng tội, không để lọt tội phạm,
không làm oan người vô tội.
Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết 08/NQ-TW ngày 02/01/2002 và Nghị
quyết số 49/NQ-TW ngày 2-6-2005 về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020.
Hoạt động bào chữa, vai trò của người bào chữa là không thể thiếu và cần phải
được phát huy có hiệu quả. Việc nghiên cứu cơ sở lý luận, thực tiễn để làm sáng tỏ
các hoạt động trong quá trình tố tụng hình sự, thông qua vai trò của người bào
chữa trong giai đoạn điều tra VAHS là cần thiết và cấp bách.
Vì lý do đó tác giả chọn đề tài: “Vai trò của người của người bào chữa
trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự từ thực tiễn thanh phố Hồ Chí
Minh“ để làm luận văn Thạc sĩ của tác giả .
2. Tình hình nghiên cứu :

Tác giả chọn đề tài “Vai trò của người của người bào chữa trong giai
đoạn điều tra vụ án hình sự từ thực tiễn thanh phố Hồ Chí Minh“ trong luật
thực định Việt nam.
3


Thông qua đó tìm ra những tồn tại, hạn chế về mặt thự tiễn so với quy định
của pháp luật tố tụng hình sự, chỉ ra đượng những nguyên nhân của vấn đề, từ đó
nêu ra những giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả bảo đảm quyền bào chữa
trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự. Qua đó nhằm bảo đảm quyền bào chữa cho
người bị tạm giữ, bị can trong giai đoạn điều tra. Tạo điều kiện cho các đối tượng
này để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình trước cơ quan tiến hành tố tụng
và người có thẩm quyền tiến hành tố tụng.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu :
Nghiên cứu đề tài này, tác giả hướng tới mục đích làm rõ thêm cơ sở lý
luận và thực tiễn, bản chất, nội dung về vấn đề vai trò của người bào chữa trong
giai đoạn điều tra VAHS. Đồng thời nêu ra những bất cập của các quy định trong
BLTTHS, các cơ quan THTT trong hoạt động giai đoạn điều tra VAHS và những
bất cập về vai trò của người bào chữa trong thực tiễn trên địa bàn thành phố Hồ
Chí Minh, thông qua đó đề xuất những giải pháp để nâng cao hiệu quả hoạt động
vai trò của người bào chữa nhằm hướng tới xây dựng một nền tố tụng hình sự Viêt
nam thực sự công bằng, dân chủ góp phần thực hiện quá trình cải cách tư pháp.
Để đạt được mục đích nghiên cứu trên, nhiệm vụ của luận văn được đặt ra là:
Nghiên cứu cơ sở lý luận của hoạt động của các cơ quan THTT trong hoạt động
giai đoạn điều tra VAHS và vai trò của người bào chữa trong giai đoạn điều tra:
Khái niệm, đặc điểm, điều kiện, yêu cầu, ý nghĩa; Cơ sở pháp lý quy định về vai
trò người bào chữa trong giai đoạn điều tra VAHS.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu :
4



Từ những nội dung trên tìm hiểu về vai trò của người bào chữa trong giai
đoạn điều tra VAHS trong thực tiễn áp dụng theo luật định hiện hành,trên cơ sở
kết quả nghiên cứu và những đánh giá về thực trạng tranh hiện nay, luận văn đề
xuất một số giải pháp về vai trò của người bào chữa nhằm nâng cao hiệu quả vai
trò người bào chữa trong giai đoạn điều tra VAHS ở nước ta trước yêu cầu cải
cách tư pháp.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu tập trung ở đề tài ” Vai trò của người của người bào
chữa trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự”theo quy định của Bộ luật tố tụng
hình sự năm 2015 ( BLTTHS ) và Thông tư 70/2011/TT/BCA ngày 10 tháng 10
năm 2011 của Bộ trưởng Bộ công an quy định chi tiết thi hành các quy định của
Bộ luật tố tụng hình sự liên quan đến việc bảo đảm quyền bào chữa trong giai
đoạn điều tra vụ án hình sự và một số van bản Quy phạm pháp luật khác.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Tập trung nghiên cứu, phân tích làm rõ nguyên tắc bảo đảm quyền bào
chữa trong giai đoạn điều tra, các biện pháp bảo đảm quyền bào chữa trong giai
đoạn điều tra. Một số tồn tại, hạn chế trong thực tiễn bảo đảm quyền bào chữa đến
từ phía cơ quan điều tra, người bào chữa, người bị tạm giữ, bị can. Nguyên nhân
và giải pháp nâng cao hiệu quả bảo đảm quyền bào chữa trong giai đoạn điều tra
vụ án hình sự.
Để cho hoạt động của người bào chữa có hiệu quả thì nhiều vấn đề cả về
5


pháp lý, lý luận và thực tiễn cần phải được làm rõ,đó là vấn đề lớn.Trong phạm vi
của một luận văn thạc sĩ không thể xem xét và giải quyết hết mọi vấn đề mà chỉ
dừng lại nghiên cứu một vấn đề: “Vai trò của người của người bào chữa trong

giai đoạn điều tra vụ án hình sự từ thực tiễn thành phố Hồ Chí Minh“
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1.Phương pháp luận nghiên cứu
Vận dụng quan điểm Duy vật biện chứng của Chủ nghĩa Mác-Lê Nin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, tinh thần, nội dung nghị quyết các thời kỳ đại hội của Đảng
Cộng sản Việt Nam để giải quyết các vấn đề đặt ra trong luận văn.
5.2.Phương pháp nghiên cứu
Tác giả sử dụng phương pháp nghiên cứu: Phân tích luật viết, phân tích, so
sánh, tổng hợp, liệt kê, thống kê số liệu .Dựa vào việc nghiên cứu các văn bản
pháp luật trong lịch sử tố tụng hình sự Việt Nam. Tìm hiểu thực tiễn áp dụng pháp
luật hiện hành trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Về lý luận:
Thông qua nội dung nghiên cứu trong luận văn góp một phần vào việc
hoàn chỉnh thêm những qui định hiện hành trong pháp luật tố tụng hình sự về vai
trò của người bào chữa trong giai đoạn điều tra VAHS để hướng tới yêu cầu trọng
tâm của cải cách tư pháp theo tinh thần của Nghị Quyết 49/NQ-TW của Bộ chính
trị về công cuộc cải cách tư pháp cho đến năm 2020.

6


6.1. Về thực tiễn:
Thông qua những kiến nghị cụ thể trong luận văn hy vọng góp một phần
vào hoạt động của người bào trong các giai đoạn tố tụng hình sự , đặc biệt là vai
trò người bào chữa trong giai đoạn đầu của tố tụng: “giai đoạn điều tra vụ án hình
sự” nhằm nâng cao hiệu quả theo tinh thần cải cách tư pháp của Bộ chính trị.
Người bào chữa tham gia tố tụng từ khi khởi tố bị can, trong các giai đoạn tố tụng
hình sự, thì giai đoạn khởi tố, điều tra là giai đoạn dễ xâm phạm quyền con người
nhất. Vì vậy, trong giai đoạn này, nhằm bảo đảm cho pháp luật được chấp hành

nghiêm chỉnh và thống nhất trong quá trình điều tra vụ án, bảo đảm bất cứ hành vi
phạm tội nào xâm phạm đến quyền con người đều phải được phát hiện, xử lý
trước pháp luật và các hoạt động điều tra. Vai trò của người bào chữa rất cần thiết,
để đảm bảo các biện pháp tư pháp áp dụng đối với người bị bắt, bị tạm giữ, bị can
được tuân thủ đúng quy định của pháp luật.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, danh mục các chữ viết tắt, bảng biểu, kết luận và danh
mục tài liệu tham khảo, nội dung của Luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận và lịch sử pháp luật về vai trò người bào
chữa trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự
Chương 2: Thực trạng vai trò của người bào chữa trong giai đoạn điều tra
vụ án hình sự tại thành phố Hồ Chí Minh
Chương 3: Các giải pháp bảo đảm vai trò của người bào chữa là Luật sư
trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự
7


8


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ LỊCH SỬ PHÁP LUẬT VỀ VAI TRÒ
NGƯỜI BÀO CHỮA TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA VỤ ÁN HÌNH SỰ
1.1. Khái niệm người bào chữa
1.1.1. Khái niệm người bào chữa
Vấn đề định nghĩa người bào chữa: xung quanh khái niệm này có nhiều ý
kiến khác nhau, cho rằng “Người bào chữa là người tham gia tố tụng để giúp đỡ
tòa án” hay“Người bào chữa là người giúp đỡ tòa án trong việc xác định các tình
tiết cần thiết về vụ án để cuối cùng tòa án ra một bản án có căn cứ pháp luật”,
thậm chí có quan điểm còn cho rằng. Người bào chữa tham gia tố tụng là nhằm để

bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp cho người bị buộc tội, chứng minh sự vô tội
hoặc làm giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo.
Những người không được bào chữa gồm: Người dịch thuật, người định giá
tài sản, người đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự, người đã bị kết án chưa được
xóa án tích, người đang bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai
nghiện bắt buộc, cơ sở giáo dục bắt buộc ( khoản 4 Điều 72 Bộ luật Tố tụng hình
sự 2015).
1.1.2. Khái niệm người bào chữa là luật sư
Hoạt động tham gia tố tụng/tranh tụng của Luật sư luôn gắn liền với hoạt
động xét xử, thực hiện quyền tư pháp của Nhà nước; ảnh hưởng trực tiếp đến tự
do, tài sản, các quyền nhân thân, thậm chí cả tính mạng của khách hàng.
Bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong hoạt động xét xử của Toà án là độc
9


lập, công khai, các bên (bên buộc tội và bên gỡ tội) trong vụ án hình sự. Đối với
VAHS, Luật sư tham gia tố tụng với tư cách là người bào chữa cho người bị buộc
tội, người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người bị tố giác, người bị kiến nghị
khởi tố hoặc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị hại, đương sự. Luật sư
tham gia tố tụng VAHS xác định tư cách tố tụng một cách độc lập, có các quyền
và nghĩa vụ tương ứng theo quy định tại các luật, bộ luật tố tụng liên quan.
Khái niệm người bào chữa là luật sư như sau:“ Tham gia tố tụng là hoạt
động của luật sư trong việc cung cấp dịch vu pháp lý với tư cách người bào chữa,
người đại diện hoặc người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho khách hàng“. Hoạt
động tố tụng của Luật sư là hoạt động có tính đối kháng cao, đặc biệt là này luôn
diễn ra trong không gian và thời gian theo quy định tại các luật, bộ luật tố tụng
liên quan. [20, tr. 26].
1.1.3. Sự khác nhau giữa người bào chữa là luật sư với người bào chữa khác
Tính chất của nghề Luật sư:
Hiến pháp năm 2013 có những tác động lớn và quan trọng đến vai trò, vị trí

của luật sư trong xã hội, trong hệ thống chính trị và trong hoạt động nghề nghiệp.
Điều 3 của Luật luật sư (sửa đổi năm 2012) quy định như sau : “Hoạt động nghề
nghiệp của luật sư góp phần bảo vệ công lý, các quyền tự do, dân chủ của công
dân... Xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam Xã hội chủ nghĩa, xã hội dân chủ,
công bằng, văn minh”.
Luật sư là một nghề tự do được xã hội tôn trọng,hoạt động độc lập, chịu
trách nhiệm cá nhân. Uy tín và thương hiệu của mỗi luật sư là cơ sở quan trọng
nhất để luật sư phát triển nghề nghiệp và đóng góp cho xã hội. Nó gắn liều uy tín
10


và danh dự nghề nghiệp. Luật sư là một nghề dịch vụ có tính đặc thù vì có liên
quan đến quyền và lợi ích của khách hàng và pháp luật của Nhà nước - các cơ
quan THTT, các cơ quan nhà nước khác. Vì vậy luật sư một mặt phải bảo vệ
quyền lợi tốt nhất cho khách hàng, mặt khác phải ứng xử và phối hợp với các cơ
quan nhà nước để cùng nhau góp phần bảo vệ công lý, bảo vệ pháp chế. Nghề luật
sư va chạm với nhiều mặt trái xã hội, những vấn đề kinh tế và thể chế xã hội. Luật
luật sư: “ Luật sư là người có đủ tiêu chuẩn,điều kiện hành nghề theo quy định của
Luật m quyền tố tụng thu thập chứng cứ của người bào
chũa trong giai đoạn điều tra.
Điều 73 đã mở rộng quyền của người bào chữa quy định quyền như: Điểm h
khoản 1 “Thu thập, đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu”; Điểm i khoản 1
“Kiểm tra, đánh giá và trình bày ý kiến về chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan và yêu
cầu người có thẩm quyền tiến hành tố tụng kiểm tra, đánh giá”; Điểm k khoản 1 “Đề
nghị cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng thu thập chứng cứ”. Quyền thu thập,
đưa ra chứng cứ: Pháp luật TTHS quy định chứng cứ theo điều 86, 87 phải thỏa mãn
dấu hiệu quy định tại điều 88 BLTTHS 2015.
Việc thu thập chứng cứ phải tuân thủ quy định tại khoản 1 – chứng cứ và khoản
2 – nguồn chứng cứ. Tuy nhiên, thực tế không dễ gì khi người bào chữa tự mình thu
thập chứng cứ, tài liệu vì quan điểm “quyền” giữa cơ quan, người có thẩm quyền

tiến hành tố tụng và luật sư trong việc thu thập chứng cứ, nguồn chứng cứ có khác
nhau. Cần lưu ý điều 86 của BLTTHS 2015: “Chứng cứ là những gì có
thật …được dùng làm căn cứ để xác định ...và những tình tiết khác có ý nghĩa
trong việc giải quyết vụ án”, nghĩa là chứng cứ phải tuân thủ quy định nghiêm
ngặt tại điều 86.
62


Ngoài ra điều 87 BLTTHS 2015 quy định nguồn chứng cứ như “ Lời trình bày;
dữ liệu điện tử, biên bản trong hoạt động điều tra; kết quả thực hiện ủy thác tư
pháp và hợp tác quốc tế khác” và khoản 2 “Những gì có thật nhưng không
được thu thập theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định thì không có giá
trị và không được dùng làm căn cứ để giải quyết VAHS”. Yêu cầu cơ quan, tổ
chức, cá nhân thu thập chứng cứ nhưng rất hiếm khi nhận được sự phản hồi cho đến
khi (luật sư) làm đơn yêu cầu gởi đến CQĐT thì yêu cầu trên mới được cơ quan, tổ
chức, cá nhân đó thực hiện.
Tuy nhiên, để đáp ứng yêu cầu trên từ cơ quan, tổ chức, cá nhân thì luật sư phải
có thông tin chính xác về tài liệu, đồ vật, chứng cứ ấy như: hiện đang do ai chiếm
giữ, cất giấu tại đâu thể hiện trong đơn yêu cầu. Thông tư 70/2011/TT-BCA quy
định: (i) CQĐT, ĐTV tạo điều kiện thuận lợi để người bào chữa thu thập tài liệu, đồ
vật, tình tiết liên quan đến việc bào chữa từ người bị tạm giữ, bị can, người thân
thích của những người này hoặc từ cơ quan, tổ chức, cá nhân theo yêu cầu của người
bị tạm giữ, bị can nếu không thuộc bí mật nhà nước, bí mật công tác.
3.1.4. Thực trạng quyền đề nghị thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn; đề nghị
triệu tập người làm chứng, người tham gia tố tụng khác.
Quyền này được quy định tại điểm e, g khoản 1 điều 73 BLTTHS năm 2015, tuy
nhiên, để thực hiện quyền này người bào chữa gặp rất nhiều khó khăn, vướng mắc
như sau:
Về quyền đề nghị thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn: Ngăn chặn trong
TTHS, theo đó biện pháp tạm giam là biện pháp nghiêm khắc được quy định tại

điều 109 BLTTHS 2015 để kịp thời ngăn chặn tội phạm hoặc khi có căn cứ chứng tỏ
63


NBBT sẽ gây khó khăn cho việc điều tra... Việc người bị tạm giữ, bị can để tạm
giam theo quy định tại Điều 113 BLTTHS 2015 phải thông qua nhiều thủ tục chặt
chẽ theo quy định của pháp luật TTHS.

Đặc biệt lệnh bắt phải được Viện kiểm sát cùng cấp phê chuẩn trước khi thi
hành, do đó trong giai đoạn điều tra VAHS, khi người bào chữa đặt ra đề nghị thay
đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn từ biện pháp tạm giam sang biện pháp khác phải có
đầy đủ căn cứ theo quy định tại điều 125 BLTTHS 2015.
Căn cứ này phải bảo đảm tính xác thực và tính có căn cứ. Thực trạng, trong
quá trình thực hiện từ giai đoạn điều tra, theo tác giả kết quả đạt được chưa đến 1%
trên tổng số các VAHS mà người bào chữa tham gia trong một năm.
Về quyền đề nghị triệu tập người làm chứng, người tham gia tố tụng khác được
quy định tại điểm g khoản 1 điều 73 BLTTHS 2015: Thực trạng khi thực hiện quyền
đề nghị triệu tập người làm chứng, người tham gia tố tụng khác trong giai đoạn điều
tra, CQĐT hiếm khi chấp nhận đề nghị. Vì cho rằng BLTTHS năm 2003 không quy
định quyền này, đồng thời CQĐT không muốn luật sư cản trở hoạt động điều tra của
họ. Do đó, luật sư cần chủ động thuyết phục ĐTV theo hướng triệu tập những người
này chỉ để làm rõ lời khai (đối với người làm chứng quy định tại Điều 66 BLTTHS
2015, người chứng kiến quy định tại Điều 67 BLTTHS 2015) hoặc nghe họ giải
thích về kiến thức chuyên môn về lĩnh vực của họ (người giám định quy định tại
Điều 68 BLTTHS 2015, người định giá tài sản Điều 69 BLTTHS 2015).Bên cạnh đó
chưa kể người làm chứng lại là bị can đang bị tạm giam tại cơ sở giam giữ, thủ tục
64


tiếp xúc cũng rất khó khăn khi luật sư phải giải trình với cơ quan tiến hành tố tụng

về sự khác biệt về người mà mình bào chữa với người làm chứng cần lấy lời khai.
3.1.5. Thực trạng quyền đọc, ghi chép và sao chụp những tài liệu trong hồ sơ vụ
án liên quan đến việc bào chữa từ khi kết thúc điều tra
Trước đây quyền này được quy định tại điểm g khoản 2 điều 58 BLTTHS 2003,
luật sư được đọc, ghi chép và sao chụp những tài liệu trong hồ sơ vụ án liên quan
đến việc bào chữa sau khi kết thúc điều tra. Tuy nhiên điểm l khoản 1 điều 73
BLTTHS 2015 quy định người bào chữa được đọc, ghi chép và sao chụp những tài
liệu trong hồ sơ vụ án liên quan đến việc bào chữa từ khi kết thúc điều tra. Thực
trạng khi thực hiện quyền này trong giai đoạn điều tra, người bào chữa thường
xuyên gặp khó khăn, đó là:
Thứ nhất, Điều tra viên, cán bộ điều tra báo đã có kết luận điều tra mời người
bào chữa đến nhận trong cùng 1 ngày, khi đến nhận kết luận điều tra thì ĐTV báo hồ
sơ đã chuyển cho Viện kiểm sát, đề nghị người bào chữa liên hệ Viện kiểm sát để
đọc, ghi chép,sao chụp, trong khi luật quy định thời hạn 2 ngày kể từ ngày ra kết
luận điều tra, CQĐT phải giao bản kết luận điều tra cùng hồ sơ vụ án cho Viện kiểm
sát cùng cấp theo khoản 4 điều 232 BLTTHS 2015.
Thứ hai, Theo quy định tại điều 11 Thông tư 70/TT-BCA thì luật sư được phép
đọc, ghi chép và sao chụp sau khi kết thúc điều tra. Tuy nhiên thực tiễn hiếm khi luật
sư được tạo điều kiện thuận lợi để tiến hành đọc, ghi chép và sao chụp tài liệu trong
hồ sơ vụ án có liên quan đến việc bào chữa sau khi kết thúc điều tra vì quy định
ĐTV phải giám sát chặt chẽ, không để luật sư tẩy xóa, sửa chữa, làm hư hỏng, rách,
thay đổi, đánh tráo hoặc lấy mất tài liệu.
65


Thứ ba, Thông tư 70 quy định ĐTV trực tiếp sao chụp (bằng máy photocopy)
tài liệu đưa cho luật sư. Tuy nhiên, trong thực tế CQĐT không phục vụ máy
photocopy và giấy để ĐTV có thể sao chụp tài liệu trong vụ án có hàng ngàn trang
bút lục, mặt khác do công nghệ sao chụp ngày càng phát triển, luật sư có thể sao
chụp tài liệu bằng thao tác trên điện thoại thông minh nhưng ĐTV không đồng ý vì

vướng quy định trên.
Vì không quy định thẩm quyền cấp văn bản thông báo người bào chữa mà chỉ
quy định nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của điều tra viên như “Yêu cầu
hoặc đề nghị cử, thay đổi người bào chữa” hoặc quy định chung chung“…cơ
quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải kiểm tra giấy tờ …thì vào sổ đăng
ký bào chữa …gửi ngay văn bản thông báo người bào chữa cho người đăng
ký bào chữa...”. Cần ban hành các văn bản dưới luật theo hướng đơn giản hóa và
tạo thuận lợi thủ tục đăng ký bào chữa khi NBBT đang bị tạm giam trong giai
đoạn điều tra về giấy tờ xác định quan hệ về mối quan hệ của người đại diện của
NBBT với NBBT ... Đây chính là sự thể hiện rõ nhất việc thực hiện cải cách tư
pháp, tạo thuận lợi cho NBBT thực hiện quyền bào chữa của mình. Mặt khác
BLTTHS năm 2015 chưa thống nhất sử dụng giấy yêu cầu luật sư hoặc đơn yêu
cầu người bào chữa, khi thì sử dụng giấy yêu cầu luật sư khi thì sử dụng đơn yêu
cầu người bào chữa hoặc đơn yêu cầu nhờ ngưởi bào chữa. Trong giai đoạn điều
66


tra, việc lựa chọn NBC do NBBT, người đại diện hoặc người thân thích của họ lựa
chọn.

3.2. Hoàn thiện tổ chức thực hiện các quy định của pháp luật tố tụng hình
sự về địa vị pháp lý của người bào chữa trong giai đoạn điều tra vụ án hình
sự
3.2.1. Hoàn thiện việc thu thập, đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu
Cần Luật hóa các văn bản hướng dẫn dưới luật việc chế tài xử lý với Điều tra
viên, Kiểm sát viên trong trường hợp “cản trở” luật sư thực hiện nghĩa vụ người
bào chữa được pháp luật TTHS bảo đảm thực hiện như quy định tại điều 26
BLTTHS năm 2015 “…trong quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, Điều
tra viên, kiểm sát viên…, người bào chữa đều có quyền bình đẳng trong việc
đưa ra chứng cứ, đánh giá chứng cứ, đưa ra yêu cầu để làm rõ sự thật khách

quan của vụ án”.
3.2.2. Hoàn thiện cơ chế quyền bình đẳng giữa người tiến hành tố tụng,
những người tham gia tố tụng khác và luật sư
Chưa có sự bình đẳng giữa người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng
khác và NBC trong việc đưa ra chứng cứ, đánh giá chứng cứ (điều 26 BLTTHS
năm 2015) khi quy định vai trò NBC so Điều tra viên; người chứng kiến (cùng là
tư cách là người tham gia tố tụng trong giai đoạn điều tra (khoản 13 điều 55
67


BLTTHS năm 2015) thể hiện rõ nhất khi quy định tại điều 201 BLTTHS năm
2015“Khi khám nghiệm hiện trường phải có người chứng kiến; có thể cho …,
người bào chữa … tham gia …”hoặc quy định tại điều 204 BLTTHS năm
2015:“Điều tra viên chủ trì tiến hành thực hiện điều tra và việc thực nghiệm
điều tra phải có người chứng kiến....Trường hợp cần thiết,… người bào chữa
có thể tham gia”.
3.2.3. Hoàn thiện quyền đề nghị của luật sư thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn
chặn, biện pháp cưỡng chế.
Cần quy định nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của Điều tra viên trong giai
đoạn điều tra khi nhận được yêu cầu của NBC “đề nghị thay đổi, hủy bỏ biện
pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế”. BLTTHS năm 2015 quy định NBC có
quyền kiến nghị nhưng khi luật sư gởi đề nghị đến CQĐT thì không nhận được
phản hồi.
3.3. Các giải pháp khác
3.3.1. Giải pháp đối với cơ quan và người có thẩm quyền tiến hành tố tụng
trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự.
Kiện toàn tổ chức, hoạt động của CQĐT, xác định rõ chức năng, nhiệm vụ,
quyền hạn và nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của CQĐT; theo Luật tổ
chức CQĐT hình sự theo Nghị quyết, đề án đã được Bộ Chính trị thông qua. Đây
là quan điểm mang tính khoa học trong tổ chức nhà nước nói chung và tổ chức hệ

thống CQĐT nói riêng. Theo đó, hệ thống CQĐT cần được tổ chức theo phân
công, phân cấp phân quyền thẩm quyền điều tra. Đổi mới hợp lý tổ chức và hoạt
động của cơ quan cảnh sát điều tra hình sự. Theo đó, cần tăng cường xây dựng
CQĐT hình sự vững mạnh bao gồm đội ngũ Điều tra viên có hiểu biết sâu về pháp
68


×