Tải bản đầy đủ (.pdf) (91 trang)

Thủ tục công nhận và cho thi hành tại việt nam phán quyết của trọng tài thương mại nước ngoài

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.39 MB, 91 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN THANH PHONG

THỦ TỤC CÔNG NHẬN VÀ CHO THI HÀNH TẠI VIỆT NAM
PHÁN QUYẾT CỦA TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI NƯỚC NGOÀI

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT KINH TẾ

HÀ NỘI, năm 2019


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN THANH PHONG

THỦ TỤC CÔNG NHẬN VÀ CHO THI HÀNH TẠI VIỆT NAM
PHÁN QUYẾT CỦA TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI NƯỚC NGOÀI

Ngành: Luật Kinh tế
Mã số: 838.01.07

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
TS. HỒ NGỌC HIỂN

HÀ NỘI, năm 2019


LỜI CAM ĐOAN


Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số
liệu, kết quả nghiên cứu trình bày trong luận văn là trung thực và không vi phạm
quyền tác giả. Tôi xin chịu trách nhiệm về tất cả những số liệu và kết quả nghiên
cứu của mình.
Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 25 tháng 02 năm 2019
TÁC GIẢ

NGUYỄN THANH PHONG


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

CHDCND

: Cộng hòa dân chủ nhân dân

CHXHCN

: Cộng hòa xã hội chủ nghĩa

THADS

: Thi hành án dân sự

TTDS

: Tố tụng dân sự

TTTM


: Trọng tài thương mại


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .................................................................. Error! Bookmark not defined.
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỦ TỤC CÔNG NHẬN VÀ
CHO THI HÀNH TẠI VIỆT NAM PHÁN QUYẾT CỦA TRỌNG TÀI
THƯƠNG MẠI NƯỚC NGOÀI ............................ Error! Bookmark not defined.
1.1. Khái niệm, đặc điểm và vai trò của thủ tục công nhận và cho thi hành phán
quyết của trọng tài thương mại nước ngoài ........... Error! Bookmark not defined.
1.1.1. Khái niệm ...................................................................... Error! Bookmark not defined.
1.1.2. Đặc điểm ........................................................................ Error! Bookmark not defined.
1.1.3. Vai trò của thủ tục công nhận và cho thi hành phán quyết của trọng tài
thương mại nước ngoài ....................................................... Error! Bookmark not defined.2
1.1.4. Ý nghĩa việc quy định thủ tục công nhận và cho thi hành phán quyết của
trọng tài thương mại nước ngoài ...................................... Error! Bookmark not defined.3
1.2. Thủ tục công nhận và cho thi hành phán quyết của trọng tài thương mại nước
ngoài....................................................................... Error! Bookmark not defined.
1.2.1. Phạm vi phán quyết của Trọng tài nước ngoài được xem xét công nhận
và cho thi hành tại Việt Nam theo qui định tại Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015
...................................................................................................... Error! Bookmark not defined.

1.2.2. Các nguyên tắc xem xét công nhận và cho thi hành tại Việt Nam phán
quyết trọng tài thương mại nước ngoài .......................... Error! Bookmark not defined.5
1.2.3. Thủ tục công nhận và cho thi hành phán quyết của Trọng tài nước ngoài
tại Việt Nam.............................................................................. Error! Bookmark not defined.
Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VỀ
THỦ TỤC CÔNG NHẬN VÀ CHO THI HÀNH TẠI VIỆT NAM PHÁN
QUYẾT CỦA TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI NƯỚC NGOÀIError! Bookmark
not defined.9

2.1. Thực trạng pháp luật về thủ tục công nhận và cho thi hành tại Việt Nam phán
quyết của trọng tài thương mại nước ngoài ......... Error! Bookmark not defined.9
2.1.1. Đối với Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 ........... Error! Bookmark not defined.


2.1.2. Đối với Luật Thi hành an dân sự năm 2014 ........ Error! Bookmark not defined.
2.1.3. Đối với Luật Trọng tài thương mại năm 2010 .. Error! Bookmark not defined.7
2.2. Áp dụng pháp luật về thủ tục công nhận và cho thi hành tại Việt Nam phán
quyết của trọng tài thương mại nước ngoài ...........................................................40
2.2.1. Đối với Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 ........ Error! Bookmark not defined.0
2.2.3. Đối với Luật Trọng tài thương mại năm 2010 ................................................ 44
2.3. Thực trạng pháp luật và Áp dụng pháp luật đối với hiệp định tương trợ tư
pháp giữa Việt Nam với các nước ...........................................................................46
2.3.1. Thực trạng pháp luật đối với hiệp định tương trợ tư pháp giữa Việt Nam

với các nước ............................................................................................................46
2.3.1. Áp dụng pháp luật đối với hiệp định tương trợ tư pháp giữa Việt Nam với

các nước...................................................................................................................51
Chương 3: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIEÄN PHÁP
LUẬT VỀ THỦ TỤC CÔNG NHẬN VÀ CHO THI HÀNH TẠI VIỆT NAM
PHÁN QUYẾT CỦA TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI NƯỚC NGOÀI..............60
3.1. Phương hướng hoàn thiện các quy định về thủ tục công nhận và cho thi hành
tại Việt Nam phán quyết của trọng tài thương mại nước ngoàiError! Bookmark
not defined.60
3.1.1. Phương hướng hoàn thiện các quy định.......................................................... 60
3.1.2. Một số yêu cầu cụ thể............................................................................................. 61
3.2. Giải pháp hoàn thiện các văn bản pháp luật trong nước về thủ tục công nhận
và cho thi hành phán quyết của trọng tài thương mại nước ngoài .........................66
3.2.1. Hoàn thiện các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự về thủ tục công nhận

và cho thi hành phán quyết của Trọng tài nước ngoàiError!

Bookmark

not

defined.6

3.2.2. Hoàn thiện các quy định của Luật Thi hành án dân sự và Luật Trọng tài
thương mại liên quan đến thủ tục công nhận và cho thi hành phán quyết của
trọng tài thương mại nước ngoài .................................................................................... 71


3.2.3. Giải pháp đẩy mạnh việc nâng cao nhận thức, tuyên truyền, phổ biến về
tư pháp quốc tế nói chung và các điều ước quốc tế liên quan đến giải quyết
tranh chấp kinh tế có yếu tố nước ngoài và đầu tư nước ngoài mà Việt Nam đã
ký kết hoặc tham gia nói riêng .......................................... Error! Bookmark not defined.3
3.2.4. Giải pháp tăng cường vai trò của Tòa án trong việc hỗ trợ hoạt động của
trọng tài ................................................................................... Error! Bookmark not defined.5
3.3. Một số kiến nghị đối với các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền về thủ tục
công nhận và cho thi hành phán quyết của trọng tài thương mại ở Việt Nam
............................................................................. Error! Bookmark not defined.5
KẾT LUẬN ............................................................ Error! Bookmark not defined.9
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong hệ thống pháp luật về giải quyết tranh chấp có hai phương thức giải
quyết luật định là trọng tài và tòa án. Một trong những phương thức giải quyết các

tranh chấp phát sinh từ hoạt động thương mại được sử dụng hiện nay là thông qua
Trọng tài thương mại. Đây là phương thức giải quyết tranh chấp đã xuất hiện từ rất
sớm và hiện đang được sử dụng khá phổ biến trên thế giới, nhất là tại những nước
có nền kinh tế thị trường phát triển. Ngày càng nhiều các chủ thể của tranh chấp lựa
chọn phương thức giải quyết tranh chấp tại Trọng tài do các ưu điểm về bảo mật
thông tin, tiết kiệm thời gian, công sức cũng như tiền bạc. Vấn đề công nhận và cho
thi hành phán quyết tại Việt Nam trọng tài thương mại nước ngoài là một vấn đề mà
các nhà đầu tư nước ngoài đặc biệt quan tâm.
Ở Việt Nam, nhằm đáp ứng những yêu cầu của hoạt động trọng tài trong điều
kiện phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và chủ động hội
nhập kinh tế quốc tế của đất nước, ngày 25 tháng 02 năm 2003 Ủy ban Thường vụ
Quốc hội đã ban hành Pháp lệnh về Trọng tài thương mại, tạo cơ sở pháp lý cho
hoạt động của các trung tâm trọng tài thương mại. Để nâng cao hiệu quả thực thi
các quyết định trọng tài, Việt Nam cũng đã tham gia Công ước New York năm
1958 về Công nhận và thi hành các quyết định của Trọng tài nước ngoài.
Ngày 17 tháng 06 năm 2010, Luật Trọng tài thương mại số 54/2010/QHXII đã
được Quốc hội khóa XII kỳ họp thứ 7 thông qua. Luật mới ra đời đã tiếp cận các
chuẩn mực của pháp luật và thực tiễn trọng tài thương mại quốc tế hiện đại, có tính
đến điều kiện thực tế của Việt Nam, đồng thời khắc phục những tồn tại của Pháp
lệnh Trọng tài thương mại năm 2003. Tuy nhiên, đối với thủ tục công nhận và thi
hành phán quyết trọng tài thương mại theo quy định của các văn bản pháp luật hiện
hành, hiệp định tương trợ tư pháp giữa Việt Nam với các nước… vẫn còn tồn tại
những điểm bất cập, chưa đồng bộ, thống nhất, thể hiện rõ nét sự phân biệt đối xử
giữa phán quyết của trọng tài trong nước với phán quyết của Trọng tài nước ngoài,
chưa phù hợp với nội dung Công ước New York năm 1958. Vấn đề này đã gây ra
1


nhiều khó khăn cho việc thực thi, hình thành tâm lý e ngại, thiếu niềm tin đối với
hiệu lực của phán quyết trọng tài nhất là các phán quyết của trọng tài nước ngoài,

cản trở những nỗ lực của Nhà nước ta trong việc đưa trọng tài trở thành một công
cụ pháp lý hữu hiệu giải quyết các tranh chấp thương mại bên cạnh Tòa án. Không
những thế, quá trình hội nhập kinh tế quốc tế với việc phải thực hiện đúng những
cam kết trong các điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia đòi hỏi pháp luật về
Trọng tài thương mại phải tiếp tục được sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện nhằm bảo đảm
sự tương thích với các quy định của pháp luật quốc tế, đáp ứng được yêu cầu giải
quyết các tranh chấp thương mại bằng trọng tài.
Nhận thức được sự cần thiết đó nên tác giả mạnh dạn chọn đề tài “Thủ tục
công nhận và cho thi hành tại Việt Nam phán quyết của trọng tài thương mại
nước ngoài” làm luận văn thạc sĩ luật học.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Pháp luật về Trọng tài thương mại là vấn đề được nhiều nhà nghiên cứu cũng
như cán bộ làm công tác thực tiễn quan tâm, thể hiện qua một số công trình khoa
học sau:
- Nguyễn Tiến Lộc, Giải quyết tranh chấp kinh tế bằng Trọng tài - Thực trạng
và hướng hoàn thiện, Luận văn Thạc sĩ Luật học, TPHCM, 2000.
- Nguyễn Trung Tín, Công nhận và cho thi hành tại Việt Nam các quyết định
của Trọng tài kinh tế, Luận án Tiến sĩ Luật học, Hà Nội, 2002.
- Dương Kim Thế Nguyên, Pháp luật về Trọng tài thương mại ở Việt Nam
hiện nay, Luận văn Thạc sĩ Luật học, TPHCM, 2003.
- Trương Quốc Tuấn, Giải quyết tranh chấp trong thương mại quốc tế bằng
con đường Trọng tài, Luận văn Thạc sĩ Luật học, TPHCM, 2003.
- Huỳnh Thị Thanh Thảo, Pháp lệnh Trọng tài thương mại 2003 - Cơ sở pháp
lý mới cho việc tổ chức và hoạt động hiệu quả của Trọng tài thương mại ở nước ta,
Luận văn Thạc sĩ Luật học, TPHCM, 2003.

2


- Nguyễn Văn Bình, Thực trạng và hướng hoàn thiện Trọng tài thương mại

Việt Nam trong thời kỳ hội nhập, Luận văn Thạc sĩ Luật học, TPHCM, 2003.
- Phan Thông Anh, Mối quan hệ giữa Tòa án và Trọng tài trong quá trình giải
quyết tranh chấp bằng Trọng tài - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Luận văn
Thạc sĩ Luật học, TPHCM, 2005.
- Trần Dự Yên, Hiệu lực của quyết định trọng tài đối với vấn đề thi hành trong
pháp luật và thực tiễn, Luận văn Thạc sĩ Luật học, TPHCM, 2006.
- Đặng Quang Phương, Những vấn đề lý luận và thực tiễn của công nhận và
cho thi hành tại Việt Nam bản án, quyết định dân sự của Tòa án nước ngoài, quyết
định của Trọng tài nước ngoài, Đề tài khoa học cấp cơ sở của Tòa án nhân dân tối
cao, Hà Nội, 2009.
- Nguyễn Văn Đức, Thi hành phán quyết trọng tài thương mại - Mối quan hệ
giữa Trọng tài và Tòa án, Luận văn Thạc sĩ Luật học, TPHCM, 2010.
Tuy nhiên, chưa có công trình nào nghiên cứu một cách sâu sắc, toàn diện về
thủ tục công nhận và cho thi hành tại Việt Nam phán quyết của Trọng tài thương
mại nước ngoài.
3. Mục tiêu nghiên cứu
Luận văn đưa ra giải pháp khoa học nhằm hoàn thiện pháp luật về thủ tục công
nhận và cho thi hành tại Việt Nam phán quyết của trọng tài thương mại nước ngoài,
góp phần nâng cao hiệu quả thực thi các phán quyết trọng tài nước ngoài, đẩy mạnh
quan hệ tư pháp thúc đẩy phát triển kinh tế đất nước.
4. Đối tượng nghiên cứu, giới hạn phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu các quy định của pháp luật Việt Nam và pháp luật quốc
tế về thủ tục công nhận và cho thi hành phán quyết của trọng tài thương mại.
4.2. Giới hạn phạm vi nghiên cứu
3


Luận văn nghiên cứu các quy định theo Công ước New York 1958, Luật mẫu
về Trọng tài thương mại quốc tế (UNCITRAL) và pháp luật của một số nước trên

thế giới trong việc đối chiếu với pháp luật Việt Nam hiện hành về thủ tục công nhận
và cho thi hành phán quyết của trọng tài thương mại.
Luận văn khảo sát việc công nhận và thi hành phán quyết trọng tài thương mại
ở Việt Nam từ ngày 01/01/1996 (thời điểm Pháp lệnh Công nhận và thi hành tại
Việt Nam quyết định của Trọng tài nước ngoài có hiệu lực) đến nay làm cơ sở cho
việc hoàn thiện pháp luật và thi hành pháp luật về thủ tục công nhận và cho thi hành
phán quyết của trọng tài thương mại.
5. Các phương pháp tiến hành nghiên cứu
Luận văn được nghiên cứu dựa trên phương pháp luận của Chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong việc phân tích, luận giải các vấn đề.
Trên cơ sở phương pháp luận nêu trên, luận văn sử dụng một số phương pháp
cụ thể như phương pháp nghiên cứu tài liệu, thống kê, phân tích tổng hợp, so sánh
đối chiếu, chuyên gia…
6. Ý nghĩa khoa học và giá trị ứng dụng của đề tài
Kết quả nghiên cứu của luận văn có ý nghĩa thiết thực cả về lý luận và thực
tiễn nhằm hoàn thiện pháp luật và thi hành pháp luật về thủ tục công nhận và thi
hành phán quyết trọng tài thương mại ở Việt Nam, nâng cao hiệu quả thực thi các
phán quyết trọng tài, góp phần đưa Trọng tài trở thành một công cụ pháp lý hữu
hiệu trong việc giải quyết các tranh chấp thương mại bên cạnh Tòa án;
Luận văn còn là tài liệu tham khảo có giá trị cho những ai quan tâm đến đối
tượng được nghiên cứu.
7. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và phần tài liệu tham khảo kèm theo, luận văn
được cấu trúc thành ba chương:

4


- Chương 1. Những vấn đề lý luận về thủ tục công nhận và cho thi hành tại
Việt Nam phán quyết của trọng tài thương mại nước ngoài.
- Chương 2. Pháp luật và áp dụng pháp luật về thủ tục công nhận và cho thi

hành phán quyết của trọng tài thương mại ở Việt Nam.
- Chương 3. Phương hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật về thủ tục công
nhận và cho thi hành tại Việt Nam phán quyết của trọng tài thương mại nước ngoài.

5


CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỦ TỤC CÔNG NHẬN VÀ CHO THI
HÀNH TẠI VIỆT NAM PHÁN QUYẾT CỦA TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI
NƯỚC NGOÀI
1.1. Khái niệm, đặc điểm và vai trò của thủ tục công nhận và cho thi hành
phán quyết của trọng tài thương mại nước ngoài
1.1.1. Khái niệm
Theo Từ điển tiếng Việt thông dụng do tác giả Nguyễn Như Ý chủ biên thì
“Thủ tục là cách thức tiến hành một công việc với nội dung, trình tự nhất định, theo
quy định của Nhà nước” 1. Hoạt động quản lý Nhà nước nào cũng đều được tiến
hành theo những thủ tục nhất định. Kết quả của hoạt động quản lý phụ thuộc vào
nhiều yếu tố trong đó phụ thuộc một phần đáng kể vào số lượng, thứ tự các hoạt
động cụ thể, mục đích, nội dung, cách thức tiến hành các hoạt động đó trong một
chuỗi hoạt động thống nhất, hay nói cách khác là phụ thuộc vào thủ tục tiến hành
các hoạt động quản lý. Vì thế, thủ tục đóng một vai trò quan trọng trong việc điều
hành bộ máy Nhà nước cũng như bảo đảm quyền và lợi ích của nhân dân. Tương
ứng với ba lĩnh vực hoạt động của nhà nước (lập pháp, hành pháp, tư pháp), thủ tục
được chia thành ba nhóm: thủ tục lập pháp, thủ tục hành chính và thủ tục tư pháp.
Thủ tục công nhận và thi hành phán quyết trọng tài thương mại là loại thủ tục nằm
trong nhóm thủ tục tư pháp.
Từ điển tiếng Việt của Trung tâm Từ điển học (thuộc Viện Ngôn ngữ học), do
Nhà xuất bản Đà Nẵng xuất bản năm 2000 định nghĩa: “công nhận là việc thừa nhận
trước mọi người là hợp với sự thật, với lẽ phải hoặc hợp với thể lệ luật pháp” và “thi

hành là làm cho thành có hiệu lực điều đã được chính thức quyết định” 2. Liên quan
đến vấn đề công nhận và thi hành phán quyết trọng tài thương mại, Từ điển Luật
học của Viện Khoa học pháp lý (thuộc Bộ Tư pháp) do Nhà xuất bản Tư pháp xuất
bản năm 2006 đưa ra định nghĩa: “công nhận và cho thi hành quyết định của Trọng
Nguyễn Như Ý (chủ biên) (1995), Từ điển tiếng Việt thông dụng, Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội.
Trung tâm Từ điển học (Viện Ngôn ngữ học) (2000), Từ điển tiếng Việt, Nhà xuất bản Đà Nẵng, Đà Nẵng,
tr.299, 510.
1
2

6


tài nước ngoài là thừa nhận giá trị pháp lý và áp dụng các biện pháp để thực hiện
quyết định của Trọng tài nước ngoài” 3.
Có ý kiến cho rằng khái niệm công nhận và cho thi hành bản án, quyết định
của Tòa án nước ngoài và phán quyết của Trọng tài nước ngoài “có thể hiểu đó là
một thủ tục tố tụng đặc biệt do cơ quan có thẩm quyền của nước có bên phải thi
hành án tiến hành nhằm xem xét để công nhận tính hiệu lực của bản án, quyết định
dân sự của Tòa án nước ngoài, quyết định của Trọng tài nước ngoài trên phạm vi
lãnh thổ của nước mình. Sau khi bản án, quyết định của nước ngoài đó đã được xem
xét và công nhận tính hiệu lực, nó sẽ được đảm bảo cưỡng chế thi hành trên lãnh
thổ của nước đã công nhận” 4.
Trên thực tế, phán quyết trọng tài chỉ liên quan tới các bên tranh chấp. Trong
đó, bên có nghĩa vụ thi hành phán quyết phải thực hiện những yêu cầu nhất định mà
họ không mong muốn khi đưa tranh chấp ra giải quyết trước Trọng tài. Thực tiễn
pháp lý cho thấy, phán quyết trọng tài có thể được thi hành bằng một trong hai cách:
thứ nhất, người có nghĩa vụ thi hành tự nguyện thực hiện theo các yêu cầu của phán
quyết trọng tài; thứ hai, người có nghĩa vụ thi hành bị cưỡng chế thi hành trong
trường hợp không tự nguyện thực hiện. Vậy, trong trường hợp người có nghĩa vụ thi

hành tự nguyện thực hiện thì có được coi là công nhận và thi hành phán quyết trọng
tài hay không ?
Nếu “công nhận” và “thi hành” được hiểu theo nghĩa rộng như trên thì việc tự
nguyện thực hiện cũng được xem là công nhận và thi hành phán quyết trọng tài. Tuy
nhiên, trường hợp này, việc công nhận và thi hành phán quyết trọng tài không đặt ra
những vấn đề pháp lý phức tạp, do đó trong thực tiễn điều chỉnh pháp luật cũng như
trong khoa học pháp lý, trường hợp này ít được đặt ra và giải quyết. Vấn đề cần
quan tâm là trong trường hợp người phải thi hành không tự nguyện thi hành thì việc
công nhận và thi hành phán quyết của Trọng tài được hiểu như thế nào? Pháp luật
Viện Khoa học pháp lý (Bộ Tư pháp) (2006), Từ điển Luật học, Nhà xuất bản từ điển Bách Khoa - Nhà xuất
bản Tư pháp, Hà Nội.
4
Đặng Trung Hà (2009), “Công nhận và cho thi hành tại Việt Nam bản án, quyết định dân sự của Tòa án
nước ngoài, quyết định của Trọng tài và những vấn đề đặt ra trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế”,
/>tem&ID=11641.
3

7


của hầu hết các quốc gia trên thế giới đều quy định trong trường hợp bên phải thi
hành phán quyết trọng tài không tự nguyện thi hành thì có thể cưỡng chế thi hành
theo yêu cầu của người được thi hành. Sự cưỡng chế này không thể do bên được thi
hành hoặc bản thân Trọng tài thực hiện, bởi lẽ họ đều không phải là người thực thi
quyền lực Nhà nước. Chính vì vậy, “Việc công nhận và cho thi hành quyết định
trọng tài trong trường hợp bên phải thi hành không tự nguyện thực hiện chỉ có thể
do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền (thường là Tòa án) thực hiện” 5.
Thực tiễn pháp luật và khoa học pháp lý đều thống nhất rằng, việc công nhận
và cho thi hành phán quyết trọng tài là một loại việc trong tố tụng dân sự. Trong đó,
giai đoạn Tòa án xem xét công nhận và cho thi hành phán quyết trọng tài đóng vai

trò quan trọng nhất. Bản thân khái niệm “công nhận” và khái niệm “thi hành” cũng
có sự khác nhau, điều này xuất phát từ mục đích của việc công nhận và thi hành.
Nếu mục đích của “công nhận” là ngăn ngừa các bên tranh chấp tiếp tục khởi kiện
vụ việc đã được giải quyết thì mục đích của “thi hành” là nhằm buộc bên có nghĩa
vụ phải thi hành trong trường hợp họ không tự nguyện thực hiện. Vì thế, nếu “công
nhận” và “thi hành” được tách thành hai chế định độc lập thì vẫn có ý nghĩa thực
tiễn. Bởi lẽ, “công nhận” được hiểu một cách đơn giản là thừa nhận giá trị pháp lý
của một quyết định nào đó, còn “thi hành” là thừa nhận hiệu lực cưỡng chế thi hành
của quyết định đó. Nếu phán quyết trọng tài không được tự nguyện thi hành thì có
thể có trường hợp nó chỉ được công nhận nhưng lại không cần thi hành, trong khi
đó, nếu một phán quyết của Trọng tài được thi hành thì cũng có nghĩa là phán quyết
đó đã được công nhận. Vì việc thi hành phán quyết trọng tài không chỉ là việc công
nhận hiệu lực của phán quyết đó mà còn bao gồm cả việc đưa phán quyết đó vào
cuộc sống (đảm bảo thực thi phán quyết kể cả khi phải áp dụng các biện pháp cưỡng
chế). Do đó, nếu Tòa án có thẩm quyền đã ra quyết định cho thi hành phán quyết
trọng tài thì cũng có nghĩa là Tòa án đã công nhận hiệu lực của phán quyết trọng tài.
Tại phiên tập huấn trực tuyến Thẩm phán TANDTC Nguyễn Văn Tiến giới
thiệu về chuyên đề Thủ tục công nhận và cho thi hành phán quyết của trọng tài
nước ngoài tại Việt Nam: “ Công nhận và cho thi hành tại Việt Nam phán quyết của
Hoàng Phước Hiệp (1994), “Về vấn đề công nhận và thi hành ở Việt Nam quyết định của Trọng tài nước
ngoài”, Nhà nước và pháp luật, (03), tr.33-36.
5

8


trọng tài nước ngoài là một thủ tục tố tụng đặc biệt do Tòa án tiến hành nhằm xem
xét để công nhận tính hiệu lực của phán định trọng tài nước ngoài trên phạm vi lãnh
thổ của Việt Nam”.
Từ định nghĩa và các quan điểm trên có thể xác định: “Thủ tục công nhận và

cho thi hành phán quyết trọng tài thương mại là cách thức mà Tòa án của một quốc
gia thừa nhận giá trị pháp lý của một phán quyết trọng tài thương mại và làm cho
phán quyết trọng tài thương mại đó có hiệu lực cưỡng chế thi hành trên thực tế với
nội dung và theo trình tự nhất định do pháp luật quy định”.
Trình tự, thủ tục yêu cầu Tòa án công nhận và cho thi hành phán quyết trọng
tài ở các quốc gia có sự khác nhau, chủ yếu phụ thuộc vào vấn đề quốc gia đó có
thừa nhận phán quyết của Trọng tài có giá trị chung thẩm hay không. Về vấn đề
này, có ý kiến cho rằng:
Pháp luật về trọng tài ở một số nước, đặc biệt là các quốc gia theo hệ thống
pháp luật chung (Common Law), quy định cơ chế kháng cáo đối với phán quyết
trọng tài trên cơ sở pháp luật. Quy định này là cần thiết nhằm ngăn ngừa những
quyết định sai trái của Trọng tài, được áp dụng trong trường hợp có những vi phạm
pháp luật rõ ràng khi đưa ra phán quyết trọng tài. Điều đó có nghĩa là, mặc dù thừa
nhận tính chung thẩm của phán quyết trọng tài, nhưng không có nghĩa là phán quyết
trọng tài mặc nhiên được công nhận và thi hành 6.
1.1.2. Đặc điểm
Pháp luật về thủ tục công nhận và thi hành phán quyết trọng tài thương mại
không chỉ được quy định trong Bộ luật TTDS, Luật TTTM, Luật THADS mà còn
được quy định trong các điều ước quốc tế về tương trợ tư pháp. Do đó, nó vừa mang
những đặc điểm chung của pháp luật TTDS, pháp luật TTTM, pháp luật THADS,
vừa mang những đặc điểm chung của tư pháp quốc tế. Bên cạnh những đặc điểm
đó, pháp luật về thủ tục công nhận và thi hành phán quyết trọng tài thương mại ở
Việt Nam còn có những điểm đặc thù sau:
Nguyễn Trung Tín (2002), Công nhận và cho thi hành tại Việt Nam các quyết định của Trọng tài kinh tế,
Luận án Tiến sĩ Luật học, tr.50-51.
6

9



Thứ nhất, mục đích của thủ tục công nhận phán quyết trọng tài thương mại là
nhằm ngăn ngừa trường hợp một trong các bên tranh chấp tiếp tục khởi kiện về
chính vụ việc đã được Trọng tài giải quyết; còn thủ tục thi hành có vai trò như là
một công cụ hữu hiệu nhằm buộc bên thua kiện phải thực hiện nghĩa vụ của mình
theo như yêu cầu của phán quyết trọng tài, trong trường hợp họ không tự nguyện thi
hành. Trong khi đa số phán quyết trọng tài được thi hành một cách tự nguyện, vẫn
có một số ít vụ trong đó bên thắng kiện phải tiến hành biện pháp bắt buộc thi hành.
Đó là yêu cầu việc cho phép thi hành phán quyết trọng tài từ một Tòa án quốc gia,
khoản 1, Điều 66 Luật TTTM quy định “Hết thời hạn thi hành phán quyết trọng tài
mà bên phải thi hành phán quyết không tự nguyện thi hành và cũng không yêu cầu
hủy phán quyết trọng tài, bên được thi hành phán quyết trọng tài có quyền làm đơn
yêu cầu Cơ quan THADS có thẩm quyền thi hành phán quyết trọng tài.” Vì vậy,
phán quyết trọng tài có thể được thi hành tương tự như phán quyết của Tòa án7.
Như vậy, thủ tục công nhận và thi hành phán quyết trọng tài thương mại, xét về mặt
bản chất, chính là việc Nhà nước thừa nhận hiệu lực của phán quyết trọng tài như là
bản án, quyết định của Tòa án trong nước.
Thứ hai, căn cứ vào đối tượng được công nhận và thi hành, thủ tục công nhận
và thi hành phán quyết trọng tài ở Việt Nam được chia thành: thủ tục công nhận, thi
hành phán quyết của Trọng tài trong nước và thủ tục công nhận, thi hành phán
quyết của Trọng tài nước ngoài. Hai khái niệm này có điểm khác biệt, nếu thủ tục
công nhận và thi hành phán quyết của Trọng tài trong nước là cách thức mà cơ quan
có thẩm quyền của Việt Nam thừa nhận giá trị pháp lý của phán quyết trọng tài
trong nước và làm cho phán quyết đó được thi hành trên thực tế, thì thủ tục công
nhận và thi hành phán quyết của Trọng tài nước ngoài, xét về mặt bản chất, là cách
thức mà chính Nhà nước Việt Nam thừa nhận giá trị pháp lý của phán quyết trọng
tài nước ngoài và làm cho phán quyết đó có hiệu lực thi hành trên thực tế thông qua
các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền.
Thứ ba, nếu thủ tục thi hành phán quyết trọng tài thương mại cả trong nước và
nước ngoài đều được thực hiện theo các quy định của Luật THADS, thì thủ tục
7


Trung tâm Thương mại quốc tế, Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam, tlđd 11, tr.146.

10


công nhận và cho thi hành phán quyết trọng tài lại có sự khác biệt, thủ tục này chỉ
đặt ra đối với các phán quyết của Trọng tài nước ngoài, còn phán quyết của Trọng
tài trong nước mặc nhiên được công nhận và cho thi hành. Xuất phát từ nguyên tắc
tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ quốc gia; không can thiệp vào nội
bộ của nhau của pháp luật quốc tế mà thủ tục công nhận phán quyết trọng tài nước
ngoài không đương nhiên được đặt ra. Trong quan hệ quốc tế, việc cho thi hành một
bản án của Tòa án hoặc một phán quyết của Trọng tài nước ngoài không chỉ thể
hiện quan điểm của Tòa án nước cho thi hành đối với việc bảo vệ quyền lợi hợp
pháp của bên bị hại mà còn thể hiện sự tôn trọng của cơ quan xét xử nước này đối
với phán quyết của cơ quan xét xử nước khác. Thực tiễn tư pháp quốc tế cho thấy,
một phán quyết của Trọng tài nước này tuyên sẽ không được thi hành ở một nước
khác khi chưa được nước đó công nhận và cho thi hành. Nguyên tắc này được áp
dụng không chỉ thể hiện chủ quyền quốc gia mà còn nhằm đảm bảo nội dung của
phán quyết trọng tài cũng như hậu quả của việc thi hành các phán quyết của Trọng
tài nước ngoài tuyên sẽ không đi ngược lại những nguyên tắc pháp lý cơ bản của
nước nơi thi hành phán quyết đó. Cũng như Tòa án các nước, Tòa án Việt Nam chỉ
công nhận phán quyết của Trọng tài nước ngoài khi có đơn yêu cầu công nhận và
chỉ cho thi hành khi phán quyết đó đã được công nhận và cho thi hành.
Thứ tư, công nhận và cho thi hành phán quyết của Trọng tài nước ngoài là thủ
tục xem xét, quyết định trao hiệu lực thi hành tại quốc gia nào đó cho phán quyết
được yêu cầu. Vì thế, nếu thủ tục này không được quy định trong các điều ước quốc
tế thì phải tuân theo pháp luật của quốc gia nơi phán quyết trọng tài được yêu cầu
công nhận và cho thi hành. Phán quyết trọng tài nước ngoài chỉ được xem xét công
nhận và cho thi hành nếu tuân thủ đầy đủ các quy định trong các điều ước quốc tế

và pháp luật quốc gia về vấn đề này. Cũng như hầu hết các quốc gia trên thế giới,
theo pháp luật TTTM Việt Nam, phán quyết của Trọng tài nước ngoài sẽ không
được công nhận và cho thi hành tại Việt Nam nếu việc công nhận và cho thi hành
đó trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam. Tuy nhiên, “nguyên tắc
cơ bản của pháp luật Việt Nam” bao gồm những nguyên tắc gì, có nội dung như thế
nào lại chưa được quy định cụ thể trong một văn bản nào của pháp luật Việt Nam.

11


1.1.3. Vai trò của thủ tục công nhận và cho thi hành phán quyết của trọng tài
thương mại nước ngoài
Vấn đề hài hòa hóa luật pháp và các quy tắc tố tụng đang là đề tài được quan
tâm tại các quốc gia ASEAN và đã được đưa ra thảo luận tại Hội thảo của Chánh án
tòa án các nước ASEAN. Một trong những biện pháp để hài hóa hóa pháp luật về
nội dung cũng như tố tụng là tiến hành việc xem xét, công nhận và cho thi hành
phán quyết của trọng tài nước ngoài. Đây không chỉ là xu thế trong khu vực mà còn
là xu thế trên thế giới khi rất nhiều quốc gia phát triển đã tham gia các điều ước
quốc tế song phương và đa phương về công nhận và cho thi hành phán quyết trọng
tài nước ngoài trên lãnh thổ của mình. Việc công nhận và cho thi hành phán quyết
của trọng tài nước ngoài là một nhu cầu tất yếu khi càng ngày càng có nhiều giao
dịch thương mại mang tầm quốc tế. Nếu như trước đây, để bảo vệ chủ quyền của
mỗi quốc gia, tòa án các nước sẽ ngay lập tức loại trừ khả năng công nhận và thi
hành bản án của một tòa án nước khác thì hiện nay, với sự lưu chuyển xuyên quốc
gia về truyền thông, vận tải, lao động, thương mại, các yếu tố quốc gia thuần túy bị
suy yếu trước nhu cầu toàn cầu hóa. Nếu phán quyết của trọng tài hay bản án của
tòa án chỉ có giá trị thi hành ở nước nơi phán quyết, bản án được tuyên thì nền
thương mại quốc tế sẽ phải chịu rất nhiều ảnh hưởng tiêu cực.
Với việc phán quyết trọng tài nước ngoài được coi là một “đơn vị tiền tệ quốc
tế”, việc công nhận và thi hành phán quyết đó sẽ đem lại những lợi ích không nhỏ,

đầu tiên là trong việc tiết kiệm chi phí cho các bên tham gia tố tụng và sau đó là
phát triển kinh tế quốc tế nói chung. Việc công nhận, thi hành phán quyết trọng tài
nước ngoài còn được xem là thúc đẩy sự thống nhất, hài hòa pháp lý. Nó thể hiện
qua việc tòa án một nước cho phép những trật tự pháp lý, luật, quyết định, phân xử
của tòa án nước ngoài được thực thi trên đất nước mình, dựa trên nghĩa vụ quốc tế
nói chung cũng như nghĩa vụ theo các hiệp định đã được kí kết, đặt trong tổng thể
với quyền lợi hợp pháp của chính cá nhân hoặc thể nhân nước mình, khi các chủ thể
này tham gia vào quan hệ pháp luật tố tụng ở một quốc gia khác. Việc công nhận,
thi hành phán quyết trọng tài của các nước ASEAN tại Việt Nam và ngược lại việc
công nhận và hiệu lực thi hành của bản án, phán quyết trọng tài của Việt nam tại các
12


quốc gia thanh viên ASEAN càng có ý nghĩa hơn khi xét đến tổng số vốn đầu tư của
các nước trong khu vực vào nước ta.
1.1.4. Ý nghĩa việc quy định thủ tục công nhận và cho thi hành phán quyết của
trọng tài thương mại nước ngoài
Việc quy định thủ tục công nhận và cho thi hành phán quyết của Trọng tài
nước ngoài đã hình thành từ lâu trong tư pháp quốc tế, “thủ tục đặc biệt này nhằm
đảm bảo giải quyết các xung đột về quyền tài phán và đảm bảo tôn trọng quyền tài
phán của mỗi quốc gia. Việc công nhận và cho thi hành quyết định của Trọng tài
nước ngoài có một ý nghĩa quan trọng, đảm bảo khả năng thi hành các quyết định
đã được cơ quan tài phán nước ngoài tuyên. Từ đó, đảm bảo quyền lợi hợp pháp của
người được thi hành án cũng như tránh tình trạng về cùng một vụ việc nhưng lại bị
xét xử hai lần” 8.
Công nhận và thi hành phán quyết trọng tài là giai đoạn cuối cùng của quá
trình giải quyết tranh chấp, là hậu quả pháp lý tất yếu của việc cho phép các bên
quyền được yêu cầu Trọng tài giải quyết vụ tranh chấp. Do đó, nếu giai đoạn này
không được thực hiện trên thực tế thì kết quả của các giai đoạn trước đó sẽ không
còn ý nghĩa. Vì thế, có ý kiến cho rằng “Công nhận và thi hành quyết định của

Trọng tài cũng là chính lý do tồn tại của Trọng tài” 9. Bởi lẽ, công nhận và thi hành
phán quyết trọng tài là giai đoạn cuối cùng của quá trình giải quyết tranh chấp, do
đó nếu công đoạn này không được thực hiện hoặc thực hiện không phù hợp thì nó
sẽ làm cho việc xét xử tranh chấp của Trọng tài viên trở nên vô nghĩa. Ngược lại,
nếu việc công nhận và thi hành phán quyết trọng tài được thực hiện tốt thì nó không
chỉ góp phần làm cho hoạt động tố tụng của Trọng tài trong các giai đoạn trước đó
có hiệu quả thiết thực, mà còn làm cho các phán quyết trọng tài khác trong tương lai
được công nhận và thi hành một cách tự nguyện nhiều hơn. Khi đó, những ưu điểm
của Trọng tài so với Tòa án mới có thể phát huy.

Đặng Trung Hà, tlđd 23.
Trường Đại học Luật Hà Nội (2009), Giáo trình Tư pháp quốc tế, Nhà xuất bản Công an nhân dân, Hà Nội,
tr.370 (xem Michel Kerr, Trọng tài và tòa án, Luật so sánh và Luật pháp quốc tế, quyển I, 1985).
8
9

13


Vấn đề công nhận và cho thi hành các phán quyết của Trọng tài nước ngoài
còn có ý nghĩa quan trọng cả về mặt chính trị và kinh tế. Về chính trị, việc công
nhận và cho thi hành các phán quyết của Trọng tài nước ngoài không những khẳng
định chủ quyền về mặt tài phán của quốc gia mà còn thể hiện chủ trương, chính
sách, sự quan tâm của quốc gia sở tại trong việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của
các cá nhân, tổ chức nước ngoài. Về kinh tế, việc công nhận và cho thi hành phán
quyết của Trọng tài nước ngoài tăng cường sự giao lưu, hợp tác giữa cá nhân, tổ
chức ở các nước khác nhau, thúc đẩy kinh tế phát triển, bởi lẽ nếu phán quyết của
Trọng tài nước ngoài không được công nhận và thi hành ở quốc gia khác sẽ khuyến
khích các hành vi vi phạm thỏa thuận, vi phạm hợp đồng, từ đó hình thành tâm lý lo
ngại và hạn chế đầu tư, kinh doanh của các thương nhân.

1.2. Thủ tục công nhận và cho thi hành phán quyết của trọng tài thương mại
nước ngoài
1.2.1. Phạm vi phán quyết của Trọng tài nước ngoài được xem xét công nhận và
cho thi hành tại Việt Nam theo qui định tại Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015
“1. Phán quyết của Trọng tài nước ngoài sau đây được xem xét công nhận và cho thi
hành tại Việt Nam:
a) Phán quyết của Trọng tài nước ngoài mà nước đó và Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam cùng là thành viên của điều ước quốc tế về công nhận và cho thi hành
phán quyết của Trọng tài nước ngoài;
b) Phán quyết của Trọng tài nước ngoài không thuộc trường hợp quy định tại điểm a
khoản này trên cơ sở nguyên tắc có đi có lại.
c) Phán quyết của Trọng tài nước ngoài quy định tại khoản 1 Điều này được xem
xét công nhận và cho thi hành tại Việt Nam là phán quyết cuối cùng của Hội đồng
trọng tài giải quyết toàn bộ nội dung vụ tranh chấp, chấm dứt tố tụng trọng tài và có
hiệu lực thi hành.
d) Trọng tài nước ngoài, phán quyết của Trọng tài nước ngoài quy định tại khoản 1
Điều này được xác định theo quy định của Luật trọng tài thương mại của Việt
Nam”.

14


Khác với các bản án, quyết định dân sự của Tòa án nước ngoài, pháp luật
Việt Nam chỉ xem xét công nhận và cho thi hành đối với các phán quyết của Trọng
tài thương mại nước ngoài. Tức là, các phán quyết của Trọng tài nước ngoài giải
quyết các tranh chấp thương mại mới là đối tượng được xem xét công nhận và cho
thi hành tại Việt Nam.
1.2.2. Các nguyên tắc xem xét công nhận và cho thi hành tại Việt Nam phán quyết
trọng tài thương mại nước ngoài
Theo quy định tại Điều 424 BLTTDS năm 2015 thì Toà án Việt Nam xem xét

đơn yêu cầu công nhận và cho thi hành tại Việt Nam phán quyết của Trọng tài nước
ngoài theo 2 nguyên tắc cơ bản là dựa trên cơ sở điều ước quốc tế và trên nguyên
tắc có đi có lại.
– Tòa án Việt Nam xem xét công nhận và cho thi hành tại Việt Nam phán quyết của
Trọng tài nước ngoài mà Việt Nam và nước đó đã ký kết hoặc gia nhập điều ước
quốc tế về vấn đề này;
– Phán quyết của Trọng tài nước ngoài cũng có thể được Tòa án Việt Nam xem xét
công nhận và cho thi hành tại Việt Nam trên cơ sở có đi có lại mà không đòi hỏi
Việt Nam và nước đó phải lý kết hoặc gia nhập điều ước quốc tế về vấn đề đó;
– Phán quyết của Trọng tài nước ngoài được xem xét công nhận và cho thi hành tại
Việt Nam là phán quyết cuối cùng của Hội đồng trọng tài giải quyết toàn bộ nội
dung vụ tranh chấp, chấm dứt tố tụng trọng tài và có hiệu lực thi hành;
– Trọng tài nước ngoài, phán quyết của Trọng tài nước ngoài được công nhận và
cho thi hành tại Việt Nam được xác định theo quy định của Luật trọng tài thương
mại của Việt Nam;
– Phán quyết của Trọng tài nước ngoài không được chấp nhận nếu theo quy định
của pháp luật Việt Nam, vụ tranh chấp không được giải quyết theo thể thức trọng
tài;
– Phán quyết của Trọng tài nước ngoài không được chấp nhận nếu việc công nhận
và cho thi hành tại Việt Nam trái với nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam.

15


1.2.3. Thủ tục công nhận và cho thi hành phán quyết của Trọng tài nước ngoài tại
Việt Nam.
Nguyên tắc công nhận và cho thi hành, Việt Nam đưa ra 3 điều bảo lưu cơ
bản đó là:
(1) Công ước chỉ áp dụng đối với việc công nhận và thi hành tại Việt
Nam quyết định của Trọng tài nước ngoài được tuyên tại lãnh thổ của các quốc gia

thành viên của Công ước; đối với quyết định của Trọng tài nước ngoài tuyên tại
lãnh thổ của quốc gia chưa ký kết hoặc tham gia Công ước, Công ước được áp dụng
tại Việt Nam theo nguyên tắc có đi có lại.
(2) Chỉ áp dụng Công ước đối với tranh chấp phát sinh từ các quan hệ pháp
luật thương mại.
(3) Mọi sự giải thích Công ước trước Toà án hoặc cơ quan có thẩm quyền
khác của Việt Nam phải tuân theo các quy định của Hiến pháp và pháp luật Việt
Nam.
Về thời hiệu yêu cầu công nhận và cho thi hành: Trong thời hạn 03 năm kể
từ ngày phán quyết của Trọng tài nước ngoài có hiệu lực pháp luật, người được thi
hành, người có quyền, lợi ích hợp pháp liên quan hoặc người đại diện hợp pháp của
họ có quyền gửi đơn đến cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam để yêu cầu công
nhận và cho thi hành tại Việt Nam phán quyết đó.
Cơ quan có thẩm quyền xem xét đơn yêu cầu công nhận và cho thi hành:
Theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự do cơ quan có thẩm quyền tiếp nhận
đơn yêu cầu công nhận và cho thi hành phán quyết của Trọng tài nước ngoài là Bộ
Tư pháp – đối với trường hợp Việt Nam và quốc gia có Tòa án đã ra bản án, quyết
định dân sự cùng tham gia điều ước quốc tế; Tòa án nhân dân trong trường hợp Việt
Nam và quốc gia có Tòa án đã ra bản án, quyết định dân sự chưa cùng tham gia điều
ước quốc tế.

16


Bộ Tư pháp có thẩm quyền tiếp nhận đơn yêu cầu công nhận và cho thi hành
nhưng không có thẩm quyền xem xét chấp nhận đơn. Trường hợp Bộ Tư pháp nhận
được đơn yêu cầu công nhận và cho thi hành thì trong thời hạn 05 ngày làm kể từ
ngày nhận được hồ sơ, Bộ Tư pháp phải chuyển cho Tòa án có thẩm quyền
Trình tự, thủ tục xét đơn yêu cầu công nhận và cho thi hành
Bước 1: Gửi đơn yêu cầu công nhận và cho thi hành cùng các tài liệu kèm theo

a) Người có quyền nộp đơn yêu cầu (khoản 1 Điều 425 BLTTDS)
– Người được thi hành hoặc người đại diện hợp pháp của họ có quyền yêu cầu Tòa
án Việt Nam công nhận và cho thi hành tại Việt Nam phán quyết của Trọng tài
nước ngoài, khi:
+ Cá nhân phải thi hành cư trú, làm việc tại Việt Nam;
+ Cơ quan, tổ chức phải thi hành có trụ sở chính tại Việt Nam;
+ Tài sản liên quan đến việc thi hành phán quyết của Trọng tài nước ngoài có tại
Việt Nam vào thời điểm yêu cầu.
b) Hình thức và nội dung đơn yêu cầu (Điều 452 BLTTDS)
Đơn yêu cầu công nhận và cho thi hành phán quyết của Trọng tài nước ngoài
phải được làm bằng tiếng Việt hoặc nếu làm bằng tiếng nước ngoài thì phải gửi kèm
bản dịch ra tiếng Việt được công chứng, chứng thực hợp pháp (khoản 2 Điều 452
BLTTDS).
c) Các giấy tờ, tài liệu kèm theo (Điều 453 BLTTDS)
– Đối với đơn yêu cầu công nhận và cho thi hành phán quyết của Trọng tài nước
ngoài theo Công ước 1958 thì các giấy tờ, tài liệu kèm theo được quy định trong
Công ước 1958.
– Đối với đơn yêu cầu công nhận và cho thi hành phán quyết trọng tài nước ngoài
trong trường hợp không có điều ước quốc tế hoặc điều ước quốc tế không quy định
thì đơn yêu cầu phải kèm theo các giấy tờ, tài liệu sau:
17


+ Bản chính hoặc bản sao có chứng thực phán quyết của Trọng tài nước ngoài;
+ Bản chính hoặc bản sao có chứng thực thỏa thuận trọng tài giữa các bên.
Nếu phán quyết trọng tài và thỏa thuận trọng tài không được lập bằng tiếng
Việt, người nộp đơn phải gửi kèm theo bản dịch đã được công chứng, chứng thực
hợp pháp của các văn bản này. Công ước 1958 quy định rằng, bản dịch phải được
cán bộ hoặc phiên dịch có trình độ chứng thực hoặc cơ quan ngoại giao hoặc lãnh
sự xác nhận (Điều IV Công ước 1958).

d) Thời hạn nộp đơn (Điều 451 BLTTDS)
Thời hạn nộp đơn yêu cầu công nhận và cho thi hành phán quyết của trọng
tài nước ngoài là 3 năm kể từ ngày phán quyết trọng tài nước ngoài có hiệu lực pháp
luật. Trong trường hợp do sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan mà họ
không thể nộp đơn trong thời hạn 3 năm thì thời gian có sự kiện bất khả kháng hoặc
trở ngại khách quan sẽ không được tính vào thời hạn nộp đơn.
Bước 2: Thụ lý hồ sơ
a) Nhận đơn: Đơn yêu cầu công nhận và cho thi hành phán quyết của trọng tài nước
ngoài có thể được gửi tới Tòa án theo hai cách:
– Gửi cho Bộ Tư pháp khi điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên có quy định
và Bộ Tư pháp chuyển hồ sơ cho Tòa án có thẩm quyền sau khi kiểm tra sơ bộ đơn
yêu cầu (khoản 1 Điều 451 và Điều 454 BLTTDS).
+ Trong các trường hợp khác, tức là không có điều ước quốc tế hoặc điều ước quốc
tế không quy định, thì đơn yêu cầu có thể được nộp trực tiếp tới Tòa án có thẩm
quyền của Việt Nam (khoản 1 Điều 451 BLTTDS).
b) Tòa án có thẩm quyền thụ lý, giải quyết
Cấp Tòa án có thẩm quyền: Theo quy định tại điểm c khoản 2 Điều 35, điểm
b khoản 1 Điều 37, điểm a khoản 3 Điều 38 BLTTDS 2015 thì Tòa án có thẩm

18


×