Tải bản đầy đủ (.pdf) (91 trang)

Áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội khía cạnh pháp luật và xã hội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.48 MB, 91 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN THỊ KIM PHƯỢNG

ÁP DỤNG HÌNH PHẠT ĐỐI VỚI NGƯỜI DƯỚI 18 TUỔI
PHẠM TỘI: KHÍA CẠNH PHÁP LUẬT VÀ XÃ HỘI

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ

Hà Nội - 2019


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN THỊ KIM PHƯỢNG

ÁP DỤNG HÌNH PHẠT ĐỐI VỚI NGƯỜI DƯỚI 18 TUỔI PHẠM TỘI:
KHÍA CẠNH PHÁP LUẬT VÀ XÃ HỘI

Ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số: 8.38.01.04

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS NGUYỄN THỊ PHƯƠNG HOA

Hà Nội - 2019


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU



.....................................................................................................................................1

Chương 1 NHẬN THỨC VỀ ÁP DỤNG HÌNH PHẠT ĐỐI VỚI NGƯỜI
DƯỚI 18 TUỔI PHẠM TỘI TỪ KHÍA CẠNH PHÁP LUẬT VÀ
XÃ HỘI ....................................................................................................................8
1.1. Khái niệm, đặc điểm của áp dụng hình phạt đối với người dưới 18
tuổi phạm tội ................................................................................... 8
1.2. Các nguyên tắc trong áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi
phạm tội ........................................................................................ 12
1.3. Căn cứ áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội từ
khía cạnh pháp luật ....................................................................... 18
1.4. Căn cứ áp dụng pháp luật đối với người dưới 18 tuổi phạm tội từ
khía cạnh xã hội ............................................................................ 22
Chương 2 QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ HÌNH
PHẠT ĐỐI VỚI NGƯỜI DƯỚI 18 TUỔI PHẠM TỘI VÀ THỰC
TIỄN

ÁP DỤNG TỪ KHÍA CẠNH PHÁP LUẬT VÀ XÃ

HỘI ........................................................................................................................288
2.1. Quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam về hình phạt đối với người
dưới 18 tuổi phạm tội .................................................................. 288
2.2. Thực tiễn áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội ... 400
Chương 3 CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ CỦA VIỆC ÁP DỤNG
HÌNH PHẠT ĐỐI VỚI NGƯỜI DƯỚI 18 TUỔI PHẠM TỘI ....687
3.1. Yêu cầu nâng cao hiệu quả áp dụng hình phạt đối với người dưới 18
tuổi phạm tội ............................................................................... 687
3.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả của việc áp dụng hình phạt đối với
người dưới 18 tuổi phạm tội từ khía cạnh pháp luật................... 698

3.3. Giải pháp nâng cao hiệu quả của việc áp dụng hình phạt đối với
người dưới 18 tuổi phạm tội từ khía cạnh xã hội ....................... 764
KẾT LUẬN ..................................................................................................... 79


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

ANTT:

An ninh trật tự

BLHS:

Bộ luật hình sự

CAND:

Công an nhân dân

CQĐT:

Cơ quan điều tra

HKTT:

Hộ khẩu thường trú


TA:

Tòa án

TAND:

Tòa án nhân dân

TNHS:

Trách nhiệm hình sự

TTHS:

Tố tụng hình sự

TTXH:

Trật tự xã hội

UBND:

Ủy ban nhân dân

VKSND:

Viện kiểm sát nhân dân

XHCN:


Xã hội chủ nghĩa


DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU

Bảng 2.1 Tình hình người chưa thành niên phạm tội trên phạm vi cả nước
giai đoạn 2014 – 2018
Bảng 2.2 Số liệu một số loại tội phạm phổ biến người dưới 18 tuổi bị xét
xử từ năm 2014 đến năm 2018
Bảng 2.3 Các vụ án hình sự sơ thẩm có bị cáo là người dưới 18 tuổi và việc
áp dụng các biện pháp tha miễn trách nhiệm hình sự và hình phạt
của Tòa án nhân dân trên địa bàn thành phố Hà Nội các năm 2013
- 2017


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói: Trẻ em là mùa xuân của dân tộc và
là tương lai của đất nước. Trong suốt cuộc đời mình, Hồ chủ tịch đã hết sức
quan tâm tới việc chăm sóc và giáo dục trẻ em. Hiện nay, cùng với sự phát triển
chung của đất nước, Đảng và Nhà nước ta xác định: nguồn nhân lực là một
trong những nhân tố quyết định đối với sự phát triển của quốc gia và là chìa
khóa dẫn tới cánh cửa thành công. Chính vì vậy, Đảng và Nhà nước ta đã đề ra
các định hướng và chính sách nhằm tạo ra môi trường xã hội thuận lợi cho sự
phát triển toàn diện về đạo đức, trí lực, thể lực và nghệ thuật giúp trẻ em trở
thành “nguồn nhân lực có chất lượng” góp phần đưa Việt Nam trở thành một
quốc gia hùng mạnh.
Trong những năm gần đây, tình hình tội phạm ở Việt Nam đang có những
diễn biến khá phức tạp, trong đó có tình trạng gia tăng của tội phạm dưới 18
tuổi. Tốc độ trẻ hóa của tội phạm dưới 18 tuổi ở nước ta thời gian qua đòi hỏi

các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền phải có những giải pháp phù hợp để
không chỉ nhằm bảo vệ sự phát triển bền vững của quốc gia trong tương lai mà
còn nhằm bảo vệ trật tự an toàn xã hội. Tuy nhiên, việc áp dụng hình phạt đối
với người dưới 18 tuổi là vấn đề không hề đơn giản. Bởi vì, người dưới 18 tuổi
là những người phát triển chưa đầy đủ về thể chất, tâm lý, sinh lý, khả năng
nhận thức và điều khiển hành vi còn những hạn chế nhất định vì kinh nghiệm
sống còn non nớt. Chính vì vậy, hành vi của những người này thường là bộc
phát chưa đủ sự chín chắn, sự bản lĩnh làm chủ hành vi của mình. Do đó, việc
xử lí đối với hành vi phạm tội của người dưới 18 tuổi chủ yếu nhằm giáo dục,
giúp đỡ họ sữa sai lầm, phát triển lành mạnh và trở thành công dân có ích cho

1


xã hội. Do đó, khi áp dụng hình phạt đối với những người dưới 18 tuổi không
thể giống như áp dụng hình phạt đối với những người trưởng thành.
Mục đích của hình phạt được quy định tại Điều 31 BLHS như sau: “Hình
phạt không chỉ nhằm trừng trị người phạm tội mà còn giáo dục họ trở thành
người có ích cho xã hội, có ý thức tuân theo pháp luật và các quy tắc của cuộc
sống XHCN, ngăn ngừa họ phạm tội mới. Hình phạt còn nhằm giáo dục những
người khác tôn trọng pháp luật, đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm”. Tuy
nhiên, khi áp dụng hình phạt nói riêng và áp dụng pháp luật nói chung đối với
người dưới 18 tuổi phạm tội thì tòa án nhân dân các cấp đều phải tuân thủ một
trong các nguyên tắc sau đây: việc xử lý người dưới 18 tuổi phạm tội phải bảo
đảm lợi ích tốt nhất của người dưới 18 tuổi (khoản 1 Điều 91 BLHS). Đây là
nguyên tắc chung định hướng cho các chủ thể tiến hành tố tụng khi quyết định
lựa chọn biện pháp xử lý nhất định đối với người dưới 18 tuổi phạm tội từ đó
tìm ra các biện pháp xử lý phù hợp nhất đối với đối tượng này. Nội dung của
nguyên tắc này là đòi hỏi các cá nhân, cơ quan, tổ chức khi tiến hành các hoạt
động tố tụng có liên quan đến việc xử lý người dưới 18 tuổi phạm tội cần bảo

đảm rằng quyết định ấy là tối ưu nhất, tốt nhất cho các em trong mối quan hệ
hài hòa với các lợi ích khác của xã hội cũng như bảo đảm được tính nghiêm
minh của pháp luật.
BLHS 2015 sửa đổi 2017 đã có những thay đổi nhất định trong việc áp
dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội. Mặc dù vậy việc áp dụng
hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội vẫn còn có nhiều bất cập, hạn
chế như việc áp dụng pháp luật nhiều nơi chưa đồng bộ, chưa thống nhất hay
chưa phân hóa được cụ thể trách nhiệm hình sự của những người này ở các mức
độ, các độ tuổi khác nhau... Từ những hạn chế, bất cập ấy có thể thấy rằng: quá
trình nghiên cứu, đánh giá chính xác và hiệu quả việc áp dụng hình phạt đối

2


với người dưới 18 tuổi phạm tội dưới khía cạnh lập pháp và xã hội là vấn đề rất
cần thiết và có ý nghĩa.
Đây chính là lý do tác giả lựa chọn đề tài: “Áp dụng hình phạt đối với
người dưới 18 tuổi phạm tội: khía cạnh pháp luật và xã hội” làm đề tài luận
văn thạc sỹ.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Trong thời gian qua có một số công trình nghiên cứu khoa học liên quan
đến đề tài đã được công bố như:
+ Các công trình liên quan đến xã hội học nói chung như:
Tác giả Võ Khánh Vinh năm 2012 - Xã hội học pháp luật – những vấn
đề cơ bản, NXB Khoa học xã hội, Học viện khoa học xã hội, Hà Nội.
Tác giả Trần Đức Châm năm 2013 - Xã hội học pháp luật, NXB Chính
trị quốc gia sự thật, Hà Nội.
+ Các giáo trình, bình luận khoa học Bộ luật hình sự:
Giáo trình luật hình sự Việt Nam phần các tội phạm - quyển 1 của
Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh (2013), Nxb Hồng Đức, Thành

phố Hồ Chí Minh.
Trường Đại học Luật Hà Nội (2013), Giáo trình luật hình sự Việt Nam,
Tập 2, NXB Công an nhân dân, Hà Nội.
Tác giả Đinh Văn Quế năm 2003 - Bình luận khoa học Bộ luật Hình sự,
Tập 2, NXB Thành phố Hồ Chí Minh.
Tác giả Nguyễn Đức Mai năm 2013 - Bình luận khoa học BLHS năm
1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) - Phần các tội phạm, NXB Chính trị quốc
gia, Hà Nội.
+ Các bài viết đăng trên các tạp chí khoa học có liên quan:
Tác giả Nguyễn Tất Viễn năm 2014 - Tòa án người chưa thành niên, Số
chuyên đề Tạp chí Vì trẻ thơ, Hà Nội.

3


Tác giả Trịnh Tiến Việt năm 2007 - Những trường hợp miễn trách nhiệm
hình sự quy định trong Phần chung Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999, Số 18,
Tạp chí Tòa án nhân dân, Hà Nội.
Tác giả Trịnh Quốc Toản năm 2011 - Một số vấn đề lý luận về hình phạt
trong Luật hình sự, Số 27 của Tạp chí Khoa học ĐHQGHN - Luật học, Hà Nội.
+ Các luận văn, luận án tương tự:
Tác giả Lê Văn Đệ - Định tội danh và quyết định hình phạt trong Luật
hình sự Việt Nam năm 2004, Nhà xuất bản CAND, Hà Nội.
Tác giả Trần Ngọc Lan Trang (2017) - Các biện pháp thay thế cho hình
phạt áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội trong Bộ luật hình sự
2015, Luận văn thạc sỹ luật học, Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh.
Tác giả Nguyễn Minh Khuê, Quyết định hình phạt đối với người chưa
thành niên phạm tội trong luật hình sự Việt Nam, Luận văn thạc sỹ luật học
năm 2007, Khoa Luật – Đại học quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
Tác giả Nguyễn Anh Tú, Quyết định hình phạt đối với người chưa thành

niên phạm tội từ thực tiễn Thành phố Hồ Chí Minh, Luận văn thạc sỹ Luật học
năm 2016, Học viện Khoa học xã hội, Hà Nội.
Tác giả Nguyễn Văn Thanh Bình, Quyết định hình phạt đối với người
chưa thành niên phạm tội theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn Thành
phố Cần Thơ, Luận văn thạc sỹ Luật học năm 2016, Học viện Khoa học xã hội,
Hà Nội.
Các đề tài khoa học, các công trình nghiên cứu, các bài viết trên đây đều
là những công trình khoa học có giá trị cao về mặt lý luận khoa học và thực
tiễn. Tuy nhiên, nội dung của các công trình, các đề tài, các bài viết trên có nội
hàm nghiên cứu quá rộng, có đề tài nghiên cứu thời gian đã lâu nên ý nghĩa của
đề tài với thực tiễn hiện nay còn những hạn chế nhất định, có đề tài nghiên cứu
lại gắn với một địa bàn nhất định nên tính khái quát của đề tài về mặt lý luận

4


chưa cao. Vì vậy, theo đánh giá của tác giả, mặc dù có rất nhiều công trình, đề
tài, bài viết nghiên cứu về hình phạt tuy nhiên các công trình, đề tài, bài viết
phần lớn mới chỉ đề cập đến vấn đề quyết định hình phạt đối với người chưa
thành niên phạm tội, chưa có một công trình, một đề tài, bài viết nào nghiên
cứu, đánh giá một cách toàn diện vấn đề áp dụng hình phạt đối với người dưới
18 tuổi phạm tội theo pháp luật hình sự Việt Nam từ khía cạnh pháp luật và xã
hội. Tuy vậy, kết quả của những công trình nghiên cứu, các đề tài, các bài viết
đã công bố nêu trên là một trong những nguồn tài liệu quan trọng mà tác giả có
thể vận dụng, kế thừa, phát triển và bổ sung thêm để hoàn thiện cho đề tài
nghiên cứu của mình.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1 Mục đích nghiên cứu
Từ việc nghiên cứu, đánh giá những vấn đề về mặt lý luận và thực tiễn
quá trình áp dụng của Bộ luật hình sự về áp dụng hình phạt đối với người dưới

18 tuổi phạm tội dưới khía cạnh lập pháp và khía cạnh xã hội, tác giả chỉ ra
những vấn đề còn vướng mắc, bất cập cả trên phương diện lý luận và thực tiễn.
Từ đó, tác giả đưa ra những kiến nghị, những đề xuất các giải pháp hoàn thiện
chế định này trên phương diện pháp luật và xã hội để khi áp dụng trong thực
tiễn đạt hiệu quả cao nhất.
3.2 Nhiệm vụ nghiên cứu
Trên cơ sở xác định mục đích nghiên cứu nêu trên, đề tài cần phải thực
hiện những nhiệm vụ cụ thể sau đây:
- Nghiên cứu làm rõ lý luận về áp dụng hình phạt đối với người dưới 18
tuổi phạm tội dưới khía cạnh pháp luật và dưới khía cạnh xã hội.
- Phân tích, đánh giá thực trạng việc áp dụng hình phạt đối với người
dưới 18 tuổi phạm tội giai đoạn 2014 - 2018.

5


- Kiến nghị, đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả việc áp dụng hình
phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội từ khía cạnh pháp luật và xã hội.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu các quy định về việc áp dụng hình phạt đối với
người dưới 18 tuổi phạm tội từ khía cạnh pháp luật và từ khía cạnh xã hội.
Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở tổng hợp số liệu tình hình giải quyết
các vụ án dưới 18 tuổi phạm tội trên phạm vi cả nước trong giai đoạn 20142018; thực tiễn áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội thông
qua các số liệu thống kê cụ thể của một số địa phương trong cả nước.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Đề tài được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận là phép biện
chứng duy vật của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước
và pháp luật; quan điểm của Đảng và Nhà nước về tội phạm và hình phạt nói
chung và về chính sách áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
nói riêng. Đồng thời, trong suốt quá trình nghiên cứu và hoàn thiện đề tài, tác

giả sử dụng kết hợp nhiều phương pháp khác nhau như phân tích, đánh giá, so
sánh, tổng hợp nhằm làm rõ nội dung vấn đề cần trình bày cũng như tìm ra các
giải pháp để nâng cao hiệu quả của việc áp dụng hình phạt đối với dưới 18 tuổi
phạm tội dưới khía cạnh lập pháp và xã hội.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Kết quả nghiên cứu của đề tài sẽ góp phần hoàn thiện hệ thống lý luận
có liên quan đến việc xây dựng chính sách hình sự đối với người dưới 18 tuổi
phạm tội nói riêng và việc áp dụng pháp hình phạt đối với người dưới 18 tuổi
phạm tội nói chung.

6


6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Bên cạnh giá trị về mặt lý luận, thông qua việc nghiên cứu đề tài để đánh
giá thực trạng áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội. Từ đó
làm cơ sở cho việc hoàn thiện các quy định của pháp luật nói chung về áp dụng
hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
được kết cấu như sau:
Chương 1. Nhận thức về áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi
phạm tội từ khía cạnh pháp luật và xã hội
Chương 2. Quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam về hình phạt đối với
người dưới 18 tuổi phạm tội và thực tiễn áp dụng từ khía cạnh pháp luật và xã hội
Chương 3. Các giải pháp nâng cao hiệu quả của việc áp dụng hình phạt
đối với người dưới 18 tuổi phạm tội từ khía cạnh pháp luật và xã hội

7



Chương 1
NHẬN THỨC VỀ ÁP DỤNG HÌNH PHẠT ĐỐI VỚI NGƯỜI
DƯỚI 18 TUỔI PHẠM TỘI TỪ KHÍA CẠNH
PHÁP LUẬT VÀ XÃ HỘI
1.1. Khái niệm, đặc điểm của áp dụng hình phạt đối với người dưới
18 tuổi phạm tội
1.1.1. Khái niệm người dưới 18 tuổi phạm tội
Người dưới 18 tuổi là người vẫn đang trong quá trình phát triển về thể
chất, tình cảm và đạo đức. Họ chưa phải là những người trưởng thành và có
cách nhìn nhận, đánh giá thế giới xung quanh khác với những người trưởng
thành do đó khả năng nhận thức, giao tiếp, tham gia vào quá trình tố tụng hình
sự của họ phụ thuộc rất nhiều vào độ tuổi và mức độ phát triển của bản thân.
Người dưới 18 tuổi khi phạm tội có những hạn chế về nhận thức, về mặt tâm
sinh lý cũng chưa phát triển hoàn thiện ổn định, họ phải chịu trách nhiệm theo
pháp luật về hành vi phạm tội của mình chính vì vậy cần có những quy định
khác với người đã thành niên phạm tội để họ được dễ hòa nhập cộng đồng sau
khi bị kết án về hành vi họ gây ra khi dưới 18 tuổi.
Điều 1 Công ước về quyền trẻ em và Điều 11(a) Quy tắc của Liên Hợp
Quốc về bảo vệ người chưa thành niên bị tước tự do có khái niệm như sau:
“Người chưa thành niên phạm tội là người dưới 18 tuổi, trừ trường hợp luật
pháp áp dụng với người đó quy định tuổi thành niên sớm hơn, bị cáo buộc hay
bị kết luận là đã phạm tội”.
Trên cơ sở quy định của Liên Hiệp Quốc pháp luật hình sự các nước đều
quy định tuổi của một người có phải người chưa thành niên phạm tội hay không
là tuổi của người đó tại thời điểm thực hiện hành vi phạm tội.

8



Xu hướng chung trong chính sách xử lý đối với người chưa thành niên
phạm tội của nhiều nước trên thế giới là ưu tiên áp dụng các biện pháp thay thế
xử lý hình sự, việc đưa người dưới 18 tuổi vào hệ thống xử lý chính thức chỉ
khi không còn cách nào khác để bảo đảm sự an toàn của cộng đồng, do vậy, tỷ
lệ người dưới 18 tuổi phạm tội được áp dụng các biện pháp thay thế xử lý hình
sự rất cao.
Trong lịch sử khoa học pháp lý ở Việt Nam, những kiến thức về lý luận
đối với người dưới 18 tuổi phạm tội xuất hiện cùng với sự ra đời của BLHS
năm 1985. Dựa trên những quy định về tội phạm tại Điều 8 BLHS: “Tội phạm
là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong BLHS, do người có năng
lực TNHS hoặc pháp nhân thương mại thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm
phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm
chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc phòng, an ninh, trật tự, an
toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm quyền con người,
quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật
tự pháp luật XHCN mà theo quy định của Bộ luật này phải bị xử lý hình sự”;
cũng như các quy định về những người từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi thực hiện
hành vi nguy hiểm cho xã hội mà BLHS quy định là tội phạm.
Như vậy, trên cơ sở khái quát các quy định trong nước và quốc tế có thể
đưa ra khái niệm như sau: “Người dưới 18 tuổi phạm tội là người chưa thành niên
đã thực hiện một hành vi nguy hiểm cho xã hội, có lỗi và phải chịu trách nhiệm
hình sự tương ứng với độ tuổi, hành vi và lỗi của mình theo quy định của BLHS”.
1.1.2. Khái niệm áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
Áp dụng pháp luật là một hình thức thực hiện pháp luật, trong đó nhà
nước thông qua các cơ quan nhà nước cụ thể hoặc nhà chức trách có thẩm quyền
tổ chức cho các chủ thể pháp luật thực hiện những quy định của pháp luật hoặc
tự mình căn cứ vào các quy định của pháp luật để tạo ra các quy định làm phát

9



sinh, thay đổi, đình chỉ hoặc chấm dứt những quan hệ pháp luật cụ thể [28, tr.
249].
Áp dụng pháp luật là một hình thức thực hiện pháp luật cụ thể có những nét
đặc thù riêng. Mục đích trực tiếp của áp dụng pháp luật là bảo đảm cho những qui
phạm pháp luật được thực hiện triệt để trong đời sống thực tế. Thiếu hình thức
thực hiện này trong nhiều trường hợp các qui phạm pháp luật không thể bảo đảm
trở thành hiện thực trong thực tế. Bởi vì có những trường hợp, nếu không có sự
tác động của nhà nước thì nhiều qui phạm pháp luật sẽ không được thực hiện
không đúng.
Như vậy, áp dụng pháp luật là hoạt động mang tính tổ chức, tính quyền
lực nhà nước, do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền thực hiện (hoặc các tổ
chức xã hội được trao quyền) nhằm áp dụng các qui phạm pháp luật vào các
trường hợp cụ thể như hoạt động áp dụng PLHS.
Áp dụng PLHS là hình thức thực hiện pháp luật trong lĩnh vực hình sự,
trong đó nhà nước thông qua các cơ quan nhà nước có thẩm quyền hoặc người
có thẩm quyền tổ chức cho các chủ thể quan hệ PLHS thực hiện những quy
định của PLHS hoặc tự mình căn cứ vào các quy định của PLHS từ đó tạo ra
những quyết định làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quan hệ PLHS.
Hoạt động áp dụng PLHS đối với người dưới 18 tuổi phạm tội bắt đầu
từ quá trình giải quyết vụ án hình sự như: tiếp nhận tin báo, tố giác, khởi tố,
điều tra, truy tố, xét xử đối với người dưới 18 tuổi khi họ thực hiện hành vi
phạm tội. Hoạt động này do nhiều chủ thể khác nhau tiến hành tùy theo từng
giai đoạn trong quá trình TTHS. Hoạt động này do nhiều chủ thể khác nhau
thực hiện ở mỗi giai đoạn khác nhau bao gồm các nội dung như: định tội danh,
quyết định hình phạt, miễn trách nhiệm hình sự…
Ngoài ra, trong BLHS 2015 tại Điều 30 quy định như sau: “Hình phạt là
biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước được quy định trong Bộ


10


luật này do TA quyết định áp dụng đối với người hoặc pháp nhân thương mại
phạm tội nhằm tước bỏ hoặc hạn chế quyền, lợi ích của người, pháp nhân
thương mại đó”.
Tóm lại, từ những phân tích trên có thể đưa ra khái niệm áp dụng hình
phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội như sau: Áp dụng hình phạt đối với
người dưới 18 tuổi phạm tội là hoạt động của Tòa án sau khi đã xác định được
hành vi của người dưới 18 tuổi thực hiện, có lỗi, xâm phạm quan hệ xã hội
được Luật hình sự bảo vệ để đưa ra biện pháp xử lý tương xứng với tính chất,
mức độ nguy hiểm cho các quan hệ xã hội của hành vi phạm tội mà bị cáo dưới
18 tuổi đã thực hiện.
Hoạt động áp dụng hình phạt của Tòa án đối với người dưới 18 tuổi thực
hiện bao gồm việc xác định loại hình phạt và việc xác định khung hình phạt tương
ứng trong phạm vi quy định của BLHS đối với bị cáo là người dưới 18 tuổi.
1.1.3. Đặc điểm của áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
Áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội là một hình thức
cụ thể trong hoạt động áp dụng pháp luật hình sự nên khi thực hiện người áp
dụng hình phạt phải tuân theo những nguyên tắc chung và quy trình chung. Bên
cạnh đó, áp dụng hình phạt cũng có những đặc điểm riêng biệt sau đây:
Một là: Áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội do Tòa
án nhân danh nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thực hiện.
Theo quy định trong Hiến pháp 2013 tại Khoản 1 Điều 31 quy định như
sau: “Người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi được chứng minh
theo trình tự luật định và có bản án kết tội của TA đã có hiệu lực pháp luật”.
Tại Khoản 1 Điều 102 Hiến pháp 2013 cũng quy định: “TA nhân dân là cơ
quan xét xử của nước Cộng hoà XHCN Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp”.
Điều 26 BLHS 2015 cũng quy định: “Hình phạt được quy định trong Bộ luật
hình sự và do Tòa án quyết định”. Như vậy, hình phạt là một biện pháp cưỡng


11


chế nhà nước được TAND – cơ quan duy nhất có quyền nhân danh Nhà nước
quyết định áp dụng đối với người phạm tội hay pháp nhân thương mại phạm
tội, không một chủ thể nào khác ngoài TA có quyền quyết định áp dụng hình
phạt. Đối với trường hợp người phạm tội là người dưới 18 tuổi thì việc áp dụng
hình phạt cũng chỉ do Tòa án quyết định.
Hai là: Áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi do Thẩm phán và
Hội thẩm nhân dân tiến hành đối với người dưới 18 tuổi thực hiện tội phạm
theo một trật tự pháp lý nhất định được quy định trong BLHS.
Chỉ những người thuộc Hội đồng xét xử tức là Thẩm phán và Hội thẩm
nhân dân mới có quyền áp dụng một loại hình phạt nào đó đối với chủ thể thực
hiện tội phạm mà chủ thể ấy là những người dưới 18 tuổi thì trình tự thủ tục tố
tụng cũng như những căn cứ pháp lý áp dụng lại theo một trình tự riêng biệt
được quy định tại Chương XII của BLHS và Chương XXVIII của BLTTHS.
1.2. Các nguyên tắc trong áp dụng hình phạt đối với người dưới 18
tuổi phạm tội
Việc áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội cũng giống
như áp dụng hình phạt đối với người trên 18 tuổi cần phải tuân thủ những
nguyên tắc chung như: nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa đảm bảo cho hoạt
động áp dụng hình phạt Tòa án phải tuân thủ nghiêm chỉnh các quy định của
BLHS; nguyên tắc nhân đạo trong áp dụng hình phạt thể hiện sự khoan hồng
của Đảng và Nhà nước đối với người phạm tội dưới 18 tuổi; nguyên tắc công
bằng đảm bảo cho sự bình đẳng trước pháp luật về giới tính, dân tộc, trình độ…
Ngoài ra việc áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội phải tuân
thủ những nguyên tắc được quy định trong BLHS.
Điều 91 BLHS năm 2015 sửa đổi, bổ sung Điều 69 BLHS năm 1999 theo
hướng ghi nhận đầy đủ hơn một số nguyên tắc xử lý đối với người dưới 18 tuổi

phạm tội đã được quy định tại Công ước Quyền trẻ em mà Việt Nam là thành

12


viên của công ước và các chuẩn mực quốc tế khác có liên quan vừa bảo đảm
tăng cường hiệu quả giáo dục, phục hồi đối với người dưới 18 tuổi phạm tội,
vừa thể hiện quan điểm nhất quán của Đảng và Nhà nước ta trong việc thực
hiện các cam kết quốc tế về chăm sóc, bảo vệ, giáo dục trẻ em nói chung và
người dưới 18 tuổi phạm tội nói riêng, là một nỗ lực lớn trong việc làm hài hòa
hệ thống pháp luật quốc gia tiến gần với hệ thống pháp luật quốc tế trong quá
trình hội nhập.
Nội dung sửa đổi, bổ sung tại Điều 91 BLHS năm 2015 có thêm nguyên
tắc: “Việc xử lý người dưới 18 tuổi phạm tội phải bảo đảm lợi ích tốt nhất của
người dưới 18 tuổi” (quy định tại khoản 1 Điều 91 BLHS). Đây là nguyên tắc
có tính định hướng cho Tòa án khi quyết định lựa chọn biện pháp xử lý cụ thể
đối với người dưới 18 tuổi phạm tội để tìm ra biện pháp phù hợp, hiệu quả nhất
đối với họ. Nội dung của nguyên tắc này yêu cầu đối với Tòa án mà cụ thể là
Thẩm phán khi quyết định áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm
tội cần bảo đảm rằng quyết định hình phạt đó là phù hợp nhất, tốt nhất cho họ
trong mối quan hệ hài hòa với các lợi ích khác cũng như bảo đảm sự nghiêm
minh của hệ thống pháp luật. Bộ luật hình sự đã dành một chương riêng,
Chương XII “Những quy định đối với người dưới 18 tuổi phạm tội”; trong đó,
Điều 91 quy định về nguyên tắc xử lý đối với người dưới 18 tuổi phạm tội. Cụ
thể như sau:
- Thứ nhất: Việc xử lý người dưới 18 tuổi phạm tội phải bảo đảm được
những lợi ích tốt nhất của người dưới 18 tuổi và chủ yếu nhằm mục đích răn đe,
giáo dục, giúp đỡ họ sửa chữa lỗi lầm, phát triển trong sáng, lành mạnh, trở thành
những công dân có ích cho gia đình và xã hội.
Việc xử lý người dưới 18 tuổi phạm tội phải căn cứ vào nhiều yếu tố

khác nhau như: độ tuổi, khả năng nhận thức, về điều kiện hoàn cảnh xảy ra tội
phạm, tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nguyên nhân và

13


động cơ, mục đích phạm tội. Nội dung của nguyên tắc này đòi hỏi Tòa án khi
quyết định áp dụng pháp luật đối với người dưới 18 tuổi phạm tội cần bảo đảm
rằng quyết định đó là tốt nhất cho họ, đảm bảo mối quan hệ hài hòa với các lợi
ích khác của họ cũng như bảo đảm sự nghiêm minh của cả hệ thống pháp luật.
- Thứ hai: Người dưới 18 tuổi phạm tội thuộc một trong các trường hợp
có nhiều tình tiết giảm nhẹ, tự nguyện khắc phục phần lớn hậu quả, nếu không
thuộc trường hợp quy định về căn cứ miễn trách nhiệm hình sự của Bộ luật này
(Điều 29) và thuộc một trong các trường hợp phạm tội về: cố ý gây thương tích
hoặc gây tổn hại sức khỏe cho người khác, tội hiếp dâm, tội cướp giật tài sản,
các tội có liên quan đến ma túy… (Luật quy định cụ thể trường hợp phạm tội
và độ tuổi) thì có thể được miễn trách nhiệm hình sự và áp dụng các biện pháp
giám sát, giáo dục như: khiển trách (Điều 93), hòa giải tại cộng đồng (Điều 94)
hoặc biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn (Điều 95). Ngoài ra, luật hình
sự cũng quy định tình tiết giảm nhẹ đối với người dưới 18 tuổi phạm tội là
người đồng phạm có vị trí, vai trò không đáng kể trong vụ án.
Một điểm nữa là miễn TNHS theo quy định tại Điều 29 BLHS đồng nghĩa
với việc trả tự do hoàn toàn cho người được miễn TNHS, trong khi đó người được
miễn trách nhiệm hình sự theo khoản 2 Điều 91 BLHS sẽ phải chịu sự giám sát,
giáo dục của cơ quan, tổ chức trong một thời hạn nhất định tùy từng trường hợp
cụ thể. Do đó, chỉ được miễn TNHS và áp dụng các biện pháp giám sát, giáo dục
với người dưới 18 tuổi phạm tội nếu không thuộc trường hợp quy định tại Điều
29 của BLHS năm 2015.
- Thứ ba: Việc truy cứu TNHS đối với trường hợp người dưới 18 tuổi
phạm tội chỉ khi thật cần thiết và phải căn cứ vào những đặc điểm về nhân thân,

căn cứ vào tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội và yêu cầu của
công cuộc đấu tranh phòng ngừa tội phạm.

14


Nếu xét thấy không cần thiết phải áp dụng hình phạt đối với người dưới
18 tuổi phạm tội thì tòa án áp dụng các biện pháp giám sát giáo dục và biện
pháp tư pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng như: Khiển trách, hòa giải tại cộng
đồng, giáo dục tại xã, phường, thị trấn và biện pháp tư pháp giáo dục tại trường
giáo dưỡng.
- Thứ tư: Khi xét xử, TA chỉ quyết định áp dụng hình phạt đối với người
dưới 18 tuổi phạm tội nếu xét thấy việc miễn TNHS và việc áp dụng một trong
các biện pháp quy định tại Mục 2 hoặc việc áp dụng các biện pháp giáo dục tại
trường giáo dưỡng quy định tại Mục 3 của chương này không bảo đảm hiệu
quả trong việc giáo dục, phòng ngừa tội phạm.
BLHS năm 2015 tại Khoản 4 Điều 91 thể hiện lại nguyên tắc này theo
hướng phù hợp hơn với nội dung và tinh thần của Công ước về Quyền trẻ em.
Khi xét xử người dưới 18 tuổi, Tòa án trước hết phải cân nhắc khả năng áp
dụng việc miễn trách nhiệm hình sự và áp dụng một trong các biện pháp giám
sát, giáo dục hoặc khả năng áp dụng biện pháp tư pháp giáo dục tại trường giáo
dưỡng đối với các em và chỉ khi xét thấy việc áp dụng các biện pháp này không
bảo đảm hiệu quả giáo dục, phòng ngừa thì mới áp dụng hình phạt đối với các
em. Đồng thời, tại khoản 6 của Điều 91 BLHS 2015 cũng quy định rõ TA chỉ
quyết định áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với người dưới 18 tuổi phạm
tội khi xét thấy các hình phạt và biện pháp giáo dục khác không có tác dụng
răn đe, giáo dục, phòng ngừa và chỉ áp dụng với thời hạn thích hợp, ngắn nhất
có thể.
- Thứ năm: TA không được áp dụng hình phạt tù chung thân hoặc tử hình
đối với người dưới 18 tuổi phạm tội

Tính chất trừng phạt của pháp luật hình sự hiện đại chỉ đơn thuần mang
tính giáo dục, cải tạo người phạm tội và răn đe những người có ý định phạm
tội, chứ không có tính chất trả thù đối với hành vi phạm tội. Việc quyết định xử

15


tử hình một ai đó không nhằm mục đích trả thù cho nạn nhân, thân nhân nạn
nhân mà chỉ nhằm mục đích răn đe đối với những ai có ý định phạm tội tương
tự. Theo quan điểm của các nhà làm luật, chỉ được phép quyết định áp dụng
hình phạt tương đương với mức độ nhận thức của đối tượng khi phạm tội.
Người dưới 18 tuổi thường là những người chưa phát triển đầy đủ về tâm lý,
thể chất, đặc biệt là tâm sinh lý còn đang hoàn thiện, họ thiếu kinh nghiệm sống,
bản lĩnh cuộc sống, khả năng tự kiềm chế bản thân còn thấp. Vì vậy, họ chưa
thể nhận thức đúng và đầy đủ về mức độ, tính chất nghiêm trọng của hành vi
phạm tội do mình gây ra. Cùng với quan điểm đó, người dưới 18 tuổi cũng
không bị áp dụng hình phạt tù chung thân.
- Thứ sáu: TA chỉ được áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với người
dưới 18 tuổi phạm tội trong trường hợp xét thấy các hình phạt và biện pháp
giáo dục khác không có tác dụng răn đe, giáo dục, phòng ngừa
Khi quyết định áp dụng hình phạt tù có thời hạn TA cho người dưới 18
tuổi phạm tội được hưởng mức hình phạt nhẹ hơn mức án áp dụng đối với người
đủ 18 tuổi trở lên phạm tội tương ứng và với thời hạn thích hợp ngắn nhất có
thể. Luật hình sự cũng quy định, TA không áp dụng hình phạt bổ sung đối với
người dưới 18 tuổi phạm tội.
Ngoài ra, khoản 4 và khoản 5 Điều 91 của BLHS năm 2015 đã được sửa
đổi, bổ sung theo hướng tiếp cận phù hợp hơn trong chính sách xử lý đối với
người dưới 18 tuổi phạm tội. Theo đó, nội dung của Công ước về Quyền trẻ em
cũng khẳng định rằng: “Việc bắt, giam giữ hoặc bỏ tù trẻ em… phải là biện pháp
cuối cùng và trong thời hạn thích hợp ngắn nhất”. Như vậy, việc áp dụng chế tài

đối với người dưới 18 tuổi phạm tội trong Công ước là ưu tiên áp dụng các biện
pháp không giam giữ. Các biện pháp mang tính giam giữ và hình phạt tù chỉ
được áp dụng khi không còn cách nào khác. Tuy nhiên, Điều 91 của BLHS năm
2015 tại khoản 4 quy định như sau:" Khi xét xử, TA chỉ áp dụng hình phạt đối

16


với người dưới 18 tuổi phạm tội nếu xét thấy việc miễn TNHS và áp dụng một
trong các biện pháp quy định tại Mục 2 hoặc việc áp dụng các biện pháp giáo
dục tại trường giáo dưỡng quy định tại Mục 3 của Chương này không bảo đảm
hiệu quả răn đe, giáo dục, phòng ngừa" thì lại thể hiện theo hướng ngược lại,
nghĩa là trước tiên Tòa án phải cân nhắc việc áp dụng hình phạt đối với người
dưới 18 tuổi phạm tội. Chỉ trong trường hợp TA xét thấy không cần thiết quyết
định áp dụng hình phạt thì mới áp dụng biện pháp tư pháp - với tính chất là những
biện pháp thay thế hình phạt, nhân đạo hơn đối với người bị kết án.
- Thứ bảy: Án đã tuyên đối với những trường hợp người phạm tội chưa
đủ 16 tuổi thì không tính để xác định tái phạm hoặc tái phạm nguy hiểm.
Theo quy định này, án đã tuyên đối với người chưa đủ 16 tuổi phạm tội
dù đã thi hành xong hay chưa thì cũng không dùng để tính tái phạm, tái phạm
nguy hiểm. Do đó 03 nhóm đối tượng còn lại (người bị kết án do lỗi vô ý về tội
phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng, người được miễn hình phạt –
theo Điều 69 BLHS; người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi bị kết án về tội phạm
ít nghiêm trọng, tội nghiêm trọng hoặc tội rất nghiêm trọng do vô ý và người
bị áp dụng biện pháp tư pháp quy định tại Mục 3 Chương XII – theo Điều 107)
không được hưởng chính sách này.
Có thể thấy, chính sách hình sự với người dưới 18 tuổi phạm tội trong
BLHS năm 2015 được thể hiện ở phạm vi chịu trách nhiệm hình sự và chính
sách xử lý đối với người dưới 18 tuổi khi thực hiện hành vi phạm tội. Với quan
điểm nhất quán trong việc bảo vệ trẻ em, chính sách hình sự của Nhà nước ta

về việc truy cứu TNHS đối với người dưới 18 tuổi là răn đe, giúp đỡ, cải tạo,
giáo dục để người dưới 18 tuổi nhận ra sai lầm của mình, tạo điều kiện để các
em có khả năng tái hòa nhập cộng đồng trong thời gian sớm nhất. Những cải
tiến về mặt lập pháp này không chỉ là chế tài quan trọng giúp giảm thiểu tình
trạng người dưới 18 tuổi phạm tội mà còn giúp rèn giũa, định hướng các em về

17


mặt nhận thức, qua đó giải quyết, xử lý triệt để vấn đề coi thường pháp luật, coi
thường sự nghiêm minh của Nhà nước và hạ thấp các giá trị đạo đức xã hội
Việt Nam đối với thế hệ trẻ - những người chủ tương lai của đất nước, lực lượng
thành trì xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
1.3. Căn cứ áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
từ khía cạnh pháp luật
Để đảm bảo hình phạt đã tuyên đối với người dưới 18 tuổi phạm tội là
đúng đắn, chính xác và đạt được mục đích của hình phạt Tòa án phải dựa trên
những căn cứ quyết định hình phạt cụ thể được quy định trong Luật hình sự bởi
vì những căn cứ ấy là cơ sở cho việc xác định loại và mức hình phạt.
Căn cứ quyết định hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội là những
yêu cầu cơ bản có tính nguyên tắc do LHS quy định hay do giải thích luật mà
có từ đó buộc Tòa án phải tuân theo khi áp dụng hình phạt đối với người dưới
18 tuổi phạm tội.
Để đảm bảo cho hình phạt đã tuyên đạt được mục đích nhằm cụ thể hóa
những nguyên tắc cơ bản của LHS trong việc áp dụng hình phạt. BLHS quy
định căn cứ quyết định hình phạt tại Điều 54 như sau: “Khi quyết định hình
phạt, TA căn cứ vào các quy định của Bộ luật hình sự, cân nhắc tính chất và
mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân người phạm tội,
các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng TNHS”. Đây là những căn cứ chung mang
tính bắt buộc và là cơ sở cho thẩm phán trực tiếp xét xử vụ án khi áp dụng hình

phạt.
Đối với người dưới 18 tuổi phạm tội, khi áp dụng hình phạt Tòa án cũng
phải tuân thủ những cơ sở lý luận có tính nguyên tắc trên, cụ thể:
- Thứ nhất, căn cứ vào các quy định của BLHS: Khi xét xử Tòa án căn
cứ vào các quy định trong Phần chung và Phần các tội phạm của BLHS để áp
dụng hình phạt đúng đắn. Có thể nói BLHS là căn cứ, là cơ sở cho việc quyết

18


định hình phạt một cách thống nhất. Căn cứ vào các quy định của Bộ luật hình
sự cũng chính là tuân thủ một trong những nguyên tắc quan trọng khi quyết
định hình phạt - nguyên tắc pháp chế XHCN. Nếu như trong Phần chung của
Bộ luật hình sự quy định về nhiệm vụ, cơ sở trách nhiệm hình sự, các nguyên
tắc chung cho việc xác định tội phạm thì trong Phần các tội phạm quy định về
các tội phạm cụ thể, loại và mức hình phạt áp dụng đối với từng tội phạm tương
ứng. TAND chỉ quyết định áp dụng hình phạt khi có đủ căn cứ xác định được
người dưới 18 tuổi đã thực hiện một hành vi được quy định là một tội phạm cụ
thể trong BLHS. Như vậy, Tòa án phải định tội trước đối với họ sau đó mới
quyết định hình phạt. Tòa án chỉ phản ánh trong bản án, quyết định hình phạt
những quy định trong Phần chung của BLHS có liên quan đến việc xác định
tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của tội phạm, các tình tiết giảm nhẹ và
tăng nặng trách nhiệm hình sự, đối chiếu hành vi phạm tội đã thực hiện với
những dấu hiệu được mô tả trong cấu thành tội phạm cụ thể từ đó mới có thể
chọn lựa loại tội phạm và mức hình phạt cụ thể trong Phần các tội phạm áp
dụng đối với bị cáo là người dưới 18 tuổi phạm tội.
- Thứ hai, căn cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành
vi phạm tội: Khoản 2 Điều 8 BLHS quy định: “Những hành vi tuy có dấu hiệu
của tội phạm, nhưng tính chất, mức độ nguy hiểm không đáng kể thì không
phải là tội phạm”. Tính nguy hiểm cho xã hội của tội phạm phụ thuộc vào nhiều

yếu tố khác nhau như: tính chất, tầm quan trọng và giá trị của các quan hệ xã
hội mà tội phạm đó xâm hại tới – đây chính là khách thể của tội phạm. Bên
cạnh khách thể của tội phạm bị xâm hại thì tính chất nguy hiểm cho xã hội của
hành vi phạm tội còn phụ thuộc vào các dấu hiệu khác của tội phạm như mức
độ thiệt hại về vật chất, tinh thần mà tội phạm gây ra; tính chất và mức độ lỗi;
động cơ phạm tội, mục đích phạm tội; phương thức, thủ đoạn phạm tội… Như
vậy, tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội là thuộc

19


×