Tải bản đầy đủ (.docx) (35 trang)

Dàn ý chi tiết 11 tác phẩm ngữ văn 12 tiêu biểu thi THPTQG 2019

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (184.28 KB, 35 trang )

1

AI ĐÃ ĐẶT TÊN CHO DÒNG SÔNG
(Hoàng Ph ủNg ọc T ườ
n g)

I. KIẾN THỨC CƠ BẢN
1. Tác giả Hoàng Phủ Ngọc Tường
- Sinh năm 1937 tại t.p Huế
- Là một người con của xứ Huế.
- Là một trong những nhà văn chuyên về bút ký.
- Văn phong: “Nét đặc sắc … tài hoa” (tr197)
- Tác phẩm tiêu biểu: (Sgk)
2. Tác phẩm:
- Xuất xứ, hoàn cảnh sáng tác: Là bài bút kí đặc sắc, viết tại Huế (1981), in trong tập sách cùng tên
- Kết cấu: Tác phẩm gồm ba phần
+ Phần 1: Sông Hương ở thượng nguồn
+ Phần 2: Sông Hương ở ngoại vi thành phố Huế
+ Phần 3: Sông Hương giữa lòng thành phố Huế.
- Vị trí văn bản: chỉ là một đoạn trích trong bài bút kí dài về dòng sông Hương thơ mộng của xứ Huế.
II. Phân tích:
1: Ý nghĩa nhan đề “ Ai đã đặt tên cho dòng sông”
- “Ai đã đặt tên cho dòng sông” Câu hỏi tu từ đặt ra “Với trời, với đất” đưa nhà văn và độc giả về với
hành trình lịch sử tìm về cuội nguồn văn hoá dân tộc. Từ đó dòng sông Hương hiện ra trên nhiều
phương diện địa lí, lịch sử, văn hoá, thơ ca… Kết thúc tuỳ bút là một huyền thoại rất đẹp, bộc lộ cái tôi
trữ tình suy tư: “ Con người ở hai bờ đã nấu nước trăm loài hoa đổ xuống sông, đẻ làn nước thơm tho
mãi”. Tác giả gửi gắm vào đấy tất cả ước vọng muốn đem cái đẹp và tiếng thơm để xây đắp văn hoá
lịch sử.
- Nhan đề và kết thúc tác phẩm thể hiện rõ chủ đề và phong cách bút kí của tác giả giàu sức gợi cảm
thấm đẫm chất thơ.Qua đó tác giả ca ngợi tính chất sông Hương – con sông gắn bó với lịch sử, văn
hoá Huế của dân tộc ta. Tác phẩm thể hiện long yêu mến say mê cảnh vật, văn hoá đất nước. Hình


ảnh dòng sông đất nước được thể hiện bằng tài năng của một cây bút giàu chất chí tuệ, chất văn hoá
và ngôn ngữ trong sáng, chọn lọc, tinh tế.
2. Chứng minh vẻ đẹp của sông Hương qua các góc nhìn khác nhau :
Mở bài: - Ai đã đặt tên cho dòng sông là tác phẩm bút kí kiệt xuất của Hoàng Phủ Ngọc Tường
-Đoạn trích thể hiện vẻ đẹp, chất thơ từ cảnh sác thiên nhiên của song Hương
Thân bài:
* Từ thượng nguồn:
- Khi qua dãy Trường Sơn hùng vĩ:
+ Sông Hương là bản tình ca của rừng già; Rầm rộ và mãnh liệt…Dịu dàng và say đắm….
+ Sông Hương như một cô gái Di-gan phóng khoáng man dại.
+ Rừng già đã hun đúc cho nó 1 bản tính gan dạ, 1 tâm hồn tự do, phóng khoáng.
=> Vẻ đẹp của một sức sống trẻ trung, mãnh liệt và hoang dại.
- Khi ra khỏi rừng già:
+ Đóng kín phần tâm hồn sâu thẳm của mình ở cửa rừng…
+ Mang sắc đẹp dịu dàng và trí tuệ, trở thành người mẹ phù sa của một vùng văn hoá xứ sở.
=> Vẻ đẹp đầy bí ẩn, sâu thẳm của dòng sông.
Tiểu kết:
Bằng óc quan sát tinh tế và trí tưởng tượng phong phú, bằng việc sử dụng nghệ thuật so sánh, nhân
hoá tài hoa, táo bạo, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã phát hiện và khắc hoạ vẻ đẹp mạnh mẽ, trẻ trung
đầy cá tính của dòng sông, gợi lên ở người đọc những liên tưởng kì thú, gợi cảm, đầy sức hấp dẫn.
* Về châu thổ:
- Sông Hương trên đường tìm đến Huế:
+ Chuyển dòng một cách liên tục, uốn mình theo những đường cong thật mềm, như một cuộc tìm
kiếm có ý thức.
+ Vẻ đẹp của dòng sông trở nên biến ảo, đa dạng trong nhiều thời gian và không gian khác nhau (dẫn
chứng...). Vẻ đẹp của Huế như trở thành vẻ đẹp của sông Hương.


=> Sông Hương qua cái nhìn đầy lãng mạn của Hoàng Phủ Ngọc Tường như 1 cô gái dịu dàng mơ
mộng đang khao khát đi tìm thành phố tình yêu của nó.

- Sông Hương gặp gỡ Huế:
+ Uốn 1 cánh cung rất nhẹ... > Vẻ e lệ, ngượng ngùng khi gặp người trong mong đợi, sự thuận tình
mà không nói ra.
+ Các nhánh sông toả đi khắp thành phố như muốn ôm trọn Huế vào lòng. Sông Hương và Huế hoà
lẫn vào nhau.
+ Sông Hương giảm hẳn lưu tốc, xuôi đi thực chậm (điệu slow)… thực yên tĩnh như niềm say mê, như
khát vọng được gắn bó, lưu lại mãi với mảnh đất nơi đây.
+ Liên tưởng với những dòng sông khác > Niềm tự hào của Hoàng Phủ Ngọc Tường về dòng sông quê
hương.
=> Được nhìn từ góc độ tâm trạng, nên cuộc gặp gỡ của Huế và Sông Hương như cuộc hội ngộ của
tình yêu với nhiều cung bậc cảm xúc.
- Sông Hương tạm biệt Huế để ra đi:
+ Rời khỏi kinh thành, sông Hương ôm lấy đảo Cồn Huế, lưu luyến ra đi…
+ Đột ngột rẽ ngoặt lại để gặp thành phố yêu dấu một lần cuối.
=> Quyến luyến, ngập ngừng, bịn rịn không nỡ rời xa.
Tiểu kết:
- Cách tiếp cận đối tượng bằng nhiều ngành nghệ thuật như hội họa, âm nhạc; nghệ thuật nhân hóa,
so sánh đầy mới lạ, bất ngờ làm cho sông Hương, xứ Huế trở nên có linh hồn, có sự sống. Đó là cuộc
trở về, gặp gỡ của cô gái si tình - sông Hương - đang say đắm trong tình yêu.
- Nhà văn: Tâm hồn đa cảm, lãng mạn; cách viết tài hoa.
Vẻ đẹp văn hoá của dòng sông:
- Dòng sông âm nhạc:
+ Là người tài nữ đánh đàn lúc đêm khuya.
+ Là nơi sinh thành ra toàn bộ nền âm nhạc có điểm của Huế.
+ Là cảm hứng để Nguyễn Du viết lên khúc đàn của nàng Kiều.
- Dòng sông thi ca:
+ Là vẻ đẹp mơ màng Dòng sông trắng lá cây xanh trong thơ Tản Đà.
+ Vẻ đẹp hùng tráng như kiếm dựng trời xanh của Cao Bá Quát.
+ Là nỗi quan hoài vạn cổ trong thơ bà Huyện Thanh Quan.
+ Là sức mạnh phục sinh tâm hồn trong thơ Tố Hữu

=> Sông Hương luôn đem đến nguồn cảm hứng mới mẻ, bất tận cho các nghệ sĩ.
- Dòng sông gắn với những phong tục, với vẻ đẹp tâm hồn của người dân xứ Huế.
+ Màn sương khói trên sông Hương là màu áo điền lục, 1 sắc áo cưới của các cô dâu trẻ trong tiết
sương giáng.
+ Vẻ trầm mặc sâu lắng của sông Hương cũng như 1 nét riêng trong vẻ đẹp tâm hồn của người xứ
Huế: rất dịu dàng và rất trầm tư…
Tiểu kết:
Với kiến thức uyên bác, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã lí giải vẻ đẹp văn hóa phong phú của sông Hương,
vẻ đẹp gắn liền với xứ Huế, với con người Huế.
* Sông Hương với lịch sử hào hùng:
- Là 1 dòng sông anh hùng:
•Từ xa xưa: là một dòng sông biên thùy xa xôi của đất nước
•Thời trung đại:bảo vệ biên giới phiá nam của tổ quốc
•Thời chống Pháp: sống hết lịch sử bi tráng với các cuộc khởi nghĩa
•Đi vào thời đại cách mạng tháng 8 với những chiến công rung chuyển.
•Thời chống Mĩ:
- Sông Hương cùng với thành phố Huế cũng chịu nhiều đau thương mất mát.
Tiểu kết:
- Vừa là bản tình ca dịu dàng, Sông Hương cũng là một bản hùng ca gắn liền với lịch sử oanh liệt của
dân tộc.
Kết bài:


- Bài kí lột tả được vẻ đẹp đa dạng, phong phú của sông Hương, cũng là của xứ Huế, con người Huế.
-Tình yêu thiết tha, say đắm của tác giả đối với cảnh và người nơi đây.
- Phong cách viết kí của Hoàng Phủ Ngọc Tường: Phóng túng, tài hoa, giàu thông tin văn hoá, địa lí,
lịch sử ; giàu chất trữ tình lãng mạn.
3. Chất trí tuệ và chất thơ của Hoàng Phủ Ngọc Tường.
* Chất trí tuệ:
Hoàng Phủ Ngọc Tường vận dụng những am hiểu trong ca dao Huế vào bút kí của mình.

“ Bốn bề núi phủ mây phong
Mảnh trăng thiên cổ bóng tùng vạn niên”
cho đến câu thơ của Tản Đà “ Dòng sông trắng- lá cây xanh”, thơ của Tố Hữu, Cao Bá Quát, Bà Huyện
Thanh Quan, Truyện Kiều.
Những hiểu biết về phương diện địa lí để miêu tả vẻ đẹp của sông Hương từ thượng nguồn, đến đồng
bằng, cho đến cố đô Huế.
Những hiểu biết về lịch sử văn hoá.
Sự liên tưởng so sánh với các công trình kiến trúc của Hi Lạp, La Mã, nền văn minh Châu Âu.
Những tác phẩm văn học Châu Âu, những lời nhận xét của các nhà khoa học nước ngoài.
* Chất thơ:
- Cách ví von, so sánh đầy chất thơ, mượt mà, ý vị.
“ Chiếc cầu trắng của thành phố in ngần trên nền trời, nhỏ nhắn như những vành trăng non”. Và “
giáp mặt thành phố ở Cồn Giã Viên, sông Hương uốn một cách cung rất nhẹ sang đến Cồn Hiến,
đường cong ấy làm cho dòng sông mền hẳn đi như một tiếng vâng không nói ra của tình yêu. Hay “
Sông Hương là vậy, là dòng sông của sử thi viết giữa màu cỏ lá xanh biếc”.
Những câu văn có sự mài dũa, đẽo gọt kĩ càng, nhẹ nhàng như một câu thơ


2

NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ
(NGUYỄN TUÂN)

1.Hoàn cảnh sáng tác
+ Người lái đò sông Đà là một áng văn trong tập tùy bút Sông Đà (1960) – thành qu ả nghệ thuật đẹp đẽ của
Nguyễn Tuân trong chuyến đi gian khổ và hào hùng tới miền Tây Bắc rộng l ớn của T ổ quốc. Sông Đà g ồm 15 thiên
tùy bút và một bài thơ ở dạng phác thảo.
+ Mục đích chính của chuyến đi tới Tây Bắc của nhà văn đồng thời cũng là cảm hứng chủ đạo của cả tập bút ký là
tìm kiếm chất vàng của thiên nhiên Tây Bắc và nhất là chất vàng mười – “thứ vàng đã được th ử l ửa” ở tâm h ồn
những con người lao động, chiến đấu trên miền núi sông hùng vĩ và thơ mộng.

2. Vẻ đẹp hung bạo và trữ tình của hình tượng con sông Đà
* Vẻ hung bạo, dữ dằn :
- Cảnh đá bờ sông “dựng vách thành”, có quãng lòng sông bị thắt hẹp lại nh ư cái yết hầu.
- Những quãng dài hàng cây số nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió cuồn cuộn luồng gió gùn ghè su ốt n ăm…
- Những “hút nước” chết người luôn sẵn sàng nhấn chìm và đập tan chiếc thuyền nào l ọt vào.
- Tiếng nước thác sông Đà với nhiều cung bậc dữ dội khác nhau
- Quãng sông Đà với bao đá nổi, đá chìm, phối hợp cùng sóng thác như dàn thạch trận, l ập nhi ều phòng tuy ến…
sẵn sàng “ăn chết” con thuyền và người lái đò.
* Vẻ trữ tình, thơ mộng :
- Từ trên cao nhìn xuống, dòng chảy uốn lượn của con sông như mái tóc của người thiếu n ữ di ễm kiều.
- Nhìn ngắm con sông từ nhiều thời gian, không gian khác nhau, Nguy ễn Tuân đó phát hi ện nh ững s ắc màu t ươi
đẹp và đa dạng của màu nước sông Đà. Nó biến đổi theo mùa, mỗi mùa có một vẻ đẹp riêng.
- “Nhìn sông Đà như một cố nhân”, nhà văn cảm nhận rõ nét cái chất “đằm đằm ấm ấm” thân quen của con sông và
nhất là cái chất thơ như ngấm vào trong từng cảnh sắc thiên nhiên sông Đà.
- Từ điểm nhìn của một khách hải hồ trên dòng sông, nhà văn đó quan sát và khắc h ọa những vẻ đẹp h ết s ức đa
dạng và nên thơ của cảnh vật ven sông.
3.Hình tượng người lái đò
- Là người tinh thạo trong nghề nghiệp
+ Ông lão nắm vững qui luật khắc nghiệt của dòng thác sông Đà “Nắm chắc quy lu ật của thần sông th ần đá”.
+ Ông thuộc lòng những đặc điểm địa hình của Sông Đà “ nhớ tỉ mỉ như đóng đanh vào tất cả các lu ồng nước của
tất cả những con thác hiểm trở”, Sông Đà “như một thiên anh hùng ca mà ông đò thuộc đến cả những cái ch ấm
than, chấm câu và những đoạn xuống dòng”.
- Là người trí dũng tuyệt vời:Ông sẵn sàng đối mặt với thác dữ, chinh phục “cửa tử”, “cửa sinh”, v ượt qua tr ận thuỷ
chiến với đá chìm, đá nổi, với những trùng vi thạch trận và phòng tuyến đầy nguy hiểm. Ông lái đò vượt qua b ằng
những hành động táo bạo và chuẩn xác. Ông hiện lên như một vị chủ huy dày dạn kinh nghiệm:
+ Ở trùng vây thứ nhất:thần sông dàn ra năm cửa đá thì có đến bốn cửa tử, cửa sinh duy nhất nằm sát b ờ trái và
huy độg hết sức mạnh của sóng thác đánh vỗ mặt con thuyền. Luồng song hung t ợn “liều mạng vào sát nách mà đá
trái, mà thúc gối vào bụng và hông thuyền”. Thậm chí còn đánh đòn tỉa, đánh đòn âm… nh ưng ng ười lái đò bình
tĩnh giữ chắc mái chèo giúp con thuyền “khỏi bị hất khỏi bờm song trận địa phóng th ẳng vào mình”. Ngay c ả lúc b ị
trúng đòn hiểm, mặt méo bệch đi nhưng ông vẫn tỉnh táo chỉ huy con thuyền lướt đúng vào luồng sinh.

+ Ở trùng vây thứ 2, dòng sông đã thay đổi sơ đồ phục kích và cả chiến thuật. Vòng vây th ứ 2 này t ăng thêm nhi ều
cửa tử để đánh lừa con thuyền vào. Cửa sinh lại bố trí lệch qua phía bờ hữu ng ạn. Nhưng ông đò đã “n ắm ch ắc
quy luật của thần sông thần đá” nên lập tức cũng thay đổi chiến thuật theo, nhận ra cạm b ẫy của b ọn thuỷ quân n ơi
cửa ải nước này. Ông không né tránh mà đưa con thuyền cưỡi lên sóng thác”“cưỡi lên thác Sông Đà, ph ải c ưỡi
đến cùng như là cưỡi hổ”. “Nắm chắc được cái bờm sóng đúng luồng rồi, ông đò ghì cương lái, bám chắc l ấy luồng
nước đúng mà phóng nhanh vào cửa sinh, mà lái miết một đường chéo vào c ửa đá ấy”. Ng ười lái đò t ả xung, h ữu
đột như một chiến tướng dày dạn kinh nghiệm trận mạc có thừa lòng quả cảm đã đưa được con thuyền vượt qua
tập đoàn cửa tử khiến cho những bộ mặt đá hung hăng dữ tợn phải xanh lè, thất vọng.
+ Ở trùng vây thứ 3, thạch trận ít cửa tử hơn những bên phải bên trái đều là luồng chết cả, c ửa sinh l ại nằm gi ữa
lòng sông và bọn đá hậu vệ canh giữ. Nhưng ông đò không hề bất ngờ trước mưu mô hi ểm độc của b ọn chúng,
tiếp tục chỉ huy con thuyền vượt qua trùng vây thứ 3.
- Là người tài hoa nghệ sĩ:
+ Ông đối đầu với ghềnh thác cuồng bạo bằng sự tự tin, ung dung nghệ sĩ. Tay lái linh ho ạt, khéo léo, tài hoa nh ư
một nghệ sĩ trên sông nước : “ông đò vẫn nhớ mặt bọn này, đứa thì ông tránh mà rảo b ơi chèo lên, đứa thì ông đè
sấn lên mà chặt đôi ra để mở đường tiến”, “Vút, vút…thuyền như một mũi tên tre xuyên nhanh qua h ơi n ước”. Dưới
bàn tay chèo lái điêu luyện của ông con thuyền đã hoá thành con tuấn mã hiểu ý chủ- khi thì khéo léo né tránh


luồng sóng dữ, khi thì phóng thẳng vào cửa đá có 3 tầng cổng “cánh mở, cánh khép”. Con thuyền nh ư bay trong
không gian, ông đò luôn nhìn thử thách bằng cái nhìn giản dị mà lãng mạn.
+ Sau cuộc vượt thác gian nan, ông đò lại có phong thái ung dung của m ột ngh ệ sĩ “ Đêm ấy nhà đò đốt l ửa trong
hang đá, nước ống cơm lam và toàn bàn tán về cá anh vũ, cá dầm xanh…”.
è Đây là hình ảnh về một người lao động mới mang vẻ đẹp khác thường. Người lái đò hiện lên như là vị chỉ huy
dày dạn kinh nghiệm, tài trí và luôn có phong thái ung dung pha chút ngh ệ sĩ. Ông ch ỉ huy cu ộc v ượt thác m ột cách
tài tình, khôn ngoan và biết nhìn thử thách đó qua bằng cái nhìn giản dị mà không thi ếu vẻ lãng m ạn. Hình ảnh ông
lái đò cho thấy Nguyễn Tuân đó tìm đượ c nhân vật mới cho mình, những con ngườ i đáng trân trọng, đáng ng ợi ca,
không thuộc tầng lớp thượng lưu đài các một thời vang bóng mà ngay trong quần chúng lao động bình th ường
xung quanh ta. Qua hình tượng người lái đò sông Đà, nhà văn muốn phát biểu quan ni ệm : ng ười anh hùng không
phải chỉ có trong chiến đấu mà còn có trong cuộc sống lao động thường ngày.
- Đoạn văn tả trận thủy chiến, tập trung khắc họa hình tượ ng ông lái đò một lần nữa cho th ấy s ự uyên bác, lịch lãm

của Nguyễn Tuân. ở đây có tri thức, có ngôn ngữ sống độ ng của quân sự, thể thao, võ thuật, điện ảnh…
4. Nghệ thuật
- Những ví von, so sánh, liên tưởng, tưởng tượng độc đáo, bất ngờ và rất thú vị của tác giả.
- Ngôn ngữ đa dạng, sống động, giàu hình ảnh và có sức gợi cảm cao.
- Câu văn có nhịp điệu, lúc thì hối hả, mau lẹ, khi thì chậm rãi, như tãi ra để diễn t ả vẻ đẹp tr ữ tình r ất nên th ơ c ủa
con sông.
5. Chủ đề:
Qua hình tượ ng sông Đà và ngườ i lái đò, Nguyễn Tuân muốn thể hiện niềm yêu m ến thi ết tha v ới thiên nhiên đất
nước và ngợi ca những con người lao động - chất vàng mười của cuộc sống


3

H ỒN TR ƯƠNG BA, DA HÀNG THỊT
(Lưu Quang Vũ)

I. KI ẾN TH ỨC CHUNG
1. Cuộc đời và sự nghiệp của Lưu Quang Vũ
L ưu Quang V ũ (1948-1988), quê g ốc ở Đà N ẵng. Ông là m ột cây bút tài hoa đã để l ại d ấu ấn trong nhi ều th ể lo ại :
th ơ, văn xuôi, đặc bi ệt là kịch. Thiên h ướng và n ăng khi ếu ngh ệ thu ật c ủa LQV s ớm b ộc l ộ t ừ nh ỏ và vùng quê B ắc
B ộ đã in d ấu nhi ều trong sáng tác c ủa ông sau này. Ở th ể lo ại nào ng ười đọc cũng bắt gặp m ột LQV v ới tâm h ồn
nổi gió, sức sống mãnh liệt và khả năng sáng tạo miệt mài. Năm 2000, L ưu Quang V ũ được truy t ặng gi ải th ưởng
H ồ Chí Minh v ề ngh ệ thu ật sân kh ấu. Các tác ph ẩm chính : Th ơ : H ương cây, Mây tr ắng, B ầy ong trong đêm sâu
Kịch : Sống mãi tuổi 17, Mùa hạ cuối cùng, Hồn Trương Ba da hàng thịt, Tôi và chúng ta, Nàng Si-ta,…
2. Tóm t ắt tác phâm
̉
Tr ương Ba là môṭ ng ười là v ườn và gioỉ đánh c ờ đã bị Nam Tào b ắt chêt́ nhâm.
̀ Vì muôns
́ ửa sai, nên Nam Tào và
Đế Thích cho Hôn

̀ Tr ương Ba sông
́ laị và nhâp
̣ vào xác hàng thiṭ m ới chêt.
́ Trú nh ờ trong xác anh hàng thit,
̣ Tr ương
Ba g ặp rât́ nhiêu
̀ phiên
̀ toái : lý t ưởng sách nhiêu,
̃ chị hàng thiṭ đòi chông,
̀
gia đình Tr ương Ba cung
̃ cam
̉ thâý xa la,̣
… mà ban
̉ thân Tr ương Ba thì đau khổ vì phaỉ sông
́ trái t ự nhiên và gia ̉ tao.
̣ Đặc biêṭ thân xác hàng thiṭ làm Tr ương
Ba nhiêm
̃ môṭ số thói xâu
́ và nh ững nhu câu
̀ vôn
́ không phaỉ chính ban
̉ thân ông. Tr ước nguy c ơ tha hóa vê ̀ nhân
cách và s ự phiên
̀ toái do m ượn thân xác cua
̉ kẻ khác, Tr ương Ba quyêt́ đinh
̣ trả laị xác cho hàng thiṭ và châp
́ nhân
̣
cái chêt.

́
3. Nhan đề
Nhan đề Hôn
̀ Tr ương ba, da hàng thiṭ g ợi cam
̉ giác về đô ̣ vênh lêch
̣ cua
̉ hai yêu
́ tô ́ quan trong
̣ trong môṭ con ng ười.
Hôn
̀ là phân
̀ tr ừu t ượng, da thiṭ thân xác là cái cụ thê,̉ là cái bình có thê ̉ ch ứa linh hôn,
̀ hôn
̀ nào xác ây.
́ Nh ưng ở
đây hôn
̀ ng ười ng ười này laị ở trong xác ng ười kia. Hôn
̀ và xác laị không t ương h ợp ; tính cách, hành đông,
̣
lôí
sông
́ cua
̉ Tr ương Ba và anh hàng thiṭ trái ng ược nhau. Tên goị cua
̉ v ở kich
̣ đã thâu tóm đượ c nh ững mâu thuân,
̃
xung đôṭ bên trong cua
̉ môṭ con ng ười.
4. Xuất xứ của vở kịch Hồn Trương Ba da hàng thịt
– L ưu Quang Vũ vi ết v ở kịch H ồn Tr ương Ba da hàng thịt n ăm 1981, đến n ăm 1984 thì ra m ắt công chúng. V ở k ịch

dựa vào câu chuyện dân gian, nhưng đã có những thay đổi c ơ bản.
– Điểm khác biệt :
+ Trong truyện dân gian, nhân vật Trương Ba tiếp tục sống bình thường, h ạnh phúc khi được nh ập h ồn vào thân
xác anh hàng thịt. Ngắn g ọn và đơn gi ản, truy ện dân gian mang m ột t ư t ưởng tri ết h ọc có ph ần c ơ b ản đúng,
nhưng chỉ đề cao linh hồn, tuyệt đối hóa linh hồn, không để ý đến mối quan h ệ gi ữa th ể xác và linh h ồn.
+ Vở kịch của L ưu Quang V ũ t ại tập trung di ễn t ả tình c ảnh tr ớ trêu, n ỗi đau kh ổ, giày vò c ủa Tr ương Ba t ừ khi “bên
trong một đằng, bên ngoài m ột n ẻo”. T ừ đó đưa đến nh ững t ư t ưởng m ới : s ự t ồn t ại độc l ập c ủa thân xác đối v ới
linh h ồn và kh ẳng đị nh m ột quan ni ệm đúng đắn v ề cách s ống.
.5 Thông điệp
– Được sống làm người thật là quý giá ; nhưng được sống đúng là mình, sống trọn vẹn với những giá trị mình
muốn có và theo đuổi còn quý giá hơn.
– Cuộc sống chỉ thực sự có ý nghĩa khi người ta được sống tự nhiên v ới sự hài hoà gi ữa tâm h ồn và th ể xác.
II. KI ẾN TH ỨC C Ơ B ẢN
1. Phân tích nhân vật Trương Ba
a. M ở bài – L ưu Quang Vũ là môṭ trong nh ững cây bút tài hoa đê ̉ laị nh ững dâu
́ ân
́ trong nhiêu
̀ thê ̉ loaị : th ơ, v ăn
xuôi và đặc biêṭ là kich.
̣
Ông là môṭ trong nh ững nhà soan
̣ kich
̣ tài n ăng nhât́ cua
̉ nên
̀ v ăn hoc̣ nghê ̣ thuâṭ Viêṭ Nam
hiên
̣ đai.̣
– Hôn
̀ Tr ương Ba, da hàng thiṭ là môṭ trong nh ững tác phâm
̉ xuât́ s ắc nhât,

́ đánh dâu
́ s ự v ượt trôị trong sáng tác
cua
̉ L ưu Quang Vu.̃
– Nhân vật Trương Ba – một nhân vật bi kịch
b. Thân bài
* Giới thiêu
̣ chung
– Hoàn canh
̉ ra đời, xuât́ x ứ
– Đây là một vở kịch mà Lưu Quang Vũ đã dựa vào cốt truyện dân gian, tuy nhiên chiều sâu c ủa v ở k ịch chính là
phần phát triển sau của tuyện dân gian.
* Phân tích
– Hoàn canh
̉ éo le, bi đát cua
̉ ông Tr ương Ba
+ Tr ương Ba là ng ười làm v ườn yêu cây co,̉ yêu th ương moị ng ười, sông
́ nhân hâu,
̣ chân th ực, ch ưa t ới sô ́ chêt,
́
nh ưng vì s ự t ắc trách cua
̉ quan nhà tr ời mà Tr ương Ba phaỉ chêt.
́


+ Hôn
̀ Tr ương Ba phaỉ trú nh ơ vào xác anh hàng thit,
̣ môṭ ng ười thô lô,…
̃
Tính cách Tr ương Ba ngày càng thay đôi.̉

à Bi kịch của sự oan trái
– Cuộc đối thoại giữa hồn và xác
+ Hồn là biểu tượng cho sự thanh nhã, cao khiết, trong sạch, đạo đức nh ưng t ất c ả hoàn toàn trái ng ược qua ph ần
đối tho ại v ới xác. H ồn Tr ương Ba để l ại trong m ắt xác hàng thịt là m ột k ẻ phàm ăn, tuc̣ uông
́ ; mê r ượu và háo s ắc ;
cư xử thô bao
̣ với moị người,…
+ Những biểu hiện ngay trong đối thoại khi Hồn Trương Ba không còn là chính mình : c ư chỉ, đi ệu b ộ lúng túng, kh ổ
s ở ; giọng đi ệu có khi y ếu ớt, l ời tho ại ng ắn ; khi đu ối lý l ại dùng l ời l ẽ thô b ạo để tr ấn áp “Ta… Ta… đã b ảo mày im
đi” à Bi kịch của s ự t ồn tại riêng r ẽ : con ng ười không th ể chỉ s ống b ằng thân xác mà c ũng không th ể s ống b ằng tinh
thần.
– Nỗi đau khổ của H ồn Tr ương Ba khi tìm v ề nh ững ng ười thân trong gia đình
+ Ng ười v ợ v ừa h ờn ghen v ừa d ằn d ỗi ch ồng, có c ảm giác ông là ng ười s ống xa l ạ v ới m ọi ng ười. + Đứa con trai
cả quyết định bán khu vườn để đầu tư vào sạp thịt.
+ Cái Gái, đứa cháu nội mà ông yêu quý nhất, không thừa nhận ông là ông nội, th ậm chí nó còn c ự tuy ệt đến quy ết
li ệt “N ếu ông n ội tôi hi ện v ề đượ c, h ồn ông n ội tôi s ẽ bóp c ổ ông”. Trong m ắt nó, H ồn Tr ương Ba ch ỉ là m ột tên đồ
tể, tay chân vụng về, luôn phá hoại.
+ Con dâu t ỏ ra thông c ảm, hi ểu và đau cho n ỗi đau s ống nh ờ và s ự thay đổi c ủa H ồn Tr ương Ba. à Bi k ịch b ị
người thân xa rời, khước từ cuộc sống.
– Khát vọng giải thoát khỏi thân xác người khác. + Trương Ba tự ý thức bi kịch c ủa mình : “Không th ể bên trong
một đằng, bên ngoài m ột n ẻo đượ c. Tôi mu ốn đượ c là tôi toàn v ẹn”. à Bi k ịch s ống nh ờ vào thân xác ng ười khác –
Trương Ba trước cái chết của cu Tị
+ Tr ước đề nghị đổi thân xác c ủa Đế Thích, tính cách TB t ừ ch ỗ l ưỡng l ự, suy ngh ĩ r ồi quy ết định d ứt khoát.
+ Trương Ba muốn chết thật là để cho mình được sống mãi hoài nh ớ của mọi ng ười. à Gi ải thoát bi kịch c ủa m ột
sự giả tạo trong con người Hồn Trương Ba.
* Đánh giá
– Hồn Trương Ba là một nhân vật quá chú trọng đời sống tinh thần mà coi nhẹ thân xác.
– Bi kịch của nhân v ật H ồn Tr ương Ba là bi kịch v ề n ỗi đau c ủa s ự vênh l ệch gi ữa th ể xác và tâm h ồn trong m ột con
người.
– Nghệ thuật xây d ựng tính cách nhân v ật, ngh ệ thu ật t ạo tình hu ống và di ễn ti ến k ịch kích độc đáo.

c. Kết luận
– Đánh giá chung về nhân vật.
– Kh ẳng đị nh tài n ăng vi ết kịch c ủa L ưu Quang V ũ và s ức s ống c ủa tác ph ẩm.
2. THÔNG ĐI ỆP “KHÔNG TH Ể S ỐNG BÊN TRONG M ỘT ĐĂNG, BÊN NGOÀI M ỘT N ẺO
a. Mở bài
– Giới thiệu tác giả (con người và phong cách)
– Giới thiệu tác phẩm (giá trị của tác phẩm)
– Tác phâm
̉ có rât́ nhiêu
̀ l ời thoaị mang tính triêt́ lý, trong đó l ời nói cua
̉ Tr ương Ba “Không thể bên trong môṭ đằng,
bên ngoài môṭ neo
̉ đượ c. Tôi muôn
́ đượ c là tôi tron
̣ ven”
̣ đã g ợi lên tình huông
́ éo le c ủa nhân v ật.
b. Thân bài
* Giới thiêu
̣ chung
– Hôn
̀ Tr ương Ba, da hàng thiṭ là môṭ trong nh ững truyên
̣ hay trong kho tàng truyên
̣ cổ tích Viêṭ Nam. L ưu Quang
Vũ đã d ựa vào côt́ truyên
̣ này để viêt́ thành v ở kich
̣ nói cùng tên vào n ăm 1981 và đượ c trình diên
̃ lân
̀ đâu
̀ tiên vào

năm 1984.
– V ở kich
̣ đặ t ra vân
́ đê,̀ đó là bi kich
̣ sông
́ nh ờ cua
̉ Hôn
̀ Tr ương Ba trong xác anh hàng thit.
̣
– L ời thoaị trên là l ời cua
̉ Hôn
̀ Tr ương Ba nói v ới Đê ́ Thích, có ý nghia
̃ triêt́ lý về s ự thông
́ nhât,
́ hài hòa gi ữa hôn
̀ và
xác trong môṭ con ng ười. b. Phân tích tình huông
́ éo le cua
̉ nhân vâṭ Hôn
̀ Tr ương Ba trong xác anh hàng thiṭ
+ Tình huông
́ éo le, bi đát – Nguyên nhân dân
̃ đên
́ tình huông
́ éo le : viêc̣ gach
̣ tên chêt́ ng ười vô trách nhiêm
̣ cua
̉
quan nhà tr ời và “thiên
̣ ý s ửa sai” cua

̉ Đê ́ Thích. – Nôĩ khổ cua
̉ Hôn
̀ Tr ương Ba khi phaỉ sông
́ nh ờ vào xác anh hàng
thiṭ : v ợ con nghi ng ờ, xa lánh ; do s ự xui khiên
́ cua
̉ thân xác hàng thit,
̣ Hôn
̀ Tr ương Ba có nh ững hành vi, c ử chi ̉ thô
lô,̃ vung
̣ vê.̀
– Hôn
̀ Tr ương Ba c ương quyêt́ không sông
́ trong xác anh hàng thit.
̣ Khát vong
̣ giaỉ thoát khoỉ thân xác ng ười khác
khiên
́ Hôn
̀ Tr ương Ba goị Đê ́ Thích lên để nói rõ bi kich
̣ sông
́ nh ờ, sông
́ không đúng mình.
+ Ý nghia
̃ cua
̉ l ời thoaị
– L ời thoaị này thể hiên
̣ rõ quan niêm
̣ về hanh
̣ phúc cua
̉ nhà viêt́ kich.

̣
Hôn
̀ Tr ương Ba đã có môṭ thân xác đê ̉ tôn
̀
tai,̣ để tiêp
́ tuc̣ sông,
́
ng ỡ đó là hanh
̣ phúc. Nh ưng hóa ra hanh
̣ phúc ở đời không phaỉ là đượ c sông
́ mà sông
́ nh ư


thế nào.
– B ức thông điêp
̣ mà L ưu Quang Vũ muôn
́ nh ắn g ửi qua bi kich
̣ cua
̉ Tr ương Ba: con ng ười phaỉ đượ c sông
́ nh ư
chính mình, sông
́ hòa h ợp gi ữa hôn
̀ và xác – tâm hôn
̀ trong sach
̣ nh ư thân xác đượ c khoe
̉ manh.
̣
“Tôi muôn
́ là tôi

toàn ven”,
̣ đây
́ m ới là hanh
̣ phúc.
* Đánh giá
– Tình huống éo le c ủa v ở kịch là nét đặc s ắc t ạo nên s ự khác bi ệt gi ữa truy ện dân gian và v ở k ịch.
– Thông qua lời thoại của nhân vật, Lưu Quang Vũ đã thể hiện quan ni ệm s ống giàu giá tr ị nhân v ăn.
– Nhà văn đã dựng lên được những kịch tính thông qua cử chỉ, hành động, đặc biệt là lời tho ại của nhân vật sinh
động có tầm khái quát cao.
c Kêt́ luân
̣
– L ời tho ại cua
̉ Tr ương Ba “Không thể bên trong môṭ đằng, bên ngoài môṭ neo
̉ đượ c. Tôi muôn
́ đượ c là tôi tron
̣ ven”
̣
là một câu nói giàu tính triết lý, cũng lại là bi kịch cho số phận của một con người.
– Kh ẳng đị nh tài n ăng c ủa L ưu Quang V ũ và s ức s ống c ủa tác ph ẩm.
3. GÍA TRỊ NHÂN V ĂN C ỦA TÁC PH ẨM
a. Mở bài
– Giới thiệu tác giả (con người và phong cách)
– Giới thiệu tác phẩm (giá trị của tác phẩm)
– Giới thiệu vấn đề nghị luận : giá trị nhân văn
b Thân bài
* Giới thiêu
̣ chung Tham khảo một số đề trên
* Giaỉ nghia
̃ giá trị nhân v ăn: Giá trị nhân v ăn c ủa m ột tác ph ẩm là s ự l ột t ả mâu thu ẫn tâm lý c ủa các nhân v ật
trong đời sống, hay chính mâu thu ẫn trong t ừng con ng ười, trong cái trong sáng có s ự sa ng ạ, l ầm l ạc và trong ánh

sáng có bóng tối. Nó là cuộc đấu tranh giữa thiện và ác, giữa đẹp và xấu, gi ữa hy v ọng và tuyệt v ọng của con
người.
* Phân tích
– Hoàn canh
̉ tr ớ trêu cua
̉ Hôn
̀ Tr ương Ba khi phaỉ sông
́ nh ờ thân xác anh hàng thit.
̣
– Nôĩ đau đớn giày vò cua
̉ Hôn
̀ Tr ương Ba khi phaỉ sông
́ nh ờ, sông
̀ khác mình, qua các chi tiêt́ : + L ời dân
̃ kich
̣ :
ngôì ôm đâu
̀ môṭ hôì lâu, biṭ tai lai,̣ nh ư tuyêṭ vong,
̣
bân
̀ thân
̀ nhâp
̣ laị xác anh hàng thit,…
̣
+ L ời cua
̉ nhân vâṭ : Ta… ta đã bão là mày im đi, Tr ời,…
+ L ời đôc
̣ thoaị nôị tâm : Mày đã th ắng thế rôi,̀ cái thân xác không phaỉ là cua
̉ ta a…
̣ à Ý nghia

̃ nhân v ăn cua
̉ tác
phâm
̉ :
– Ý nghia
̃ nhân v ăn cua
̉ v ở kich
̣ là ở chô ̃ L ưu Quang Vũ đã kh ẳng đinh,
̣
tôn trong
̣ cái cá thê,̉ kh ẳng đinh
̣ vi ̣ trí, vai trò
cua
̉ cá nhân trong xã hôi.̣ Qua l ời thoaị đâỳ chât́ triêt́ lý, nhà v ăn g ửi b ức thông điêp
̣ kêu goị con ng ười nh ư sông
́
chính mình. “Tôi muôn
́ đượ c là tôi toàn ven”,
̣ câu nói đơn gian
̉ cua
̉ nhân vâṭ Hôn
̀ Tr ương Ba chính là chìa khóa m ở
ra giá trị nhân v ăn cua
̉ tác phâm.
̉ – Ý nghia
̃ nhân v ăn cua
̉ v ở kich
̣ còn là ở chô ̃ nhà v ăn đã đâu
́ tranh cho s ự hoàn
thiên

̣ vẻ đep
̣ nhân cách con ng ười. Đê ̉ cho nhân vâṭ Hôn
̀ Tr ương Ba kh ước t ừ cuôc̣ sông
́ vay m ượn thân xác ng ười
khác, L ưu Quang Vũ đã m ở h ướng cho nhân vâṭ v ươn t ới môṭ lẽ sông
́ đích th ực, dâu
̃ thân xác có tr ở vê ̀ h ư vô.
* Đánh giá
– Cảnh VII, của vở kịch giàu giá trị nhân văn :
+ Cần tạo cho con người có được sự hài hòa giữa hai mặt tinh thần và vật chất ; không được kỳ thị nh ững đòi hỏi
vật chất của con người ; cần tôn trọng quyền tự do cá nhân ; cần bi ết rút kinh nghi ệm v ề nh ững sai l ầm để h ướng
t ới tương lai. – Giá trị nhân v ăn mà L ưu Quang V ũ đặt ra đến nay v ẫn còn nguyên v ẹn và v ẫn còn mang tính th ời
sự.
c. Kêt́ luân
̣
– Kh ẳng đị nh giá trị c ủa tác ph ẩm (n ội dung, ngh ệ thu ật).
– Kh ẳng đị nh tài n ăng c ủa L ưu Quang V ũ


4

CHI ẾC THUY ỀN NGOÀI XA (Nguy ễn Minh Châu)

I. KIẾN THỨC CHUNG
1.. Tác giả Nguyễn Minh Châu (1930 -1989):
Là người mở đường xuất sắc cho công cuộc đổi mới văn học từ sau năm 1975. Ở giai đoạn trước, ông
là ngòi bút có khuynh hướng lãng mạn, sử thi. Ở thời kì sau, ngòi bút của ông chuyển sang đề tài thế
sự, quan tâm tới đời sống của con người trong đời thường với những vấn đề về đạo đức, về triết lí
nhân sinh.
Tập truyện ngắn Những vùng trời khác nhau (1970), tiểu thuyết Dấu chân người lính (1972) , tiểu

thuyết Miền cháy (1977), Lửa từ những ngôi nhà (1977) ,Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành, Bến
quế, Khách ở quê ra, Bức tranh. Năm 2000, Nguyễn Minh Châu được Nhà nước trao tặng Giải thưởng
Hồ Chi Minh về văn học và nghệ thuật.
2. Văn bản đoạn trích truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa (8 - 1983), rút từ tập truyện ngắn Chiếc
thuyền ngoài xa (1-987).
Thể loại - phương thức biểu đạt:
Truyện ngắn; tự sự - (miêu tả - biểu cảm); ngồi kể thứ nhất, đặt vào nhân vật nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng
- người chứng kiến và tham gia vào cậụ chuyện.
Bố cục đoạn trích:
+Phùng chớp được cảnh đẹp trời cho: chiếc thuyền lưới vó đang từ ngoài biển chèo thẳng vào bờ
trong buổi sớm mai sương mù.
+Ngay, sau đó Phùng lại chứng kiến cảnh bạo hành dã man của gia đình thuyền chài.
+Câu chuyện với người đàn bà thuyền chài ở toà án huỵện.
+Đoạn kết: suy nghĩ của Phùng về bức ảnh lịch và ngưòi đàn bà vùng biển. I
->>Cũng có thể chia gọn 2 đoạn như SGV: 1. Hai phát hiện của nghệ sĩl Phùng. 2. Câu chuyện của
người đàn bà vùng biển.
Nhưng cách chia này không thật rành mạch về ý. Vì câu chuyện của nguòil đàn bà đã bắt đầu từ phát
hiện thứ hai (đoạn 1).
II. KIẾN THỨC CƠ BẢN
1.. Hai phát hiện của nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng.
a. Phát hiện thứ nhất: Bức danh hoạ mực Tàu thời cổ.
Đoạn văn : Lúc bấy giờ... mang lại.
Theo yêu cầu của trưởng phòng, nghệ sỹ nhiếp ảnh Phùng tìm đến vùng ven biển miền Trung (Trung
trung bộ), nơi vốn là chiến trường cũ của anh, để chụp những tấm ảnh phục vụ cho chủ đề thuyền và
biển của bộ lịch năm sau. Về lại mảnh đất một thời gắn bó trong cuộc sống đời thường, người nghệ sỹ
đi tìm vẻ đẹp bí ẩn của cuộc sống của người dân làng chài. Sau bao ngày săn ảnh, Phùng đã chớp
được một cảnh kì diệu về chiếc thuyền ngoài xa đang thu lưới trong biển sớm mờ sương: ” mũi thuyền
in một nét mơ hồ, lòe nhòe vào bầu sương mù trắng như sữa…đang hướng mặt vào bờ”. Với Phùng
đây là khoảnh khắc kì diệu trong đời cầm máy của mình. Bởi từ khung cảnh sông nước đến con người
ngư phủ, từ đường nét, màu sắc, ánh sáng tất cả đều hài hòa tuyệt đẹp. Trong con mắt Phùng, cảnh

tượng đó giống như một bức tranh mực tàu của một danh họa thời cổ.
Cảnh đẹp bất ngờ xuất hiện trước mắt Phùng như một phần thưởng cao quý trời cho để thưởng cho
người nghệ sĩ kiên trì dày công mai phục (như Nguyễn Tuân mấy chục năm trước đã hơn hai tuần
phục cảnh mặt trời lên trên biển Cô Tô).
Ngòi bút đặc tả vẻ đẹp vừa cổ kính vừa mơ màng đúng như mong ước trong tưởng tượng của nghệ sĩ
về cảnh thuyền và biển trong sương mù nhạt nhoà. Vẻ đẹp giản dị và toàn bích của thiên nhiên mà
người nghệ sĩ may mắn chớp được khoảnh khắc hiếm hoi.
Cảm xúc của người nghệ sĩ sáng tạo: bối rối, trong tim như có cái gì bóp thắt vào, cảm thấy niềm vui
của sự khám phá chân lí toàn thiện, khọảnh khắc trong ngần của tâm hồn. Tất nhiên là anh vội, không
tiếc phim, bấm máy liên tục để vĩnh cửu hoá cảnh tuyệt vời
Ý nghĩa chi tiết: với nhà nghệ sĩ chân chính, không niềm vui nào bằng khám phá được vẻ đẹp bất ngờ
của thiên nhiên nhiên và cuộc sống. Nhưng để có được khoảng khắc hiếm hoi ấy, phải kiển trì, phải
vượt khó, phải ham mê, hết mình vì nghệ thuật. Và cái đẹp kì diệu có khi lại đến với người nghệ sĩ vào
lúc không ngờ nhất. Đó là cái đẹp tự nhiên, hoà hợp kì lạ giữa cảnh vật và con người đơn giản và hoàn
mĩ.


b. Phát hiện thứ hai: Cảnh bạo hành gia đình người đàn bà mặt rỗ.
Nhưng đó mới là vẻ đẹp bên ngoài của bức tranh chiếc thuyền ngoài xa. Tình cờ, Phùng lại phát hiện
được một bức tranh sinh hoạt của con người xảy ra bên bờ biển ấy.
Đoạn từ: Ngay lúc ấy... thuyền lưới vó đã biến mất.
Phát hiện thứ nhất của nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng thật bất ngờ, lí thú nhưng phát hiện thứ hai ngay sau
đó còn bất ngờ hơn nhưng chẳng lí thú chút nào mà khó hiểu và buồn đau, căm giận. Phát hiện bất
ngờ, trớ trêu như trò đùa quái ác của cuộc sống. Từ trong con thuyền đẹp như mơ ấy bước ra hai
người đàn ông và đàn bà quái lạ. Và tiếp theo là cảnh bạo hành trong gia đình thuyền chài xảy ra vô
tình trước sự chứng kiến từ đầu đến cuối của nhà nghệ sĩ - người lính chiến năm xưa.
Gã đàn ông thô lỗ, hung bạo, vũ phu, cục súc, với sức khoẻ như gấu, hình dáng cổ quái, hắn trút sự
căm giận điên cuồng vào việc đánh đập người vợ của mình bằng chiếc thắt lưng to bận như đánh kẻ
thù, hàm răng nghiên ken két, vừa đánh vừa chửi, nguyền rủa rên rỉ, đau đớn
Chúng ta đồng cảm với sự ngạc nhiên cao độ và hành động cứu ứng kịp thời của nghệ sĩ Phùng, khi

“anh há mồm ra nhìn rồi vứt máy ảnh lao tới định cứu người đàn bà nạn nhân của sự bạo hành man
rợ”.
Nhưng trong cách tả của tác giả đã hé ra phần nào cái nguyên nhân sâu xa khiến gã đàn ông nọ trở
nên thô bạo tàn ác đến thế với vợ mình: gã gịân dữ và đau đớn vì bế tắc, hay vì một cái gì đó mà
chính gã cũng không hiểu.
Còn người đàn bà, hành động và cử chỉ của mụ càng làm Phùng ngạc nhiên, khó hiểu hơn, khi mụ
nhẫn nhịn chịu đánh, lại chắp tay vái lạy con trai vừa cứu mẹ bằng cách giật cái thắt lưng trong tay
bố và chịu hai cái tát của người bố hung bạo.
Người mẹ sợ con, xin con đừng chống lại cha mình? Người mẹ sợ con bị cha đánh chết? Người me quá
thương con, lo cho con, sợ con phạm tội với người đã sinh ra mình? Tất cả đều mới chỉ là ức đoán,
chưa có căn cứ làm sáng tò nhưng đã hiện ra trước mắt người đọc một chú bé vùng biển gan góc, lầm
lì, dũng cảm, hết lòng thương mẹ.
Và đó là là mặt trái của bức ảnh mơ màng, lãng mạn đẹp tuyệt vời kia. Nhưng đó cũng mới là một
phần bên ngoài của sự thật. Tình cờ, lại tình cờ mà may mắn, Phùng có dịp chứng kiến và tham gia
vào câu chuyện để tự mình khám phá thêm chiều sâu và bản chất của sự thật đau buồn mà dữ dội ấy.
Là người lính cũ, Phùng không thể làm ngơ trước sự bạo hành của cái ác. Phùng cay đắng nhận ra
những ngang trái, xấu xa, bi kịch gia đình nhà chài kia lại chính là thứ thuốc rửa quái đản lộn trái
những thước phim anh đã dày công mới chụp được.
Qua phát hiện thứ hai này Nguyễn Minh Châu cho chúng ta thấy đằng sau bức tranh thuyền và biển
tuyệt diệu là cuộc đời đầy khắc nghiệt với những mảnh đời tội nghiệp. Nhà văn muốn thể hiện cái đẹp
của nghệ thuật dễ nắm bắt hơn cái đẹp của cuộc sống. Vì cái đẹp của cuộc sống cần có thêm hạnh
phúc và tình thương. Và đôi cánh khi cái đẹp của ngoại cảnh làm khuất lấp cái xấu tồn tại ở đời sống.
Cuộc đời không đơn giản xuôi chiều mà chứa đựng nhiều nghịch lí với những mảng sáng tối, xấu đẹp,
thiện ác, thật giả… Quan trọng là chúng ta đừng nhầm lẫn giữa hình thức bên ngoài và bản chất bên
trong, chúng ta phải có cái nhìn đa diện, đa chiều về cuộc sống. Nghệ thuật vốn nảy sinh từ cuộc đời
nhưng cuộc đời không phải bao giờ lúc nào cũng đẹp như nghệ thuật.
2. Câu chuyện ở toà án huyện.
+ Cuộc gặp gỡ giữa vị chánh án và người đàn bà làng chài
Tác giả cố ý không đặt tên cho nhân vật của mình để tỏ rằng mụ cũng là một trong bao nhiêu người
phụ nữ vùng biển khác mà thôi. Đây không phải là một số phận, một cá tính quá cá biệt. Người đàn

bà trung niên, lam lũ, vất vả, thầm lặng, tự nguyện chịu đựng đòn đánh của chồng như một lẽ đương
nhiên, tất yếu đến vồ lí với người ngoài nhưng lại vì lí do thật đơn giản: bà cần sức mạnh của một
người đàn ông trong cuộc mưu sinh và tồn tại gia đình đánh cá trên biển. Bà sẵn sàng chịu đựng tất
cả vì đàn con đông đúc, bà chỉ mong chúng được ăn no, khoẻ mạnh và lớn lên. Vì thế bà cay đắng và
tự nguyện để lão chồng ba ngày, năm ngày hai trận đòn nhục nhã, chỉ để hắn không bỏ đi, không rời
bỏ gia đình. Đó là sự cam chịu nhẫn nhục đầy hi sinh, đáng cảm thông, chia sẻ. Thấp thoáng trong
người đàn bà ấy là bóng dáng của người phụ nữ Việt Nam nhân hậu, vị tha, giàu đức hi sinh cao cả.
Đó là câu chuyện về sự thật cuộc đời, giúp Đẩu và Phùng hiểu nguyên nhân thật sự những điều tưởng
chừng như vô lí vừa xảy ra. Và họ - một đại diện cho công lí, một đại diện cho lương tâm nghệ sĩ mới
nhận rõ điều này: Không thể dễ dãi, đơn giản khi nhìn nhận, đánh giá mọị sư việc, hiện tượng cuộc


sống. \
Với tư cách là một chánh án toà án nhân dân huyện, đại diện cho chính quyền và pháp luật, một cựu
binh thời đánh Đẩu có quan điểm dứt khoát, rõ ràng, bênh vực nạn nhân, giúp chị tìm con đường giải
thoát, răn đe và trừng trị kẻ ác phạm tội. Quan điểm đó là đúng, nhưng trong trường hơp cụ thể này
lại tỏ ra cực đoan và rõ ràng chưa được người bị hại tán thành chứ đừng nói gì đến tâm phục khẩu
phục. Khi nghe tâm sự thật lòng của người đàn bà, khi hiểu ra vấn đề, phức tạp hơn anh tưởng, nhiều,
Đẩu thấy hiện tại chỉ có cách theo cách của nạn nhân, vẫn đề họ sống với nhau, và gọi lão chồng lên
huyện răn đe nghiêm khắc. Nhưng với gã đàn ông thô bạo, cục súc, đánh vợ như trò giải trí ấy, mấy
lời thuyết giáo của vị chánh án oai nghiêm nhưng xa vời kia liệu có phải như nước đổ lá khoai? Đó là
cái khó của vị quan toà chân chính thời nay.
LÃO ĐÀN ÔNG:
Cuộc sống nghèo đói, quanh năm vất vả đã biến chàng trai biển lành nhưng cục thành gã đằn ông vũ
phu, lão chồng độc ác, coi vợ như cái bao tải, để trút
nỗi bực dọc, đau khổ, buồn phiền của riêng mình. Lạ, lão lại không nghiện rượu như nhiều người đàn
ông khác! Tự cho mình cái quyền được hành hạ người khác để thoả mãn lòng ích kỉ, bản thân lão vừa
là thủ phạm vừa là nạn nhân gây nên nỗi khổ cho vợ con mình, gia đình mình. Đối xử vói loại người
này, cần phải kết hợp nhiều biện pháp lí tình, cương nhu, tác động từ nhiều phía mới hi vọng cải tạo y
từ gốc để trở lại là người chồng, người cha tốt như xưa.

NHÂN VẬT THẰNG PHÁC
Trong những gia đình như thế này, đáng thương nhất là những đứa con. Chúng bị đẩy vào tình thế
thật khó xử: làm thế nào để trọn đạo hiếu? đứng về phía ai? Thương mẹ nhưng không thể ngăn được
bố, càng không thể chống lại bố... Với tính cách giống cha như lột, phản ứng của thằng Phác là dữ dội,
quyết liệt kiểu trẻ con xốc nổi, nghĩ sao làm vậy hết mình. Nó hết sức xông thẳng .vào người cha hung
bạo, giật được cái thắt lưng từ tay gã, nghiến răng chịu hai cái tát nảy lửa. Và lần sau còn thủ sẵn một
con dao găm để đâm bố, cứu mẹ. Tình thương mẹ vô hạn đã khiến đứa con trai quyết lòng bảo vệ mẹ.
Trong mắt thằng Phác, bố nó đâu còn là một người cha mà chỉ là lão già độc ác, lúc nào cũng chỉ
muốn hành hạ mẹ nó. Chị thằng Phác là đứa con gái can đảm mà biết nghĩ hơn nhiều. Nó vật nhau với
em để tước con dao găm, tránh cho em một việc làm hết sức dại dột, Nó chăm sóc mẹ khi lên toà án
huyện... Nguyễn Minh Châu không hướng trọng tâm vào các nhân vật trẻ con, nhưng hai đứa bé này
vẫn để lại trong người đọc không chỉ lòng thương cảm mà còn mến yêu và xúc động.
NGHỆ SĨ PHÙNG
Là nhân vật, là người kể chuyện xưng tôi, là người chứng kiến trực tiếp và trực tiếp tham gia vào câu
chuyện, nhân vật Phùng là nơi gửi gắm quan điểm và suy tư của chính tác giả. Đó là một nghệ sĩ có
tài, say mê nghề nghiệp vẫn còn mang trong mình dòng máu người lính chiến sôi nổi, chân thành.
Qua chuyến đi săn tìm ảnh lịch theo yêu cầu của
vị trưởng phòng tinh khôn và khó tính, anh đã đạt kết quả mĩ mãn về chuyên môn, nhưng sâu sắc hơn
anh hiểu
biết thêm được bao nhiêu sự thật cay đắng, nghịch lí của cuộc sống đời thường. Hơn nữa anh còn thức
nhận sâu sắc hơn một điều, rằng, trước khi là một nghệ sĩ biết rung động trước cái đẹp hãy là người
biết yêu ghét, buồn vui, đồng cảm chia sẻ và đấu tranh bằng hành động chống lại cái ác, cái xấu để
có cuộc sống xứng đáng với con người. Và cuộc sống bao giờ cũng cần được khám phá, lí giải với tất
cả nhận thức và tình cảm, cái nhìn đa diện, nhiều chiều mới mong hiểu thấu diện mạo muôn màu và
bản chất thực của nó.
3. Người đàn bà làng chài
+ Về tên gọi : Cũng giống như nhân vật người vợ nhặt ( truyện ngắn Vợ Nhặt- Kim Lân ), người đàn bà
trong Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh châu cũng không được đặt tên. Nhân vật được gọi bằng
những cái tên phiếm chỉ : Người đàn bà, chị ta, mụ ,...Đây là nhân vật tiêu biểu cho những người đàn
bà vô danh ở những vùng biển khác nhau nhưng cùng chung số phận đau thương.

+Ngoại hình: xấu xí , thô kệch, mặt rỗ vì hồi nhỏ bị đậu mùa, mụ trạc ngoài 40, khuôn mặt mệt mỏi
sau một đêm thức trắng kéo lưới, quần áo rách rưới bạc phếch, thân người ướt sũng ...
-Hoàn cảnh gia đình, số phận
+Nghèo khổ lam lũ, đông con, gia đình làm nghề chài lưới, sống chen chúc trên cái thuyền chật hẹp.
+ Mụ xấu xí từ nhỏ, lại bị rỗ mặt


+Có mang với một anh hàng chài, đến mua bả về đan lưới, rồi thành vợ chồng. Cuộc sống mưu sinh
trên biển cực nhọc, vất vả
+Bị chồng thường xuyên đánh đập, hành hạ: ba ngày một trận nhẹ, năm ngàymột trận nặng. Cứ khi
nào lão thấy khổ quá là lại xách chị ra đánh, nhưlà để trút giận, như đánh 1 con thú, với lời lẽ cay độc"
Mày chết đi cho ông nhờ, chúng mày chết hết đi cho ông nhờ". Khi bị đánh chị không hề kêu một
tiếng, không chống trả, không tìm cách chạy trốn mà coi đólà một lẽ đương nhiên. Người đàn bà ấy
nhẫn nhục, cam chịu, thầm lặng chịu đựng mọi đau đớn tất cả vì những đứa con.
- Phẩm chất, tính cách:
+ Nhẫn nhục, chịu đựng: Bị chồng trút dây thắt lưng quật tới tấp , chị vẫn nhẫn nhịn, không hề khóc
lóc kêu van, không chạy trốn, không tìm cách chống trả. Chị coi việc mình bị đánh đó như 1 phần đã
rất quen thuộc của cuộc đời mình. Khi được Phùng và Đẩu góp ý, đề nghị giúp đỡ thì : "Quý tòa bắt tội
con cũng được, phạt tù con cũng đượcnhưng đừng bắt con bỏ nó" Chị cam chịu đến tội nghiệp.
Được mời lên tòa án để giải quyết chuyện gia đình, lúc đầu chị ta lúng túng, rụt rè tìm một góc tường
để ngồi. Chị thấy sợ hãi Khi đến một không gian lạ và cảm thấy mình thật nhỏ bé giữa chốn công
đường. Cái thế ngồi của chị như cố thu mình lại để tự vệ, cho dù đã được Đẩu, Phùng chia sẻ và cảm
thông.
Nguyên nhân nỗi cam chịu : Vì con cái, vì hạnh phúc gia đình. Chị hiểu cơ cực của của cuộc sống mưu
sinh trên biển không có người đàn ông.
+Người đàn bà ấy cũng rất tự trọng. Sau khi biết hành động vũ phu của chồng mình đã bị đứa con trai
và người khách lạ (nghệ sĩ Phùng) chứng kiến, chị thấy đau đớn, vừa đau đớn vừa vô cùng xấu hổ,
nhục nhã. Chắc chắn đây không chỉ là sự đau đớn về thể xác. Giọt nước mắt đau khổ của người đàn
bà đã ứa ra. Đó là giọt nước mắt của nhọc nhằn và chịu đựng. Chị không muốn bất cứ ai chứng kiến
và thương xót cho tình cảnh trớ trêu của mình, kể cả thằng Phác, đứa con trai mà chị quý nhất. Thân

thể bị chà đạp, nhân phẩm bị xúc phạm nhưng người đàn bà ấy không hề để ý, không hề bận tâm.
Đúng là sự nhẫn nhục của một người có nhân cách, có lòng tự trọng và thấu hiểu lẽ đời.
+ Yêu thương con tha thiết(" phải sống cho con chứ không thể sống cho mình")
Nguyên nhân sâu xa của sự cam chịu chính là tình thương con vô bờbến của chị. Sự cần thiết của việc
có người đàn ông làm chỗ dựa, đểchèo chống khi phong ba bão táp, cùng nuôi dạy các con " Đàn bà
trên thuyền chúng tôi phải sống cho con, không thể sống cho mình như trên đấtđược".
Vì thương con, chị gửi nó lên rừng, chị đau xót khi thấy nó vì thương mẹ mà hận bố,....Chị không
muốn các con nhìn thấy cảnh bạo hành gia đình. Và niềm hạnh phúc lớn nhất của chị là nhìn những
đứa con chúng được ăn no,...
=> Tình mẫu tử vút lên, trên cái nền của 1 cuộc sống cơ cực, ngang trái, đau đớn đầy xót xa .
+ Người đàn bà vị tha, lạc quan :
Trong khổ đau triền miên, người đàn bà ấy vẫn chắt chiu niềm hạnhphúc nhỏ nhoi trong cuộc đời bình
dị ( "...nhìn con được ăn no, có khi vợ chồng, con cái sống vui vẻ, hoà thuận") .Chị tự động viên mình,
và sống vì các con. Đặc biệt, chị không hề hận chồng mặc dù thường xuyên bị chồng đánh đạp chửi
rủa, trái lại, chị còn biết ơn lão. Chỉ Phùng, Đẩu, và người đọc cảm thấy ngột ngạt trước cuộc sống quá
ư khổ cực của chị, còn bản thân chị thì thấy đó là sự việc rất đỗi bình thường. Chị lí giải nguyên nhân
dẫn đến tính khí hung bạo của chồng và cảm thông, tha thứ cho lão.Nghệ sĩ Phùng và chánh án Đẩu
nhìn người chồng là kẻ vũ phu, thô bạo, đáng lên án. Nhưng qua cái nhìn của người vợ, lão từng là:
“anh con trai cục tính nhưng hiền lành lắm, không bao giờ đánh đập tôi”.Thậm chí bà còn sẵn sàng
nhận lỗi về mình, coi mình là nguyên nhân khiến cuộc sống của chồng trở nên khốn khổ. Đây quả là
người phụ nữ có cái nhìn sâu sắc, đa chiều, bao dung, độ lượng với chồng
+Người đàn bà thất học nhưng lại rất sắc sảo, thấu hiểu lẽ đời
Ý thức được thiên chức của người phụ nữ ("Ông trời sinh ra người đàn bà là để đẻ con và nuôi con cho
đến khi khôn lớn"). Chị lí giải nguyên nhân dẫn tới nỗi khổ của gia đình mình, lí giải vì sao mình không
thể, và không muốn li hôn. Câu chuyện của chị đã khiến Phùng và Đẩu đi từ ngạc nhiên này tới ngạc
nhiên khác. Sau khi nghe câu chuyện của chị, Phùng và Đẩu mới vỡ lẽ , và rút ra bài học sâu sắc về
cách nhìn đời, nhìn người. Qua câu chuyện của người đàn bà, ta càng thấy rõ: Không thể dễ dãi,đơn
giản trong việc nhìn nhận mọi sự vật, hiện tượng của cuộc sống,không thể có cái nhìn một chiều,
phiến diện với con người và cuộc sống.
4.Nghệ thuật



(Cốt truyện đơn giản, tình huống bất ngờ, dẫn dắt khéo léo, càng về sau càng bất ngờ và hấp dẫn: bất
ngờ khi thấy cảnh lạ, đẹp —» bất ngờ chứng kiến chuyện lạ nghịch lí —> bất ngờ hiểu cái lí buồn của
nghịch lí; Xây dựng nhân vật chọn lấy vài nét ngoại hình lạ, ngôn ngữ và hành động phù hợp tính
cách, nhưng vẫn gây sự khó hiểu và bất ngờ (người đàn bà, thằng Phác)...)
Lối kết cấu vòng tròn: Mở đầu là đi tìm ảnh, kết là nhìn ảnh mà ngẫm nghĩ, nhấn mạnh tính triết lí của
truyện


5
RỪNG XÀ NU (Nguyễn Trung Thành)
1. Hoàn cảnh sáng tác
– Tác phẩm được viết năm 1965 khi giặc Mĩ đổ quân ào ạt vào bãi biển Chu Lai – Quảng Nam . Đó là lúc nhà v ăn
muốn viết một bài “Hịch tướng sĩ” thời đánh Mĩ để động viên, cổ động nhân dân bước vào cuộc kháng chi ến ch ống
Mĩ.
– Truyện được đăng trên tạp chí Văn nghệ quân giải phóng miền Trung Trung Bộ, sau đó được in trong tập Trên
quê hương những anh hùng Điện Ngọc.
2. Tóm tắt
Mở đầu truyện là cảnh rừng xà nu bạt ngàn đứng trong “tầm đại bác ”của giặc đang ưỡn tấm ngực l ớn ra che ch ở
cho làng Xôman. Sau 3 năm đi lực lượng, Tnú được cấp trên cho phép về thăm làng một đêm. Bé Heng nay đã tr ở
thành một giao liên chững chạc, nhanh nhẹn. Dít nay đã tr ở thành bí th ư chi bộ kiêm chính trị viên xã đội v ững
vàng. Đêm hôm đó, cụ Mết đã kể cho cả dân làng nghe về cuộc đời Tnú. Hồi đó Mĩ Diệm khủng b ố g ắt gao, được
anh Quyết dìu dắt Tnú cùng Mai tham gia nuôi giấu cán bộ cách mạng từ nhỏ. Giặc b ắt anh, sau 3 n ăm anh l ại v ượt
ngục Kontum trở về. Lúc này anh Quyết đã hi sinh, Tnú lấy Mai. Anh tiếp tục cùng dân làng mài giáo mác chu ẩn bị
chiến đấu. Giặc nghe tin, chúng về làng càn quét, khủng bố. K ẻ thù bắt v ợ con anh, tra tấn tàn b ạo ngay tr ước m ắt
anh. Căm hờn cháy bỏng, anh đã nhảy xổ ra giữa bọn lính nhưng cũng không cứu được m ẹ con Mai. Gi ặc b ắt anh,
quấn giẻ tẩm nhựa xà nu đốt mười đầu ngón tay anh. Cụ Mết cùng thanh niên trong làng đã nổi dậy gi ết s ạch b ọn
lính cứu Tnú. Sau đó anh gia nhập lực lượng quân giải phóng. Câu chuy ện kết thúc bằng c ảnh cụ M ết và Dít ti ễn
Tnú trở lại đơn vị, trước mắt họ là những cánh rừng xà nu nối tiếp đến tận chân tr ời.

3. Nhan đề
-Nhan đề là một sáng tạo nghệ thuật độc đáo của nhà văn. Hình ảnh rừng xà nu là linh h ồn của tác phẩm. C ảm
hứng chủ đạo và dụng ý nghệ thuật của nhà văn được khơi nguồn từ hình ảnh này.
– Rừng xà nu là hình ảnh trung tâm có vẻ đẹp riêng, gắn bó mật thi ết với cuộc sống vật ch ất và tinh th ần c ủa ng ười
dân Tây Nguyên, biểu tượng cho những phẩm chất cao đẹp của con người Tây Nguyên: sức s ống mãnh li ệt, kiên
cường, bất khuất, khao khát tự do.
– Nhan đề còn gợi chủ đề, cảm hứng sử thi cho truyện ngắn.
II. KIẾN THỨC CƠ BẢN
1. Hình tượng cây xà nu
* Vị trí xuất hiện : nhan đề, đầu và cuối tác phẩm, xuất hiện trong sự đối chiếu so sánh v ới các nhân vật ở trong
truyện.
* Nghĩa thực : Đây là một loài cây có thật ở vùng đất Tây Nguyên.
* Nghĩa biểu tượng :
– Cây xà nu gắn bó với cuộc sống con người Tây Nguyên:
+ Cây xà nu có mặt trong đời sống hằng ngày của người dân làng Xôman.
+ Cây xà nu tham dự vào những sự kiện trọng đại của dân làng Xôman.
+ Cây xà nu gắn với cuộc sống của người dân làng Xôman đến mức nó đã th ấm sâu vào nếp suy ngh ĩ và c ảm xúc
của họ, cụ Mết nói về cây xà nu với tất cả tình cảm yêu thương, gần gũi xen lẫn t ự hào “không có gì m ạnh b ằng cây
xà nu đất ta”. Cây xà nu đã trở thành một phần máu thịt trong đời sống vật chất và tinh thần của m ảnh đất này.
– Cây xà nu tượng trưng cho số phận và phẩm chất của con người Tây Nguyên trong chi ến tranh cách m ạng.
+ Thương tích mà rừng xà nu phải gánh chịu do đại bác của kẻ thù tượng trưng cho nh ững m ất mát, đau th ương
vô bờ mà dân làng Xôman nói riêng (anh Xút, bà Nhan, mẹ con Mai…) và đồng bào Tây Nguyên nói chung đã ph ải
trải qua trong cuộc chiến đấu.
+ Đặc tính ham ánh sáng của cây xà nu tượng trưng cho niềm khát khao tự do, lòng tin vào lý t ưởng cách m ạng
của người dân Tây Nguyên, của đồng bào miền Nam trong cuộc kháng chiến.
+ Khả năng sinh sôi mãnh liệt của cây xà nu gợi nghĩ đến sự tiếp nối của nhiều thế hệ người dân Tây Nguyên (cụ
Mết, Tnú, Mai, Dít, Heng) đoàn kết bên nhau trong cuộc kháng chi ến ch ống đế quốc Mĩ.
+ Sự tồn tại kỳ diệu của rừng xà nu qua những hành động hủy diệt của kẻ thù tượng trưng cho sức s ống b ất diệt,
sự bất khuất, kiên cường và sự vươn lên mạnh mẽ của con người Tây Nguyên trong cu ộc chiến mất còn v ới k ẻ
thù.

– Nghệ thuật miêu tả:
+ Kết hợp miêu tả cụ thể lẫn khái quát, khi dựng lên hình ảnh cả rừng xà nu, khi đặc tả c ận cảnh m ột số cây
+ Phối hợp cảm nhận nhiều giác quan trong việc miêu tả những cây xà nu với vóc dáng tràn đầy s ức lực, tràn trề


mùi nhựa thơm, ngời xanh giữa ánh nắng
+ Hình tượng cây xà nu vừa hiện thực lại vừa mang đậm ý nghĩa bi ểu tượng. Miêu tả cây xà nu trong s ự so sánh
đối chiếu thường xuyên với con người. Các hình thức ẩn dụ, nhân hóa, tượng trưng đều được vận dụng nh ằm thể
hiện sống động, hùng vĩ, khoáng đạt của thiên nhiên đồng thời gợi ra nhiều suy t ưởng sâu xa về con ng ười, về đời
sống.
+ Hình ảnh cây xà nu xuất hiện ở đầu tác phẩm rồi kết thúc tác phẩm lại hi ện ra cánh r ừng xà nu b ạt ngàn. Đây là
một kết cấu vòng tròn. Kết cấu ấy cho phép ta nghĩ : cây xà nu không chỉ là t ượng tr ưng cho một làng Xô Man nh ỏ
bé hay cho một vùng núi rừng Tây Nguyên. Có thể đó còn là biểu t ượng của c ả miền Nam, của cả dân t ộc Vi ệt
Nam trong những tháng năm chống đế quốc Mĩ.
2. Hình tượng nhân vật Tnú
– Tnú là người có tính cách trung thực, gan góc, dũng cảm, mưu trí:
+ Giặc giết bà Nhan, anh Xút nhưng Tnú (lúc bấy giờ còn nhỏ) không sợ. Tnú v ẫn cùng Mai xung phong vào r ừng
nuôi giấu cán bộ.
+ Học chữ thua Mai, Tnú đập vỡ bảng, lấy đá đập vào đầu đến chảy máu.
+ Khi đi liên lạc không đi đường mòn mà “xé rừng mà đi”, không lội chỗ nước êm mà “lựa ch ỗ thác mạnh vượt băng
băng như con cá kình”. Bởi theo Tnú những chỗ nguy hiểm giặc “không ng ờ” đến.
+ Bị giặc phục kích bắt, bị tra tấn dã man nhưng Tnú quyết không khai. Khi b ọn giặc kéo về làng, b ắt Tnú khai c ộng
sản ở đâu anh đặt tay lên bụng dõng dạc nói “cộng sản ở đây này”.
– Tnú là người có tính kỷ luật cao, tuyệt đối trung thành với cách mạng
+ Tham gia lực lượng vũ trang, nhớ nhà, nhớ quê hương nhưng khi được phép của cấp trên m ới về th ăm.
+ Tính kỉ luật cao trong mối quan hệ với cách mạng biểu hiện thành lòng trung thành tuy ệt đối: khi b ị k ẻ thù đốt
mười đầu ngón tay, ngọn lửa như thiêu đốt gan ruột nhưng Tnú không kêu n ửa lời, anh luôn tâm ni ệm l ời d ạy c ủa
anh Quyết : “người cộng sản không thèm kêu van”.
– Một trái tim yêu thương và sục sôi căm giận
+ Tnú là một người sống rất nghĩa tình : Tnú đã tay không xông ra cứu vợ con. Động lực ghê gớm ấy chỉ có th ể

được khơi nguồn từ trái tim cháy bỏng ngọn lửa yêu thương và ngọn lửa căm thù. Tnú là con ng ười tình nghĩa v ới
buôn làng: anh lớn lên trong sự đùm bọc yêu thương của người dân làng Xôman.
+ Lòng căm thù ở Tnú mang đậm chất Tây Nguyên: Tnú mang trong tim ba m ối thù : Thù của bản thân; Thù c ủa gia
đình; Thù của buôn làng
– Ở Tnú, hình tượng đôi bàn tay mang tính cách, dấu ấn cuộc đời
+ Khi lành lặn : đó là đôi bàn tay trung thực, nghĩa tình (bàn tay cầm ph ấn vi ết chữ anh Quy ết dạy cho ; bàn tay
cầm đá đập vào đầu mình để tự trừng phạt vì học hay quên chữ …
+ Khi bị thương : đó là chứng tích của một giai đoạn đau thương, của thời điểm lòng căm hận sôi trào “Anh không
cảm thấy lửa ở mười đầu ngón tay nữa. Anh nghe lửa cháy trong lồng ngực, cháy trong bụng”. Đó cũng là bàn tay
trừng phạt, bàn tay quả báo khi chính đôi bàn tay tàn tật ấy đã bóp chết tên chỉ huy đồn giặc trong m ột tr ận chi ến
đấu của quân giải phóng.
– Hình tượng Tnú điển hình cho con đường đấu tranh đến với cách mạng của ng ười dân Tây Nguyên làm sáng t ỏ
chân lí của thời đại đánh Mĩ : “chúng nó đã cầm súng mình phải cầm giáo”.
+ Bi kịch của Tnú khi chưa cầm vũ khí là bi kịch của người dân STrá khi chưa giác ng ộ chân lý (bà Nhan, anh Xút).
Tnú là người có thừa sức mạnh cá nhân nhưng anh vẫn thất bại đau đớn khi không có vũ khí. V ới bàn tay không có
vũ khí trước kẻ thù hung bạo anh đã không bảo vệ được vợ con và bản thân.
+ Tnú chỉ được cứu khi dân làng Xôman đã cầm vũ khí đứng lên. Cuộc đời bi tráng của Tnú là s ự ch ứng minh cho
chân lí : phải dùng bạo lực cách mạng để tiêu diệt bạo lực phản cách mạng.
+ Con đường đấu tranh của Tnú từ tự phát đến tự giác cũng là con đường đấu tranh đến với cách m ạng của làng
Xôman nói riêng và người dân Tây Nguyên nói chung.
Tóm lại, câu chuyện về cuộc đời và con đường đi lên của Tnú mang ý nghĩa tiêu biểu cho số ph ận và con đường
của các dân tộc Tây Nguyên trong cuộc kháng chiến chống đế quốc Mĩ. Vẻ đẹp và sức m ạnh của Tnú là sự k ết tinh
vẻ đẹp và sức mạnh của con người Tây Nguyên nói riêng và người Việt Nam nói chung trong th ời đại đấu tranh
cách mạng.
3. Cụ Mết, Dít, bé Heng
– Cụ Mết : “Pho sử sống” của làng Xô man; Người giữ lửa truyền thống của cả bộ tộc, người kết nối quá khứ và
hiện tại, hôm qua và hôm nay; “thủ lĩnh” tinh thần, người định hướng con đường đi theo cách m ạng cho c ả b ộ t ộc;


nhân vật tiêu biểu cho tính cách quật cường, bất khuất của dân làng Xô Man nói riêng, ng ười Tây Nguyên nói

chung, thâm chí rộng ra là cả dân tộc.
Nếu ví làng Xôman như một khu rừng Xà nu đại ngàn, thì cụ Mết chính là cây đại thụ.
– Dít : một cô bé gan dạ, dũng cảm, sớm tiếp bước các thế hệ đi trước khi đến với cách m ạng; tiêu bi ểu thế hệ tr ẻ
của làng Xô man trưởng thành trong cuộc kháng chiến; Cùng v ới Tnú, Dít là lực l ượng ch ủ ch ốt c ủa cu ộc đấu tranh
ngày hôm nay, đó là sự tiếp nối tự giác và quyết liệt.Cũng như Tnú, Mai và nhiều thanh niên khác trong làng, Dít là
một trong “những cây xà nu đã trưởng thành” của “đại ngàn Xô man” hùng vĩ.
– Bé Heng: Một cậu bé hồn nhiên, ngộ nghĩnh đáng yêu; Sớm tham gia vào cu ộc kháng chi ến chung c ủa c ả làng;
Là hình ảnh tiêu biểu về một thế hệ đánh Mĩ mới, sẽ tiếp bước một cách mạnh mẽ những Tnú, Mai, Dít; Trong
“Rừng xà nu”, bé Heng chính là một trong những “cây xà nu con” “m ới m ọc lên”.
4. Biểu hiện của khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn
+ Đề tài: Viết về cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc của nhân dân Việt Nam trong cuộc kháng chi ến ch ống đế qu ốc
Mĩ; số phận và con đường giải phóng của dân làng Xôman) không chỉ là vấn đề sinh tử của m ột ngôi làng ở Tây
Nguyên mà còn là của cả dân tộc Việt Nam.
+ Hệ thống nhân vật mà điển hình là Cụ Mết, Tnú, Dít: đều là những cá nhân anh hùng kết tinh cao độ v ẻ đẹp và
phẩm chất của cả cộng đồng các dân tộc Tây Nguyên, thậm chí của con người Vi ệt Nam trong chiến đấu (yêu
nước, căm thủ giặc sâu sắc, gan dạ, dũng cảm, kiên cường, trung thành với cách m ạng…
+ Không gian nghệ thuật: rộng lớn.
+ Cách kể chuyện: Chuyện được kể bên bếp lửa qua lời kể của một già làng, đông đảo dân làng từ già đến tr ẻ đều
đang quây quần bên bếp lửa để lắng nghe, không khí rất trang nghiêm
+ Xây dựng thành công những hình tượng nghệ thuật độc đáo – hình t ượng cây xà nu, r ừng xà nu không ch ỉ th ể
hiện tư tưởng chủ đề, đem lại chất sử thi mà còn tạo nên giá trị lãng mạn bay bổng cho thiên truyện.
+ Giọng điệu: ngợi ca chủ nghĩa anh hùng cách mạng; ngôn ngữ trang trọng, hào hùng.
III. TỔNG KẾT
+ Tô đậm không khí, màu sắc đậm chất Tây Nguyên (bức tranh thiên nhiên; ngôn ngữ, tâm lí, hành động của nhân
vật)
+ Xây dựng thành công hai tuyến nhân vật đối lập gay gắt: giữa kẻ thù (th ằng Dục) v ới l ực lượng cách m ạng, đại
diện là các thế hệ nối tiếp nhau vừa có những nét cá tính sống động vừa mang những ph ẩm ch ất có tính khái quát,
tiêu biểu (cụ Mết, Tnú, Dít,…)
+ Khắc họa thành công hình tượng cây xà nu vừa hiện thực vừa mang đậm ý nghĩa biểu t ượng, đem l ại ch ất s ử thi
và lãng mạn, bay bổng cho thiên truyện.

+ Nghệ thuật trần thuật sinh động (đan cài câu chuyện về cuộc đời Tnú và cuộc nổi d ậy của dân làng Xô Man; xen
kẽ thời gian kể chuyện và thời gian của các sự kiện; phối hợp các điểm nhìn,…) tạo nên gi ọng đi ệu, âm hưởng phù
hợp với không gian Tây Nguyên.


6
VỢ CHỒNG A PHỦ (Tô Hoài)
I. KIẾN THỨC CHUNG
1. Tác giả Tô Hoài
– Nguyễn Sen (1920). Quê nội ở Thanh Oai- Hà Đông. Viết văn từ trước Cách m ạng – sáng tác v ới nhiều th ể lo ại
Số lượng tác phẩm đạt kỷ lục trong nền văn học Việt Nam hiện đại. Ông là người có vốn hiểu bi ết phong phú về các
phong tục tập quán, văn hóa của các vùng miền trên đất nước.
– Một số tác phẩm tiêu biểu: Dế Mèn phiêu lưu ký (1941), O chuột (1942), Truyện Tây B ắc (1953)…
b. Tác phẩm
– Hoàn cảnh sáng tác: Trong chuyến đi thực tế dài 8 tháng cùng bộ đội và gi ải phóng Tây B ắc.
– “Vợ chồng A Phủ” In trong tập “Truyện Tây Bắc“- Giải nhất Hội Văn nghệ Việt Nam 1954-1955.
II. KIẾN THỨC CƠ BẢN
1. Nhân vật Mị
* Lai lịch – xuất thân: Là một người nông dân bình thường. Mị vốn là cô gái xinh đẹp, hi ếu th ảo, có lòng t ự tr ọng và
có tài “thổi lá hay như thổi sáo” và được nhiều trai làng theo.
* Cuộc đời làm dâu gạt nợ:
– Thời gian: “Đã mấy năm”, nhưng “từ năm nào cô không nhớ …” => không còn ý thức về th ời gian, không còn ý
thức về cuộc đời làm dâu gạt nợ.
– Không gian: tảng đá trước cửa, cạnh tàu ngựa…khe suối…
+ Căn buồng kín mít: Không gian hẹp, cố định, quen thuộc, tăm tối, gợi cuộc đời tù hãm, bế tắc, luẩn quẩn…
– Hành động, dáng vẻ bên ngoài:
+ Cúi mặt, buồn rười rượi, đêm nào cũng khóc …
+ Trốn về nhà, định tự tử …
+ Cúi mặt, không nghĩ ngợi … vùi vào làm việc cả ngày và đêm.
– Suy nghĩ: Tưởng mình là con trâu, con ngựa nghĩ rằng “mình sẽ ngồi trong cá lỗ vuông ấy mà trông ra đến bao

giờ chết thì thôi…”.
+ Ngày Tết: chẳng buồn đi chơi…
=> Nghệ thuật miêu tả sinh động, cách giới thiệu khéo léo, hấp dẫn, nghệ thu ật tả thực, t ương phản (giữa nhà
thống lý giàu có với cô con dâu luôn cúi mặtkhông gian căn gu ồng chật hẹp v ới không gian thoáng r ộng bên ngoài).
=> Cuộc đời làm dâu gạt nợ là cuộc đời tôi tớ. Mị sông tăm tối, nhẫn nhục trong nỗi khổ vật ch ất thể xác, tinh
thần…không hy vọng có sự đổi thay.
* Sức sống tiềm tàng:
– Thời con gái: Vốn là một cô gái trẻ đẹp, có tài thổi sáo, có nhiều người say mê – có tình yêu đẹp.
– Khi xuân về:
+ Nghe – nhẩm thầm-hát.
+ Lén uống rượu-lòng sống về ngày trước.
+ Thấy phơi phới – đột nhiên vui sướng.
+ Muốn đi chơi (nhắc 3 lần).
=> Khát vọng sống trỗi dậy
– Bị A Sử trói đứng:
+ Như không biết mình bị trói.
+ Vẫn nghe tiếng sáo …
+ Vùng đi – sợ chết.
=> Khát vọng sống vô cùng mãnh liệt.
Khi cởi trói cho A Phủ:
+ Lúc đầu: vô cảm ” A Phủ có chết đó cũng thế thôi “.
+ Thấy nước mắt của A Phủ: thương mình, thương người.
=> Mị cởi trói cho A Phủ – giải phóng cho A Phủ là giải phóng cho chính mình.
=> Hành động có ý nghĩa quyết định cuộc đời Mị-là kết quả tất yếu của sức sống vốn tiềm tàng trong tâm hồn
người phụ nữ tưởng suốt đời cam chịu làm nô lệ.
=> Cuộc đời Mị là cuộc đời nô lệ điển hình của người phụ nữ dưới chế độ cũ.
b. Nhân vật A Phủ
* Cuộc đời:
– Lúc nhỏ: Mồ côi, sống lang thang => Bị bắt bán – bỏ trốn.
– Lớn lên: Biết làm nhiều việc. Khoẻ mạnh, không thể lấy nổi vợ vì nghèo.

+ Dám đánh con quan => Bị phạt vạ => làm tôi tớ cho nhà thống lý.


+ Bị hổ ăn mất bò => Bị cởi trói, bị bỏ đói…
* Sức sống mãnh liệt:
Bị trói: Nhay đứt 2 vòng dây mây quật sức vùng chạy => Khát khao sống mãnh liệt.
=> Cuộc đời A Phủ cũng là một cuộc đời nô lệ điển hình.
2. Cảnh xử kiện
– Diễn ra trong khói thuốc phiện mù mịt tuôn ra từ các lỗ cửa sổ như khói bếp …
– Người đánh, người quỳ lạy, kể lể, chửi bới. Xong một lượt đánh, kể chửi lại hút. Cứ thế từ trưa đến hết đêm
– A Phủ gan góc quỳ chịu đòn chỉ im lặng như tượng đá…
– Cảnh cho vay tiền: Kỳ quặc…Biểu hiện đậm nét sự tàn ác dã man của bọn thống trị miền núi.
=> Hủ tục và pháp luật nằm trọn trong tay bọn chúa đất nên kết quả: A Phủ trở thành con ở trừ n ợ đời đời kiếp kiếp
cho nhà thống lý Pá Tra.
=> Cha con thống lý Pá Tra điển hình cho giai cấp thống trị phong ki ến miền núi ở Tây Bắc n ước ta tr ước Cách
mạng.
3.. Vài nét nghệ thuật
+ Nghệ thuật xây dựng nhân vật, miêu tả tâm lí: nhân vật sinh động, có cá tính đậm nét (V ới Mị, tác gi ả ít miêu t ả
hành động, dùng thủ pháp lặp lại có chủ ý một số nét chân dung gây ắn tượng sâu đậm, đặc biệt tác gi ả miêu t ả
dòng ý nghĩ, tâm tư, nhiều khi là tiềm thức chập chờn…Với A Phủ, tác giả chủ yếu khắc ho ạ qua hành động, công
việc, những đối thoại giản đơn).
+ Nghệ thuật miêu tả phong tục tập quán của Tô Hoài rất đặc sắc với những nét riêng (c ảnh x ử ki ện, không khí l ễ
hội mùa xuân, những trò chơi dân gian, tục cướp vợ, cảnh cắt máu ăn thề,…).
+ Nghệ thuật miêu tả thiên nhiên miền núi với những chi tiết, hình ảnh thấm đượm chất th ơ.
+ Nghệ thuật kể chuyện tự nhiên, sinh động, hấp dẫn.
+ Ngôn ngữ tinh tế, mang đậm màu sắc miền núi.
III. TỔNG KẾT
Qua việc miêu tả cuộc đời, số phận của Mị và A Phủ, nhà văn đã làm sống lại quãng đời tăm tối, cơ cực của ng ười
dân miền núi dưới ách thống trị dã man của bọn chúa đất phong kiến, đồng th ời kh ẳng định sức s ống tiềm tàng,
mãnh liệt không gì huỷ diệt được của kiếp nô lệ, khẳng định chỉ có sự vùng dậy của chính h ọ, được ánh sáng Cách

mạng soi đường đến một cuộc đời tươi sáng. Đó chính là giá trị hiện thực sâu sắc, giá trị nhân dạo l ớn lao, ti ến b ộ
của Vợ chồng A Phủ. Những giá trị này đã giúp cho Tô Hoài, tác phẩm của Tô Hoài đứng vững trước th ử thách của
thời gian và được nhiều thế hệ bạn đọc yêu thích


7

VỢ NHẶT ( Kim Lân)

I. KIẾN THỨC CƠ BẢN
1. Đôi nét về Kim Lân
– Kim Lân (1920 – 2007). Trước CMT8: Ông chủ yếu viết về nông thôn, đề tài người nông dân. Sau
CMT8: Làm báo, viết văn. Một số tác phẩm tiêu biểu: Nên vợ nên chồng (1955), Con chó xấu xí (1962)

– Phong cách sáng tác: Cây bút chuyên viết truyện ngắn, chủ yếu viết về đề tài nông thôn, người
nông dân.
2. Đôi nét về “Vợ nhặt”
– Hoàn cảnh sáng tác: Truyện Vợ nhặt có tiền thân là tiểu thuyết Xóm ngụ cư – tác phẩm được viết
ngay sau Cách mạng tháng Tám nhưng còn dở dang và bị mất bản thảo. Hoà bình lập lại (1954), dựa
trên một phần cốt truyện cũ, Kim Lân đã viết truyện Vợ nhặt.
– Xuất xứ: Tác phẩm được in trong tập Con chó xấu xí (1962).
3.Tóm tắt truyện “Vợ nhặt”
Truyện lấy bối cảnh là nạn đói năm 1945. Tràng – một thanh niên nghèo, lại là dân ngụ cư, trong một
lần đẩy hàng đã tình cờ có được vợ. Cô vợ nhặt đã tình nguyện theo Tràng chỉ sau một câu nói đùa và
bốn bát bánh đúc. Tràng đưa “thị” về giữa cảnh đói khát đang tràn đến xóm ngụ cư. Bà cụ Tứ thấy
con có vợ thì vừa mừng vừa tủi cho thân phận nghèo khó của mình và thương con, thương nàng dâu
đói khổ. Họ sống với nhau trong cảnh đói nghèo nhưng hạnh phúc và tin rằng: Việt Minh về làng, họ
sẽ đi phá kho thóc Nhật, lấy lại thóc gạo để cứu sống mình.
4. Ý nghĩa nhan đề
– Nhan đề gợi tình huống éo le, kích thích trí tò mò người đọc. Thông thường, người ta có thể nhặt thứ

này, thứ khác, chứ không ai “nhặt” “vợ”. Bởi dựng vợ gả chồng là việc lớn, thiêng liêng, có ăn hỏi, có
cưới xin theo phong tục truyền thống của người Việt, không thể qua quýt, coi như trò đùa.
– “Vợ nhặt” là điều trái khoáy, oái ăm, bất thường, vô lí. Song thực ra nó lại rất có lí. Vì đúng là anh
Tràng đã nhặt được vợ thật. Chỉ một vài câu bông đùa của Tràng mà có người đã theo về làm vợ. Điều
này đã thực sự khiến một việc nghiêm túc, thiêng liêng trở thành trò đùa và ngược lại, điều tưởng như
đùa ấy lại chính là sự thực. Từ đây, bản thân nhan đề tự nó đã gợi ra cảnh ngộ éo le, sự rẻ rúng của
giá trị con người. Chuyện Tràng nhặt được vợ đã nói lên tình cảnh thê thảm và thân phận tủi nhục của
người nông dân nghèo trong nạn đói khủng khiếp năm 1945.
II. KIẾN THỨC CƠ BẢN
1.Tình huống truyện
– Tình huống truyện : Anh Tràng vừa nghèo, vừa xấu lại là dân ngụ cư thế mà lấy được vợ ngay giữa
lúc đói khát, ranh giới giữa sự sống và cái chết hết sức mong manh.
– Tình huống lạ, độc đáo : người như Tràng mà lấy được vợ, thậm chí có vợ theo ! Thời buổi đói khát
này, người như Tràng nuôi thân chẳng xong mà dám lấy vợ ! Chẳng phải thế mà việc Tràng có vợ đã
tạo ra sự lạ lùng, ngạc nhiên với tất cả mọi người trong xóm ngụ cư, với bà cụ Tứ, thậm chí đã có
những thời điểm chính Tràng cũng chẳng thể nào tin được vào điều đó.
– Tình huống truyện không chỉ tạo ra một hoàn cảnh “có vấn đề” cho câu chuyện mà còn nén trong
đó ý đồ nghệ thuật của nhà văn đồng thời gợi mở các khía cạnh giá trị hiện thực và nhân đạo của tác
phẩm.
2. Nhân vật
2.1. TRÀNG
*Tràng là người dân lao động nghèo, “nhặt” được vợ trong thời buổi đói khát:
– Bản thân anh là dân ngụ cư, dân ăn nhờ, ở đậu.
– Tràng sống với mẹ già trong một căn nhà xiêu vẹo trên bãi đất hoang mọc lổn nhổn những búi cỏ
dại.
Hoàn cảnh xuất thân : khó lấy được vợ.
– Tuy nhiên, giữa cái khung cảnh tối sầm lại vì đói khát, Tràng bỗng nhiên “nhặt” được vợ.Cuộc gặp gỡ
giữa Tràng và người đàn bà không tên diễn ra thât chóng vánh chỉ qua hai lần gặp mà chỉ gặp ở
đường và chợ để rồi “nên vợ, nên chồng”:



+ Lần gặp thứ nhất : Trên đường kéo xe thóc lên tỉnh, Tràng hò chơi cho đỡ mệt “Muốn….”. Không
ngờ, thị ra đẩy xe cho anh và còn liếc mắt cười tít nữa. Tràng thích lắm vì từ khi cha sinh mẹ đẻ đến
giờ mới có một người con gái cười với hắn tình tứ đến như thế.
+ Lần gặp thứ 2, ở quán nước ngoài chợ. Ban đầu, Tràng không nhận ra vì thị khác quá, trên khuôn
mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn hai con mắt. Khi nhận ra rồi, trong lời đáp “ăn gì thì ăn, chả ăn giầu”
Tràng sẵn sàng đãi thị bốn bát bánh đúc. Trong bối cảnh mà người ta lo thân không xong, ai cũng
đứng trên miệng vực thẳm của cái chết hành động mà Tràng đãi thị bốn bát bánh đúc chứng tỏ rằng
Tràng là một người khá tốt bụng và cởi mở. Chính sự tốt bụng và cởi mở của Tràng đã đem đến cho
Tràng hạnh phúc, Tràng nói đùa với thị “Này … rồi cùng về”, nhưng thị đã theo Tràng về thật. Khi
quyết định “đèo bòng” Tràng cảm thấy “chợn” nhưng “chậc kệ”
* Niềm hạnh phúc khi có vợ :
– Tràng khi đưa vợ về qua xóm ngụ cư : tâm trạng của anh hôm nay phớn phở, cười tủm tỉm, hai con
mắt thì sáng lên lấp lánh, trước ánh mắt nhìn đầy tò mò và ngạc nhiên của người dân trong xóm,
trước những lời xì xào bàn tán của người dân trong xóm, Tràng rất hãnh diện, rất đắc ý, mặt cứ vênh
lên như thể chứng tỏ với mọi người- Tràng đã có vợ.
– Tràng khi đưa vợ về đến nhà : Hành động: xăm xăm nhấc tấm phên rách ra và câu nói “Không có
người đàn bà nhà cửa ra thế đấy” ta hiểu rằng có vợ rồi người đàn ông ăn nói cục cằn kia bỗng văn
hóa hẳn lên. Ánh mắt của anh đã để ý đến cô vợ nhặt và thắc mắc với lòng mình “Quái, sao nó lại
buồn thế nhỉ?” Tràng sốt ruột mong ngóng mẹ về để còn ra mắt cô vợ nhặt.Khi mẹ về, sau lời giới
thiệu, Tràng cũng hồi hộp, lo lắng đợi chờ câu trả lời của mẹ, và chỉ khi người mẹ nói “Các con phải
duyên phải kiếp với nhau u cũng mừng lòng” Tràng mới thở đánh phào một cái.
Có thể nói, Kim Lân đã rất chú ý miêu tả diễn biến tâm trạng của Tràng từ khi có vợ. Có rất nhiều lần
Kim Lân nhắc đến nụ cười của Tràng để nhấn mạnh đến niềm khát khao hạnh phúc, khát khao mái ấm
gia đình để thách thức với cái đói đang tung lưới bủa vây.
– Tràng trong buổi sáng ngày hôm sau :
+ Tràng thấy mình như bước ra từ một giấc mơ, trong người “êm ái lửng lơ”.
+ Trước mặt anh mọi thứ đều thay đổi: nhà cửa sân vườn hôm nay đều được quét tước sạch sẽ; mấy
chiếc quần áo rách như tổ đỉa vẫn vắt ở góc nhà đã thấy đem ra sân hong; hai cái ang nước vẫn để
khô cong duới gốc cây ổi giờ đã kín nước đầy ăm ắp. Rõ ràng những cảnh tượng rất đỗi bình thường

ấy cũng đã làm cho anh cảm động, hạnh phúc với anh thật giản dị.
+ Từ buổi sáng đó, anh mới thấy mình nên người. Anh nghĩ đến tương lai, đến sự sinh sôi nảy nở của
hạnh phúc để rồi vui sướng, phấn chấn tràn ngập trong lòng.
+ Và người vợ nhặt của Tràng hôm nay cũng khác lắm – đó là một người đàn bà hiền hậu, đúng mực,
không có vẻ gì chao chát, chỏng lỏn nữa.
+ Tràng thấy “thương yêu gắn bó với cái nhà của hắn lạ lùng. Hắn đã có một gia đình. Hắn sẽ cùng vợ
sinh con đẻ cái ở đấy. Cái nhà như cái tổ ấm che mưa che nắng. Một nguồn vui sướng, phấn chấn tràn
ngập trong lòng. Bây giờ hắn mới thấy hắn nên người, hắn thấy hắn có bổn phận phải lo lắng cho vợ
con sau này”. Nguồn vui ấy như tia nắng, như ánh bình minh đem sinh khí đến cho cuộc sống vốn
đang ngập tràn sự chết chóc của cái đói tung lưới bủa vây.
+ Và trong bữa cơm đầu tiên, bữa cơm của 3 con người đang khốn khổ vì cái đói, tràn ngập sự đầm
ấm, hoà hợp.
– Hình ảnh khép lại tác phẩm trong óc Tràng là hình ảnh lá cờ đỏ và đoàn người đói đi trên đê Sộp, gợi
cho người đọc nghĩ về Việt Minh, về Cách mạng tháng Tám vĩ đại, về sự vùng dậy của những người
dân khốn khổ, đập tan xiềng xích, giành lại cơm áo, giành lại sự sống cho bản thân, giành lại độc lập
tự do cho dân tộc. Vì thế, kết thúc của tác phẩm đã gieo vào lòng người đọc một niềm tin mãnh liệt,
gieo một hạt giống hi vọng mãnh liệt vào tâm hồn Tràng, gia đình anh và tất cả bạn đọc chúng ta.
2.2. THỊ - NGƯỜI VỢ NHẶT
– Cũng giống như Tràng, khung cảnh Kim Lân để cho nhân vật này xuất hiện là một không gian tối
sầm vì đói khát. Cũng giống như bao người khác, thị ngồi vêu cùng với mấy chị em gái nơi cửa nhà
kho. Chị không có tên, không tuổi tác, không cha mẹ, không gia đình… môt con số không tròn trĩnh
đang bao trùm lên lá số tử vi của chị. Cái đói đã cướp đi của thị tất cả.
– Khi chưa theo Tràng về làm vợ cái đói đã để lại “dấu tích” ghê gớm trên dáng hình và tính cách của
chị:


+ Lần gặp thứ nhất: có vẻ táo tợn, ăn nói mạnh mẽ “Có khối cơm trắng mấy giò mà ăn đấy! “Này nhà
tôi ơi! Nói thật hay nói khoác đấy”
+ Lần gặp thứ 2: chân dung của thị khiến Tràng không nhận ra, gầy (dẫn chứng)…Thị cong cớn trong
lời nói, vô duyên trong hành động “sà xuống đánh… cắm đầu ăn một chặp bốn bát bánh đúc… ăn

xong cầm đôi đũa quệt ngang miệng, thở: Hà ngon! Về chị thấy hụt tiền thì bỏ bố”. Tuy nhiên, ẩn
đằng những lời nói và hành động ấy là khát vọng về hạnh phúc và sự sống.
– Kim Lân không có ý chê bai người vợ nhặt kia, dù thực tế cũng có những người phụ nữ không đẹp.
Điều mà nhà văn muốn nhấn mạnh ở đây là: sức hủy hoại khủng khiếp của cái đói đối với hình hài và
tính cách của con người. Vì đói mà thị cố tạo ra cái vẻ cong cớn, chao chát, chỏng lỏn như là để thách
thức với số phận. Vì đói mà thị quên đi cả sĩ diện của mình, quên đi cả lòng tự trọng theo không một
người đàn ông về làm vợ trong khi chẳng biết tí gì về anh ta. Vì đói mà thị đánh liều nhắm mắt đưa
chân, đánh liều với hạnh phúc cả đời mình. Thị thật đáng thương. Nhưng đằng sau sự liều lĩnh ấy của
thị, người đọc hiểu rằng, thị là người có ý thức bám lấy sự sống mãnh liệt.
– Miêu tả nhân vật thị, Kim Lân không chú trọng nhiều đến diễn biến tâm trạng bên trong mà Kim Lân
chú ý nhiều đến hành động:
+ Thị bước sau Tràng chừng 3-4 bước, cái nón rách tàng nghiêng nghiêng che đi nửa mặt, mặt cúi
xuống, chân nọ bước díu cả vào chân kia. Thị đã ý thức được về bản thân, cái dáng cúi mặt kia phải
chăng đó là sự tủi phận
+ Về đến nhà, trông nếp nhà rẹo rọ của Tràng, thị nén tiếng thở dài, tiếng thở dài chấp nhận bước vào
cuộc đời của Tràng.
+ Hành động khép nép, tay vân vê tà áo khi đứng trước mặt bà cụ Tứ, thị thật đáng thương
– Tuy nhiên, ở sâu thẳm bên trong con người này vẫn có một niềm khát khao mái ấm gia đình thực sự.
Thị đã trở thành một con người hoàn toàn khác khi là một người vợ trong gia đình. Hạnh phúc đã làm
cho thị thay đổi từ một người phụ nữ cong cớn, đanh đá bỗng trở thành một người đàn bà hiền hậu
đúng mực, mái ấm gia đình đã đủ sức mạnh làm thay đổi một con người.
– Hình tượng chị vợ nhặt thể hiện rất rõ tư tưởng nhân đạo của Kim Lân
+ Một mặt nhà văn đã lên án tội ác dã man của phát xít Nhật và TDP. Nạn đói do chúng gây ra đã
cướp đi mọi giá trị của con người, và biến người con gái như một thứ đồ rẻ rúng có thể nhặt được
+ Mặt khác vợ Tràng đã nói lên một sự thật ở đời đó là trong đói khổ, hoạn nạn, kề bên cái chết nhưng
con người vẫn khát khao được sống, vẫn sống ngay khi cả cuộc đời không thể chịu được nữa. Những
con người nghèo khổ vẫn thương yêu đùm bọc, và cùng nhau vun đắp hạnh phúc để vượt qua những
thử thách khắc nghiệt.
2.3. BÀ CỤ TỨ
– Nhà văn Kim Lân tâm sự: “ Phần gây xúc động lớn nhất cho tôi khi đọc lại truyện ngắn Vợ nhặt đó là

đoạn bà cụ Tứ- mẹ Tràng trở về”. Thông điệp nghệ thuật về bản chất nhân đạo trong tâm hồn người
Việt ở hình tượng nhân vật bà cụ Tứ đã được Kim Lân thể hiện thành công qua diến biến tâm trạng
của người mẹ nghèo ấy khi nhìn thấy chị vợ nhặt xuất hiện trong nhà mình cho đến buổi sáng ngày
hôm sau.
– Ngạc nhiên và bất ngờ là tâm trạng đầu tiên ở người mẹ nghèo khi lật đật theo con từ ngõ vào nhà.
Từ trước đến giờ có bao giờ Tràng mong ngóng mẹ về đến thế đâu, nhất định là phải chuyện gì quan
trọng, khác thường. Chân bước theo con nhưng lòng bà đang phấp phỏng. Rồi “đứng sững lại” khi bà
nhìn thấy một người phụ nữ đứng ở đầu giường con trai bà , mà lại chào bà bằng u. Ngạc nhiên đã
làm cho bà lão không còn tin vào cảm giác của bà nữa, tự dưng bà lão thấy mắt mình nhoèn đi thì
phải. Nhưng thực sự mắt bà không nhoèn, và tai bà cũng không đến mức điếc lác như chị vợ nhặt
nghĩ ban đầu. Bà chưa thể tin, không thể tin rằng con mình lại có người theo và lại chưa bao giờ hình
dung nhận dâu trong một tình cảnh trớ trêu, tội nghiệp đến thế.
– Bà lão cúi đầu nín lặng, đằng sau cái cúi đầu nín lặng ấy là dòng cảm xúc tuôn trào, là cơn bão lòng
đang cuộn xoáy với tình thương con vô bờ bến. Bây giờ thì bà không chỉ biết sự việc “Nhà tôi nó mới
về làm bạn với tôi đấy u ạ” như lời Tràng thưa gửi mà bà còn hiểu ra biết bao nhiêu cơ sự, vừa ai oán
vừa xót thương cho số kiếp của con trai mình. Bà tủi thân, tủi phận, bà so sánh người ta với mình
“người ta dựng vợ gả chồng cho con những lúc nhà ăn lên làm nổi, còn mình thì…”. Bà lão chua chát,
tự trách bản thân mình, càng thương con bao nhiêu bà lại càng tủi phận bấy nhiêu. Bà lão đã khóc,


những giọt nước mắt hiếm hoi của người già dưới ngòi bút nhạy cảm của Kim Lân đã gieo vào lòng
người đọc biết bao thương xót, tủi buồn.
Bà đã chấp nhận nàng dâu không phải chỉ bằng tình mẫu tử mà lớn hơn đó là tình người, là sự cảm
thông với chị vợ nhặt từ cái nhìn của người cùng giới, cùng là phụ nữ. Câu nói đầu tiên mà bà cụ Tứ
dành cho chị vợ nhặt “Ừ thôi các con phải duyên phải kiếp với nhau, u cũng mừng lòng”, lời nói của
bà như trút đi biết bao gánh nặng tâm trạng đang đè nặng trong Tràng, lời nói ấy như một sự chiêu
tuyết cho giá trị của cô vợ nhặt. Câu nói ấy của bà làm cuộc hôn nhân của Tràng và thị không còn là
chuyện nhặt nhau ở đường và chợ nữa mà là duyên phận. Cách nói giản dị mà chan chứa tình người
quả thực đã làm ấm lòng những số phận tội nghiệp. Thị và Tràng dường như cũng sẽ ấm lòng hơn khi
kinh nghiệm của một người mẹ từng trải nói “ai giàu ba họ, ai khó ba đời”. Bà động viên an ủi con trai

và con dâu cùng nhau bước qua khó khăn đói khổ trước mắt mà lòng đầy thương xót.
– Nhưng sau những lời động viên ấy ta lại thấy Kim Lân để nhân vật bà cụ Tứ quay về với chính cuộc
đời mình để mà lo lắng cho hạnh phúc thực tại của hai con. Điều mà bà lo không phải là “sự hợp nhau
hay không hợp nhau” giữa hai người mà điều mà người mẹ ấy lo lắng đó là, cái đói đang đe dọa hạnh
phúc của con bà. Trong bóng tối, bà nghĩ về cuộc đời dài dằng dặc của đời mình, cuộc đời của những
người thân để mà thấu hiểu, thương xót rồi “nghẹn lời” chỉ có dòng nước mắt chảy xuống ròng ròng.
– Hạnh phúc mới của con làm bà cụ Tứ được vui lây, bà động viên an ủi các con, nghĩ về một tương lai
tươi sáng phía trước:
+ Khuôn mặt của bà nhẹ nhõm, tươi tỉnh khác ngày thường, bà xăm xắn quét dọn, giẫy những búi cỏ
dại nham nhở trong vườn, thu dọn nhà cửa cho quang quẻ với hy vọng đời sẽ có cơ khấm khá.
+ Trong bữa ăn đầu tiên, mâm cơm ngày đói sao thảm hại: chỉ có một lùm rau chuối thái rối, một đãi
muối, một niêu cháo lõng bõng toàn nước và món chính là chè khoán – cháo cám nhưng không khí gia
đình thật ấm áp, tình chồng vợ, tình mẹ con- những nguồn động lực lớn lao ấy giúp họ tăng thêm sức
mạnh để vượt qua thực tại.
+ Bà cụ Tứ toàn nói chuyện của tương lai, toàn chuyện vui, chuyện sung sướng về sau. Bà lão bàn với
con tính chuyện nuôi gà, ngoảnh đi ngoảnh lại sẽ có đàn gà cho mà xem. Câu chuyện của bà lão bất
giác làm cho ta nhớ lại bài ca dao miền Trung- mười cái trứng. Cũng giống như tất cả những người
bình dân xưa, bà lão đang gieo vào lòng các con bà niềm lạc quan, niềm tin và hi
vọng. Từ đàn gà mà có tất cả. Khát vọng sống bật lên ngay cả trong hoàn cảnh khốn cùng nhất “chớ
than phận khó ai ơi- Còn da lông mọc, còn chồi nảy cây”.
– Song niềm vui của bà cụ Tứ cũng thật tội nghiệp. Miếng cháo cám đắng chát và tiếng trống thúc
thuế dồn dập vội vã đưa bà cụ Tứ trở về với thực tại với tiếng nói xen lẫn cả hơi thở dài trong lo lắng:
“Đằng thì nó bắt giồng đay, đằng thì nó bắt đóng thuế. Giời đất này không chắc đã sống được qua
được đâu các con ạ”! Và bà lại khóc, tình thương con lại hiện hình qua những giọt nước mắt lặng lẽ
tuôn rơi.
Với sự thấu hiểu, với sự đồng cảm, Kim Lân đã dựng lên hình ảnh bà cụ Tứ- người mẹ thương con,
nhân hậu, bao dung. Trong hoàn cảnh đói nghèo, bà vẫn dang rộng cánh tay đón nhận người con dâu
mặc dù trong lòng còn nhiều xót xa, tủi cực, vẫn gieo vào lòng các con ngọn lửa sống trong hoàn cảnh
tối tăm của xã hội lúc bấy giờ.
3. GÍA TRỊ HIỆN THỰC VÀ NHÂN ĐẠO

3.1. Giá trị hiện thực:
– Truyện đã dựng lại một cách chân thực những ngày tháng bi thảm trong lịch sử dân tộc, đó là
khoảng thời gian diễn ra nạn đói năm 1945 :
+ Cái chết đeo bám, bủa vây khắp mọi nơi.
+ Dòng thác người đói vật vờ như những bóng ma.
+ Cái đói đã tràn đến xóm ngụ cư từ lúc nào.
+ Âm thanh của tiếng quạ gào lên từng hồi thê thiết.
+ Xóm ngụ cư, với những khuôn mặt hốc hác, u tối.
+ Cái đói hiện lên trong từng nếp nhà rúm ró, xẹo xệch, rách nát.
+ Cái đói hiện hình trên khuôn mặt của chị vợ nhặt.
+ Bữa cơm ngày đói trông thật thảm hại.
– Truyện phơi bày bản chất tàn bạo của thực dân Pháp và phát xít Nhận đã gây ra nạn đói năm 1945.
– Tuy nhiên, còn có một hiện thực được phản ánh trong tác phẩm: hiện thực mang tính xu thế, đó là


tấm lòng của người dân khi đến với cách mạng.
3.2. Giá trị nhân đạo
+ Thái độ đồng cảm xót thương với số phận của người lao động nghèo khổ.
+ Lên án tội ác dã man của thực dân Pháp và phát xít Nhật đã gây ra nạn đói khủng khiếp.
+ Trân trọng tấm lòng nhân hậu, niềm khao khát hạnh phúc bình dị những người lao động nghèo.
+ Dự báo cho những người nghèo khổ con đường đấu tranh để đổi đời, vươn tới tương lai tươi sáng.
III. TỔNG KẾT
1. Nghệ thuật
– Xây dựng tình huống truyện độc đáo.
– Lối trần thuật tự nhiên, hấp dẫn làm nổi bật sự đối lập giữa hoàn cảnh và tính cách nhân vật.
– Tạo không khí và dựng thoại rất hấp dẫn, ấn tượng.
– Nhân vật được khắc hoạ sinh động đặc biệt là ngòi bút miêu tả tâm lý nhân vật tinh tế.
– Ngôn ngữ : Bình dị, đời thường nhưng có chắt lọc kỹ lưỡng, có sức gợi và đậm chất Bắc Bộ.
2. Chủ đề
Qua truyện “Vợ nhặt”, Kim Lân muốn khẳng định : trong những hoàn cảnh khó khăn nhất, ngay cả khi

cái chết liền kề, những người dân lao động nghèo khổ, lương thiện vẫn yêu thương, đùm bọc lấy nhau,
vẫn khát khao mái ấm hạnh phúc gia đình và hy vọng vào một cuộc sống mới tốt đẹp hơn


8
ĐẤT NƯỚC
(trích Trường ca Mặt đường khát vọng- Nguyễn Khoa Điềm)
I. Tác giả
- Nguyễn Khoa Điềm thuộc thế hệ những nhà thơ trưởng thành trong khói lửa kháng chiến chống Mỹ
- Thơ ông giàu chất suy tư, cảm xúc dồn nén, thể hiện tâm tư người trí thức tham gia chiến đấu.
II. Đoạn trích “Đất Nước”
1.Hoàn cảnh ra đời, xuất xứ
“Đất Nước” thuộc phần đầu của chương V trong trường ca Mặt đường khát vọng – tác phẩm được hoàn thành ở
chiến khu Trị – Thiên năm 1971, viết về sự thức tỉnh của tuổi trẻ vùng đô thị tạm chiếm miền Nam về non sông đất
nước, về sứ mệnh của thế hệ mình, xuống đường đấu tranh chống đế quốc Mỹ xâm lược.
2. Nội dung
2.1.Phần 1: Cảm nhận về Đất Nước
- Đất nước thật dung dị, đời thường: Đất Nước hiện lên qua câu chuyện cổ tích mẹ kể, miếng trầu bà ăn, nh ững
dãy tre làng, “bới” tóc của mẹ, gừng cay, muối mặn, cái kèo, cái cột, hạt g ạo...
- Đất nước “đã có” từ thủa rất xa xưa và rất gần gũi thân thương đối với mỗi con người.
- Nét độc đáo trong nghệ thuật thể hiện: Đoạn thơ là sự kết tinh đặc sắc giữa chất liệu văn hoá dân gian v ới hình
thức thơ trữ tình- chính luận.
- Về không gian địa lý :
+ Đất nước là nơi rất gần gũi với cuộc sống mỗi người ( nơi anh đến trường... nơi em tắm).
+ Đất Nước tồn tại ngay cả trong những không gian riêng tư của tình yêu đôi lứa : “Đất N ước là n ơi ta hò h ẹn. Đất
Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm”.
+ Đất Nước còn là không gian sinh tồn hết sức đời thường của nhân dân qua bao thế hệ “Nh ững ai đã khuất.
Những ai bây giờ. Yêu nhau và sinh con đẻ cái. Gánh vác phần người đi trước để l ại…”).
- Về thời gian lịch sử : Đất Nước được cảm nhận suốt chiều dài thời gian lịch sử từ quá kh ứ đến hiện tại và tương
lai.

+ Đó là một Đất Nước thiêng liêng, hào hùng trong quá khứ (gắn liền với huy ền thoại L ạc Long Quân và Âu C ơ,
truyền thuyết về các vua Hùng dựng nước).
+ Đó là một Đất nước giản dị, gần gũi trong hiện tại (“Trong anh và em hôm nay. Đều có một phần Đất N ước”)
+ Và một Đất Nước triển vọng sáng tươi trong tương lai (“Mai này con ta lớn lên. Con sẽ mang Đất N ước đi xa.
Đến những tháng ngày mơ mộng”).
- Từ cách cảm nhận và lí giải Đất Nước như thế nhà thơ suy nghĩ về trách nhiệm của mọi ng ười :
+ Đất nước kết tinh, hoá thân trong cuộc sống của mỗi con người, vì thế mọi ng ười phải có tinh thần c ống hi ến, có
trách nhiệm đối với sự trường tồn của quê hương, xứ sở.
+ Cần biết gắn bó biết san sẻ : sự sống của mỗi con người không chỉ là của riêng cá nhân mà còn thu ộc v ề Đất
nước.
+ Lời nhắn nhủ với thế hệ trẻ, lời tự nhủ với chính bản thân đầy chân thành tha thiết.
2.2.Tư tưởng “Đất nước của nhân dân” trong phần 2 của đoạn trích
- Về địa lý : nhà thơ đã nhìn ngắm Đất Nước mình qua các danh thắng trải dài từ Bắc chí Nam. Tất cả các địa danh
được nhắc đến đều gắn liền với một huyền thoại, huyền tích và sự thật về nhân dân trong lịch sử. Nói cách khác,
chính những huyền thoại, huyền tích và sự thật lịch sử về nhân dân đã làm nên tên tuổi của các địa danh ấy, bi ến
chúng thành danh thắng, thành di tích lịch sử văn hóa được mọi người thừa nhận và biết đến :
+ những người vợ nhớ chồng – núi Vọng Phu;
+ cặp vợ chồng yêu nhau – hòn Trống Mái;
+ người học trò nghèo – núi Bút, non Nghiên;
+ Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm…
Trong con mắt của nhà thơ, mỗi danh thắng không chỉ là một nét vẽ tô điểm vào bức “tranh họa đồ” Đất N ước mà
còn ẩn chứa những nét đẹp tâm hồn của nhân dân trong mấy nghìn năm lịch s ử : sự thủy chung; tình ngh ĩa v ợ
chồng; tinh thần yêu nước; ý thức hướng về tổ tông, nguồn cội; tinh thần hiếu h ọc, ý chí vượt khó v ươn lên; tinh
thần xả thân vì cộng đồng, dân tộc… Tựu chung lại, đúng như nhà thơ đã khái quát : “Và ở đâu trên kh ắp ruộng
đồng gò bãi. Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha. Ôi Đất Nước sau bốn nghìn n ăm đi
đâu ta cũng thấy. Những cuộc đời đã hóa núi sông ta”.
- Về lịch sử : khi nhìn vào “bốn nghìn năm Đất Nước”, Nguyễn Khoa Điềm nhấn mạnh đến “lớp l ớp” những con
người “giản dị và bình tâm. Không ai nhớ mặt đặt tên. Nhưng họ đã làm ra Đất Nước”. Không ai khác mà chính họ
đã gìn giữ và truyền lại cho các thế hệ mai sau mọi giá trị văn hóa vật chất và tinh thần của Đất N ước: hạt lúa, ng ọn
lửa, tiếng nói, ngôn ngữ dân tộc, bản sắc văn hóa các vùng miền… Cũng chính họ “Có ngoại xâm thì ch ống ngo ại



xâm. Có nội thù thì vùng lên đánh bại” tạo dựng chủ quyền, đắp nền xây móng cho ngôi nhà Đất N ước để các th ế
hệ mai sau kế thừa và tiếp tục dựng xây, phát triển.
- Về văn hóa : khi khẳng định “Đất Nước của Nhân dân”, tác giả đã trở về với ngọn nguồn phong phú, đẹp đẽ của
văn hóa, văn học dân gian mà tiêu biểu là ca dao. Ca dao chính là di ện m ạo tinh thần, là n ơi l ưu gi ữ đời s ống tâm
hồn tình cảm của nhân dân qua bao thế hệ. Nguyễn Khoa Điềm đã chọn ra từ kho tàng th ơ ca dân gian ba nét đẹp
tiêu biểu nhất của tâm hồn Việt, của bản sắc văn hóa Đất Nước: thật say đắm trong tình yêu, quý tr ọng tình ngh ĩa
và kiên trì, bền bỉ trong đấu tranh cho đến ngày toàn thắng.
3. Nghệ thuật
- Thể thơ tự do.
- Sử dụng chất liệu văn hóa dân gian: ngôn từ, hình ảnh bình dị, dân dã, giàu s ức gợi
- Giọng thơ thủ thỉ, tâm tình, biến đổi linh hoạt
- Sức truyền cảm lớn từ sự hòa quyện của chất chính luận và chất trữ tình.
4. Chủ đề
Bằng sự vận dụng đầy sáng tạo hình thức thơ trữ tình- chính trị, đoạn trích Đất Nước đã quy tụ mọi cảm nhận, m ọi
cái nhìn và vốn liếng sách vở cũng như những trải nghiệm cá nhân của ng ười ngh ệ sĩ để làm nên m ột tuyên ngôn
về tư tưởng, về nhận thức của cả một thế hệ nghệ sĩ, ấy là tư tưởng “Đất Nước của Nhân dân”
Nhận xét về cách sử dụng chất liệu văn hoá dân gian của tác giả (ca dao, tục ngữ, truyền thuyết, phong t ục…), t ừ
đó tìm hiểu những đóng góp riêng của nhà thơ về nghệ thuật biểu đạt.
- Chất liệu văn hóa dân gian được sử dụng rất đa dạng và sáng tạo. Có phong tục, l ối sống, tập quán sinh ho ạt,
(miếng trầu, tóc bới sau đầu, cái kèo, cái cột. hạt gạo xay, giã, dần sàng, hòn than, con cúi…); Có ca dao, dân ca,
tục ngữ, có truyền thuyết Hùng Vương, các truyện cổ tích từ xa xưa. Cách vận dụng của tác gi ả là th ường là chỉ g ợi
ra bằng một vài chữ của câu ca dao hay một hình ảnh, một chi tiết trong truyền thuyết. c ổ tích, tr ừ tr ường h ợp câu
dân ca Bình- Trị- Thiên được lấy lại nguyên vẹn “Con chim phượng hoàng … bi ển kh ơi”.
- Chất liệu văn hóa, văn học dân gian được sử dụng đậm đặc đã tạo nên một không gian ngh ệ thuật riêng cho đoạn
trích: vừa bình dị, gần gũi, hiện thực, lại vừa giàu tưởng tượng, vừa bay bổng, mơ mộng.



×