Tải bản đầy đủ (.doc) (75 trang)

GIỌNG ĐIỆU TRẦN THUẬT TRONG TRUYỆN NGẮN LỖ TẤN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (302.99 KB, 75 trang )

GIỌNG ĐIỆU TRẦN THUẬT
TRONG TRUYỆN NGẮN LỖ TẤN


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU............................................................................................................1
1. Lý do chọn đề tài.........................................................................................1
2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu...........................................................................2
3. Mục đích nghiên cứu...................................................................................7
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu...............................................................8
5. Phương pháp nghiên cứu............................................................................8
6. Đóng góp của luận văn................................................................................8
7. Cấu trúc của luận văn.................................................................................9
CHƯƠNG 1: GIỌNG ĐIỆU KHÁCH QUAN, LẠNH LÙNG..........................10
1.1. Giới thuyết khái niệm giọng điệu khách quan, lạnh lùng.......................10
1.2. Phê phán căn bệnh vô cảm, dửng dưng của quốc dân...........................12
1.3. Phê phán bản chất xấu xa của giai tầng thống trị.................................25
CHƯƠNG 2: GIỌNG ĐIỆU TRỮ TÌNH, THƯƠNG CẢM.............................35
2.1. Cảm thông với số phận của người phụ nữ.............................................35
2.2. Cảm thương với tình cảnh của người trí thức........................................45
CHƯƠNG 3: GIỌNG ĐIỆU GIỄU NHẠI, MỈA MAI......................................52
3.1. Giới thuyết chung về giọng điệu giễu nhại.............................................52
3.2. Phê phán sự hủ bại của tầng lớp trí thức thủ cựu..................................54
3.3. Phê phán sự ngụy biện giả dối của tầng lớp trí thức mới......................62
KẾT LUẬN.......................................................................................................68
TÀI LIỆU THAM KHẢO...............................................................................71


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Lỗ Tấn là cây bút đánh dấu sự xuất hiện của nền văn học Trung


Quốc hiện đại. Ông là tấm gương trong việc kế thừa và cách tân văn học.
Trong phương diện sáng tác, Lỗ Tấn thành công ở cả ba thể loại: truyện ngắn,
tạp văn và thơ, nhưng đặc sắc và tiêu biểu hơn cả là thể loại truyện ngắn. Với
ba tập Gào thét, Bàng hoàng, Chuyện cũ viết lại, Lỗ Tấn đã đưa tiếng nói mới
mẻ được viết bằng phong cách độc đáo vào nên văn học hiện đại Trung Quốc.
Vì vậy, nhà nghiên cứu Phadeep đã tôn ông là “danh thủ” về truyện ngắn.
1.2. Ở Trung Quốc, nghiên cứu, đánh giá tác giả Lỗ Tấn còn xuất hiện
những ý kiến trái chiều. Trong quá khứ, có người đánh giá Lỗ Tấn quá cao, có
người thậm chí phủ nhận hoàn toàn những đóng góp của ông trong nền văn
học nước nhà. Tại một số trường học ở Trung Quốc, các tác phẩm của Lỗ Tấn
hầu như không được đưa vào trong sách giáo khoa để giảng dạy. Tuy nhiên,
những năm trở lại đây việc đánh giá về nhà văn có xu hướng nhận thức lại.
Chính vì vậy, chúng tôi mong muốn dựa trên cơ sở tiếp thu những thành quả
nghiên cứu trước đó và để có thể góp một vài ý kiến cá nhân của mình vào
việc nghiên cứu về tác giả Lỗ Tấn.
1.3. Lịch sử nghiên cứu truyện ngắn Lỗ Tấn ở Việt Nam đã có bề dày
truyền thống. Các nhà nghiên cứu đã đi sâu tìm hiểu nhiều vấn đề thuộc cả
phương diện nội dung cũng như hình thức nghệ thuật. Tuy nhiên, chúng tôi
nhận thấy, phần lớn các công trình chủ yếu đi sâu phân tích hai tập Gào thét
và Bàng hoàng, còn tập Chuyện cũ viết lại với những đặc trưng nghệ thuật rất
riêng hầu như chưa được quan tâm thỏa đáng.
nghệ thuật giữ vai trò quan trọng. Nó có giá trị giúp người đọc hiểu sâu
sắc hơn nội dung tư tưởng và nghệ thuật của tác phẩm, cũng như góp phần
nhận diện được phong cách nhà văn. Tìm hiểu giọng điệu trong truyện Lỗ
Tấn, do đó, có ý nghĩa tích cực giúp chúng tôi phần nào thấy được bước
1


chuyển hóa mang tính sáng tạo từ nghệ thuật trần thuật truyền thống sang hiện
đại. Tác phẩm của nhà văn có sự kết hợp nhiều giọng điệu phong phú. Trong

một truyện thường hòa trộn các giọng điệu khác nhau, như xót xa, thương
cảm; khách quan, lạnh lùng; trữ tình; châm biếm, mỉa mai… Tuy nhiên, ở mỗi
tác phẩm bao giờ cũng nổi lên một chất giọng nhằm thể hiện ý đồ nghệ thuật
của nhà văn.
Về giọng điệu trong truyện ngắn Lỗ Tấn, cũng đã có nhiều nhà nghiên
cứu đề cập tới khi đi sâu khám phá giá trị nghệ thuật của các tác phẩm hoặc
khi phân tích các thiên truyện cụ thể. Tuy nhiên, do phạm vi đối tượng nghiên
cứu của các công trình, vấn đề này chưa được tìm hiểu một cách toàn diện, có
hệ thống ở cả ba tập truyện. Chọn “Giọng điệu trần thuật trong truyện ngắn
Lỗ Tấn” làm đề tài nghiên cứu, chúng tôi mong muốn tiếp tục cuộc hành trình
thú vị khám phá thêm nữa các tác phẩm của Lỗ Tấn, qua đó khẳng định tài
năng nghệ thuật của nhà văn.
2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu
2.1. Nghiên cứu khái quát về giọng điệu trong truyện ngắn Lỗ Tấn
Truyện ngắn Lỗ Tấn từ lâu vốn đã có sức hấp dẫn đặc biệt đối với các
nhà nghiên cứu. Đến nay, hơn nửa thế kỷ đã trôi qua nhưng ông vẫn là đề tài
không bao giờ cũ. Nhiều công trình nghiên cứu về Lỗ Tấn ở Việt Nam đã
dành những trang viết nhất định bàn về các phương diện nghệ thuật nói chung
và giọng điệu nghệ thuật trong truyện ngắn Lỗ Tấn nói riêng.
Có thể nói, Đặng Thai Mai là người đặt nền móng cho việc nghiên cứu
Lỗ Tấn ở Việt Nam. Nếu như trước đây, việc nghiên cứu truyện ngắn Lỗ Tấn
chủ yếu dựa vào cảm thụ chủ quan của các nhà nghiên cứu thì kể từ sau cách
mạng tháng Tám đến nay việc nghiên cứu truyện ngắn Lỗ Tấn ngày càng
khoa học và toàn diện hơn. Biết đến Lỗ Tấn từ mười sáu năm trước đó, nhưng
phải đến những năm bốn mươi của thế kỷ XX khi nhà văn mất rồi, Đặng Thai
Mai mới có điều kiện dồn sức lực và tâm huyết trong việc tìm dịch và nghiên
2


cứu các tác phẩm của nhà văn. Năm 1944, cuốn Lỗ Tấn - thân thế - Sự nghiệp

được xuất bản tuy còn sơ lược, nhưng là khởi đầu cho quá trình tìm hiểu Lỗ
Tấn của nhà nghiên cứu. Công trình này đã khẳng định tài năng nghệ thuật
của Lỗ Tấn. Tác giả nhận định, Lỗ Tấn “đã cố ý đem cả khối nhiệt tình mà
kiểm thúc lại để cho lý trí có thể vận dụng những điều quan sát vào trong sự
khái quát nghệ thuật, để miêu tả sự vật thực tế theo những nét bút sâu sắc, bạo
dạn, rắn rỏi, như ngọn dao nhà điêu khắc… Lỗ Tấn đã nén hẳn mối cảm tình
chủ quan để có gan mà viết những câu văn âm thầm đầy đặn có thể xúc động
tâm cơ độc giả” [2; 52,53].
Trong cuốn Đặng Thai Mai - tác phẩm, nhà nghiên cứu cũng đưa ra
nhận xét truyện ngắn Lỗ Tấn có “lối văn tả chân rất mạnh mẽ” và có sự “xen
kẽ đoạn văn trữ tình ý nhị”. Như vậy, từ rất sớm Đặng Thai Mai đã chú ý tới
giọng điệu châm biếm trong truyện ngắn Lỗ Tấn [2; 160].
Lương Duy Thứ trong công trình Mấy vấn đề thi pháp Lỗ Tấn và việc
giảng dạy Lỗ Tấn trong trường phổ thông, đã nêu lên một số đặc điểm thi
pháp trong sáng tác của Lỗ Tấn như: loại hình tượng chính, kiểu nhân vật
trung tâm, nhân vật người kể chuyện, tính chất trữ tình trong truyện ngắn. Tác
giả còn phân tích các đặc điểm văn chương của Lỗ Tấn trên tất cả các thể loại
truyện ngắn, tạp văn, thơ.
Trên cơ sở đó, ông đi sâu khám phá ngòi bút độc đáo thấm đượm giá trị
nhân văn và cách mạng của nhà văn. Tác giả cuốn sách viết “Có thể nói đến
thi pháp Lỗ Tấn như một hình mẫu văn học rất Trung Quốc nhưng lại rất hiện
đại, rất quốc tế và bóng dáng của nó bao trùm lên văn học Trung Quốc toàn
thế kỷ” [2; 20]. Đây là những đóng góp to lớn để người đọc hiểu rõ hơn về
con người và văn nghiệp của nhà văn.
Tác giả Trần Minh Sơn trong Phê bình văn học Trung Quốc đương đại
cũng đã cụ thể hóa về đối tượng phê phán và đóng góp của nhà văn trong việc
dùng ngòi bút để vạch trần, lên án chế độ phong kiến Trung Quốc “Kì thực
3



việc phê phán tính vô nhân đạo trong xã hội chuyên chế Trung Quốc đã được
nêu ra từ phong trào văn hóa mới Ngũ Tứ mà người đi tiên phong và phê phán
triệt để nhất là nhà văn Lỗ Tấn trong tác phẩm nổi tiếng của mình…”. Nói tới
Nhật ký người điên, với việc phê phán mạnh mẽ xã hội ăn thịt người, “phi đạo
đức nhất”. Chính là nhà nghiên cứu đã đề cập tới giọng điệu châm biếm trong
truyện ngắn của nhà văn [35; 18]. Cũng trong công trình này, các tác giả đã
khẳng định ý nghĩa ngòi bút phê phán của Lỗ Tấn: “Chúng ta bảo Lỗ Tấn vĩ
đại, đa phần vì ông sâu sắc”[35; 377].
Mở đầu cho Tuyển tập truyện ngắn Lỗ Tấn, Trương Chính đã có những
nhận xét, đánh giá về phương diện nghệ thuật truyện ngắn của nhà văn. Về đề
tài, Trương Chính xác định: “Cũng sống trong thời đại ấy mà cách nhìn của
ông sâu sắc hơn nhiều. Ông là người đầu tiên trong văn học Trung Quốc hiện
đại thiết tha đến lớp người dưới đáy xã hội” [28, 8]. “Cho nên vấn đề nông
dân chiếm một vị trí hết sức quan trọng trong tiểu thuyết của Lỗ Tấn [28, 10].
Hơn nữa, Trương Chính còn đánh giá: “Lỗ Tấn vĩ đại không phải ở chỗ trình
bày, miêu tả tình trạng nhân dân bị áp bức, đòi hỏi một cuộc cách mạng để
thay đổi tình trạng ấy, phê phán cuộc cách mạng Tân Hợi, vì cuộc cách mạng
này không triệt để, mà chính ở chỗ, trong tác phẩm của mình, ông luôn luôn
đem hết tâm trí tìm kiếm cho ra con đường phát triển cách mạng Trung Quốc
[28, 13].
2.2. Nghiên cứu về các kiểu giọng điệu trong truyện ngắn Lỗ Tấn
Đề cập tới giọng điệu châm biếm trong truyện ngắn Lỗ Tấn, chúng ta
cần kể đến nhóm tác giả Nguyễn Khắc Phi, Lưu Đức Trung, Trần Lê Bảo
trong Lịch sử văn học Trung Quốc. Các nhà nghiên cứu đã khẳng định, việc
sử dụng giọng điệu châm biếm góp phần tạo nên nghệ thuật gây cười cho các
thiên truyện. Đối tượng châm biếm mà ngòi bút Lỗ Tấn hướng tới rất đa dạng,
với mỗi đối tượng ông bày tỏ thái độ phê phán rõ ràng từ đó tạo nên các cung
bậc tiếng cười khác nhau trong tác phẩm. Các nhà nghiên cứu viết : “Trong
4



truyện ngắn và tạp văn, tính chất châm biếm và u mua khá nổi bật. Tính chất
đó đã nâng cao sức chiến đấu trong tác phẩm của ông rất mạnh mẽ. Thái độ
châm biếm, hài hước, u - mua của ông rất đúng mức, có lập trường rõ ràng.
Đối với bạn và thù, tốt và xấu, ông tỏ thái độ châm biếm khác nhau. Nghệ
thuật châm biếm của Lỗ Tấn tạo ra nhiều tiếng cười, cười vui, cười chơi, cười
tức, cười ghét” [25; 212 ].
Trong bài viết Cố hương” - phá vỡ bức tường dày ngăn cách nhân
gian, tác giả Lê Huy Tiêu đã nêu lên thái độ đánh giá của nhà văn Lỗ Tấn đối
với từng nhân vật trong tác phẩm. Với Nhuận Thổ, đó là lòng thương xót,
buồn rầu. Còn đối với Hai Dương, tác giả viết với ngòi bút châm biếm, tuy
nhiên, tiếng cười ở đây mang hàm ý xót xa, thương cảm [1; 217].
Có thể thấy, các công trình trên đã quan tâm tới giọng điệu châm biếm chất giọng nổi bật của truyện ngắn Lỗ Tấn. Ở mức độ sâu hơn có thể nói đến
các công trình khác.
Lê Huy Tiêu, trong luận án PTS Thi pháp truyện ngắn Lỗ Tấn cho rằng,
trong hai tập Gào thét và Bàng hoàng, Lỗ Tấn sử dụng các giọng điệu cơ bản
như giọng châm biếm, trữ tình, khách quan, lạnh lùng. Trong đó, tác giả
khẳng định, giọng điệu châm biếm chiếm tỷ lượng lớn. Ông chỉ ra đối tượng
châm biếm mà ngòi bút Lỗ Tấn hướng tới trước hết là giai tầng thống trị. Đó
là những kẻ đại diện cho chính quyền phong kiến như Cố Tiền, Cố Triệu, cụ
lớn Thất…. Ông viết: “Ở đây, tiếng cười châm biếm vạch trần chân tướng tính
trì trệ về mặt xã hội và số phận bị lên án của chúng về mặt lịch sử. Tiếng cười
trong tác phẩm cho chúng ta thấy không thể nào sửa chữa những hiện tượng
châm biếm mà không có sự thay đổi tận gốc rễ của chế độ chính trị” [25; 85].
Nhà nghiên cứu cũng cho rằng, giai cấp tư sản Trung Quốc với tính yếu hèn,
thỏa hiệp cũng là đối tượng châm biếm của nhà văn. Và đối tượng cuối cùng
là người dân lao động. Tuy là lực lượng tiến bộ của xã hội nhưng người dân
nói chung bao gồm người nông dân và trí thức vẫn có nhiều thói hư, tật xấu
5



do ô nhiễm từ môi trường, hoàn cảnh. Công trình còn làm nổi bật vai trò của
tiếng cười qua giọng điệu châm biếm, đả kích, đồng thời nêu lên các biện
pháp nghệ thuật mà Lỗ Tấn sử dụng góp phần tạo nên tiếng cười trong tác
phẩm. Tác giả Lê Huy Tiêu cũng nêu lên bên cạnh giọng điệu châm biếm
truyện ngắn Lỗ Tấn còn có giọng điệu trữ tinh. [27; 89].
Tác giả Nguyễn Thị Mai Chanh là một trong những người có nhiều bài
nghiên cứu về truyện ngắn Lỗ Tấn. Trong bài viết “Giễu nhại - một phương
thức thể hiện cảm hứng phê phán trong Chuyện cũ viết lại của Lỗ Tấn”, , tác
giả đã có hướng nghiên cứu cụ thể về giọng điệu này trong tập Chuyện cũ viết
lại. Tác giả nêu lên đối tượng giễu nhại trong tập truyện này chủ yếu là tầng
lớp trí thức với những tư tưởng lạc hậu, cổ hủ. Với những dẫn chứng phân
tích cụ thể, Nguyễn Thị Mai Chanh đã làm nổi bật vai trò của giọng điệu giễu
nhại trong việc chuyện tải ý đồ nghệ thuật của nhà văn.
Trong cuốn Nghệ thuật tự sự của Lỗ Tấn qua hai tập truyện ngắn Gào
thét và Bàng hoàng, tác giả Nguyễn Thị Mai Chanh đã đề cập tới giọng điệu
của các tác phẩm được kể theo ngôi thứ ba với điểm nhìn tập trung bên trong.
Ở các tác phẩm như Một gia đình hạnh phúc và Cao phu tử, người kể chuyện
đã thâm nhập vào đời sống nội tâm nhân vật, mượn giọng để nhân vật tự nói
về mình. Người kể ở đây tuy giữ thái độ điềm nhiên, lãnh đạm nhưng vẫn pha
lẫn giọng mỉa mai sâu cay. Như vậy, giọng điệu mỉa mai, châm biếm được
lồng ghép trong quá trình kể về diễn biến nội tâm của nhân vật. Cũng trong
công trình này, tác giả khẳng định giọng điệu khách quan, lạnh lùng cũng là
một giọng điệu được sử dụng nhiều trong tác phẩm, cụ thể là trong các tác
phẩm kể theo ngôi thứ ba với điểm nhìn bên ngoài như Thị chúng và Cây
trường minh đăng.
Tác giả Nguyễn Thị Mai Chanh còn cho rằng, trong truyện ngắn Lỗ
Tấn “có thể bắt gặp phổ biến dạng lời gián tiếp hai giọng. Ở các tác phẩm
thuộc hình thức tự sự ngôi thứ nhất theo điểm nhìn đa tuyến, nhà văn hay sử
6



dụng lời gián tiếp của người kể chuyện.Trong khi đó, ở các tác phẩm tự sự
ngôi thứ ba theo điểm nhìn bên trong và điểm nhìn phức hợp, nhà văn lại
thường xuyên sử dụng lời văn nửa trực tiếp. Lời nửa trực tiếp được coi như
một phương thức tu từ, bởi giá trị biểu đạt hết sức đặc biệt: tạo cho độc giả ấn
tượng về sự “hiện diện” sống động của ý thức nhân vật [67].
Truyện ngắn Lỗ Tấn bấy lâu còn được rất nhiều học viên chọn làm đề tài
nghiên cứu. Luận văn Phong cách nghệ thuật của Lỗ Tấn (1982) của Mai Trọng
Vi đã đề cập tới vấn đề về giọng điệu trong chương 2. Tuy nhiên, công trình mới
chỉ nghiên cứu một cách khái quát mà chưa có sự đi sâu nghiên cứu từng giọng
điệu riêng.
Mai Đức Hán trong luận văn Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Lỗ
Tấn (thời kỳ đầu) đã nêu lên một phần về giọng điệu. Chương 3 của luận văn,
tác giả đã đề cập đến điểm nhìn, kết cấu và giọng điệu. Viết về giọng điệu, tác
giả nêu lên 3 giọng điệu của tác phẩm như: giọng điệu châm biếm - mỉa mai;
giọng trữ tình sâu lắng; giọng khách quan, lạnh lùng. Mỗi giọng điệu tác giả
triển khai về đối tượng và nghệ thuật thể hiện giọng điệu đó [18; 65]. Tuy
nhiên, tác giả triển khai nội dung này mới ở mức sơ lược, đưa ra một vài ví dụ
phân tích, chưa triển khai thành vấn đề mang tính chuyên sâu.
Tóm lại, đề cập tới vấn đề giọng điệu trong truyện ngắn Lỗ Tấn đã có
nhiều công trình bài viết. Tuy nhiên, chúng tôi nhận thấy hầu hết các công
trình chưa được đặt thành vấn đề tìm hiểu chuyên sâu, mà thường dừng lại ở
việc điểm bình trong một mục hoặc một chương nào đó. Tiếp thu, kế thừa
những gợi dẫn của người đi trước, chúng tôi mạnh dạn đi sâu tìm hiểu một
cách có hệ thống về vấn đề này.
3. Mục đích nghiên cứu
Kế thừa những thành quả nghiên cứu nói trên, luận văn chúng tôi tiến
hành khảo sát nội dung và nghệ thuật của ba tập Gào thét, Bàng hoàng và
Chuyện cũ viết lại để thấy được giá trị nghệ thuật của truyện ngắn Lỗ Tấn.

7


Qua đó, chúng tôi có cái nhìn khái quát, toàn diện và sâu sắc hơn về
giọng điệu được sử dụng trong truyện ngắn của nhà văn. Từ đó, chúng ta càng
khẳng định rõ tài năng sáng tạo và cách tân ngôn ngữ trong văn học của Lỗ
Tấn so với các tác giả trước đó.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài: Ba kiểu giọng điệu nghệ thuật nổi bật
trong ba tập truyện ngắn của Lỗ Tấn, đó là: giọng khách quan, lạnh lùng; trữ
tình thương cảm; giễu nhại, mỉa mai.
Chúng tôi chủ yếu dựa vào các văn bản khảo sát sau:
1. Tuyển tập truyện ngắn Lỗ Tấn, do Trương Chính dịch, NXB Văn
học, 2012.
2. Chuyện cũ viết lại, do Trương Chính dịch, NXB Văn hóa, Viện văn
học, 1960.
5. Phương pháp nghiên cứu
Trong luận văn này, chúng tôi sử dụng các phương pháp sau:
-Phương pháp tiếp cận thi pháp học
-Phương pháp tiếp cận hệ thống
-Phương pháp phân tích, tổng hợp
-Phương pháp so sánh, đối chiếu
-Phương pháp tiếp cận tự sự học
6. Đóng góp của luận văn
Kết quả nghiên cứu của luận văn đem lại cho người đọc có cách nhìn
toàn diện hơn về giọng điệu trong 3 tập truyện ngắn của Lỗ Tấn. Luận văn
cho thấy tài năng nghệ thuật của Lỗ Tấn trong việc vận dụng ngôn từ khéo léo
để làm nổi bật giọng điệu đối với từng đối tượng trong truyện ngắn.
Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho các độc giả tìm hiểu và
nghiên cứu về Lỗ Tấn.

8


7. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, nội dung luận văn được triển khai gồm 3
chương:
Chương 1: Giọng điệu giọng khách quan, lạnh lùng
Chương 2: Giọng điệu xót xa, thương cảm
Chương 3: Giọng điệu giễu nhại, mỉa mai

9


CHƯƠNG 1
GIỌNG ĐIỆU KHÁCH QUAN, LẠNH LÙNG
1.1. Giới thuyết khái niệm giọng điệu khách quan, lạnh lùng
Giọng điệu trong tác phẩm văn học là một hiện tượng nghệ thuật phản
ánh lập trường xã hội, thái độ tình cảm và thị hiếu thẩm mĩ của tác giả. Đó là
một trong những phương diện cơ bản cấu thành hình thức nghệ thuật của tác
phẩm văn học. Nói một cách đơn giản, đó là hình thức nghệ thuật mang tính
quan niệm, là một phần quan trọng để xác định tài năng và phong cách độc
đáo của mỗi tác giả. Được thiết lập từ mối quan hệ giữa người kể với người
nghe từ thế giới sự kiện , giọng điệu gắn với cảm hứng chủ đạo, góp phần
tăng hiệu suất cảm xúc của tác phẩm văn chương.
Theo Từ điển tiếng Việt, giọng điệu là “giọng nói, lối nói biểu thị một
thái độ nhất định”. Lê Bá Hán trong Từ điển thuật ngữ văn học, đưa ra định
nghĩa: “Giọng điệu là thái độ, tình cảm, lập trường tư tưởng, đạo đức của nhà
văn đối với hiện tượng được miêu tả thể hiện trong lời văn quy định cách
xưng hô, gọi tên, dùng từ, sắc điệu tình cảm, cách cảm thụ xa gần, thân sơ,
thành kính hay suồng sã, ngợi ca hay châm biếm… Giọng điệu phản ánh lập

trường xã hội, thái độ tình cảm, thị hiếu thẩm mĩ của tác giả có vai trò rất lớn
trong việc tạo nên phong cách nhà văn và tác dụng truyền cảm cho người đọc.
Thiếu một giọng điệu nhất định, nhà văn chưa thể viết ra được tác phẩm, mặc
dù đã có đủ tài liệu và sắp xếp trong hệ thông nhân vật” [14; 134-135].
Hoàng Ngọc Hiến cũng từng đề cập tới vai trò của giọng điệu trong văn
chương: “Câu văn có hồn là câu văn có giọng… bài văn không có giọng điệu
đọc lên vẫn nhạt nhẽo vô vị. Sự phong phú, tính đa nghĩa, ý vị đậm đà của bài
văn trước hết ở giọng. Năng khiếu vẫn ở phần tinh tế nhất là năng lực bắt
được trúng cái giọng của văn bản mình đọc và tạo ra được giọng đích đáng
cho tác phẩm mình viết” [16, 154-155].

10


Trong cuộc sống, giọng điệu thường mang tính nhất thời, khác với
giọng điệu trong tác phẩm văn học. Trong nghệ thuật, giọng điệu bao giờ
cũng được tổ chức công phu, là kết quả của một quá trình sáng tạo thực thụ.
Giọng điệu trở thành một yếu tố cấu thành, phụ thuộc vào hệ thống không
phải là ngẫu hứng. Không chỉ hàm chứa cảm xúc, thái độ của người nói,
giọng điệu còn thể hiện nghề nghiệp, tuổi tác, giới tính của chủ thể phát ngôn.
Trong tác phẩm văn học, giọng điệu cũng mang đặc tính âm thanh, không
phải lúc nào cũng chỉ có một giọng điệu thuần nhất. Việc phân chia loại hình
giọng điệu cũng khác nhau, xuất phát từ những tiêu chí khác nhau. Theo cấu
trúc, người ta có thể chia thành giọng chính và giọng phụ; căn cứ vào sắc thái
tình cảm thì có thể nói đến giọng gay gắt hay ôn hòa, mềm mỏng, giọng trang
trọng hay suồng sã, kính cẩn hay châm biếm… Dựa vào cảm hứng chủ đạo thì
có giọng bi, giọng hài, giọng anh hùng ca. Dựa vào khuynh hướng tư tưởng
thì có các giọng: thông cảm hay lên án, yêu thương hay tố cáo, khẳng định
hay phủ định... Như vậy, về cơ bản giọng điệu bộc lộ các sắc điệu tình cảm
của chủ thể phát ngôn.

Nói tới giọng điệu là nói tới mối quan hệ giữa chủ thể sáng tạo với
khách thể được phản ánh, vì giọng điệu gắn với đặc điểm tâm hồn nghệ sĩ và
đối tượng được miêu tả cho nên, để xác định tư thế của người nói gắn với
điểm nhìn trần thuật, cần chú ý tới nghệ thuật xây dựng ngôn từ, cần phân tích
vai trò của hình tượng trong việc thể hiện giọng điệu. Qua đó, giải thích chức
năng và vai trò của giọng điệu trong chỉnh thể tác phẩm.
Như vậy, có nhiều tiêu chí để phân chia giọng điệu: Chúng tôi căn cứ
vào sắc thái tình cảm và khuynh hướng tư tưởng chia giọng điệu trong truyện
ngắn Lỗ Tấn ra các kiểu loại: khách quan, lạnh lùng; giọng trữ tình, thương
cảm; giọng giễu nhại, mỉa mai.
Giọng điệu khách quan, lạnh lùng, theo chúng tôi, là giọng điệu giọng
người kể chuyện không bày tỏ thái độ, ở đó những từ ngữ mang sắc thái biểu
11


cảm dường như bị triệt tiêu. Lối kể của anh ta tỏ ra dửng dưng, lạnh lùng,
những câu văn chỉ mang tính chất thông báo đơn thuần. Dạng cấu trúc câu
phổ biến của giọng điệu này là: chủ ngữ - động từ, trong khi đó, bổ ngữ
thường xuyên bị lược bỏ. Thậm chí, trong nhiều trường hợp, tác giả còn tước
bỏ chủ ngữ hoặc vị ngữ tạo ra sự phá vỡ quy tắc ngữ pháp thông thường.
Giọng điệu này là cách trình bày sự kiện từ bên ngoài và mang tính hành vi phần lớn là trần thuật ngôi thứ ba mang tính chất trung tính, thiếu vắng điểm
nhìn bên trong. Những đặc điểm của giọng điệu này là căn cứ để chúng tôi
triển khai giọng khách quan, lạnh lùng trong truyện ngắn Lỗ Tấn.
1.2. Phê phán căn bệnh vô cảm, dửng dưng của quốc dân
Tư tưởng phê phán có ý nghĩa quan trọng trong tác phẩm của Lỗ Tấn.
Các tác phẩm được nhà văn đề cập với sự phong phú về nội dung và đổi mới
về hình thức nghệ thuật. Phương diện nghệ thuật - đặc biệt là giọng điệu được
Lỗ Tấn cách tân so với lối trần thuật truyền thống. Sự cách tân về ngôn ngữ
được thể hiện trước hết trong việc sử dụng giọng khách quan, lạnh lùng.
Thông qua việc sử dụng ngôn ngữ, Lỗ Tấn đã sử dụng các câu văn trần thuật

đơn thuần, giản lược thành phần câu, rút ngắn dung lượng của các đoạn đối
thoại. Tất cả những cái đó được người kể phơi bày căn bệnh nan y - “liệt căn
tính quốc dân” - cần được chữa trị nhà văn thể hiện trong các tác phẩm của
mình.
Tác phẩm thường dùng các câu văn, lạnh lùng, vô âm sắc. Người kể
chuyện dường như đơn thuần kể lại các sự việc, hành động mà anh ta thấy,
chứ không phân tích hay bình luận. Đằng sau việc cách tân về hình thức là
mục đích “làm mới” về nội dung. SỬ dụng giọng này, người kể “tẩy trắng” đi
hình tượng cá nhân mình trong tác phẩm. Cái “tôi” không xuất hiện mà thay
vào đó là sự sao chụp hình ảnh, sự kiện một cách đơn thuần. AQ chính truyện
là một trong những tác phẩm thể hiện rõ sự cách tân về hình thức nghệ thuật.
Đây là tác phẩm có dung lượng lớn nhất trong số 33 truyện ngắn của Lỗ Tấn.
12


Tác phẩm gồm nhiều chương đoạn, mỗi chương là một cốt truyện nhỏ có tính
chất hoàn chỉnh. Xuyên suốt tác phẩm là sự đan xen nhiều giọng điệu khác
nhau, có khi là giọng khách quan lạnh lùng, có khi là giọng châm biếm mỉa
mai, có lúc lại là giọng điệu trữ tình, xót xa, thương cảm. Nhưng nổi bật hơn
cả là giọng khách quan, lạnh lùng mang hàm ý châm biếm, mỉa mai. Hàng
loạt các câu văn lạnh lùng, được người kể sử dụng khi giới thiệu khái quát về
nhân vật AQ.
Lai lịch của AQ được người kể chuyện tái hiện bằng giọng kể khách
quan, lạnh lùng. Người kể giới thiệu những nét khái quát nhất về nhân vật: họ
tên, quê quán, nghề nghiệp… Tuy nhiên, với phần giới thiệu này những thông
tin về nhân vật chưa được rõ ràng, người kể như cố ý dấu đi nhiều chi tiết. Họ
của AQ người ta cũng không rõ, không biết “Thường lệ phàm viết truyện,
người ta vẫn hay mào đầu bằng mấy chữ “Ông Mỗ, tự là Mỗ, người xứ nọ, xứ
kia…” thế nhưng tôi lại không biết AQ họ gì hết? Có một lần, tưởng như A Q
họ Triệu; nhưng đến ngày hôm sau thì lại không lấy gì làm chắc chắn nữa”

[28; 95]. Giọng điệu khách quan đã làm nổi bật những thắc mắc về thân phận
của nhân vật A Q. Người kể không chắc chắn với những thông tin đưa ra bởi
đó chỉ là những dự đoán, thiếu tính xác tín.
Tên và quê quán của A Q được người kể đưa ra hàng loạt giả định bằng
cặp quan hệ từ “nếu như”, “nhưng”, “nếu… thì”. “Nếu như y là người họ
Triệu thì theo thói quen hay xưng quận vọng, có thể chiếu theo chỗ chú giải
trong cuốn Quận danh bách gia tính mà nói rằng y là người “Thiên Thủy,
miền Lũng Tây”. Nhưng đáng tiếc, A Q họ gì chưa rõ lắm, thì quê quán y ở
đâu cũng chưa có thể định được. Tiếng rằng A Q bình sinh vẫn trú ngụ ở làng
Mùi, nhưng y lại cứ luôn luôn đi ngủ trọ đâu đâu ấy. Thành thử không thể nói
y là người làng Mùi được. Nếu nói là người làng Mùi thì trái với phép viết
sử” [29, 98]. Nếu ở các tác phẩm truyền thống, người viết thường sử dụng câu
văn dài để người đọc triền miên đắm chìm trong dòng cảm xúc của tác phẩm
13


thì với cách kể và việc sử dụng giọng điệu lạnh lùng này, Lỗ Tấn thường
xuyên sử dụng câu văn ngắn, có khi cực ngắn. Trong một câu văn, người viết
thường lược bỏ đi thành phần bổ ngữ. Thậm chí, trong nhiều trường hợp
người viết còn lược bỏ cả chủ ngữ - chủ thể của hành động, hoặc vị ngữ - bản
thân hành động, tạo ra sự phá vỡ quy tắc ngữ pháp thông thường. Hệ quả của
kiểu cấu trúc này tạo ra các câu văn “vô âm sắc” và ngắn đến mức “gây hẫng”
cho độc giả: “Gọi là “liệt truyện” ư?...Gọi là “tự truyện” ư? Thì tôi nào có
phải là AQ? Nói là “ngoại truyện”, thì “nội truyện” ở đâu? [28, 93].
Phần giới thiệu về lai lịch của nhân vật được người kể cung cấp những
thông tin mập mờ, những giả định còn chưa chắc chắn. Điều này góp phần
khẳng định tính chất chân thực của câu chuyện. Giọng khách quan, lạnh lùng
được người kể sử dụng khi nói về căn bệnh dửng dưng, vô cảm của những
con người trong xã hội. Lỗ Tấn phản ánh nó qua sự việc xem người bị giải đi
chém đầu được thể hiện rõ nhất qua chương cuối của tác phẩm thông qua

điểm nhìn bên ngoài.
AQ đã từng vênh váo tự hào kể cho dân chúng làng Mùi câu chuyện
chặt đầu mà y được chứng kiến ở trên huyện: “Này! Các bác đã thấy chặt đầu
người hay chưa nhỉ? Úi chào! Vui lắm! Giết tụi cách mạng ấy mà! Úi chao
chao, vui, vui quá cơ!
AQ vừa nói vừa lắc lư cái đầu, nước bọt cứ bắn vào mặt bác Triệu Tư
Thần đứng trước y. Câu chuyện chặt đầu này, ai nghe cũng phải rung mình
rởn gáy”.
Y kể hào hứng đến mức mà “vừa nói vừa lắc lư cái đầu, nước bọt cứ
bắn vào mặt bác Triệu Tư Thần đứng trước y” [28, 129]. Bằng điểm nhìn bên
ngoài và ngôi thứ ba, người kể tái hiện lại các hành động của AQ để phản ánh
thái độ dửng dưng giữa người với người trong xã hội. Lúc AQ dương dương
tự đắc cho mình hơn người như thế, y không biết rằng sẽ đến ngày, chính y
trở thành nhân vật chính cho vở kịch mà những khán giả Trung Quốc lúc nào
14


cũng hào hứng đón đợi. Trong đoạn văn trên, người kể lược bỏ chỉ dẫn các
đoạn thoại của nhân vật hay bỏ cả chủ thể phát ngôn chỉ còn lại câu văn cực
ngắn “Các bác đã thấy chặt đầu người hay chưa nhỉ? Úi chào! Vui lắm! Giết
tụi cách mạng ấy mà! Úi chao chao, vui, vui quá cơ!
Người kể không bày tỏ thái độ đánh giá của mình mà chỉ đứng ngoài
câu chuyện ghi chép những sự việc xoay quanh AQ. Việc ghi chép các sự việc
một cách đơn thuần tạo nên tính xác thực, độ tin cậy trong lòng người đọc.
Cảnh AQ bị đưa đi bêu phố là sự kiện mọi người trong làng tò mò, háo hức đi
xem “AQ bị người ta đẩy lên một chiếc xe không mui, ngồi chung với mấy
chú áo cộc. Tức thì xe mở máy. Một toán lính và mấy chú tuần đinh vác sung
đi trước, hai bên đường rất nhiều người hếch mỏ đứng xem. AQ không biết
phía sau có những gì. Bỗng y chợt nghĩ rằng: hay là chúng nó đưa mình đi
chặt đầu! Hoảng quá! Hai mắt y quáng hẳn lên, rồi hai tai cứ nghe vù vù. Y

dường như ngất đi. Nhưng y cũng chưa ngất hẳn, có lúc lo sợ, có lúc thản
nhiên. Y cảm thấy rằng: người ra sinh ra trong trời đất, trước sau cũng có thể
có một lần bị chặt đầu” [28,154].
Sự việc AQ bị bêu phố được người kể tái hiện chân thực giúp người
đọc phần nào thấy được sự ngu muội trong tư tưởng của AQ - một con người
khiếm khuyết cả về hình dạng bên ngoài lẫn tư tưởng bên trong. Đến khi chết,
AQ vẫn tự đắc về cái chết, y không giác ngộ được thế nào là đúng thế nào là
sai. Sự ngu muội, tự đắc của AQ có lẽ cũng như đại đa số người dân Trung
Quốc lúc bấy giờ. Vì vậy, mới có sự việc đám đông quần chúng lại kéo đến
“đông như kiến” “hếch mỏ đứng xem”, kẻ thì cất lên tiếng khen ồn ào “Hay
lắm!”, kẻ lại cảm thấy không thỏa mãn vì “bắn người trông không vui mắt
bằng chém, mà cái tên tử tù kia trông buồn cười như thế nào ấy. Đã bị đưa đi
bêu phố một hồi lâu như vậy mà lại không hát lên được một câu, thành ra đi
theo nó bao nhiêu đường đất chỉ mất công toi” [28, 157]. Họ không biết tại
sao AQ lại bị xử tử, nhưng cả làng Mùi đều nhất trí công nhận rằng đó không
15


phải là người lương thiện, chứng cứ là y đã bị bắn. Chính AQ trước giờ xử tử
cũng không biết mình sẽ bị đưa ra trường chém, lí do bị xử tử cũng rất mù
mờ, y còn mê muội nghĩ rằng: “Người ta sinh ra trong trời đất, trước sau cũng
có một lần phải bêu phố để cho mọi người trông thấy như vậy” [28, 169].
Dưới ngòi bút của Lỗ Tấn, quần chúng Trung Quốc được thể hiện lên còn ngu
muội, u mê “thứ người mà người ta đưa ra chém đầu thị chúng và thứ người
đứng xem cuộc thị chúng vô vị” [28, 452]. Lỗ Tấn đã phản ánh chân thực
hiện trạng xã hội Trung Quốc lúc bấy giờ thông qua tầng lớp quốc dân. Họ
mang trong mình căn bệnh vô cảm. Đó là bệnh mà rất nhiều người dân đang
mác phải cần lên án để họ thức tỉnh. Những người chạy theo xem AQ bị đưa
ra pháp trường cũng là người chứng kiến cuộc chặt đầu tên Hán gian tay sai
của đế quốc Nga, sau khi bị đế quốc Nhật bắt được.

Ngoài việc tái hiện chân thực các sự việc, người kể chuyện còn rút ngắn
ngôn từ đối thoại. Ngôn từ đối thoại được người kể rút ngắn khi kể về sự việc
AQ và cu D đánh nhau, những người trong làng đứng ra cổ vũ. Toàn bộ cuộc
đối thoại được người kể chuyện kể một cách chân thực:
“Những người đứng xem hình như muốn hòa giải, nói:
-

Hảo lớ, hảo lớ!

Một bọn khác cũng gào lên:
-

Hảo, hảo” [28, 123].

Đối với họ, cuộc đụng độ như là trò tiêu khiển để mua vui. Thay vì việc
can ngăn, họ xúm lại để xem. Người kể tường thuật trực tiếp sự việc thông
qua đoạn đối thoại ngắn để người đọc bị “bỏ rơi” bởi những lời trần thuật
“đều đều”, “tỉnh khô”. Nếu như truyện ngắn truyền thống, khi bắt đầu đoạn
đối thoại, người kể thường sử dụng lời dẫn, kèm theo lời và miêu tả cảm xúc
của nhân vật, thì trong truyện ngắn Lỗ Tấn, lời dẫn đối thoại nhiều khi bị giản
lược đến mức tối đa, chỉ còn lại là một cấu trúc chủ -vị mang sắc thái trung
tính, không biểu hiện cảm xúc, trạng thái của người phát ngôn.
16


Thua trong cuộc đụng độ với bọn vô công rồi nghề ở làng Mùi, AQ tự hạ
thấp mình “Đánh con sâu! Được chưa! Tớ là sâu! Chưa thả ra à?” [28, 103].
Trong lần y gây sự với Vương Râu Xồm, những lời đối thoại giữa hai đối thủ
nặng kí ngang nhau ấy là những lời mắng chửi, hạnh họe:
“- Đồ sâu róm!

- Đồ chó ghẻ, mày mắng ai đấy!”
“Thằng này lại ngứa xương ống rồi hẳn”[28; 109].
Thông qua các đoạn hội thoại ngắn, nhà văn phần nào thể hiện tính
cách của nhân vật. AQ là kẻ thuộc vào diện thường thấy nhất trong xã hội
nhưng hay ra vẻ ta đây, gây sự, nạt hộ người khác. Tuy nhiên, với kẻ yếu hơn
y thì y ức hiếp, còn với những kẻ mạnh hơn y, y thương tỏ thái độ nhu nhược,
yếu hèn. Trong tác phẩm, người kể đã giản lước tối đa về dung lượng các
đoạn đối thoại làm cho lời văn khô khan, lạnh lùng góp phần nổi bật sự dửng
dưng, vô cảm của những con người trong xã hội. Họ nói chuyện với nhau một
cách quá ư vô tình, không cảm xúc, người với người giao tiếp với nhau chỉ
bằng những lời nói qua loa, đại khái. Có thể khẳng định, ngôn ngữ là vỏ hình
thức, quy định giọng điệu của tác phẩm. Sử dụng giọng khách quan, lạnh
lùng, Lỗ Tấn đã phản ánh một cách chân thực lối sống dửng dưng, vô tình của
những con người trong xã hội.
Trong tác phẩm Lễ cầu phúc, người kể phản ánh thái độ thờ ơ của anh
chàng người hầu nhà ông Lỗ tứ khi “tôi” hỏi về cái chết của Tường Lâm.
Những lời thoại được nói ra ngắn gọn, lạnh lùng. Người đối thoại không bộc
lộ thái độ của mình:
“Vừa rồi, cụ Tư giận ai mà gắt thế nhỉ?
Anh ta trả lời gọn thon lỏn:
- Chắc là thím Tường Lâm chứ ai!
Tôi lại hỏi dồn:
- Thím Tường Lâm à? Sao thế?
17


- Chết rồi.
- Chết rồi à?

- Chết lúc nào?

- Chết lúc nào à? Chừng như đêm qua hay là sáng nay gì đó. Cháu cũng
không được rõ.
- Làm sao mà chết, hở?
- Làm sao mà chết à? Chắc là đói quá rồi chết thôi” [28, 211].
Những câu hỏi của nhân vật “tôi” về cái chết của Tường Lâm ngắn gọn.
Người kể chuyện lược đi thành phần chủ ngữ trong câu chỉ để lại những nội
dung cần thiết trong câu hỏi. Dường như, cái mà anh ta cần là biết được lí do
và thời gian mà thím Tường Lâm chết chứ không phải là lòng xót thương.
Người kể giản lược tối đa ngôn ngữ trong lời thoại chỉ để trong đó những
ngôn từ thật cần thiết mà người đọc vẫn hiểu được ý của anh ta. Trong tác
phẩm, người kể còn tái hiện cảm đám đông lấy câu chuyện về nỗi đau sói tha
mất con của thím làm trò tiêu khiển:
“Về sau, cơ hồ tất cả người ở Lỗ - Trấn đều có thể nhắc lại y nguyên từng lời
nói của thím, cho nên vừa nghe thím kể là họ đã chán ngấy lên rồi.
Thím vừa bắt đầu kể:
- Tôi thật ngu đần quá…
- Họ đã cắt ngang nói:
- Ừ, thím chỉ tưởng mùa tuyết xuống, trong rừng không có gì ăn, thú dữ
mới mò vào làng…
Rồi bỏ đi” [223].
Câu chuyện của thím lặp đi lặp lại khiến những người xung quanh cảm thấy
nhàm chán. Ban đầu họ còn tỏ ra xót thương nhưng về sau mọi người dùng
câu chuyện để mua vui, châm biếm. Bản thân thím Tường Lâm cũng nhận ra
thái độ lạnh lùng của những người xung quanh đối với mình: “Vị tất thím đã
18


biết rằng câu chuyện thương tâm của thím, người ta thưởng thức bao nhiêu
lâu nay, bây giờ đã như cái bã, nhai đi nhai lại mãi, chán lắm rồi, phải nhổ đi.
Nhưng nhìn nụ cười của họ, thím hình như cũng thấy được đó là một nụ cười

vừa lạnh lùng, vừa chế giễu, thôi thì mình cũng chẳng cần kể chuyện nữa làm
cho” [223]. Người dân vô tình, vô cảm trước nỗi đau của thím. Lỗ Tấn thông
qua muốn qua đó thể hiện bi kịch của những người dan u mê, lạc hậu, khuất
phục trước số phận. Tường Lâm đau khổ nhưng không biết được mình khổ do
đâu, họ chấp nhận cuộc sống áp bức, tự nguyện sống cùng với chế độ phong
kiến
Giản lược ngôn ngữ đối thoại là đặc điểm xuyên suốt trong truyện ngắn
Lỗ Tấn. Trong Thị chúng, thủ pháp này được người nhà văn sử dụng khi viết
về cuộc hội thoại của những người trong thôn Cát Quang bàn về việc đối phó
với người điên đòi thổi tắt cây đèn:
“Anh trán rộng nắm tay lại, đập bàn, nói giọng khẳng khái. Cái nắp
chén trà, đặt không ngay ngắn, rơi một cái bịch xuống bàn.
Anh đầu vuông nói:
- Không xong. Bảo là ngỗ nghịch trói giải lên huyện thì phải là cha
hay là cậu hắn mới được…
Anh trán rộng liền xìu đi:
- Tiếc là bây giờ hắn ta chỉ còn mỗi một ông bác…
Anh đầu vuông bỗng hỏi to:
- Anh trán rộng này! Canh bạc hôm nay có khá không đấy?” [28,
268].
Đoạn đối thoại ngắn gọn, mang sắc tháo lạnh lùng, người kể sử dụng lối
viết không bình luận, không mô tả cảm xúc, mà chỉ tái hiện lời nói của nhân
vật. Qua đó, nhà văn thể hiện thái độ vô tình, dửng dưng của những người dân
dối với nhân vật “người điên”. Họ tôn sùng “ngọn đèn” bởi họ tin nếu thổi tắt
đi cả làng sẽ gặp xui xẻo, trong khi “người điên” một mực muốn thổi tắt nó vì
19


anh ta cho rằng: ngọn đèn là tượng trưng cho những hủ tục ngàn năm xưa cũ.
Do đó, người điên bị mọi người đồng lòng muốn hủy hoại. Họ bàn mưu tính

kế để giết anh. Không diễn giải nhiều lời, qua những đoạn thoại ngắn gọn, tác
giả để cho các nhân vật tự thể hiện mình. Họ tự phơi bày khuyết tật của họ
một cách tự nhiên, chân thực.
U mê, lạnh lùng là đặc điểm của người dân Trung Quốc đương thời. Họ
chưa giác ngộ được lý tưởng cách mạng, quyền sống của mình. Họ đắm chìm
trong lợi ích cá nhân. Thấy đồng loại của mình bị trà đạp mà xúm đen xúm đỏ
xem thị chúng. Sự việc này được Lỗ Tấn tái hiện trong tác phẩm Thị chúng:
“Không khí nóng phừng phừng, đâu đâu cũng thấy cái uy lực của
những ngày mùa hạ. Những con chó lè lưỡi ra, đến những con quạ trên cành
cây cũng phải há hốc mỏ mà thở. Tuy vậy, tất nhiên cũng có ngoại lệ: tiếng
chập chóe bằng đồng xa xa vẳng lại làm cho người ta nhớ đến bát canh mơ
chua, và cảm thấy hơi man mát. Những khi tiếng chim thuộc đơn điệu, uể oải
đó đứt quãng thì sự tĩnh mịch lại càng xa vắng, nặng nề. Chỉ nghe tiếng chân
anh phi xe chạy. Anh ta im lìm chạy tới, giống như chạy để tránh ánh mặt trời
gay gắt chiếu trên đầu” [28, 281]. Nhà văn tái hiện một cách chân thực không
gian trong tác phẩm, anh ta chỉ là người ghi chép lại một cách khách quan để
người đọc cảm nhận, đánh các giá sự việc. Đây là không gian vắng lặng, tĩnh
mịch. Trên nền không gian ấy gợi lên một cuộc sống bế tắc, tẻ nhạt, buồn bã,
thiếu sinh khí. Tác giả hướng người đọc đến một đám người đủ cả già trẻ gái
trai, vòng trong vòng người đang chen lấn, xô đẩy, xúm lại, quanh lấy hai con
người “Một người là tên tuần sát gầy gò, mặt vàng ệch, mặc áo lính màu vàng
đã bạc thếch, lưng đeo một chiếc đao” và “một người đàn ông mặc áo xanh,
ngoài khoác áo chẽn trắng, đội chiếc mũ cói mới, vành mũ bẻ cụp xuống che
khuất đôi mắt” [28, 282].
Cả một đám đông với nhiều tư thế, bộ dạng, gương mặt khác nhau
nhưng đều có một điểm chung là hiếu kì. Tất cả xúm đen xúm đỏ, tranh nhau
20


xem cảnh một tên tuần sát dắt một phạm nhân trên đường đến đoạn đầu đài để

mong tìm được cái thú vị riêng cho mình. Trước tai họa của đồng loại, người
dân Trung Hoa vẫn hoàn toàn dửng dưng, lãnh đạm và chỉ xem đó như một
trò giải trí trong sự vô nghĩa, nhàm tẻ của cuộc sống. Lạnh lùng trước tai họa
của người khác, quần chúng thiếu đi sự đồng cảm với những người cùng cảnh
ngộ. Đều bị bóc lột, áp bức nhưng trước những vấn nạn chung, họ chưa có sự
đoàn kết, đồng cảm cần phải có. Họ thiếu một sự giác ngộ, không nhận thức
được đấy chính là hoàn cảnh chung của tầng lớp mình, cũng không hình dung
được một mai chính mình cũng có thể là nạn nhân của tình cảnh ấy.
Những cách tân về ngôn ngữ, người viết đã tái hiện sự việc người bị thị
chúng một cách chân thực. Người kể sử dụng biện pháp liệt kê các sự việc tạo
nên tính lạnh lùng và độ chân thực của câu chuyện. Sợi dây là vật mà mọi
người hướng đến sự tò mò, thích thú, nó là trò tiêu khiển để mọi người dồn
đến xem:
“Ông đầu trọc không trả lời, chỉ giương mắt nhìn anh ta. Anh ta phải đưa
mắt nhìn xuống. Một lát sau, nhìn lại, thấy ông đầu trọc vẫn giương mắt nhìn
mình, mà những người khác hình như cũng đang giương mắt nhìn mình, thế là
anh ta thấy lúng túng như chính anh ta phạm tội. Cuối cùng anh ta thong thả
lùi ra và chuồn thẳng. Một ông người cao, cắp chiếc dù tây ở nách, điểm vào
chỗ trống đó. Ông đầu trọc cũng quay lại nhìn người mặc áo chẽn trắng” [28,
284]. Người kể là người trung gian đứng ngoài để ghi chép lại những sự việc
diễn ra trước mắt mình. Các sự việc nối tiếp nhau. Cả đoạn văn dài chỉ là các
sự việc diễn ra, người kể chuyện không bình luận và bộc lộ cảm xúc. Đằng
sau lối kể khách quan, bình thản thấy toát lên ý nghĩa phê phán sâu sắc.
Trong Thị chúng nhà văn tái hiện sự kiện thông qua hàng loạt hành
động của nhân vật. Mọi người thị chúng là những con người câm lặng, vô
cảm. Người bị thị chúng không có biểu hiện gì tỏ ra lo sợ, bất an hay hổ thẹn.
Cảnh xem thị chúng, mọi người không bày tỏ thái độ của mình, ở họ chỉ
21



thoáng thấy “có vẻ thất vọng”, “buồn bã” bởi những gì họ thấy hình như chưa
làm thỏa mãn niềm háo hức, hiếu kỳ của họ.
Thái độ vô cảm, dửng dưng còn được người kể tái hiện qua sự kiện
“một cỗ xe ngã nhào và một anh xe đang lồm ngồm bò dậy” [28, 286] thì cả
đám đông “liền tản ra, láo nháo, chạy đến xem”. Và khi sự việc xảy ra không
có gì nghiêm trọng như mong đợi của mọi người, họ lại tản ra “nhìn theo
buồn bã” [28, 287]. Căn bệnh vô cảm như ăn sâu bám rễ vào tư tưởng họ. Vì
u mê nên họ không thể thông cảm, chia sẻ, hơn nữa còn chà đạp lên nỗi đau
của đồng loại. Khi thể diện của quốc gia dân tộc bị chà đạp, họ dửng dưng,
khi người có chung hoàn cảnh với mình bị hành hình, họ không mảy may xúc
động, thậm chí họ còn lấy đó làm trò cười để thưởng thức.
Khổng Ất Kỷ trong truyện ngắn cùng tên bị đánh gãy chân nhưng
không những không nhận được một lời quan tâm hỏi thăm mà còn phải bò lê
bò lết giữa tiếng giễu cợt và cười đùa của những người xung quanh. Cái lưu
giữ lại trong trí nhớ của ông chủ quán rượu về một Khổng Ất Kỷ cũng chỉ là
món nợ mười chín đồng chinh. Và chắc chắn khi cái bảng ghi nợ ấy xóa đi thì
cái tên Khổng Ất Kỷ cũng bị xóa luôn trong trí nhớ của mọi người. Thật đáng
báo động về sự suy tàn về tình người, về khả năng rung cảm trong trái tim của
quần chúng Trung Hoa đương thời.
Trong tác phẩm, Khổng Ất Kỷ được miêu tả vừa lịch lãm nhưng đồng
thời vừa mang dấu vết của một kể lang thang phiêu bạt với những vết sẹo,
thương tật trên người. Đó là kết quả của những tháng ngày vất vả kiếm sống
nay đây mai đó, không có công ăn việc làm, không nơi nương tựa. Diện mạo
của Khổng Ất Kỷ được nhà văn tái hiện thông qua ngòi bút khách quan: “Bác
Khổng Ất Kỷ là người độc nhất mặc áo dài mà lại đứng trước quầy rượu. Bác
ta người to cao, mắt xanh lè giữa những nếp răn thường có vài vết sẹo, lại có
một bộ râu hoa râm lồm xồm, rối như mớ bòng bong. Áo tuy là áo dài, nhưng
vừa bẩn vừa rách, hình như hơn mươi năm nay chưa hề vá mà cũng chưa hề
22



giặt” [28, 31]. Diện mạo của nhân vật được heienj lên một cách chân thực,
những đường nét của nhân vật được hiện lên khách quan, thể hiện đây là một
con người đáng thương, một người đại diện cho tầng lớp trí thức cổ hủ. Người
Trung Quốc quan niệm “người mặc áo dài” thuộc tầng lớp trí thức để phân
biệt tầng lớp này với tầng lớp nông dân trong xã hội. Khổng Ất Kỷ là người
độc nhất mặc áo dài đứng trước quầy rượu. Điều đó càng làm rõ hơn tính chất
cô độc của anh ta với những người xung quanh. Bộ dạng của bác tiều tụy, vừa
đáng cười, đáng thương mà cũng đáng giận. Tác giả Lỗ Tấn đã có những đoạn
văn miêu tả tình cảnh đáng thương của Khổng Ất Kỷ. Đó là tình cảnh lẻ loi bị
gạt ra rìa của cuộc sống. Là một con người nhưng bác không thể nói chuyện
với ai. Mọi người trong quán rượu dường như tách Khổng Ất Kỷ ra khỏi cuộc
sống của mình:
“Mấy người kia lại cố ý nói to:
- Nhất định lại xoáy cái gì của nhà ai rồi!
Bác ta trừng mắt lên cự:
- Sao khi không các người lại bịa chuyện làm mất danh giá người ta đi
như thế?
- Danh giá cái gì? Chẳng phải hôm trước chính mắt tớ trông thấy ông ăn
cắp sách nhà ông Hà rồi bị treo ngược lên đánh là gì?
Bác ta đỏ mặt, trán nổi gân xanh, cãi lại:
- Lấy sách không phải là ăn cắp! Có biết chữ mới lấy sách chứ? Thế mà
bảo là ăn cắp được à? “ [28, 32;33]
Bị châm biếm, mỉa mai, Khổng Ất Kỷ dùng lí lẽ của tầng lớp trí thức để
biện minh cho mình, khẳng định mình là người có danh giá, tôn nghiêm.
Thông qua đoạn thoại càng làm rõ hơn bi kịch của tầng lớp trí thức nhu
nhược, yếu hèn, không xác định được vị trí của mình trong xã hội nên bị xã
hội cự tuyệt, bỏ rơi.

23



×