Tải bản đầy đủ (.pdf) (84 trang)

(Luận văn thạc sĩ) Thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra các vụ án về ma túy theo pháp luật Tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (775.32 KB, 84 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN THÀNH NHÂN

THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU
TRA CÁC VỤ ÁN VỀ MA TÚY THEO PHÁP LUẬT
TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN
THÀNH PHỐ THỦ DẦU MỘT, TỈNH BÌNH DƯƠNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ
LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ

HÀ NỘI, năm 2019


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN THÀNH NHÂN

THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU
TRA CÁC VỤ ÁN VỀ MA TÚY THEO PHÁP LUẬT
TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN
THÀNH PHỐ THỦ DẦU MỘT, TỈNH BÌNH DƯƠNG
Ngành: Luật Hình sự và Tố tung hình sự
Mã số: 8.38.01.04

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. TRẦN HƯNG BÌNH


HÀ NỘI, năm 2019


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, không có
sự gian lận, sao chép từ bất kỳ nguồn nào, các số liệu, được sử dụng trong
luận văn là trung thực và chính xác.
NGƯỜI CAM ĐOAN

NGUYỄN THÀNH NHÂN


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ THỰC HÀNH
QUYỀN CÔNG TỐ TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA CÁC VỤ ÁN VỀ MA
TÚY ............................................................................................................................7
1.1. Khái niệm thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra các vụ án về ma
túy ...........................................................................................................................7
1.2. Đặc điểm thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra các vụ án về ma
túy .........................................................................................................................13
1.3. Quy định của pháp luật tố tụng hình sự về thực hành quyền công tố trong giai
đoạn điều tra các vụ án về ma túy.........................................................................14
Chương 2: THỰC TRẠNG THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ TRONG GIAI
ĐOẠN ĐIỀU TRA CÁC VỤ ÁN VỀ MA TÚY TẠI THÀNH PHỐ THỦ DẦU
MỘT, TỈNH BÌNH DƯƠNG..................................................................................35
2.1. Tình hình đặc điểm tự nhiên, kinh tế, xã hội và tình hình tội phạm ảnh hưởng
đến thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra các vụ án về ma túy tại
thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương ..........................................................35
2.2. Thực trạng thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra các vụ án về ma

túy tại thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương. ..............................................40
Chương 3: NHỮNG YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG
THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA CÁC
VỤ ÁN VỀ MA TÚY TẠI THÀNH PHỐ THỦ DẦU MỘT, TỈNH BÌNH
DƯƠNG ....................................................................................................................51
3.1. Những yêu cầu nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố trong giai
đoạn điều tra các vụ án về ma túy tại thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương
…………………………………………………………………………………51
3.2. Những giải pháp nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố trong giai
đoạn điều tra các vụ án về ma túy tại thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương
............................................................................................................................52


KẾT LUẬN ..............................................................................................................64
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
BLHS

: Bộ luật Hình sự

BLTTHS

: Bộ luật Tố tụng hình sự

CQĐT

: Cơ quan điều tra


ĐTV

: Điều tra viên

HĐND

: Hội đồng nhân dân

KSV

: Kiểm sát viên

KSHĐTP

: Kiểm sát hoạt động tư pháp

KSĐT

: Kiểm sát điều tra

HĐTP

: Hoạt động tư pháp

KSVTTP

: Kiểm sát việc tuân theo pháp luật

KTBC


: Khởi tố bị can

KTVAHS

: Khởi tố vụ án hình sự

VAHS

: Vụ án hình sự

TAND

: Tòa án nhân dân

THQCT

: Thực hành quyền công tố

TNHS

: Trách nhiệm hình sự

TTHS

: Tố tụng hình sự

VKS

: Viện kiểm sát


KSND

: Kiểm sát nhân dân

VKSND

: Viện kiểm sát nhân dân

BPNC

: Biện pháp ngăn chặn


DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 2.1: Diện tích và Dân cư trên địa bàn thành phố Thủ Dầu Một (Tổng
điều tra dân số ngày 01/4/2014).
Bảng 2.2: Kết quả thực hiện Đề án “Xã, phường, thị trấn không có tệ nạn ma
túy” trên địa bàn thành phố Thủ Dầu Một từ năm 2014 đến năm 2018.
Bảng 2.3: Tình hình các vụ án về ma túy trên các phường thuộc thành phố
Thủ Dầu Một từ năm 2014 đến năm 2018.
Bảng 2.4: Thống kê tình hình các vụ án về ma túy phân theo tội danh trên
địa bàn thành phố Thủ Dầu Một từ năm 2014 đến năm 2018.
Bảng 2.5: Phân tích đặc điểm nhân thân người phạm tội trong các vụ án về
ma túy trên địa bàn thành phố Thủ Dầu Một, tình Bình Dương từ năm 2014 đến
năm 2018.
Bảng 2.6: Tình hình người nghiện ma túy trên địa bàn thành phố Thủ Dầu
Một từ năm 2014 đến năm 2018.
Bảng 2.7: Kết quả khởi tố, truy tố và xét xử các vụ án về ma tuý trên địa bàn
thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương từ năm 2014 đến năm 2018.



MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Nhân loại bước vào Thế kỷ 21 với những thành tựu vĩ đại trong nghiên cứu
và ứng dụng khoa học công nghệ, khẳng định khả năng chinh phục thế giới tự nhiên
để phục vụ cho cuộc sống của con người. Tuy nhiên, bên cạnh đó con người cũng
phải đối mặt với nhiều thách thức, một trong những thách thức được coi là thảm họa
mang tính toàn cầu đó là ma tuý đi đôi với đại dịch HIV/AIDS. Thực tế ở Việt Nam
cho thấy tình hình vi phạm, tội phạm về ma túy có diễn biến phức tạp trên hầu hết
các tỉnh, thành phố trong cả nước, đặc biệt là ở các tỉnh đồng bằng, có điều kiện
kinh tế, xã hội phát triển, tập trung dân cư đông nhưng đa số là dân nhập cư, trong
đó có thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương; Phương thức hoạt động ngày càng
tinh vi, có chiều hướng gia tăng về số vụ, về tính chất nguy hiểm và hậu quả gây ra
ngày càng nghiêm trọng. Vì vậy, để từng bước ngăn chặn, giảm dần tệ nạn ma túy
tiến đến triệt tiêu ma túy ra khỏi đời sống xã hội, Đảng và Nhà nước đã ban hành
một hệ thống pháp luật khá hoàn thiện và đầy đủ trong công tác phòng, chống, xử lý
tệ nạn ma túy. Nhưng thực tế cho thấy đấu tranh với các tội phạm về ma túy thật sự
là một cuộc chiến đầy cam go và gian khổ, đôi khi phải trả giá bằng sức khỏe, thậm
chí là cả tính mạng của những cán bộ, chiến sỹ trực tiếp đấu tranh đối với loại tội
phạm này. Bởi lẽ, kinh doanh ma túy đem lại một khoản tiền lời kếch xù, lợi nhuận
lớn mà ít có ngành nghề kinh doanh nào có thể so sánh được. Ma túy thường nhỏ
gọn, dễ cất giấu, dễ bán, dễ tiêu thụ, dễ vận chuyển, khó phát hiện và nếu bị phát
hiện thì mức hình phạt dành cho tội phạm về ma túy luôn nghiêm khắc hơn các tội
phạm khác. Nhiều tội danh như sản xuất trái phép chất ma túy; Tàng trữ trái phép
chất ma túy; Vận chuyển trái phép chất ma túy; Mua bán trái phép chất ma túy;
Chiếm đoạt chất ma túy; Tàng trữ, vận chuyển, mua bán hoặc chiếm đoạt tiền chất
dùng vào việc sản xuất trái phép chất ma túy; Lôi kéo người khác sử dụng trái phép
chất ma túy có mức cao nhất của khung hình phạt là tù chung thân, tử hình nên tội
phạm thường liều lĩnh, bất chấp cả tính mạng, chống trả quyết liệt để tẩu thoát.

Mặt khác, ngoài đặc điểm chung thì tùy thuộc vào điều kiện tự nhiên, điều
1


kiện kinh tế, xã hội, phong tục tập quán, lối sống của từng địa phương, vùng miền
mà công tác đấu tranh đối với tội phạm về ma túy ở mỗi nơi lại có những đặc điểm
riêng. Do vậy, đây là vấn đề phải được tập trung nghiên cứu, làm sáng tỏ.
Thành phố Thủ Dầu Một là trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa và xã hội
quan trọng nhất của tỉnh Bình Dương và vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, nằm
trên trục đường hướng tâm đối ngoại của TP.HCM với tuyến cao tốc Hồ Chí Minh Thủ Dầu Một - Chơn Thành. Cùng với sự tăng trưởng nhanh chóng về kinh tế, tốc
độ đô thị hóa ngày càng mạnh mẽ, lượng dân nhập cư tăng lên qua từng năm, tình
hình an ninh trật tự, trong đó tình hình tệ nạn ma túy và tội phạm về ma túy có chiều
hướng gia tăng, diễn biến ngày càng phức tạp, gây tâm lý hoang mang, lo sợ trong
nhân dân, ảnh hưởng đến cuộc sống của nhiều gia đình, là nguyên nhân làm phát
sinh các tội phạm khác, ảnh hưởng đến tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã
hội cũng như sự phát triển chung của thành phố.
Vì thế, việc nghiên cứu đề tài nêu trên đem lại ý nghĩa thiết thực đối với
công tác đấu tranh phòng, chống các tội phạm về ma túy đồng thời góp phần nâng
cao chất lượng THQCT trong giai đoạn điều tra các vụ án về ma túy tại thành phố
Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương. Những hạn chế, tồn tại này có nhiều nguyên nhân,
trong đó nguyên nhân về nhận thức, lý luận và thực tiễn THQCT trong giai đoạn
điều tra các vụ án về ma túy chưa đầy đủ và thống nhất, chưa được tổng kết, rút
kinh nghiệm. Để tiếp tục phát huy kết quả đạt được tiến đến hạn chế, khắc phục
những thiếu sót còn tồn tại, cần tiếp tục thực hiện Nghị quyết 48, 49/NQ-TW, Luật
tổ chức VKSND năm 2014, BLHS năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017; BLTTHS
năm 2015 nhằm nâng cao chất lượng THQCT trong giai đoạn điều tra VAHS và
KSHĐTP; tăng cường hợp tác quốc tế trong công tác đấu tranh phòng, chống tội
phạm, nhất là tội phạm có tổ chức, xuyên quốc gia, tội phạm ma túy.
Với những lý do nói trên, tác giả lựa chọn đề tài: “Thực hành quyền công tố
trong giai đoạn điều tra các vụ án về ma túy theo pháp luật Tố tụng hình sự Việt

Nam từ thực tiễn thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương” để làm nội dung
nghiên cứu viết Luận văn Thạc sỹ Luật học là hoàn toàn phù hợp, có ý nghĩa lý luận
2


và thực tiễn, mang tính thời sự cao, góp phần nâng cao chất lượng THQCT trong
giai đoạn điều tra các vụ án về ma túy tại thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình
Dương.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
THQCT là một trong hai chức năng hiến định của VKSND, việc đảm bảo
thực hiện chức năng này cũng là nhiệm vụ trọng tâm trong chiến lược cải cách tư
pháp của Đảng và Nhà nước ta, đã được thể chế hóa trong Nghị quyết số 08 ngày
21/01/2002 của Bộ chính trị. THQCT được thực hiện từ khi KTVAHS và trong suốt
quá trình tố tụng, đảm bảo không để bỏ lọt tội phạm và người phạm tội cũng như
không làm oan người vô tội...
THQCT và KSHĐTP trong ngành KSND luôn được đổi mới, đi vào chiều
sâu và thực chất, ngày càng nâng cao về chất lượng, hạn chế được tình trạng bỏ lọt
tội phạm và người phạm tội cũng như không làm oan người vô tội, bảo đảm cho
pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất. Bên cạnh đó, do nhiều
nguyên nhân dẫn đến THQCT trong các giai đoạn tố tụng, đặc biệt là THQCT trong
giai đoạn điều tra các VAHS còn tồn tại nhiều hạn chế. KSV chưa có tâm thế sẵn
sàng thực hiện đầy đủ các thao tac nghiệp vụ theo đúng quy chế của ngành trong
khâu KSĐT nên hầu như các yêu cầu điều tra chưa sâu, sát, chưa phản ánh đúng
thực trạng của hồ sơ các vụ án hình sự nên vẫn còn để xảy ra việc trả hồ sơ để điều
tra bổ sung, tâm lý nể nang, ngại va chạm, sợ mích lòng giữa KSV với ĐTV và
CQĐT cũng phần nào ảnh hưởng đến chất lượng KSĐT. Thực tế này thu hút sự
quan tâm không chỉ các cấp, các cơ ban, ban ngành đoàn thể mà cả những nhà
nghiên cứu lý luận và thực tiễn, có một số công trình nghiên cứu, như:
- Luận văn Thạc sĩ: “THQCT trong giai đoạn điều tra các tội phạm về ma túy
từ thực tiễn tỉnh Thái Nguyên” của tác giả Đào Việt Yên, Học viện Khoa học xã

hội, năm 2017.
- Luận văn Thạc sĩ: “KSĐT các tội phạm về ma túy từ thực tiễn tỉnh Hải
Dương” của tác giả Phạm Văn Tân, Học viện Khoa học xã hội, năm 2017.
- Luận văn Thạc sĩ: “THQCT trong giai đoạn điều tra các tội phạm về ma túy
trên địa bàn huyện Văn Chấn, tỉnh Yên Bái” của tác giả Hà Minh Loan, Học viện
3


Khoa học xã hội, năm 2017.
Tuy nhiên, cho đến thời điểm hiện tại, chưa có công trình khoa học nào đi
sâu nghiên cứu THQCT trong giai đoạn điều tra các vụ án về ma túy theo pháp luật
TTHS Việt Nam tại thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Về mục đích nghiên cứu:
Nghiên cứu làm rõ những vấn đề lý luận và pháp luật về THQCT trong giai
đoạn điều tra các vụ án về ma túy, phân tích thực trạng. Từ đó, làm rõ những yêu
cầu và đề xuất những giải pháp nhằm nâng cao chất lượng THQCT trong giai đoạn
điều tra các vụ án về ma túy tại thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương.
3.2. Về nhiệm vụ nghiên cứu:
- Nghiên cứu lý luận và pháp luật về THQCT trong giai đoạn điều tra các vụ
án về ma túy như khái niệm, đặc điểm và quy định của pháp luật về THQCT trong
giai đoạn điều tra các vụ án về ma túy.
- Phân tích, đánh giá thực trạng THQCT trong giai đoạn điều tra các vụ án về
ma túy tại thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương, trong thời gian 05 năm (từ
năm 2014 đến năm 2018).
Từ đó, nêu lên các yêu cầu nâng cao chất lượng THQCT trong giai đoạn điều
tra các vụ án về ma túy tại thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương và đề xuất
những giải pháp nhằm nâng cao chất lượng THQCT trong giai đoạn điều tra các vụ
án về ma túy trong thời gian tới; đề xuất kiến nghị sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện một
số quy định của pháp luật.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu những vấn đề lý luận,
pháp luật và thực trạng về THQCT trong giai đoạn điều tra các vụ án về ma túy tại
thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương.
4.2. Phạm vi nghiên cứu:
Về thời gian, luận văn này tập trung nghiên cứu trong khoảng thời gian 05
năm (từ năm 2014 đến năm 2018).
4


Về chủ thể và không gian, luận văn này tập trung nghiên cứu việc THQCT
trong giai đoạn điều tra các vụ án về ma túy xảy ra tại thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh
Bình Dương.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận: Luận văn được nghiên cứu dựa trên phương pháp
luận của Chủ nghĩa Mác – Lênin; Tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và Pháp
luật; các quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và
ngành Kiểm sát nhân dân về đấu tranh phòng, chống tội phạm ma túy; đặc biệt là
quan điểm của Đảng về cải cách tư pháp được thể hiện trong Nghị quyết số 08NQ/TW ngày 02/01/2002; Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5/2005 và Nghị quyết
số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ chính trị.
5.2. Phương pháp nghiên cứu: Luận văn được thực hiện dựa trên phương
pháp thống kê, phân tích, so sánh, tổng hợp; nghiên cứu tài liệu, ….
6. Những đóng góp mới và ý nghĩa của đề tài
Những đóng góp mới của luận văn: Luận văn đã làm rõ thêm khái niệm, đối
tượng, phạm vi và nội dung của THQCT trong giai đoạn điều tra các vụ án về ma túy;
Đánh giá ưu điểm, hạn chế, vướng mắc và nguyên nhân của việc THQCT trong giai
đoạn điều tra các vụ án về ma túy và đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả
THQCT trong giai đoạn điều tra các vụ án về ma túy tại thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh
Bình Dương trong thời gian tới.
Ý nghĩa của luận văn: Luận văn này là công trình đầu tiên nghiên cứu về

công tác THQCT trong giai đoạn điều tra các vụ án về ma túy tại thành phố Thủ
Dầu Một, tỉnh Bình Dương đã góp phần hoàn thiện cơ sở lý luận, pháp luật về
THQCT trong giai đoạn điều tra các vụ án về ma túy. Do đó, kết quả nghiên cứu
của luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo phục vụ cho việc nghiên cứu,
giảng dạy và học tập chuyên ngành.
Về mặt thực tiễn, kết quả nghiên cứu của luận văn có thể áp dụng để xây
dựng các kỹ năng nghề nghiệp, các thao tác nghiệp vụ trong mối quan hệ giữa KSV
với ĐTV trong quá trình THQCT, KSĐT các VAHS nói chung, các vụ án về ma túy
5


nói riêng.
7. Kết cấu của luận văn
Chương 1: Những vấn đề lý luận và pháp luật về thực hành quyền công tố
trong giai đoạn điều tra các vụ án về ma túy.
Chương 2: Thực trạng thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra các
vụ án về ma túy tại thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương.
Chương 3: Những yêu cầu và giải pháp nâng cao chất lượng thực hành
quyền công tố trong giai đoạn điều tra các vụ án về ma túy tại thành phố Thủ Dầu
Một, tỉnh Bình Dương.

6


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ THỰC HÀNH QUYỀN
CÔNG TỐ TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA CÁC VỤ ÁN VỀ MA TÚY
1.1. Khái niệm thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra các vụ
án về ma túy
Theo từ điển Tiếng Việt thì “thực hành” có nghĩa là “làm để áp dụng lý

thuyết vào thực tiễn”, “thực hành” cũng đồng nghĩa với “thực hiện” [59, tr.973]. Để
thực hiện quyền công tố, VKSND phải sử dụng các quyền năng thuộc quyền công
tố trong suốt quá trình tiến hành tố tụng đối với vụ án.
Do vậy, theo tác giả, khái niệm thực hành quyền công tố được hiểu như sau:
Thực hành quyền công tố là hoạt động của VKS trong việc truy cứu TNHS người
phạm tội và buộc tội họ trước Tòa án. Do đối tượng tác động của quyền công tố là
tội phạm và người phạm tội nên thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra là
hoạt động nhân danh Nhà nước thực hiện việc buộc tội đối với người phạm tội, bảo
đảm việc truy cứu TNHS đối với người phạm tội có căn cứ và hợp pháp, bảo đảm
mọi hành vi phạm tội được phát hiện đều phải được khởi tố, điều tra, xử lý theo
pháp luật, không để lọt người, lọt tội, làm oan người vô tội.
Như vậy, trong các hoạt động của VKSND, bên cạnh khái niệm “Kiểm sát
việc tuân theo pháp luật” đã xuất hiện khái niệm “Quyền công tố và THQCT”[18,
tr.6]. Tuy nhiên, từ khi xuất hiện cho đến nay, khái niệm về Quyền công tố còn có
nhiều quan điểm khác nhau:
Quan điểm thứ nhất cho rằng: “Quyền công tố là quyền đại diện cho Nhà
nước đưa các vụ việc vi phạm pháp luật ra Tòa án để xét xử nhằm bảo vệ lợi ích
Nhà nước, xã hội, công dân, bảo vệ trật tự pháp luật” [36, tr.84]. Theo đó, quyền
công tố được xác định trên cơ sở các khái niệm công tố Nhà nước và công tố xã hội.
Quyền công tố là quyền của Nhà nước giao cho VKS thực hiện theo luật định, thể
hiện được sự đồng nhất giữa khái niệm quyền công tố Nhà nước với khái niệm thẩm
quyền của VKS trong quá trình giải quyết các vụ án hình sự, dân sự và các loại án
khác [18, tr.7].
7


Quan điểm thứ hai cho rằng: “Tất cả các hoạt động kiểm sát việc tuân theo
pháp luật của VKS đều là THQCT” [21, tr.17]. Quan điểm này đánh đồng quyền
công tố với KSVTTPL của VKSND như vậy là chưa chính xác, bởi lẽ chức năng
của VKS là THQCT và KSVTTPL.

Quan điểm thứ ba cho rằng: “Quyền công tố là quyền của Nhà nước, được
Nhà nước giao cho một cơ quan (ở Việt Nam là cơ quan VKS) thực hiện việc truy
cứu TNHS đối với người phạm tội [18, tr.7]. Trên cơ sở đó truy tố bị can ra trước
Tòa án và bảo vệ sự buộc tội trước phiên tòa” [18, tr.7]. Theo quan điểm này,
quyền công tố là nhân danh Nhà nước thực hiện việc buộc tội đối với người phạm
tội và chỉ có trong lĩnh vực tố tụng hình sự mà không có trong các lĩnh vực khác.
Phạm vi quyền công tố:
Về phạm vi không gian: QCT chỉ có trong lĩnh vực TTHS.
Về phạm vi thời gian (tức thời điểm bắt đầu và kết thúc của quyền công tố):
Hiện nay còn nhiều quan điểm nhưng tác giả đồng tình với quan điểm: “Phạm vi
quyền công tố bắt đầu từ khi tội phạm được thực hiện và kết thúc khi bản án có hiệu
lực pháp luật” [35, tr.40]. Bởi quyền công tố là quyền của Nhà nước truy cứu
TNHS đối với người thực hiện hành vi phạm tội, thì quyền này phải phát sinh từ khi
tội phạm xảy ra và nó trừng phạt người đó một cách công khai bằng con đường đưa
vụ án ra Tòa án xét xử.
Ở Việt Nam: Không có cơ quan nhà nước nào có thể thay thế ngành kiểm sát
để sử dụng quyền công tố; bắt, giam, tha, điều tra, truy tố, xét xử có đúng người,
đúng tội, đúng pháp luật hay không ngoài cơ quan VKS” [15, tr.10]. Như vậy, VKS
là cơ quan độc quyền thực hiện nhiệm vụ THQCT vì các lẽ sau: VKS là cơ quan
duy nhất về mặt pháp lý có 05 quyền sau: Có quyền độc lập phát động QCT; Có
quyền áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn; Có trách nhiệm đảm bảo đủ
các chứng cứ để truy tố bị can; Có quyền quyết định truy tố bị can ra Tòa, khi đảm
bảo đủ chứng cứ chứng minh hành vi phạm tội và xét thấy cần thiết phải xử lý
người phạm tội trước pháp luật VKS quyết định; Có quyền để bảo đảm việc truy tố,
buộc tội bị cáo theo những căn cứ và quy định của pháp luật tại Tòa án và việc chấp
8


nhận lời buộc tội của VKS đối với người phạm tội chính là bản án kết tội của Tòa
án. Từ đó, khái niệm THQCT trong TTHS có thể được hiểu như sau:

THQCT là hoạt động của VKS thực hiện việc nhân danh Nhà nước buộc tội
đối với người phạm tội, đưa người phạm tội ra trước Tòa án để xét xử và bảo vệ sự
buộc tội đó; đảm bảo mọi hành vi phạm tội đều được xử lý kịp thời; việc khởi tố,
điều tra, truy tố, xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật; không để lọt tội phạm
và không làm oan người vô tội.
Hiến pháp năm 2013 tại Điều 107 quy định: "VKS nhân dân THQCT, kiểm
sát các hoạt động tư pháp" [29, tr.72]. Điều 2 Luật tổ chức VKSND năm 2014 quy
định: “VKS nhân dân là cơ quan THQCT, KSHĐTP của nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam” [30, tr.7,8] và một lần nữa được khẳng định tại Điều 20 BLTTHS
năm 2015: “VKS THQCT và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự,
quyết định việc buộc tội, phát hiện vi phạm pháp luật nhằm bảo đảm mọi hành vi
phạm tội, người phạm tội, pháp nhân phạm tội, vi phạm pháp luật đều phải được
phát hiện và xử lý kịp thời, nghiêm minh, việc khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi
hành án đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không để lọt tội phạm và người
phạm tội, pháp nhân phạm tội, không làm oan người vô tội” [28, tr.17].
Khi phát hiện hành vi có dấu hiệu tội phạm, trong phạm vi nhiệm vụ, quyền
hạn của mình, cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng có trách nhiệm khởi tố vụ
án, áp dụng các biện pháp do BLTTHS quy định để xác định tội phạm và xử lý
người phạm tội, pháp nhân phạm tội [28, tr.16].
THQCT là hoạt động của VKSND trong tố tụng hình sự để thực hiện việc
buộc tội của Nhà nước đối với người phạm tội, được thực hiện ngay từ khi giải
quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và trong suốt quá trình khởi tố,
điều tra, truy tố, xét xử VAHS [30, tr.8].
KSHĐTP là hoạt động của VKSND để kiểm sát tính hợp pháp của các hành
vi, quyết định của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong hoạt động tư pháp, được thực
hiện ngay từ khi tiếp nhận và giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi
tố và trong suốt quá trình giải quyết VAHS [30, tr.10].
9



Hiện nay, ở nước ta có nhiều quan điểm về việc phân chia các giai đoạn
TTHS [18, tr.11]. Có quan điểm cho rằng quá trình TTHS gồm 05 giai đoạn:
KTVAHS, điều tra vụ án hình sự, truy tố người phạm tội, xét xử và thi hành án [4,
tr.11]. Bên cạnh đó cũng tồn tại quan điểm quá trình TTHS gồm 07 giai đoạn:
KTVAHS, điều tra VAHS, truy tố, xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, xét xử phúc thẩm
VAHS, thi hành án và giai đoạn đặc biệt (giám đốc thẩm và tái thẩm) [37, tr.10]. Dù
có nhiều quan điểm khác nhau về việc phân chia các giai đoạn TTHS, điều tra vụ án
hình sự vẫn là giai đoạn không thể thiếu, điều tra là giai đoạn TTHS trong đó cơ
quan có thẩm quyền áp dụng các biện pháp do BLTTHS quy định để xác định tội
phạm và xử lý người phạm tội, pháp nhân phạm tội [28, tr.16].
Nhiệm vụ, quyền hạn của VKS khi THQCT trong giai đoạn điều tra VAHS
được quy định tại Điều 165 BLTTHS [28, tr.154]. Ngoài ra, VKS còn thực hiện
nhiệm vụ, quyền hạn khi THQCT và kiểm sát việc KTVAHS theo quy định tại Điều
161 BLTTHS [28, tr.148, 149].
Trong giai đoạn điều tra, mối quan hệ giữa VKS và CQĐT là mối quan hệ
vừa phối hợp vừa chế ước, biểu hiện qua những quyền năng theo quy định của pháp
luật nhằm bảo đảm mọi hành vi phạm tội, người phạm tội, pháp nhân phạm tội, vi
phạm pháp luật đều phải được phát hiện và xử lý kịp thời, nghiêm minh, việc khởi
tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không
để lọt tội phạm và người phạm tội, pháp nhân phạm tội, không làm oan người vô
tội.
Tội phạm về ma túy là một loại tội phạm, nên cũng có những đặc điểm
chung như các tội phạm khác đó là: Tính nguy hiểm cho xã hội, tính trái pháp luật,
tính có lỗi và tính chịu hình phạt [18, tr.6]. Tuy nhiên, đối với tội phạm về ma tuý
có những đặc điểm riêng mà các tội phạm khác không có như: Tội phạm về ma túy
là hành vi cố ý xâm phạm chế độ quản lý các chất ma túy của Nhà nước chứ không
phải của một cá nhân hay tổ chức như các tội danh khác.
Các tội phạm về ma túy đều có chung đối tượng là các chất ma túy và tiền
chất ma túy được quy định trong Nghị định số 82/2013/NĐ-CP do Chính phủ ban
10



hành ngày 19/7/2013, có hiệu lực từ ngày 15/9/2013, ban hành các danh mục chất
ma túy và tiền chất bao gồm 234 chất ma túy và 24 tiền chất để sản xuất ra chất ma
túy; Nghị định số 126/2015/NĐ-CP do Chính phủ ban hành ngày 09/12/2015,
có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/02/2016, sửa đổi, bổ sung Danh mục các chất ma
túy và tiền chất ban hành kèm theo Nghị định số 82/2013/NĐ-CP ngày 19/7/2013
của Chính phủ ban hành các danh mục chất ma túy và tiền chất, bổ sung 15 chất vào
Danh mục “Các chất ma túy được dùng hạn chế trong phân tích, kiểm nghiệm,
nghiên cứu khoa học, điều tra tội phạm hoặc trong lĩnh vực y tế theo quy định của
cơ quan có thẩm quyền” và bổ sung 02 chất vào Danh mục “Các tiền chất”.
Tính nguy hiểm cho xã hội của tội phạm về ma tuý ở chỗ đe dọa nghiêm
trọng đến sức khỏe và sự phát triển bình thường của con người cũng như đến hạnh
phúc gia đình và trật tự công cộng [18, tr.12]. Tính nguy hiểm của loại tội phạm này
cao hơn so với các tội phạm khác được quy định trong BLHS năm 2015, sửa đổi bổ
sung năm 2017 (trừ các tội xâm phạm an ninh quốc gia), trong số 13 tội danh về ma
túy thì có 09 tội danh là tội phạm đặc biệt nghiêm trọng gồm 03 tội danh có mức
cao nhất của khung hình phạt là tử hình: khoản 4 các Điều 248; Điều 250; Điều 251;
06 tội danh có mức cao nhất của khung hình phạt là tù chung thân: khoản 4 các
Điều 249; 252; 253, 255, 257, 258; 03 tội danh là tội phạm rất nghiêm trọng gồm:
02 tội danh có mức cao nhất của khung hình phạt là đến 10 năm tù: khoản 2 các
Điều 254, 259 và 01 tội danh có mức cao nhất của khung hình phạt là đến 10 năm
tù: khoản 2 Điều 256; Chỉ duy nhất có 01 danh có mức cao nhất của khung hình
phạt là đến 07 năm tù (khoản 2 Điều 247).
Không phải ngẫu nhiên mà những nhà làm luật Việt Nam lại xây dựng riêng
một chương "Các tội phạm về ma túy" trong BLHS và qua mỗi lần sửa đổi bổ sung,
chương các tội phạm về ma túy lại được quan tâm, chú trọng xây dựng hoàn thiện ở
tất cả các khâu lập pháp, hành pháp và tư pháp.
Như vậy, chúng ta có thể hiểu: THQCT trong giai đoạn điều tra các vụ án
về ma túy là chức năng luật định của VKSND nhằm giám sát trực tiếp mọi hoạt

động tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng, người tham
11


gia tố tụng trong quá trình khởi tố, điều tra các vụ án về ma túy, nhằm đảm bảo
cho pháp luật tố tụng được thực hiện một cách nghiêm chỉnh và thống nhất [61,
tr.14].
Chủ thể THQCT trong giai đoạn điều tra: Như đã trình bày ở trên, quyền
công tố là quyền của Nhà nước thực hiện truy cứu TNHS đối với người thực hiện
hành vi phạm tội [18, tr.13]. Quyền này được Nhà nước trao cho một cơ quan duy
nhất (độc quyền) là cơ quan VKS thực hiện. Do đó, VKS cũng chính là chủ thể
THQCT trong giai đoạn điều tra [18, tr.13].
Đối tượng của THQCT trong giai đoạn điều tra: Là tội phạm và người
phạm tội [61, tr.19].
Nội dung của THQCT trong giai đoạn điều tra: Là thẩm quyền được quy
định tại Điều 165 BLTTHS [28, tr. 154, 155, 156], khái quát lại gồm:
- Quyết định phát động quyền công tố để mở cuộc điều tra hình sự đối với sự
kiện phạm tội (khởi tố hoặc không khởi tố VAHS).
- Quyết định việc KTBC để điều tra đối với người thực hiện tội phạm (phê
chuẩn hoặc không phê chuẩn quyết định KTBC, trực tiếp ra quyết định KTBC).
- Quyết định việc có hạn chế hay không hạn chế quyền tự do, dân chủ của cá
nhân người phạm tội (xét phê chuẩn việc bắt, gia hạn tạm giữ, tạm giam).
- Quyết định việc thay đổi hoặc chấm dứt hoạt động tố tụng (đình chỉ điều tra
hoặc đình chỉ vụ án làm chấm dứt giai đoạn điều tra; quyết định truy tố bị can ra tòa
làm phát sinh giai đoạn tố tụng mới – giai đoạn xét xử VAHS).
Phạm vi của THQCT trong giai đoạn điều tra: Luôn gắn liền với việc tiến
hành các hoạt động điều tra, được bắt đầu từ khi vụ việc phạm tội xảy ra và trong
suốt quá trình điều tra đến khi kết thúc việc buộc tội. Do đó, THQCT trong giai
đoạn điều tra bắt đầu từ khi tội phạm xảy ra và kết thúc khi việc điều tra kết thúc
hoặc đình chỉ vụ án. Bất cứ khi nào và bất cứ ở đâu, CQĐT tiến hành các hoạt động

nghiệp vụ điều tra như khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi, khám xét,
lấy lời khai người làm chứng, đối chất, thực nghiệm điều tra, hỏi cung bị can,.... thì
khi đó VKS có trách nhiệm THQCT. Trong trường hợp không có tội phạm thì QCT
12


cũng bị triệt tiêu, theo đó, cũng chấm dứt mọi hoạt động tố tụng, trong đó có
THQCT [28, tr.145].
1.2. Đặc điểm thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra các vụ án
về ma túy
THQCT trong giai đoạn điều tra các vụ án về ma túy là một hoạt động áp
dụng pháp luật vào thực tế nhằm truy cứu TNHS đối với người thực hiện hành vi
phạm tội về ma túy [18, tr.15]. Hoạt động này được tiến hành bởi một chủ thể duy
nhất (độc quyền) là VKS.
Để thực hiện chức năng công tố, BLTTHS và Luật tổ chức VKSND quy định
cho VKS một hệ thống các quyền năng pháp lý rộng lớn, trong đó có những quyền
chỉ VKS được thực hiện, điển hình như quyền truy tố bị can ra trước Tòa án để xét
xử [18, tr.15]. Các CQĐT và các cơ quan của Bộ đội biên phòng, Hải quan, Kiểm
lâm, lực lượng Cảnh sát biển, Kiểm ngư và các cơ quan khác của Công an nhân dân,
Quân đội nhân dân được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra cũng
được pháp luật giao cho một số quyền năng pháp lý cụ thể như: khởi tố, điều tra vụ
án hình sự, … nhưng đó chỉ là một số quyền năng tố tụng thuộc nội dung quyền
công tố. Trong đó, có những Lệnh, Quyết định bắt buộc phải được sự phê chuẩn của
VKS trước khi thi hành, mới có giá trị pháp lý.
Mối quan hệ giữa VKS và CQĐT khi THQCT trong giai đoạn điều tra các vụ
án về ma túy là mối quan hệ vừa phối hợp, vừa chế ước. Chất lượng, hiệu quả hoạt
động của từng cơ quan phụ thuộc rất lớn vào mối quan hệ giữa hai chủ thể này. Cơ
quan điều tra và VKS phối hợp bằng nhiều cách thức, cấp độ, tần suất khác nhau
như: Phối hợp theo quy định của pháp luật (Bộ luật TTHS, Pháp lệnh tổ chức điều
tra hình sự, Thông tư liên tịch), các quy định giữa hai ngành, hai đơn vị cùng cấp

(quy chế, quy định phối hợp), phối hợp thường xuyên định kỳ theo chương trình, kế
hoạch đột xuất thông qua việc giải quyết các vụ án hình sự cụ thể.
Giữa VKS và CQĐT trong TTHS đã hình thành quan hệ tố tụng đặc biệt,
trong đó, VKS có quyền giám sát, yêu cầu, hủy bỏ các quyết định, hành vi không có
căn cứ, trái pháp luật của CQĐT và ĐTV, nhằm bảo đảm việc khởi tố, điều tra vụ
13


án đúng pháp luật. Quyền năng này của VKS đối với cơ quan điều tra có hiệu lực
rất cao và CQĐT phải chấp hành. Nội dung chế ước của VKS đối với hoạt động
điều tra của CQĐT được thực hiện bằng tổng hợp các quyền năng pháp lý như:
Giám sát, yêu cầu, hủy bỏ.
1.3. Quy định của pháp luật tố tụng hình sự về thực hành quyền công tố
trong giai đoạn điều tra các vụ án về ma túy
Chức năng THQCT của VKS được quy định tại khoản 1 Điều 107 Hiến pháp
năm 2013: “VKSND THQCT, KSHĐTP” [29, tr.72].
Luật tổ chức VKSND năm 2014 quy định: “THQCT là hoạt động của
VKSND trong TTHS để thực hiện việc buộc tội của Nhà nước đối với người phạm
tội, được thực hiện ngay khi giải quyết tin tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị
khởi tố và trong suốt quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử VAHS” [30, tr.8].
Trong các hoạt động THQCT thì THQCT trong giai đoạn điều tra có vị trí rất quan
trọng, có ý nghĩa trong việc thực hiện vai trò của VKSND, thể hiện quyền buộc tội
của Nhà nước đối với người phạm tội. Theo quy định tại Điều 165 BLTTHS năm
2015, khi THQCT trong giai đoạn điều tra, VKSND có những nhiệm vụ, quyền hạn
sau đây:
1.3.1. Quyền khởi khởi tố, thay đổi, bổ sung quyết định khởi tố vụ án hình sự,
khởi tố bị can; yêu cầu Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành
một số hoạt động điều tra khởi tố hoặc thay đổi, bổ sung quyết định khởi tố vụ án
hình sự, khởi tố bị can [28, tr.154]
VKS là cơ quan được Nhà nước giao nhiệm vụ THQCT nên đương nhiên

VKS cũng quyền KTVAHS, được quy định tại Điều 153 BLTTHS năm 2015:
“VKS ra quyết định KTVAHS trong 03 trường hợp: a) VKS hủy bỏ quyết định
không KTVAHS của CQĐT, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt
động điều tra; b) VKS trực tiếp giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị
khởi tố; c) VKS trực tiếp phát hiện ra dấu hiệu tội phạm hoặc theo yêu cầu khởi tố
của Hội đồng xét xử” [28, tr.142]
Như vậy, VKS có quyền KTVAHS nhưng chỉ trong ba trường hợp: Một là,
14


sau khi ra Quyết định hủy bỏ quyết định không KTVAHS; Hai là, qua việc trực tiếp
giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố; Ba là, VKS trực tiếp phát
hiện dấu hiệu tội phạm hoặc theo yêu cầu khởi tố VAHS của Hội đồng xét xử
VAHS nếu có căn cứ.
Trong thời hạn 24 giờ kể từ khi ra Quyết định KTVAHS, VKS phải gửi
Quyết định đó đến Cơ quan có thẩm quyền để tiến hành điều tra theo khoản 2, Điều
154 BLTTHS năm 2015 [28, tr.143]. Trong thực tế, trường hợp thứ hai và thứ ba
“VKS trực tiếp phát hiện dấu hiệu tội phạm” là quy định mới được bổ sung trong
BLTTHS năm 2015 nên ít xảy ra hơn, còn trường hợp thứ nhất thì xảy ra nhiều và
khá phổ biến.
Điều 143 BLTTHS năm 2015 quy định căn cứ để KTVAHS là khi xác định
có dấu hiệu tội phạm, không được khởi tố tùy tiện, chủ quan vì KTVAHS đánh dấu
sự mở đầu của quá trình giải quyết một vụ án hình sự. Căn cứ KTVAHS được
BLTTHS quy định chặt chẽ, có ý nghĩa quan trọng trong việc thực hiện nhiệm vụ
chung của BLTTHS, đó là “bảo đảm phát hiện chính xác và xử lý công minh, kịp
thời mọi hành vi phạm tội, phòng ngừa, ngăn chặn tội phạm, không để lọt tội phạm,
không làm oan người vô tội; góp phần bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người,
quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa,….” (Điều 2, BLTTHS năm 2015)
[28, tr.6].
BLTTHS quy định nguyên tắc tiếp nhận tin báo, tố giác về tội phạm của cơ

quan, tổ chức tại Điều 145. Cơ quan, tổ chức nhận được tố giác, tin báo về tội phạm
và kiến nghị khởi tố có trách nhiệm phải tiếp nhận các tin báo, tố giác, kiến nghị
này. BLTTHS năm 2015 quy định rõ ràng việc cấm các cơ quan, tổ chức từ chối
tiếp nhận tin báo, tố giác và kiến nghị khởi tố.Thẩm quyền giải quyết, tố giác, tin
báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố thuộc về CQĐT, VKS và cơ quan được giao
nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra. Các cơ quan, tổ chức khác không có
thẩm quyền này.
VKS giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố trong trường
hợp phát hiện CQĐT, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều
15


tra có vi phạm pháp luật nghiêm trọng trong hoạt động kiểm tra, xác minh tố giác,
tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố hoặc phát hiện có dấu hiệu bỏ lọt tội phạm mà
VKS đã yêu cầu bằng văn bản nhưng không được khắc phục [28, tr.134].
Điều 146 BLTTHS năm 2015 quy định thủ tục tiếp nhận tố giác, tin báo về
tội phạm, kiến nghị khởi tố [28, tr.135] rất chặt chẽ. Bởi lẽ, tố giác, tin báo về tội
phạm, kiến nghị khởi tố là cơ sở để cơ quan có thẩm quyền tiến hành xác minh về
vụ việc, xem xét có hay không có dấu hiệu của tội phạm. Cơ quan, tổ chức, cá nhân
có thể trực tiếp tố giác, báo tin về tội phạm, kiến nghị khởi tố tới CQĐT, VKS, cơ
quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra hoặc gửi qua dịch vụ
bưu chính, điện thoại hoặc qua phương tiện thông tin khác.
Khi nhận được tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố trực tiếp từ cơ
quan, tổ chức, cá nhân thì cơ quan có thẩm quyền phải lập biên bản tiếp nhận và ghi
vào sổ tiếp nhận; có thể ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh việc tiếp nhận [28,
tr.135].
Trường hợp tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố gửi qua dịch vụ
bưu chính, điện thoại hoặc qua phương tiện thông tin khác thì ghi vào sổ tiếp nhận
[28, tr.135].
Trường hợp VKS giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố

trong trường hợp phát hiện CQĐT, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số
hoạt động điều tra có vi phạm pháp luật nghiêm trọng trong hoạt động kiểm tra, xác
minh tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố hoặc phát hiện có dấu hiệu bỏ
lọt tội phạm mà VKS đã yêu cầu bằng văn bản nhưng không được khắc phục thì
trong thời hạn 05 ngày kể từ ngày VKS có yêu cầu, cơ quan có thẩm quyền đang
thụ lý, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố đó phải chuyển hồ
sơ có liên quan cho VKS để xem xét, giải quyết [28, tr.136].
Điều luật quy định trách nhiệm chuyển tố giác, tin báo về tội phạm và kiến
nghị khởi tố nhằm đảm bảo việc giải quyết được đúng đắn, nhanh chóng, kịp thời và
tránh chồng chéo về thẩm quyền.
Bên cạnh việc KTVAHS, Điều 157 BLTTHS năm 2015 quy định cụ thể các
16


căn cứ không KTVAHS. Việc KTVAHS có ý nghĩa quan trọng, đánh dấu một vụ
việc có dấu hiệu của tội phạm và có được đưa vào quy trình giải quyết của tố tụng
hình sự hay không? Thực tế cho thấy, ở thời điểm ban đầu, khi thông tin, tài liệu
còn ít, việc xác định dấu hiệu tội phạm để quyết định việc khởi tố không đơn giản.
Đặc biệt, đối với những vụ án cần tri thức khoa học trong những lĩnh vực khác như
xác định nguyên nhân chết, xác định chất lượng công trình xây dựng... KTVAHS
không có căn cứ có thể ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền, lợi ích của cá nhân, tổ
chức. Ngược lại, không KTVAHS có thể dẫn đến bỏ lọt tội phạm.
Điều luật quy định rõ ràng các căn cứ không KTVAHS nhằm tránh việc tùy
tiện trong giải quyết vụ việc.
Không được KTVAHS, khi có một trong các căn cứ sau: 1. Không có sự việc
phạm tội; 2. Hành vi không cấu thành tội phạm; 3.Người thực hiện hành vi nguy
hiểm cho xã hội chưa đến tuổi chịu trách nhiệm hình sự; 4. Người mà hành vi phạm
tội của họ đã có bản án hoặc quyết định đình chỉ vụ án có hiệu lực pháp luật; 5. Đã
hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự; 6. Tội phạm được đại xá; 7. Người thực
hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội đã chết, trừ trường hợp cần tái thẩm đối với

người khác; 8. Tội phạm quy định tại khoản 1 các điều 134, 135, 136, 138, 139,
141, 143, 155, 156 và 226 của Bộ luật Hình sự mà bị hại hoặc người đại diện của bị
hại không yêu cầu khởi tố [28, tr.145].
Tố tụng hình sự nhằm xác định và giải quyết đúng đắn tội phạm và người
phạm tội. Một người phải chịu trách nhiệm tương xứng với hành vi tội phạm đã
thực hiện. Do đó, nếu người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội đã chết, trình
tự tố tụng đối với vụ án đó cũng chấm dứt. Cơ quan có thẩm quyền phải ra quyết
định không KTVAHS trong trường hợp này, trừ trường hợp cần tái thẩm đối với
người khác. Tội phạm quy định tại khoản 1 các điều 134, 135, 136, 138, 139, 141,
143, 155, 156 và 226 của Bộ luật Hình sự mà bị hại hoặc người đại diện của bị hại
không yêu cầu khởi tố [28, tr.145]. Đây là căn cứ mới được bổ sung trong BLTTHS
năm 2015. Trong những vụ án khởi tố theo yêu cầu của bị hại, nếu bị hại không có
yêu cầu khởi tố thì cơ quan có thẩm quyền phải ra quyết định không KTVAHS.
17


Điều 156 BLTTHS năm 2015 quy định việc thay đổi hoặc bổ sung quyết
định KTVAHS. Theo đó, CQĐT, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số
hoạt động điều tra, VKS ra quyết định thay đổi quyết định KTVAHS khi có căn cứ
xác định tội phạm đã khởi tố không đúng với hành vi phạm tội xảy ra; ra quyết định
bổ sung quyết định KTVAHS khi có căn cứ xác định còn tội phạm khác chưa bị
khởi tố và trong thời hạn 24 giờ kể từ khi ra quyết định thay đổi hoặc bổ sung quyết
định khởi tố vụ án hình sự, CQĐT, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số
hoạt động điều tra phải gửi quyết định kèm theo các tài liệu liên quan đến việc thay
đổi hoặc bổ sung quyết định KTVAHS cho VKS cùng cấp hoặc Viện kiểm sát có
thẩm quyền để kiểm sát việc khởi tố.
Theo quy định tại Điều 179 BLTTHS năm 2015, khi có đủ căn cứ để xác
định một người hoặc pháp nhân đã thực hiện hành vi mà BLHS quy định là tội
phạm thì CQĐT ra Quyết định KTBC [28, tr.170].
KTBC là hành vi tố tụng có ý nghĩa quan trọng, theo đó cơ quan có thẩm

quyền, thường là CQĐT, sau khi tiến hành một số hoạt động điều tra đã có đủ căn
cứ để xác định một người hoặc pháp nhân đã thực hiện hành vi phạm tội. Quyết
định KTBC là cơ sở để cơ quan có thẩm quyền tiến hành một số hoạt động điều tra
tiếp theo hoặc áp dụng các biện pháp ngăn chặn như hỏi cung bị can, tạm giam bị
can để điều tra...
Trường hợp VKS hủy bỏ quyết định KTBC của CQĐT thì phải nêu rõ lí do.
CQĐT có quyền kiến nghị với VKS cấp trên trực tiếp theo quy định tại khoản 2
điều 167 BLTTHS.
Trường hợp VKS yêu cầu bổ sung chứng cứ, tài liệu thì trong thời hạn 03
ngày kể từ ngày nhận được chứng cứ, tài liệu bổ sung, VKS phải ra quyết định phê
chuẩn hoặc quyết định hủy bỏ quyết định KTBC [28, tr. 171]. VKS cũng có quyền
quyết định KTBC trong trường hợp sau khi nhận hồ sơ và kết luận điểu tra, VKS
phát hiện có người khác đã thực hiện hành vi mà Bộ luật Hình sự quy định là tội
phạm trong vụ án chưa bị khởi tố. Đồng thời với việc KTBC trong trường hợp này,
VKS trả hồ sơ cho CQĐT để điều tra bổ sung.
18


×