Tải bản đầy đủ (.pdf) (31 trang)

Tiểu luận Quản lý cơ quan báo chí (Những yêu cầu về phẩm chất của người đứng đầu cơ quan báo chí)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (817.16 KB, 31 trang )

HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN
KHOA PHÁT THANH - TRUYỀN HÌNH
_________________________________________

TIỂU LUẬN
Đề tài: NHỮNG YÊU CẦU, PHẨM CHẤT CỦA NGƢỜI
LÃNH ĐẠO, QUẢN LÝ CƠ QUAN BÁO CHÍ

MÔN: QUẢN LÝ BÁO CHÍ TRUYỀN THÔNG

Hà Nội – 2013


LỜI MỞ ĐẦU_______________________________________________________1
CHƢƠNG 1. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ YÊU CẦU, PHẨM CHẤT CỦA
NGƢỜI LÃNH ĐẠO, QUẢN LÝ CƠ QUAN BÁO CHÍ____________________2
1.1.

Định nghĩa ngƣời lãnh đạo, quản lý cơ quan báo chí_______________2

1.1.1.

Người lãnh đạo_______________________________________________2

1.1.2.

Người quản lý________________________________________________2

1.2.

Những yêu cầu, phầm chất của ngƣời lãnh đạo, quản lý cơ quan báo



chí_________________________________________________________________ 3
1.2.1.

Yêu cầu, phẩm chất của người lãnh đạo, quản lý nói chung____________ 3

1.2.2.

Yêu cầu, phẩm chất của người lãnh đạo, quản lý cơ quan báo chí________8
a.

Tại những nền báo chí khác________________________________8

b.

Tại Việt Nam__________________________________________ 11

CHƢƠNG 2. THỰC TRẠNG CHẤT LƢỢNG LÃNH ĐẠO, QUẢN LÝ CƠ
QUAN BÁO CHÍ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY_____________________________20
2.1.

Những điểm tích cực_________________________________________20

2.2.

Những điểm tiêu cực_________________________________________21

CHƢƠNG 3. GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƢỢNG LÃNH ĐẠO, QUẢN LÝ
CƠ QUAN BÁO CHÍ Ở VIỆT NAM____________________________________26
3.1.


Đổi mới phƣơng pháp đào tạo, bồi dƣỡng cán bộ lãnh đạo, quản lý cơ

quan báo chí________________________________________________________26
3.2.

Thay đổi cách thức tuyển dụng, bổ nhiệm, luân chuyển cán bộ lãnh đạo,

quản lý các cơ quan báo chí___________________________________________26
3.3.

Nâng cao bản lĩnh chính trị, đạo đức nghề nghiệp, ý thức trách nhiệm

của ngƣời lãnh đạo, quản lý cơ quan báo chí_____________________________27
KẾT LUẬN________________________________________________________ 28
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO_________________________________28


LỜI MỞ ĐẦU
Công tác báo chí là bộ phận cấu thành hữu cơ trong bộ máy hoạt động của
Đảng, là bộ phận xung kích trên mặt trận lý luận và tư tưởng với nhiệm vụ tuyên
truyền lý luận tư tưởng Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh; đường lối, chính sách
của Đảng và Nhà nước; bảo vệ chế độ, ổn định tư tưởng, tạo sự đồng thuận xã hội để
huy động nguồn lực vào phát triển đất nước. Nhiệm vụ chính trị - tư tưởng lớn lao ấy
đòi hỏi người lãnh đạo, quản lý cơ quan báo chí phải có đầy đủ những phẩm chất, đáp
ứng đủ những yêu cầu mà vị trí mình đảm nhiệm cần có, nghĩa là ngoài những yêu
cầu về trình độ, kỹ năng quản lý, lãnh đạo, cần có trình độ chuyên môn sâu rộng về
báo chí, có uy tín, đạo đức nghề nghiệp và bản lĩnh chính trị vững vàng. Những yêu
cầu, phẩm chất này cần được đào tạo chuyên sâu, bài bản và tích lũy kinh nghiệm
trong thực tiễn. Kỹ năng lãnh đạo và quản lý có những điểm tương đồng như vấn đề

xây dựng, ban hành văn bản, đường lối, chính sách; sử dụng nguồn lực; điều hành
hoạt động của tổ chức; xử lý khủng hoảng, điều hòa lợi ích…, sự khác nhau phụ thuộc
vào đối tượng, lĩnh vực, hệ kiến thức. Trong một cơ quan báo chí, người đứng đầu
vừa giữ vai trò lãnh đạo vĩ mô, lại vừa chịu trách nhiệm quản lý bộ phận do mình trực
tiếp phụ trách. Vì vậy, hai kỹ năng này không có sự phân biệt rõ ràng trong quy mô cơ
quan báo chí. Bài tiểu luận này sẽ khái quát những yêu cầu, phẩm chất chung nhất mà
người lãnh đạo, quản lý cơ quan báo chí cần có về mặt lý luận, đưa ra thực trạng về
chất lượng lãnh đạo, quản lý cơ quan báo chí hiện nay, qua đó rút ra một số giải pháp
nhằm nâng cao chất lượng lãnh đạo, quản lý báo chí tại Việt Nam.


CHƢƠNG 1. LÝ LUẬN CHUNG VỀ YÊU CẦU, PHẨM CHẤT CỦA
NGƢỜI LÃNH ĐẠO, QUẢN LÝ CƠ QUAN BÁO CHÍ
1.1.Định nghĩa ngƣời lãnh đạo, quản lý cơ quan báo chí
1.1.1 Người lãnh đạo
Người lãnh đạo cơ quan báo chí là người đề ra chủ trương, đường lối, xác định
mục tiêu dài hạn, động viên lực lượng, thuyết phục mọi người, tạo dựng niềm tin của
cấp dưới đối với năng lực, đường lối lãnh đạo do mình đề ra.
Người lãnh đạo nếu tạo dựng đường lối đúng sẽ tạo ra sức hút lôi cuốn mọi
người tin tưởng và đi theo mình, từ đó được công nhận năng lực, xây dựng được uy
tín của bản thân.
Phương tiện để người lãnh đạo động viên, thuyết phục, gây ảnh hưởng với mọi
người chính là uy tín, niềm tin chính trị, là tấm gương sống của bản thân. Phương
thức người lãnh đạo sử dụng là hoạch định chủ trương, đường lối hoạt động cho đơn
vị, tổ chức mình đang lãnh đạo. Phạm vi lãnh đạo là những vấn đề chủ chốt, vấn đề
lớn, xem xét trong mối tương quan giữa hoạch định, tổ chức và kiểm tra.
Trong một tòa soạn báo chí, người lãnh đạo chính là tổng biên tập (báo in),
tổng giám đốc hoặc giám đốc (Đài phát thanh và truyền hình) – có nhiệm vụ quản lý
cơ quan báo chí về mọi mặt, đảm bảo tôn chỉ, mục đích của cơ quan báo chí, chịu
trách nhiệm trước pháp luật về mọi hoạt động của cơ quan báo chí do mình phụ trách.

1.1.2. Người quản lý
Người quản lý là người quản trị một tổ chức, xác định mục tiêu trung hạn và
ngắn hạn, tổ chức thực hiện kế hoạch đã được lãnh đạo đề ra và phê duyệt.
Như vậy, trong một tòa soạn báo chí, người quản lý là người đứng đầu các ban,
phòng, chịu trách nhiệm cụ thể hóa kế hoạch đã được lãnh đạo đề ra thành các nội
dung chi tiết tùy theo đặc điểm nhiệm vụ, chức năng của ban, phòng mình phụ trách
và tổ chức thực hiện các nội dung ấy.


1.2.Những yêu cầu, phầm chất của ngƣời lãnh đạo, quản lý cơ
quan báo chí
1.2.1. Yêu cầu, phẩm chất của người lãnh đạo, quản lý nói
chung
Quản lý, lãnh đạo là một hoạt động mang tính khoa học, tính nghệ thuật. Mặt
khác, nó cũng hàm chứa tính khó khăn, phức tạp. Muốn thành công trong công việc
quản lý, lãnh đạo, người lãnh đạo phải có những phẩm chất đặc biệt. Những phẩm
chất này xuất phát từ đặc điểm lao động quản lý; từ vai trò vị trí của người lãnh đạo;
từ đặc điểm, tính chất của lĩnh vực, đối tượng quản lý cụ thể… Vì thế, khó có thể xác
định được yêu cầu cụ thể về phẩm chất nhân cách của từng người lãnh đạo. Tuy nhiện
đa số các nhà khoa học quản lý đều cho rằng có thể nêu lên nội dung những yêu cầu
về những phẩm chất chung cần thiết cho người cán bộ quản lý, lãnh đạo. Mỗi người
lãnh đạo cần xây dựng cho bản thân một tính cách lãnh đạo phù hợp với yêu cầu đặc
điểm công tác của mình, sao cho tập trung phần lớn những nét tính cách tích cực và
hạn chế đến mức thấp nhất những nét tiêu cực. Khi nói đến những quan điểm nổi
tiếng về phẩm chất của người lãnh đạo, quản lý, có thể đề cập đến những quan điểm
sau:
Thứ nhất là quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Trong những bài nói
chuyện và bài viết của mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ, những người đạt các
tiêu chuẩn dưới đây có thể cử làm cán bộ lãnh đạo:
1/ Những người đã tỏ ra rất trung thành và hăng hái trong công việc, trong đấu

tranh.
2/ Những người liên hệ mật thiết với dân chúng, hiểu biết dân chúng,luôn luôn
chú đến lợi ích của dân chúng…
3/ Những người có thể phụ trách giải quyết các vấn đề, trong những hoàn cảnh
khó khăn
Ai sợ phụ trách và không có sáng kiến thì không phải là người lãnh đạo


Người lãnh đạo đúng đắn cần phải: khi thất bại không hoang mang,khi thắng
lợi không kiêu ngạo, khi thi hành các nghị quyết thì kiên quyết, gan góc, không sợ
khó khăn.
4/ Những người luôn luôn giữ đúng kỷ luật.
Về tính cách của những người lãnh đạo, ngay từ năm 1925, khi huấn luyện
những người cán bộ cách mạng đầu tiên cho Đảng ta, Hồ Chí Minh đã chỉ ra “ Tư
cách một người cách mệnh “ là:
“ Tự mình phải:
- Cần kiệm
- Hòa mà không tư
- Cả quyết sửa lỗi mình
- Cẩn thận mà không nhút nhát
- Hay hỏi
- Nhẫn nại ( chịu khó )
- Hay nghiên cứu, xem xét
- Vị công vô tư
- Không hiếu danh, không kiêu ngạo
- Nói thì phải làm
- Giữ chủ nghĩa cho vững
- Hy sinh
- Ít lòng tham muốn về vật chất
- Bí mật

Đối với người phải:
- Với từng người thì khoan thứ
- Với đoàn thể thì phài nghiêm
- Có lòng bày vẽ cho người
- Trực mà không táo bạo
- Hay xem xét người
Làm việc phải:


- Xem xét hoàn cảnh kỹ càng
- Quyết đoán
- Dũng cảm
- Phục tùng đoàn thể”.
Trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường, những phân tích về phẩm chất
lãnh đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn còn nguyên giá trị áp dụng.
Thứ hai là quan điểm của P.L. Kiecgienxep, một chuyên gia về công tác tổ
chức. Theo P.L. Kiecgienxep, ở Mỹ người ta đưa ra những yêu cầu chủ yếu về phẩm
chất của người lãnh đạo các xí nghiệp công nghiệp như sau:
1/ Phải là người điềm đạm công bằng.
2/ Phải có óc sáng tạo và tỉnh táo. Người lãnh đạo giỏi phải biết xây dựng
phương án cho tương lai, nhưng họ phải là nhà lý tưởng thực dụng, họ không chỉ biết
mơ tưởng về những con đường sáng tạo mới, mà còn có khả năng thực sự thực hiện
được những cái mới. Họ phải nghĩ và sống cho tương lai.
3/ Phải có khả năng “phán đoán lành mạnh”. Họ phải biết ý đồ của họ có khả
năng hiện thực hay không.Khi xây dựng kế hoạch cho tương lai, họ không chỉ tưởng
tượng mà còn phải nhìn thấy mục tiêu lành mạnh nữa.
4/ Phải có lòng dũng cảm, phải cương quyết, kiên trì theo quan điểm của mình,
chống lại sức ỳ và định kiến thông thường.
5/ Tính khôi hài là một đức tính quan trọng của cán bộ lãnh đạo. Họ phải hiểu
rằng,nhiều tình huống gay cấn có thể được cải thiện nhanh chóng bằng tiếng cười hơn

là bằng nước mắt.
6/ Phải có khả năng hiểu biết về những người dưới quyền. Phải có khả năng đặt
mình ở vị trí người dưới quyền để thông cảm với họ trong các tình huống. Từ đó, tìm
được cách cư xử và cách giải quyết vấn đề thích hợp và công bằng.
7/ Phải có năng lực tiếp thu thông tin, nhất là những vấn đề có liên quan tới
công việc mình phụ trách.
8/ Phải có khả năng hợp tác với người cộng sự, người dưới quyền.
9/ Phải có năng lực tổ chức


10/ Phải lịch thiệp
11/ Phải có những kiến thức kỹ thuật cần thiết thuộc lĩnh vực công tác của
mình
Thứ ba là quan điểm của theo F.F. Aunapu. Trong tác phẩm “Những phương
pháp lựa chọn và bồi dưỡng những người lãnh đạo sản xuất”, theo F.F. Aunapu trong
một vài trường hợp có thể tiến hành một cuộc nghiên cứu xã hội học để xác định thái
độ đối với người được đề bạt vào một chức vụ nào đó thông qua những câu hỏi:
Nếu yêu cầu cấp dưới trả lời thì có thể có những câu hỏi sau đây:
1/ Bạn có cho người đó là một người lãnh đạo tốt không?
2/ Người đó có đủ kiến thức lý luận không?
3/ Người đó có đủ kiến thức thực tiễn không?
4/ Người đó có năng lực tổ chức giỏi không?
5/ Người đó có thể mau chóng đưa ra những quyết định đúng đắn không?
6/ Người đó có biết thực hiện những quyết định đã thông qua không?
7/ Người đó có lắng nghe những lời góp của cấp dưới không?
8/ Người đó có tạo điều kiện để cấp dưới phát huy sáng kiến không?
9/ Người đó có biết giữ kỷ luật không?
10/ Bản thân người đó có thức kỷ luật không?
11/ Người đó có trân trọng tài sản xã hội không?
12/ Người đó có tận tụy thực hiện những chức năng của mình không?

13/ Người đó có thể là một tấm gương tốt không ?
14/ Người đó có công bằng trong đối xử với cấp dưới không ?
15/ Người đó có lịch thiệp trong giao tiếp không?
16/ Người đó có bình tĩnh và tự chủ không?
17/ Người đó có phản ứng đúng đối với ý kiến phê bình không?
18/ Người đó có quan tâm đến cấp dưới không?
19/ Người đó có lạm dụng những hình thức kỷ luật không?
20/ Người đó có sử dụng những hình thức khen thưởng tinh thần không?
21/ Người đó có uy tín với cấp dưới không?


22/ Người đó có giữ lời hứa không?
23/ Bạn có tín nhiệm người đó không?
24/ Bạn có thể thành thật biểu lộ những vui buồn của cá nhân mình với người
đó không?
25/ Người đó có khiêm tốn không?
Nếu người trả lời là những người đồng nghiệp ngang cấp với người đó hoặc
là thủ trưởng trực tiếp,thủ trưởng cấp trên của người đó thì có thể hỏi những câu hỏi
như:
1/ Người đó có đủ trưởng thành về chính trị không?
2/ Người đó có ý thức về nghĩa vụ và trách nhiệm không?
3/ Người đó có đủ chủ động khi giải quyết những vấn đề không?
4/ Người đó có đủ kiên quyết khi giải quyết những vấn đề không?
5/ Người đó có đủ kiên tâm khi thực hiện các quyết định không?
6/ Người đó có biết thiết lập các mối quan hệ qua lại bình thường với những
cán bộ lãnh đạo các bộ phận khác hay không?
7/ Người đó có đủ tinh thần độc lập khi lãnh đạo khu vực công tác được giao
không ?
8/ Người đó có đủ trình độ văn hóa và tầm hiểu biết chung không?
9/ Người đó có hiểu rõ những vấn đề đang đặt ra trước tập thể không?

10/ Người đó có trau giồi kiến thức của mình không?
11/ Người đó có đáng được đề bạt không?
12/ Người đó có biết diễn đạt những tư tưởng của mình bằng miệng không?
13/ Người đó có biết trao đổi thư từ về công việc hay không?
14/ Người đó có biết tổ chức lao động của mình hay không?
15/ Người đó có biết giao các chức năng và trách nhiệm cho các cấp dưới
không?
16/ Người đó có biết nghiên cứu những vấn đề triển vọng không?
17/ Người đó có biết thúc đẩy cấp dưới quan tâm thực hiện tốt hơn công việc
hay không?


18/ Người đó có uy tín đối với các cán bộ lãnh đạo các bộ phận khác không?
Trên đây là một số quan điểm riêng về yêu cầu, phẩm chất đối với nhà lãnh
đạo, quản lý. Dù thời gian nghiên cứu có thể đã lâu, nhưng nó vẫn còn giá trị đối với
người cán bộ lãnh đạo, quản lí trong giai đoạn hiện tại. Tuy nhiên, tùy theo đặc điểm
của lĩnh vực, đối tượng quản lí cụ thể mà người lãnh đạo cần xác định cho mình một
phong cách phù hợp. Bên cạnh đó cũng cần bổ sung những phẩm chất phù hợp với
yêu cầu của thời đại mới, thời đại của nền kinh tế tri thức và toàn cầu hóa trên nhiều
mặt của đời sống xã hội.
Tổng hợp các quan điểm trên, ta có thể đưa ra những yêu cầu chung nhất về
phẩm chất của người lãnh đạo, quản lý như sau:
1. Có nền tảng kiến thức, kinh nghiệm thực tiễn ( cơ bản và hệ thống)
2. Có nghị lực, bản lĩnh, cách suy nghĩ lành mạnh, trong sáng
3. Trung thực, chính trực
4. Khuynh hướng chính trị (lập trường và bản lĩnh chính trị) rõ ràng, sẵn sàng
chịu trách nhiệm cá nhân.
5. Khả năng chịu áp lực (Kiến thức, kỹ năng, thần kinh thép).
1.2.2. Yêu cầu, phẩm chất của người lãnh đạo, quản lý cơ
quan báo chí

a. Tại những nền báo chí khác
Như đã phân tích ở trên, mọi cá nhân giữ vai trò lãnh đạo, quản lý đều cần đáp ứng
những yêu cầu chung nhất về phẩm chất, kỹ năng. Tuy nhiên, ở mỗi lĩnh vực cụ thể,
người lãnh đạo quản lý cần đáp ứng những tiêu chuẩn riêng về chuyên môn. Đặc biệt,
người lãnh đạo, quản lý trong lĩnh vực báo chí cần đáp ứng những đòi hỏi về đạo đức
nghề nghiệp của người làm báo. Trên thế giới, vấn đề đạo đức nghề nghiệp của nhà báo
luôn luôn được nhấn mạnh. Theo tài liệu do nhà báo Michael Mucheid cung cấp tại một
khóa bồi dưỡng báo chí tại Phân viện báo chí và Tuyên truyền (từ ngày 3/1 đến
8/1/2005), ở nước Đức có những quy định rất cụ thể về vấn đề này. Đây là nội dung gồm
16 điều của “Nguyên tắc báo chí” (Pressekodex) do Hội đồng báo chí Đức nêu ra:


1. Tôn trọng sự thật, tôn trọng nhân phẩm và đưa tin xác thực tới công luận là
những nguyên tắc tối cao của báo chí.
2. Trước khi đưa tin ra công luận bất kỳ tin tức hoặc thông tin nào, dưới dạng
lời hoặc hình ảnh, đều phải kiểm tra tính xác thực của chúng với một sự cẩn trọng mà
hoàn cảnh cho phép.
3. Sau khi phát hiện được rằng những thông tin hoặc nhận định nào đó, đặc biệt
là những thông tin có liên quan tới người cụ thể, mà mình đã đưa tin ra công luận là
sai, thì cơ quan báo chí phải chủ động và ngay lập tức đính chính lại theo một hình
thức phù hợp.
4. Khi thu nhập dữ liệu, thông tin, tin tức và hình ảnh liên quan tới con người
cụ thể, không được áp dụng các phương pháp không trung thực.
5. Phải đảm bảo nguyên tắc giữ bí mật như đã thoả thuận.
6. Mỗi người làm việc trong lĩnh vực báo chí đều có nghĩa vụ bảo vệ uy tín của
toà báo. Các phóng viên, biên tập phải hết sức ý thức về bí mật nghề nghiệp, phải sử
dụng quyền từ chối cung cấp chứng cứ và không báo về người đã cung cấp thông tin
cho mình nếu không có sự đồng ý rõ ràng của người này.
7. Trách nhiệm của toà báo đối với công luận đòi hỏi rằng việc đưa tin không
chịu tác động bởi lợi ích cá nhân hay lợi ích kinh tế của người thứ ba hoặc phóng

viên. Nhà xuất bản và ban biên tập phải ngăn chặn những ý đồ kiêu như vậy và phải
đảm bảo sự tách bạch rõ ràng giữa nội dung tin tức và quảng cáo.
8. Báo chí phải tôn trọng đời tư và lĩnh vực riêng tư của con người. Tuy nhiên
nếu hành vi cá nhân của một người nào đó động chạm tới lợi ích cộng đồng, thì những
trường hợp riêng rẽ đó có thể được đưa ra trao đổi trên báo. Tuy nhiên cần lưu ý xem
việc làm đó có vi phạm quyền cá nhân của những người không liên quan hay không.
Báo luôn tôn trọng quyền tự quyết về thông tin và đảm bảo bảo vệ dữ liệu biên
tập.
9. Việc công bố những nhận định không cơ sở, hoặc những lời buộc tội, đặc
biệt là những gi làm tổn hại thanh danh người khác là ngược với đạo đức của người
làm báo.


10. Việc đưa tin bằng lời hoặc hình ảnh mà hình thức hoặc nội dung của nó có
thê làm xúc phạm tới tình cảm đạo đức hoặc tôn giáo của bất kỳ nhóm người nào đều
là ngược với trách nhiệm của báo chí.
11. Báo chí không đưa những tin giật gân về bạo lực và sự tàn bạo. Phải quan
tâm tới vấn đề bảo vệ thanh thiếu niên khi viết bài và đưa tin.
12. Không được phép kỳ thị bất kỳ người nào vì giới tính chủng tộc, dân
tộc, tôn giáo và tầng lớp xuất thân của họ.
13. Việc đưa tin về các quy trình điều tra, các vụ án hình sự và vụ việc khác
phải được tiến hành không có định kiến. Báo chí vì vậy nên tránh thể hiện quan điểm
có định kiến (cả trong trình bày lẫn tiêu đề) trước hoặc trong quá trình xử lý vụ việc.
Trước khi có phán quyết của tòa không được phép coi người bị tình nghi là người có
tội. Nếu không có lý do quan trọng thì không nên đưa tin trước khi toà án công
bốphán quyết.
14. Khi đưa tin về các chủ đề y tế nên tránh cách trình bày gây kích động
không cần thiết, tạo ra ở độc giả những lo lắng hay hi vọng không có căn cứ. Các kết
quả nghiên cứu hiện còn trong giai đoạn mới không nên trình bày là đã hoặc gần hoàn
thành.

15. Việc nhận và cho những ưu đãi thuộc mọi loại thể, mà những ưu đãi này có
thể gây ảnh hưởng tiêu cực tới sự tự do trong quyết định của nhà xuất bản và ban biên
tập, là hoàn toàn không phù hợp với uy tín, tính độc lập và nhiệm vụ của báo chí.
Người nào nhận hối lộ để rồi đưa tin hoặc ngăn ngừa việc đưa tin đều là hành động
không trung thực và đi ngược lại đạo đức nghề nghiệp của mình.
16. Việc một cơ quan báo chí, đặc biệt là cơ quan báo chí bị khiển trách, in
công khai lời khiển trách của Hội đồng báo chí Đức đối với mình, chứng tỏ rằng
cơ quan đó làm việc nghiêm túc.
Việc nhấn mạnh vấn đề đạo đức nghề nghiệp của những người làm báo không
thể tách rời với vấn đề quan điểm, lập trường và sự hiểu biết về luật pháp của họ.


Trong bối cảnh của xã hội hiện đại, sự hiểu biết luật pháp của nhà báo là cực
kỳ quan trọng. Có thể lấy ví dụ bằng Điều 49 của Luật Liên bang Nga “Về các
phương tiện thông tin đại chúng”. Theo đó, các nhà báo phải:
“ - Kiểm tra độ xác thực của thông tin mình đưa ra; thoả mãn yêu cầu của
những cá nhân cung cấp thông tin về việc nêu rõ nguồn tin cũng như tác giả có lời nói
được trích dẫn, nếu lần đầu tiên được công bố;
- Giữ bí mật thông tin và nguồn tin;
- Nhận được sự đồng ý của chính các cá nhân hoặc đại diện hợp pháp của họ
(trừ trường hợp đặc biệt, khi phải bảo vệ lợi ích xã hội) về việc phổ biến trên các
phương tiện thông tin đại chúng đời sống riêng tư của công dân;
- Khi thu nhận tin tức từ các công dân hoặc quan chức phải cho họ biết về việc
ghi âm, thu băng video, quay phim và chụp ảnh;
- Phải thông báo cho Tổng biên tập toà soạn biết về các khiếu kiện có thể xảy
ra và các đòi hỏi về mặt luật pháp liên quan tới việc cho đăng hay phát tin bài của
mình;
- Từ chối công việc do Tổng biên tập hoặc lãnh đạo toà soạn giao nếu việc thực
hiện công việc đó vi phạm luật pháp;
- Khi thực hiện hoạt động chuyên môn, nhà báo có nghĩa vụ phải tôn trọng các

quyền, lợi ích hợp pháp, danh dự, nhân phẩm của công dân và các tổ chức”.
b. Tại Việt Nam
Ở nước ta, làm báo cũng là làm chính trị. Báo chí là công cụ tuyên truyền, là
cầu nối giữa Đảng và nhân dân. Vì vậy, người làm báo phải góp phần tổng kết thực
tế vận động của cuộc sống, từng bước điều chỉnh chính sách và pháp luật của Nhà
nước cho phù hợp với thời kỳ đổi mới; tích cực và dũng cảm đấu tranh chống âm mưu
diễn biến hoà bình, chống tham nhũng, tiêu cực, góp phần làm lành mạnh các quan hệ
xã hội trong tình hình hội nhập thế giới của nước ta.


Chính vì thế, trong Đại hội lần thứ VI, Hội Nhà báo Việt Nam (tháng 3/1995),
các đại biểu đã thông qua “Quy ƣớc đạo đức nghề nghiệp báo chí” gồm 10 điều cụ
thể như sau:
1. Mục tiêu cao cả của báo chí Việt Nam là phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Nhà báo hoạt động trong bất kỳ lĩnh vực nào
cũng hướng về mục tiêu cao cả đó.
2. Báo chí thực hiện quyền thông tin của nhân dân. Nhà báo phải khách quan,
trung thực, tôn trọng sự thật Mọi thông tin đưa ra công luận phải phản ánh đúng bản
chất sự thật khách quan trong bối cảnh xã hội của nó, tuyệt đối không được xuyên tạc
hoặc cường điệu sự việc, sự kiện. Nhà báo có trách nhiệm cung cấp cho công chúng
hình ảnh chân thực, đúng bản chất về quá trình của sự kiện và tình huống được thông
tin, thông qua đó hướng dẫn dư luận.
3. Báo chí là phương tiện thông tin thiết yếu với đời sống xã hội, là công cụ
văn hóa. Nhà báo tôn trọng và thực hiện tự do báo chí, chịu trách nhiệm trước xã hội,
trước nhân dân và tự do hành nghề trong khuôn khổ luật pháp. Nhà báo thực hiện
đúng tôn chỉ của cơ quan báo chí; không vì bất kỳ sức ép nào mà làm trái mục tiêu
cao cả của báo chí Việt Nam, đi ngược lại lợi ích của đất nước.
4. Cùng với quyền tự do thông tin, thực hiện quyền trả lời và quyền cải chính
trên báo chí là một nguyên tắc cấu thành tự do dân chủ báo chí. Nhà báo có quyền
kiên trì quan điểm và thông tin đúng đắn của mình, nhưng tôn trọng quyền trả lời và

quyền cải chính của công dân theo đúng luật pháp.
5. Nhà báo có nghĩa vụ bảo vệ nguồn tin và giữ bí mật do người khác cung cấp,
phù hợp với luật pháp.
6. Báo chí Việt Nam phát huy văn hoá dân tộc đồng thời tôn trọng các nền văn
hoá khác và những giá trị tinh thần phổ biến của loài người: phấn đấu vì đại đoàn kết
dân tộc, vì hoà bình hữu nghị, hiểu biết giữa các dân tộc và quốc gia trên thế giới.
7. Nhà báo góp phần phát triển lợi ích cộng đồng, tồn trọng quyền con người,
không lợi dụng thông tin để xúc phạm nhân phẩm và làm thiệt hại đến lợi ích người
khác.


8. Nhà báo luôn luôn giữ phẩm chất trong sáng, không vụ lợi. Tuyệt đối không
vì lợi ích cá nhân mà cố tình công bố hoặc bỏ qua không công bố một thông tin. Nhà
báo không được dùng uy tín của mình để trục lợi.
9. Nhà báo tôn trọng chính kiến và quan điểm xã hội, nghề nghiệp của đồng
nghiệp; đoàn kết, hợp tác, giúp đỡ lẫn nhau trong hoạt động và đời sống; đấu tranh
không khoan nhượng chống mọi hành vi làm tổn hại đến đất nước, lợi ích nhân dân và
trái với đạo đức báo chí.
10. Nhà báo sống lành mạnh, văn minh, khát khao học hỏi, khiêm tốn cầu tiến
bộ. Nâng cao bản lĩnh, trình độ, kỹ năng nghề nghiệp của mình là ước vọng và sự
phấn đấu suốt đời của người làm báo.
Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII Hội Nhà báo Việt Nam cũng đã thông
qua Quy định về đạo đức nghề nghiệp của người làm báo Việt Nam, gồm 9 điều cụ
thể như sau:
1. Tuyệt đối trung thành với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam
xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
2. Luôn gắn bó với nhân dân, hết lòng phục vụ nhân dân.
3. Hành nghề trung thực, khách quan, tôn trọng sự thật.
4. Sống lành mạnh, trong sáng, khỏng được lợi dụng nghe nghiệp để vụ lợi và
làm trái pháp luật.

5. Gương mẫu chấp hành pháp luật, làm tròn nghĩa vụ công dân, làm tốt trách
nhiệm xã hội.
6. Bảo vệ bí mật quốc gia, nguồn tin và giữ bí mật cho người cung cấp thông
tin.
7. Tôn trọng, đoàn kết, hợp tác giúp đỡ đồng nghiệp trong hoạt động nghề
nghiệp.
8. Thường xuyên học tập, nâng cao trình độ chính trị, văn hóa, nghiệp vụ,
khiêm tốn cầu tiến bộ.
9. Giữ gìn và phát huy văn hóa dân tộc đồng thời tiếp thu có chọn lọc các nền
văn hóa khác.


Để trở thành nhà quản lý, lãnh đạo cơ quan báo chí, người được bổ nhiệm cần
đáp ứng yêu cầu cả về trình độ nghiệp vụ, đạo đức cũng như phẩm chất của người làm
báo. Một bộ tiêu chuẩn cụ thể để bổ nhiệm lãnh đạo cơ quan báo chí in của Bộ Thông
tin và Truyền thông bao gồm:
+ Có bằng tốt nghiệp từ đại học trở lên;
+ Có trình độ lý luận chính trị cao cấp trở lên;
+ Đã qua lớp đào tạo về nghiệp vụ quản lý báo chí được Bộ Thông tin và
Truyền thông cấp chứng chỉ.
+ Có thẻ nhà báo đang có hiệu lực do cơ quan có thẩm quyền cấp.
+ Không trong thời gian thi hành hình thức kỷ luật từ khiển trách trở lên;
+ Đối với các tổ chức tôn giáo, Viện nghiên cứu khoa học cơ bản chuyên
ngành xin phép hoạt động báo chí in và những trường hợp đặc biệt khác sẽ do Bộ
Thông tin và Truyền thông xem xét, quyết định.
Tuy nhiên, trong tất cả các yêu cầu trên, điều quan trọng nhất là yêu cầu về đạo
đức nghề nghiệp đối với nhà báo nói chung và cán bộ lãnh đạo, quản lý cơ quan báo
chí nói riêng. Việc nâng cao đạo đức nghề nghiệp của đội ngũ những người làm báo
cũng chính là nâng cao tính tư tưởng, tính chân thật, tính chiến đấu của các sản phẩm
báo chí, hướng nội dung thông tỉn vào nhiệm vụ trung tâm là phục vụ sự nghiệp bảo

vệ độc lập dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Việc này, xét cho cùng cũng chính
là nhằm nâng cao trình độ tư duy, phẩm chất chính trị và nghiệp vụ của người phóng
viên.
Đạo đức của người làm báo khi viết bài trước hết là sự trung thực với nguồn
tin. Bản chất của thông tin phải là trung thực, khách quan, nhất là đốỉ với những biểu
hiện tham nhũng tiêu cực. Tác phẩm báo chí phải thể hiện được quan điểm, chính kiến
của nhà báo, của cơ quan báo chí. Một bài báo chỉ cung cấp thông tin một cách thuần
tuý thì chưa đủ, nhất là đốì với những bài viết về tham nhũng, tiêu cực. Chính kiến ở
đây trước hết là phải được đặt trên cơ sở của tính khách quan, trung thực, phản ánh
đúng bản chất của sự thật.


Việc phát hiện những tiêu cực và tích cực tham gia vào cuộc đấu tranh chống
lại nó là thế hiện phẩm chất đạo đức, trách nhiệm của nhà báo đối Đảng, Nhà nước,
đối với xã hội, với cơ quan báo chí. Một trong những nhiệm vụ hàng đầu của nhà báo
là kịp thời phát hiện vấn đề mới nảy sình, cảnh báo cho xã hộỉ trước những nguy cơ
để phòng tránh, chống lại nó. Đạo đức nghề nghiệp của nhà báo chính là lương tâm là
trách nhiệm của nhà báo với tư cách là một công dân. Khi viết về tiêu cực, yếu tố đạo
đức nghề nghiệp của người làm báo trước hết là trách nhiệm của họ với cơ quan báo
chí, với đồng nghiệp.
Nhà báo phải có trách nhiệm với công chúng. Đạo đức nghề nghiệp của nhà
báo thể hiện trong việc cung cấp thông tin kịp thời, đáp ứng nhu cầu của công chúng.
Trước một vấn đề bức xúc, công luận quan tâm thì báo chí phải có trách nhiệm làm rõ
và trả lời. Nhà báo phải là chỗ dựa tin cậy, vững chắc để nhân dân tham gia vào đấu
tranh chống tham nhũng, tiêu cực. Không chỉ cung cấp thông tin, trách nhiệm của
người viết báo còn là định hướng dư luận. Một nhà báo có đạo đức nghề nghiệp phải
nghiêm túc với công việc của mình, tôn trọng công chúng.
Đạo đức nghề nghiệp là một trong những yếu tố quan trọng để thông qua đó,
nhà báo thể hiện lương tâm, trách nhiệm của mình trước nhân dân, đất nước. Những
phát hiện của nhà báo về tham nhũng tiêu cực trong xã hội không chỉ tạo nên dư luận

xã hội mà còn cung cấp cho nhiều thông tin các cơ quan chức năng để phát hiện ra
những sở hở, những điều chưa hợp lý trong cơ chế chính sách, giúp cho Đảng và Nhà
nước kịp thời điều chỉnh.
Như vậy, đạo đức của người làm báo phải gắn liền với những phẩm chất nghề
nghiệp. Những phẩm chất này được biểu hiện qua các mặt sau đây:
- Tính khoa học
Một trong những đặc điểm nổi bật của phẩm chất nghề nghiệp của người
phóng viên là tính khoa học. Tính khoa học của tư duy báo chí tạo ra cho người phóng
viên có khả năng lựa chọn những dữ kiện để phân tích, đánh giá thực tiễn một cách
đúng đắn, hợp lý. Tính khoa học xét cho cùng chính là năng lực tư duy lý luận của


người phóng viên báo chí. Nó giúp cho người phóng viên có thể nhìn thấy bản chất
của các sự kiện, hiện tượng trong quy luật vận động của nó.
- Tính chính trị
Nghề báo là một nghề thuộc lĩnh vực chính trị - xã hội thông qua hoạt động
nghiệp vụ. Tư duy báo chí thể hiện rõ tính chính trị. Nó cho phép người phóng viên có
thể xác định vị trí chính trị của mình trong quá trình thông tin. Trong thực tế của hoạt
động báo chí, tính chính trị luôn chi phối toàn bộ quá trình hoạt động sáng tạo tác
phẩm của người phóng viên - kể từ việc lựa chọn chủ đề, đề tài đến các hoạt động
thực tiễn khác như phỏng vấn, quan sát, nghiên cứu tài liệu...
Có thể nói tính chính trị là một đặc điểm gắn liền với hoạt động tư duy báo chí.
Nó đòi hỏi người phóng viên phải luôn luôn xác định vị trí chính trị của mình trong
quá trình thông tin về sự thật. Chính vị trí đó sẽ chi phối nội dung và cách thức thông
tin, gắn liền với thái độ chính trị của người phóng viên và tờ báo của họ.
Tư duy chính trị luôn luôn chi phối toàn bộ quá trình hoạt động sáng tạo tác
phẩm của người phóng viên - từ việc lựa chọn chủ đề, đề tài cho đến hoạt động thực
tiễn (phỏng vấn, quan sát, nghiên cứu tài liệu...) và nhất là trong việc thể hiện tácphẩm
báo chí. Cùng phản ánh một sự kiện, vấn đề nhưng hai phóng viên có quan điểm
chính trị khác nhau sẽ có cách phản ánh hoàn toàn khác nhau.

Trong thời đại bùng nổ thông tin hiện nay, nghề làm báo cũng trở thành lực
lượng sản xuất trực tiếp. Nó vừa phải đáp ứng được nhu cầu của số đông độc giả
thuộc nhiều đổì tượng khác nhau, đồng thời lại phải luôn giữ vững được định hướng
chính trị trực tiếp trong quá trình thông tin. Do đó, có thể nói thông tin trên báo chí là
một nghệ thuật, đòi hỏi sự kết hợp hài hòa giữa nhiều yếu tố, nhu cầu, thị hiếu và sở
thích. Làm báo là một nghề đòi hỏi trình độ rất cao về nhiều mặt, gắn liền với sự phát
triển như vũ bão của khoa học công nghệ thông tin hiện đại.
Bản lĩnh chính trị vững vàng là một yêu cầu không thể thiếu đối với mỗi người
phóng viên báo chí hiện nay. Khác với báo chí trong cơ chế thị trường tư bản chủ
nghĩa, báo chí của chúng ta phải làm tốt chức năng thông tin giáo dục vận động và tổ
chức quần chúng thực hiện những nhiệm vụ của Đảng. Nhà báo phải năng động trong


nền kinh tế thị trường, phấn đấu tăng nguồn thu nhưng không hạ thấp tính chiến đấu
của báo chí; tích cực và chủ động hội nhập với thế giới nhưng vẫn giữ vững bản sắc
người phóng viên báo chí cách mạng.
- Sự nhạy cảm nghề nghiệp
Sự nhạy cảm nghề nghiệp cũng được coi là một trong những phẩm chất nghề
nghiệp quan trọng trong hoạt động sáng tạo của người phóng viên báo chí hiện nay.
Nhạy cảm để phát hiện những nhân tố mới, điển hình mới. Nhạy cảm để nhận ra
đúng bản chất đích thực của những vấn đề, con số, sự kiện... Người phóng viên khi
thông tin phải luôn tỉnh táo và có sự nhạy cảm nghề nghiệp. Sự nhạy cảm trong tư duy
báo chí giúp cho người phóng viên có thể nhanh chóng nhận biết, nắm bắt đượcnhững
quy luật vận động của đời sống và thông tin về nó đảm bảo các yêu cầu khách quan,
thời sự và tính định hướng.
Có thể khẳng định nhạy cảm nghề nghiệp là một yêu cầu quan trọng đối vối
phẩm chất cần có của một nhà báo. Thực tế cho thấy rằng, thông tin dù có tính chân
thật cao nhưng còn phải xem thông tin đó có lợi hay hại. Đã có rất nhiều thông tin khi
được ra mặt báo rất chính xác nhưng có hại cho xã hội, thiệt hại cho nhân phẩm con
người hoặc cho nền kinh tế đất nước. Như vậy, tuy tin tức đưa ra là hoàn toàn đúng,

nhưng đúng mà không có lợi thì vẫn chưa đủ. Chính vì thế mà nhà báo phải luôn tỉnh
táo và phải biết quan tâm đến cái lợi, cái hại của mỗi thông tin trước khi quyết định
truyền đi trên các phương tiện thông tin đại chúng.
- Vốn tri thức phong phú
Trong thời đại bùng nổ thông tin, một trong những yêu cầu nóng bỏng đang đặt
ra đối với người phóng viên báo chí nước ta là phải có vốn tri thức phong phú. Có thể
coi đây là một trong những yêu cầu khách quan, đòi hỏi sự nỗ lực của mỗi phóng viên
nếu họ muôn vươn lên trong xu thế khu vực hoá và toàn cầu hoá mạnh mẽ như hiện
nay.
Từ khi đổi mới, nhà báo phải tự trang bị mình cho các phương tiện nghiệp vụ
hiện đại và nhất là phương pháp hoạt động thực tiễn ngày càng tích cực và hiệu quả
hơn để thích ứng được với sự cạnh tranh ngày càng quyết liệt đó. Điều đó cho thấy


năng lực hoạt động thực tiễn của người phóng viên ngày càng trở thành một trong
những yêu cầu quan trọng trong phẩm chất nghề nghiệp của họ.
-

Khả năng ứng dụng tốt các thành quả của khoa học - công nghệ trong

tác nghiệp và giỏi ít nhất một ngoại ngữ thông dụng.
Hiện nay, hoạt động báo chí không thể tách rời các sản phẩm của khoa họccông nghệ, đặc biệt là công nghệ thông tin. Do đó, nhà báo phải có kiến thức vững
vàng về công nghệ thông tin, sử dụng thành thạo các thiết bị kỹ thuật phục vụ tác
nghiệp. Bên cạnh đó, nhà báo phải thành thạo một ngoại ngữ thông dụng, nhất là tiếng
Anh (theo các chuyên gia, hiện hơn 80% các giao dịch trên thế giới diễn ra bằng tiếng
Anh và phần lớn các thông tin trên Internet được chuyển tải qua tiếng Anh). Chủ tịch
Hồ Chí Minh từng nói: “Trong nghề làm báo, ta có kinh nghiệm của ta, nhưng ta cũng
cần phải học thêm kinh nghiệm của các nước anh em. Muốn thế, thì những người làm
báo ít nhất cũng cần biết một thứ tiếng nước ngoài”. Thực tế cho thấy, ngoại ngữ là
phương tiện quan trọng giúp nhà báo khai thác các nguồn thông tin bằng tiếng nước

ngoài, mở mang tri thức mọi mặt, học hỏi kinh nghiệm của báo chí thế giới, mở rộng
và nâng cao chất lượng hoạt động nghề nghiệp; qua đó, hội nhập hiệu quả và đạt tới
đẳng cấp quốc tế.
-

Có kiến thức nhất định về kinh tế báo chí.

Trong nền kinh tế thị trường, báo chí cho dù có là sản phẩm văn hoá đặc biệt
thì vẫn là hàng hoá mang giá trị kinh tế và chịu sự cạnh tranh quyết liệt theo đúng các
quy luật của thị trường. Do vậy, kiến thức kinh tế sẽ giúp nhà báo đóng góp hiệu quả
hơn vào việc phát triển thị phần của sản phẩm báo chí mà mình tạo ra, từ đó, phát
triển chính cơ quan báo chí. Và chức vụ của nhà báo trong cơ quan báo chí càng cao
thì kiến thức về kinh tế báo chí lại càng quan trọng.
Trên đây là những phẩm chất cơ bản mà nhà báo Việt Nam, đặc biệt là người
lãnh đạo, quản lý báo chí hiện nay cần sở hữu nếu muốn hoàn thành sứ mệnh gian khó
nhưng cũng đầy vinh quang của mình. Và có thể nói, những khuyết điểm, yếu kém
của báo chí nước ta thời gian qua như: có lúc, có nơi chưa thật sự bám sát tôn chỉ,
mục đích, thậm chí vi phạm Luật Báo chí, mắc sai phạm về quan điểm, đường lối,


chạy theo xu hướng thương mại hoá, coi nhẹ chức năng chính trị, tư tưởng của báo chí
cách mạng, v.v. chủ yếu liên quan tới việc một số nhà báo, kể cả cán bộ lãnh đạo quản
lý báo chí, còn thiếu hoặc thể hiện chưa tốt một hay nhiều hơn trong số các phẩm chất
nói trên. Nói tóm lại, để là một người lãnh đạo, quản lý tốt, cần hội tụ đủ ba yếu tố
Tâm (đạo đức nghề nghiệp) – Tầm (Năng lực quản lý, lãnh đạo)- Tài (Trình độ
chuyên môn, nghiệp vụ). Ba yếu tố này có vị trí tương đương nhau, kết hợp hài hòa
trong một chủ thể sẽ giúp cho cơ quan báo chí xác định đúng đường lối, kế hoạch,
cách thức phát triển và sản xuất được những sản phẩm có chất lượng.



CHƢƠNG 2. THỰC TRẠNG CHẤT LƢỢNG LÃNH ĐẠO, QUẢN LÝ
CƠ QUAN BÁO CHÍ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
2.1.

Những điểm tích cực

Thứ nhất, lãnh đạo, quản lý các cơ quan báo chí đã đi tiên phong trong công
cuộc phòng chống tham nhũng, tiêu cực.
Có quan điểm cho rằng báo chí là nhánh quyền lực thứ tư, có tác động lớn tới
dư luận xã hội và nhà nước, nhận định này hình thành từ những tác động tích cực của
báo chí đến xã hội, mà nổi bật là việc đưa ra trước dư luận những mặt xấu cần được
bài trừ. Trong cuộc đấu tranh chống tham nhũng, tiêu cực, bản lĩnh chính trị và đạo
đức nghề nghiệp đã giúp cho người phóng viên phát hiện và kịp thời lên tiếng chỉ mặt
vạch tên những cái xấu, bênh vực lẽ phải. Lòng trung thực, tinh thần dũng cảm, vững
vàng trước mọi cám dỗ, thử thách trở thành điểm tựa chắc chắn cho người làm báo
khi đối mặt với những thế lực xấu. Nhiều tên tuổi nhà báo - nhất là những nhà báo
tham gia đấu tranh chống tiêu cực trong những năm vừa qua đã in dấu ấn sâu đậm
trong lòng đông đảo công chúng. Nhiều nhà báo đã thể hiện một bản lĩnh chính trị và
đạo đức nghề nghiệp, trở thành tấm gương đối với đồng nghiệp.
Trong chế độ ta, báo chí là công cụ để tuyền truyền chủ trương chính sách của
Đảng. Mục tiêu của hoạt động báo chí là để phục vụ đông đảo quần chúng nhân dân
lao động. Báo chí không chỉ là tiếng nói của Đảng, của các tổ chức, đoàn thể xã hội
mà còn là diễn đàn để nhân dân thể hiện ý chí, nguyện vọng chính đáng của mình.
Báo chí Việt Nam với tư cách là công cụ của dư luận xã hội, đã trở thành
phương tiện hữu hiệu để nhân dân trực tiếp tham gia quản lý Nhà nước. Giám sát xã
hội bằng dư luận báo chí, thực chất là quá trình giám sát của nhân dân đối với công
tác của Đảng và Nhà nước. Muốn thực hiện được chức năng quản lý giám sát đó, đội
ngũ những người làm báo phải nâng cao phẩm chất nghề nghiệp nói chung và nâng
cao phẩm chất đạo đức nghề nghiệp nói riêng. Có như vậy, báo chí mới có thể hoàn
thành nhiệm vụ chính trị mà Đảng, Nhà nước, và nhân dân giao phó.



Nhận thức rõ công tác chống tham nhũng, tiêu cực là một trong những nhiệm
vụ quan trọng trong công cuộc đổi mới, đội ngũ những người làm báo Việt Nam đã
phát huy phẩm chất đạo đức nghề nghiệp của mình khi tác nghiệp để đấu tranh chống
tham nhũng, tiêu cực một cách hiệu quả. Đây là một trong những đóng góp lớn nhất
của nhà báo vào công cuộc bảo vệ và xây dựng đất nước. Với tư cách lãnh đạo, quản
lý các cơ quan báo chí, những người đứng đầu đã định ra tiêu chí, đường lối, cách
thức hoạt động cho các phóng viên thuộc quyền quản lý của tòa soạn, tạo điều kiện
cho phóng viên trong quá trình hành nghề và cho phép đăng tải những thông tin tố cáo
tham nhũng, tiêu cực; sẵn sàng chịu trách nhiệm và sức ép trước những thông tin này.
Thứ hai, công tác bồi dưỡng, đào tạo cán bộ quản lý, lãnh đạo báo chí đã
được nhà nước chú trọng thực hiện.
Việc hình thành một cơ sở đào tạo những người làm công tác lãnh đạo, quản lý
báo chí; đổi mới nội dung và phương pháp đào tạo để đáp ứng yêu cầu của tình hình
là vấn đề cấp bách nhằm đáp ứng nhu cầu nhân sự hiện nay. Trong hai năm 2009 và
2010, Học viện Báo chí và Tuyên truyền triển khai “Đề án về đào tạo, bồi dưỡng cán
bộ lãnh đạo, quản lý tư tưởng, báo chí, xuất bản” theo chỉ đạo của Ban Bí thư Trung
ương Đảng. Đây là một đề án lớn và khi triển khai chắc chắn sẽ góp phần khắc phục
những tồn tại của đội ngũ lãnh đạo, quản lý báo chí ở nước ta hiện nay. Chỉ thị 22CT/TW của Bộ Chính trị hóa VIII về tiếp tục đổi mới, tăng cường sự lãnh đạo, quản
lý công tác báo chí, xuất bản cũng đã nhấn mạnh về công tác đào tạo, bồi dưỡng cán
bộ, phóng viên, nhân viên các cơ quan báo chí, xuất bản: “ Khẩn trương quy hoạch và
sắp xếp lại hệ thống trường lớp, nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng phóng viên,
biên tập viên, chú trọng đội ngũ cốt cán, các tổng biên tập, phó tổng biên tập, các
giám đốc, phó giám đốc. Đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ báo chí chủ yếu là trong
nước dưới sự chỉ đạo thống nhất của Đảng và sự quản lý chặt chẽ của Nhà nước.
Không mở các khoa, lớp báo chí, xuất bản ở các trường đại học dân lập, tư thục… xây
dựng bộ giáo trình chuẩn để đào tạo cán bộ báo chí, xuất bản”.
2.2.


Những điểm tiêu cực


Thứ nhất, vấn đề đạo đức nghề nghiệp của một số nhà báo, trong đó có cả lãnh
đạo, quản lý một số cơ quan báo chí đang có dấu hiệu đi xuống.
Trong thời gian qua, công tác đấu tranh chống tham nhũng, tiêu cực đã đạt
được những kết quả tích cực, đa số nhà báo khi viết về đấu tranh chống tham nhũng,
tiêu cực đều phát huy được lương tâm, trách nhiệm của mình trong mỗi bài viết. Song
bên cạnh đó cũng có một số nhà báo đã vi phạm đạo đức nghề nghiệp một cách
nghiêm trọng khi viết về tham nhũng, tiêu cực.
Đạo đức nghề nghiệp của nhà báo khi viết về đấu tranh chống tham nhũng,
chống tiêu cực có vai trò rất quan trọng, liên quan trực tiếp đến tính chất và hiệu quả
của cuộc đấu tranh này. Khi viết về tham nhũng tiêu cực, nếu không vững vàng và
kiên định thì nhà báo rất dễ bị mua chuộc, bị lôi kéo vào vòng xoáy của đồng tiền. Đã
có một số tin, bài trên báo chí thể hiện sự xuống cấp nghiêm trọng của đạo đức nghề
nghiệp. Một số ít nhà báo trong quá trình điều tra, viết bài đấu tranh chống tiêu cực đã
có những biểu hiện tiêu cực, thông tin sai sự thật, lợi dụng danh nghĩa nhà báo để vụ
lợi, thậm chí gây sức ép, hoặc dọa nạt, hoặc tống tiền cơ quan, đơn vị kinh tế đã có sai
phạm trong quản lý kinh doanh, người quản lý, lãnh đạo cơ quan báo chí có trường
hợp đã nhận lợi ích vật chất để bưng bít thông tin đăng tải trên ấn phẩm của mình...
Trong đấu tranh chống tiêu cực, tham nhũng, việc thông tin chân thật chính xác
càng có tầm quan trọng đặc biệt, nó thể hiện phẩm chất, đạo đức của người làm báo.
Thông tin thiếu chính xác hoặc thông tin bị bóp méo có thể biến một người từchỗ có
tội thành không có tội và ngược lại; có thể khiến cho bản chất sự việc bị đánh tráo,
trắng đen lẫn lộn; thiện, ác bị xòa nhòa; phải trái không phân minh... dẫn đến những
hậu quả rất nghiêm trọng.
Mục đích của đấu tranh chống tham nhũng, tiêu cực không phải chỉ để phê
phán, để xử lý kỷ luật người vi phạm mà điều quan trọng hơn là thông qua phát hiện,
phê phán, xử lý tham nhũng, tiêu cực để xây dựng bộ máy Nhà nước trong sạch, vững
mạnh, để tăng cương sức mạnh của Đảng, của chế độ ta. Do đó, trong quá trình tham

gia đấu tranh chống tiêu cực, một nhà báo có đạo đức nghề nghiệp sẽ luôn quan tâm
đến sự nghiệp chung, lợi ích chung của đất nước; góp phần tăng cường khối đoàn kết


trong Đảng, sự đoàn kết của toàn dân, tránh để cho các thế lực thù địch lợi dụng
xuyên tạc...
Sự vi phạm đạo đức nghề nghiệp trong hoạt động báo chí còn xuất phát từ sự
thiếu hiểu biết về pháp luật và chính trị. Đã có những bài báo nêu ra những vấn đề có
tính chất nội bộ của tổ chức Đảng, chính quyền, cơ quan nhà nước; để lộ bí mật quốc
gia, bí mật nghiệp vụ công tác.
Trong hội thảo “Trách nhiệm xã hội và nghĩa vụ công dân của nhà
báo” (tháng 11/1998), các đại biểu đã tiếp tục lên tiếng cảnh báo hiện tượng vi phạm
đạo đức người làm báo và nêu rõ: nhà báo phải thực hiện tốt trách nhiệm xã hội của
mình có phẩm chất chính trị và giữ vững đạo đức nghề nghiệp. Chúng ta cần có
những nhà báo giỏi nghiệp vụ và điều quan trọng hơn nữa là các nhà báo có bản lĩnh
và sự nhạy cảm về chính trị có kỷ luật trong thông tin có lương tâm và trách nhiệm trách nhiệm xã hội trong thông tin.
Thứ hai, trình độ chuyên môn, bản lĩnh chính trị của một số lãnh đạo, quản lý
cơ quan báo chí còn hạn chế.
Trong những năm qua, đội ngũ lãnh đạo, quản lý báo chí đã có sự trưởng thành
và lớn mạnh về mọi phương diện, nhất là về trình độ chuyên môn nghiệp vụ và sự
năng động, nhạy bén trước thời cuộc. Tuy nhiên, một số người giữ vị trí quan trọng
này còn có những biểu hiện non kém về chuyên môn, nghiệp vụ; bản lĩnh chính trị;
tinh thần trách nhiệm chưa tương xứng với cương vị đảm nhiệm. Nhiều tổng biên tập
chưa năng động, chưa theo kịp sự phát triển rất nhanh, mạnh của báo chí.
Một số tổng biên tập ít am hiểu về hoạt động báo chí, việc đảm trách nội dung
giao hết cho cấp dưới. Hậu quả là việc quản lý, chỉ đạo phóng viên tác nghiệp kém
hiệu quả; hoạt động của một số tờ báo bị sai lệch với tôn chỉ, mục đích; coi nhẹ chức
năng chính trị - tư tưởng của báo chí cách mạng; thậm chí vi phạm Luật báo chí, sai
phạm về quan điểm, đường lối.
Ở một số cơ quan báo chí, một số ngành, địa phương cố tìm mọi cách cho ra

đời một tờ báo khi chưa chuẩn bị đầy đủ về đội ngũ cán bộ hoặc chưa đào tạo được
những cán bộ có đủ năng lực, phẩm chất để thực hiện công việc này. Do đó, dễ xảy ra


×