Tải bản đầy đủ (.docx) (61 trang)

Xã hội dân sự Việt Nam tham gia xây dựng và giám sát thực thi pháp luật

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (345.99 KB, 61 trang )

KHOA LUẬT ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
BỘ MÔN LUẬT HIẾN PHÁP –LUẬT HÀNH CHÍNH

XÃ HỘI DÂN SỰ VIỆT NAM THAM GIA XÂY
DỰNG VÀ GIÁM SÁT THỰC THI PHÁP LUẬT

Khóa luận tốt nghiệp

Hà Nội, 4/2018


KHOA LUẬT ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
BỘ MÔN LUẬT HIẾN PHÁP –LUẬT HÀNH CHÍNH
---0-0---

XÃ HỘI DÂN SỰ VIỆT NAM THAM GIA XÂY
DỰNG VÀ GIÁM SÁT THỰC THI PHÁP LUẬT

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP

Hà Nội – 2018


LỜI CAM ĐOAN

“Tôi xin cam đoan báo cáo này là nghiên cứu của riêng tôi. Các tài
liệu, tư liệu được sử dụng trong báo cáo có nguồn dẫn rõ ràng, các kết
quả nghiên cứu là quá trình lao động trung thực của tôi”.

Tác giả



MỤC LỤC


DANH MỤC VIẾT TẮT
XHDS
CSO
NGO
VĐCS
MTTQ
VNGO
TCXHDS
SAG
VUSTA
VASS
VAST
HDDT
TCTT
PPWG
iSee
CEPEW
UNDP
EBHPD
RTCCD
BTAP
VICICUS

Xã hội dân sự
các tổ chức xã hội dân sự
Tổ chức phi chính phủ

Vận động chính sách
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
Tổ chức phi chính phủ Việt Nam
Tổ chức xã hội dân sự
Nhóm đánh giá các bên liên quan
Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam
Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam
Viện Hàn lâm Khoa học và công nghệ Việt Nam
Hội đồng dân tộc
Tiếp cận thông tin
Nhóm làm việc vì sự tham gia của người dân
Viện nghiên cứu xã hội kinh tế và môi trường
Trung tâm giáo dục và hỗ trợ nâng cao năng lực cho phụ nữ
Chương trình phát triển Liên hợp quốc tại Việt Nam
Liên minh Vận động Chính sách y tế dựa trên bằng chứng khoa
học
Trung tâm Nghiên cứu và Đào tạo Phát triển Cộng đồng
Liên minh Minh bạch ngân sách
Liên minh thế giới vì sự tham gia của công dân


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Xây dựng và thực thi các văn bản pháp luật là một quy trình phức tạp và
phải bảo đảm tuân thủ các yêu cầu chặt chẽ khác nhau tùy thuộc vào thể chế và
quan điểm của mỗi quốc gia, mỗi giai đoạn phát triển của lịch sử và những điều
kiện kinh tế - xã hội thực tại. Tuy nhiên, dù quy trình nào hay thể chế nào thì các
nguyên tắc nguyên nghĩa của pháp luật cũng phải được tôn trọng và nhằm thực
hiện mục tiêu vì con người, hướng tới xây dựng một xã hội, một quốc gia phồn
vinh và văn minh. Chính vì vậy, trong bối cảnh toàn cầu hóa, hội nhập kinh tế

thế giới sâu rộng và xu hướng dân chủ hóa, minh bạch trong quản lý nhà nước
hiện nay đã và đang đặt ra những yêu cầu mới, đòi hỏi các nhà lập pháp, các nhà
hoạch định chính sách phải đổi mới nhiều hơn nữa không chỉ về nội dung của
pháp luật, hệ thống pháp luật mà còn cả quy trình lập pháp để bảo đảm sự tham
gia nhiều hơn của các chủ thể trong xã hội, huy động tối đa sáng kiến, trí tuệ của
mọi công dân, tổ chức trong xã hội trong đó có các tổ chức xã hội dân sự mà hạt
nhân là các tổ chức phi chính phủ (NGO) và hội.
Các tổ chức phi chính phủ nói riêng và xã hội dân sự nói chung đã và đang
ngày càng quan tâm và tham gia đóng góp cho các chính sách và pháp luật của
Nhà nước. Tuy nhiên, cản trở đầu tiên đó là hình ảnh của xã hội dân sự (XHDS)
đang có nhiều nghi ngại trong một bộ phận của tầng lớp lãnh đạo, đặc biệt bên
khối Đảng, tuyên giáo và an ninh. Để có thể phát huy tối đa sự đóng góp của xã
hội dân sự vào công cuộc xây dựng và thực thi các văn bản pháp luật phải có
những nhận thức, những cách thức, bước đi phù hợp để có thể mở rộng không
gian xã hội dân sự, hạn chế những cái nhìn phiến diện về xã hội dân sự và những
khó khăn mà XHDS gặp phải, tạo điều kiện cho xã hội dân sự trong việc tham
gia đóng góp xây dựng và thực thi pháp luật. Chính vì lẽ đó nên tác giả đã chọn
đề tài “Xã hội dân sự Việt Nam tham gia xây dựng và giám sát thực thi pháp
luật”.
2. Tình hình nghiên cứu
6


Trong những năm gần đây xã hội dân sự ở Việt Nam phát triển mạnh mẽ.
Tuy nhiên, cũng chưa có nhiều nghiên cứu sâu về các hoạt động của Xã hội dân
sự (XHDS). Một vài nghiên cứu chủ yếu tập trung vào các hình thức tồn tại của
XHDS ở Việt Nam, khung pháp lý, vai trò của các tổ chức XHDS trong phát
triển kinh tế, xã hội. Ví dụ nghiên cứu của Norlun (2007), Tài liệu Filling the
Gap: The Emerging Civil Society in Viet Nam, Hà Nội tập trung phân loại các
hình thức tổ chức khác nhau. Nghiên cứu của VICICUS (2006), Tài liệu The

Emerging Civil Society: An Initial Assessment of Civil Society in Viet Nam. Hà
Nội. Chia các đoàn thể, tổ chức chủ quản, hội nghề nghiệp, tổ chức phi chính
phủ làm về khoa học công nghệ, các NGO khác, các nhóm phi chính thức, các tổ
chức tôn giáo và các NGO quốc tế.
Năm 2008, một nghiên cứu quan trọng về “các hình thức hợp tác giữa các
tổ chức nhà nước và xã hội dân sự ở Việt Nam” do Ben Kerkvliet và cộng sự
tiến hành với sự hỗ trợ của Bộ Phát triển quốc tế Vương quốc Anh (DFID) và
Đại sứ quán Phần Lan.
Năm 2009, có nghiên cứu “Xây dựng xã hội dân sự ở Việt Nam “của
GS.TS. Dương Xuân Ngọc, nhà xuất bản Chính trị - Hành chính.
Năm 2011, nghiên cứu “hình ảnh các tổ chức xã hội dân sự trên một số báo
in và báo mạng” được tiến hành bởi nhóm tác giả Đinh Thị Thúy Hằng, Nguyễn
Thành Lợi, Nguyễn Thị Thu Hiền, Vũ Phương Thảo, nhà xuất bản Thế giới.
Năm 2015, nghiên cứu “đánh dấu không gian xã hội dân sự Việt Nam”
được tiến hành bởi Lê Quang Bình và cộng sự, dưới sự hỗ trợ của tổ chức
Oxfam, Irish Aid và Viện iSEE. Nghiên cứu này đo lường cảm nhận về không
gian xã hội dân sự được tạo ra bởi các tác nhân khác nhau, không chỉ các tổ
chức NGO, các nhóm cộng đồng, mà cả những người hoạt động độc lập và các
nhóm có cách tiếp cận theo hướng đối kháng. Nghiên cứu này cho thấy không
gian XHDS phụ thuộc vào bốn yếu tố, đó là nền tảng văn hóa, năng lực của các
tổ chức XHDS, quản lý của nhà nước và ảnh hưởng của XHDS. Theo nghiên
cứu, không gian XHDS được mở rộng trong thời gian qua tuy nhiên vẫn bị đánh
7


giá là hẹp. Về ảnh hưởng của XHDS lên chính sách của nhà nước, nghiên cứu
cũng chỉ ra “ngày càng khá hơn”, nhưng vẫn còn nhiều hạn chế do thể chế được
một đảng duy nhất lãnh đạo, năng lực của XHDS, cũng như sự thiếu thừa nhận
của nhà nước về vai trò của XHDS.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục đích
Sự tham gia của các tổ chức xã hội dân sự, đặc biệt các tổ chức, mạng lưới
NGO vào vận động chính sách, vận động xã hội ngày càng lớn trong hơn một
thập kỷ qua. Tuy nhiên, chưa có nhiều nghiên cứu về ra chính sách ở Việt Nam
cũng như những cuộc vận động, hay những khó khăn của các tổ chức xã hội
dân sự trong xây dựng và thực thi các văn bản pháp luật. Chính vì vậy nghiên
cứu này sẽ góp phần trả lời câu hỏi về không gian xã hội dân sự hiện nay có
những vướng mắc gì để có thể tồn tại, tham gia vào xây dựng pháp luật và giám
sát thực thi pháp luật. Hơn nữa mục đích của nghiên cứu này còn làm rõ về tổ
chức xã hội dân sự, về vai trò của các tổ chức xã hội dân sự trong xây dựng và
thực thi pháp luật. Những quy định pháp luật liên quan đến tổ chức xã hội dân
sự và những khó khăn mà các tổ chức xã hội dân sự gặp phải khi tham gia xây
dựng và giám sát thực thi pháp luât.
3.2. Nhiệm vụ
- Làm rõ vai trò của xã hội dân sự trong tham gia xây dựng và giám sát
thực thi pháp luật
- Nghiên cứu làm rõ thực trạng các tổ chức xã hội dân sự Việt Nam đang
tham gia xây dựng và giám sát thực thi pháp luật tại Việt Nam đã đạt những kết
quả và còn gặp phải nhều khó khăn
- Đề xuất những giải pháp nhằm nâng cao sự tham gia của các tổ chức xã
hội dân sự trong xây dựng và giám sát thực thi pháp luật.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là hoạt động của các tổ chức xã hội dân sự tại Việt
Nam mà hạt nhân là các tổ chức phi chính phủ và Hội. Nghiên cứu về sự tham
8


gia cũng như những khó khăn để mở rộng không gian xã hội dân sự trong xây
dựng và giám sát thực thi các văn bản pháp luật trong 10 năm trở lại đây.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu

Đề tài được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận khoa học chủ
nghĩa Mác – Lênin (chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử).
Bên cạnh đó nội dung của đề tài được trình bày trên cơ sở tự nghiên cứu, kinh
nghiệm thực tiễn của giáo viên hướng dẫn. Đồng thời, sử dụng các phương pháp
phân tích tình huống, thống kê, tổng hợp số liệu so sánh tìm ra các giải pháp, các
cách thức để mở rộng không gian xã hội dân sự tăng cường sự đóng góp của các
tổ chức xã hội dân sự trong xây dựng và thực thi các văn bản pháp luật.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của báo cáo nghiên cứu
- Đề tài được nghiên cứu khá toàn diện về tổ chức xã hội dân sự, vai trò
cũng như những khó khăn của các tổ chức xã hội dân sự trong xây dựng và giám
sát thực thi pháp luật. Từ đó góp phần trong việc đẩy mạnh sự tham gia, phản
biện của các tổ chức này trong công cuộc xây dựng và thực thi pháp luật
- Kết quả nghiên cứu của đề tài có thể được dùng làm tài liệu tham khảo
phục vụ yêu cầu trong công tác xây dựng và giám sát thưc thi pháp luật. Đồng
thời góp phần nâng cao nhận thức của mọi tầng lớp trong công cuộc xây dựng
nhà nước pháp quyền.
7. Kết cấu của báo cáo nghiên cứu
Chương I: Một số vấn đề lý luận về sự tham gia của các tổ chức xã hội dân
sự xây dựng và giám sát thực thi pháp luật
Chương II: Tổ chức xã hội dân sự trong tham gia xây dựng và giám sát
thực thi pháp luật
Chương III: Một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả sự tham gia của các
tổ chức xã hội dân sự trong xây dựng và giám sát thực thi pháp luật

9


CHƯƠNG I: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ SỰ THAM GIA CỦA CÁC
TỔ CHỨC XÃ HỘI DÂN SỰ XÂY DỰNG VÀ GIÁM SÁT THỰC THI
PHÁP LUẬT

1.1. Xã hội dân sự: Khái niệm, vai trò, đặc trưng cơ bản và thực trạng
1.1.1. Khái niệm
Xã hội dân sự hiện đang là vấn đề được cả giới nghiên cứu khoa học lẫn
các nhà họach định chính sách quan tâm. Khái niệm "xã hội dân sự” xuất hiện
khá sớm ở Châu Âu. Các định nghĩa phổ biến về "xã hội dân sự” hiện nay đều
nhấn mạnh tới tinh thần tự nguyện của công dân trong việc bảo vệ các quyền lợi
hợp pháp và giá trị của mình. Theo đó, xã hội dân sự được tạo lập bởi các đoàn
thể nhằm kết nối giữa những nhóm quyền lợi hiện đại và những tổ chức truyền
thống, giữa các tổ chức chính thức và phi chính thức. Ở Việt Nam, ngoài các tổ
chức xã hội truyền thống, nhiều tổ chức xã hội mới đã và đang ra đời. Các tổ
chức đó đang tích cực tham gia và đóng góp vào nhiều họat động xã hội, góp
phần thúc đẩy sự phát triển của xã hội Việt Nam trong điều kiện mới.
Thuật ngữ “xã hội dân sự” có nguồn gốc từ trong tư tưởng chính trị Hi Lạp
cổ, với những hàm ý về sự hợp tác xã hội để tồn tại. Ở buổi ban đầu thuật ngữ
“xã hội dân sự” cũng tương đương với thuật ngữ “nhà nước”. Xã hội dân sự
(XHDS) không bị xem là tách biệt với cộng đồng và chính trị. Theo Keane 1, sự
phân tách dần dần XHDS khỏi nhà nước chỉ bắt đầu từ thế kỷ XVII. Ở dạng
thức hiện đại như hiện nay, người ta thường lấy mốc từ Adam Ferguson, người
cho rằng XHDS nổi lên vào thời kỳ Khai sáng ở thế kỷ XVIII ở Scotland. Tuy
nhiên, Ferguson (1995) vẫn không cho rằng XHDS có thể tách khỏi chính trị:
“xã hội không thể tách khỏi dạng thức nhà nước của nó, cũng như con người
kinh tế không thể bị tách rời khỏi con người chính trị” 2. Sang đến giữa thế kỷ
XIX, ý tưởng XHDS bị lãng quên do mối quan tâm hướng sang các hậu quả
1 John Keane, ed. 1988. Civil Society and the State. New York: Verso
2 Ferguson, A. 1995. An Essay on the History of Civil Society . Cambridge: Cambridge University Press.

10


chính trị và xã hội của cuộc cách mạng công nghiệp. Sau Thế chiến thứ II ý

tưởng về XHDS được khơi lại bởi Antonio Gramsci - người xem “xã hội dân sự”
như là một vũ khí đặc biệt của hành động chính trị độc lập.
Vài thập kỷ qua, thuật ngữ này ngày càng trở nên thịnh hành xuất phát từ
sự nổi lên của các phong trào xã hội dân chủ. Ngày nay, trong kỷ nguyên hiện
đại, thuật ngữ “xã hội dân sự” gợi lên nhiều ý nghĩa: đó là lãnh địa trung gian
giữa cá nhân và nhà nước, thế giới của những tổ chức phi lợi nhuận và từ thiện,
mạng lưới của các NGOs…vv
Nhìn chung, có một số cách hiểu hiện nay về XHDS:
- “XHDS” như là một ý tưởng có tính chuẩn mực/“lý tưởng”: tổ chức xã
hội lý tưởng nằm ngoài sự kiểm soát của nhà nước;
- “XHDS” như là một không gian công cộng được bảo vệ (có tính thiết chế)
khỏi sự xâm lấn chuyên quyền của nhà nước, mà trong đó cá nhân được tự do
lập hội;
- “XHDS” như là một tập hợp các hiệp hội/nhóm có tổ chức mà thành viên
chủ động hành động tập thể để đạt đến mục đích chung;
- “XHDS” là những “phong trào công dân” (đối lại với các thiết chế nhà
nước và các hãng thương mại). Mặt khác, có thể thấy thuật ngữ XHDS thường
được lý thuyết hoá xoay quanh 7 khía cạnh cơ bản (Sievers 1999)
• Các thiết chế tự nguyện và phi lợi nhuận;
• Quyền của cá nhân;
• Mục đích chung;
• Nguyên tắc luật pháp;
• Từ thiện;
• Tự do thể hiện;
• Khoan dung.
Dù cách hiểu có khác nhau, nhưng có điểm chung, là nói đến XHDS là nói
đến hai khía cạnh cơ bản, đó là: tính đa nguyên/đa dạng và lợi ích xã hội.3
Như vậy, thuật ngữ xã hội dân sự thường được dùng để chỉ không gian bên
ngoài nhà nước (độc lập với nhà nước) và bên ngoài thị trường (không có mục
đích thương mại kinh doanh). Xã hội dân sự được cấu thành bởi các nhóm, tổ

chức, thiết chế do người dân lập nên, phản ánh sự quan tâm và ý chí của người
dân, được gọi chung là các tổ chức xã hội dân sự (Civil Society Organization –
3 Đánh dấu không gian xã hội dân sự Việt Nam – Lê Quang Bình

11


CSO). Cấu thành chủ yếu của xã hội dân sự là các hội, nhưng bản thân thuật ngữ
xã hội dân sự lại rộng hơn thuật ngữ hội.
Hạt nhân của Xã hội dân sự là Hội và các tổ chức phi chính phủ. Có nhiều
định nghĩa về Hội. Trong tiếng Anh “hội” thường được thể hiện qua hai thuật
ngữ đó là: “association” – chỉ hình thức liên kết của các cá nhân có cùng mối
quan tâm và “society”- chỉ một cộng đồng có tổ chức. Cả hai khái niệm này đều
có từ gốc La –tinh là socius/ socielis, hàm ý là sự liên hệ, giao lưu, đồng hành
giữa con người với nhau trong đời sống. Ở Việt Nam, về mặt ngôn ngữ, thuật
ngữ “hội” dùng để chỉ cuộc vui tổ chức chung cho đông đảo người tham dự,
theo phong tục hoặc nhân dịp đặc biệt hay là tổ chức quần chúng rộng rãi của
những người cùng chung nghề nghiệp hoặc cùng chung hoạt động..
Tổ chức phi chính phủ (non- governmental organization – NGO) là thuật
ngữ do Liên hợp quốc đặt ra sau năm 1945, chỉ bất kỳ tổ chức nào độc lập với
sự điều phối của nhà nước, hoạt động không vì lợi nhuận, không phải một đảng
chính trị hoặc một tổ chức tội phạm. Như vậy, về bản chất, NGO là một dạng
hội, và thuật ngữ NGO hẹp hơn thuật ngữ hội4.
1.1.2. Vai trò của Xã hội dân sự
Vai trò của XHDS bao gồm: thứ nhất, là cầu nối, kênh truyền dẫn tiếng nói,
nguyện vọng của người dân đến với nhà nước hay nói cách khác, là xã hội hóa
các cá nhân, nối cá nhân với hệ thống xã hội; thứ hai, tham gia hoạch định các
chủ trương, chính sách của nhà nước, phối hợp với nhà nước trong hoạch định,
thực hiện và giám sát thực hiện các chính sách, góp phần xây dựng và hoàn
thiện hệ thống pháp lý; thứ ba, tổ chức phản biện xã hội đối với các chủ trương,

chính sách cũng như việc thực hiện chính sách, tổ chức và hoạt động của bộ máy
nhà nước, kiểm soát và giám sát phẩm chất, hành vi của đội ngũ công chức
nhằm góp phần chống quan liêu, tham nhũng, nâng cao hiệu lực và hiệu quả của
nhà nước; thứ tư, phát huy các nguồn lực và tính năng động, sáng kiến của các
tầng lớp dân cư, tham gia hoạt động cung cấp dịch vụ công như giáo dục, y tế,
văn hoá, khoa học, bảo vệ môi trường, xoá đói giảm nghèo,… tạo điều kiện
4 Hội và tự do hiệp hội ở Việt Nam: Lịch sử phát triển và một số vấn đề đặt ra hiện nay – PGS.TS Vũ Công Giao

12


nâng cao chất lượng cuộc sống của mỗi người và của toàn xã hội. Nhiều tổ chức
XHDS được cho rằng hiệu quả hơn trong việc cung cấp các dịch vụ xã hội, dịch
vụ công ích tại cộng đồng với chi phí thấp hơn và chất lượng tốt hơn so với
nhiều cơ sở nhà nước và tư nhân. Điều này chủ yếu nhờ ở tinh thần tình nguyện
giúp tiết kiệm được giá thành khi các cá nhân cống hiến thời gian và sức lực;
tính cạnh tranh sẽ giúp giảm giá thành dịch vụ; đặc biệt là khả năng nắm bắt nhu
cầu sâu sắc và thực sự thông qua các tổ chức quy mô nhỏ và đặt tại địa phương
sẽ hơn hẳn một cơ quan chính phủ xa xôi5.
Báo cáo nghiên cứu này tập trung làm rõ vai trò tham gia xây dựng và giám
sát thực thi pháp luật của các tổ chức xã hội dân sự.
Thuật ngữ tham gia theo từ điển tiếng Việt có nghĩa là góp phần hoạt
động của mình vào một hoạt động chung nào đó. Tham gia xây dựng pháp luật
của các tổ chức xã hội dân sự là sự hoạt động của các tổ chức xã hội dân sự
góp phần vào hoạt động chung là xây dựng pháp luật. Các tổ chức xã hội dân sự
tham gia xây dựng pháp luật thông qua các hình thức vận động bao gồm:
• Kiến nghị, đề xuất sáng kiến xây dựng văn bản quy phạm pháp luật
• Tham gia đóng góp ý kiến cho các văn bản quy phạm pháp luật
• Tham gia xây dựng chính sách, pháp luật
• Tư vấn

• Phản biện
• Giám định xã hội
Vận động chính sách nhằm một trong các mục đích sau: để hiểu chính
sách; nghiên cứu chính sách; tuyên truyền chính sách; giám sát chính sách; đánh
giá chính sách; đề xuất thay đổi chính sách 6. Vận động chính sách (VĐCS) góp
phần đạt được mục tiêu công bằng dân chủ và phát triển xã hội, vừa bổ sung, tác
động đến quá trình ra chính sách, giúp kết nối các bên liên quan và tạo nên sự
đồng thuận trong xã hội. VĐCS còn giúp nâng cao ý thức chính sách của người
dân và giảm bớt các ảnh hưởng tiêu cực đối với những nhóm bị thiệt thòi trong
xã hội.
5 Tổng quan khung pháp lý cho các tổ chức xã hội dân sự
6 Các hình thức vận động chính sách được công nhận tại Việt Nam- Cẩm nang vận động chính sách cho các tổ
chức xã hội – quỹ hỗ trợ sự tham gia của người dân và trách nhiệm giải trình

13


Thuật ngữ Giám sát trong quyết định trung ương số 217 của Đảng Cộng
sản Việt Nam quy định về quy chế giám sát và phản biện xã hội của mặt trận Tổ
quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị xã hội được hiểu là việc theo dõi, phát
hiện, xem xét; đánh giá kiến nghị nhằm tác động đối với cơ quan, tổ chức và
cán bộ, đảng viên, đại biểu dân cử, công chức, viên chức nhà nước về việc thực
hiện các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước7.
Vai trò giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận tổ quốc Việt Nam và các
tổ chức đoàn thể, các tổ chức chính trị xã hội được khẳng định trong Luật mặt
trận Tổ quốc cũng như quy chế giám sát và phản biện xã hội cuả Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam và các đoàn thể xã hội do ban chấp hành Trung Ương Đảng ban
hành. Mặt trận Tổ quốc (MTTQ) và các đoàn thể chính trị -xã hội đã và đang
thực hiện tốt vai trò giám sát xã hội của mình. Trong những năm gần đây, đã có
một số các tổ chức xã hội8, tổ chức phi chính phủ Việt Nam (VNGO) sát cánh

cùng MTTQ và các tổ chức chính trị -xã hội tham gia giám sát xã hội, giám sát
thực thi chính sách ở cấp Trung Ương và địa phương. Các tổ chức đã khẳng định
được vai trò trách nhiệm của mình trong việc vận động và tham gia xây dựng
pháp luật và chính sách thông qua triển khai các sáng kiến về giám sát xã hội,
góp phần giúp người dân và cộng đồng đối thoại, phản hồi đóng góp cho việc
xây dựng và thực thi các chương trình/ chính sách, thực thi dịch vụ công nhằm
cải thiện chất lượng chính sách cũng như dịch vụ công, phục vụ người dân tốt
hơn, đảm bảo nguyên tác công bằng, bình đẳng, minh bạch và giải trình9.
1.1.3. Đặc trưng cơ bản của các tổ chức xã hội dân sự
Tính đa dạng
7 Quyết định 217 của Đảng Cộng sản Việt Nam ngày 12/12/2013 quy định về quy chế giám sát và phản biện xã
hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thế chính trị -xã hội
8 Tổ chức xã hội là hình thức tổ chức tự nguyện của công dân. Tổ chức Việt Nam có chung mục đích tập hợp,
hoạt động theo pháp luật và theo điều kiện không vì lợi nhuận nhằm đáp ứng những lợi ích chính đáng của các
thành viên và tham gia vào quản lý nhà nước, quản lý xã hội. Điều 25 Hiến pháp 2013 quy định: “công dân có
quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin, tự do hội họp, lập hội, biểu tình. Việc thực hiện các
quyền này do pháp luật quy định”. Công dân Việt Nam có quyền tự do lập hội theo quy định của pháp luật. Đây
là cơ sở pháp lý vững chắc để các tổ chức xã hội ra đời, tồn tại và phát triển.
9 Vai trò của các tổ chức xã hội trong giám sát xã hội – Cẩm nang hướng dẫn giám sát xã hội cho các tổ chức xã
hội của Qũy hỗ trợ sự tham gia của người dân và trách nhiệm giải trình.

14


Ở Việt Nam đang tồn tại một số loại hình tổ chức xã hội dân sự sau:
Nhóm thứ nhất, các tổ chức chính trị xã hội nghề nghiệp như Hội Nông
dân, Hội Phụ nữ, Đoàn Thanh niên, Hội Luật gia, Hội Cựu chiến binh, Liên
đoàn Lao động (được gọi tắt dân dã là Công, Nông, Thanh, Phụ, Cựu). Đây là
những hiệp hội được nhà nước thành lập có cơ cấu tổ chức từ trung ương đến địa
phương, nhận kinh phí hoạt động từ nhà nước và triển khai hoạt động của Đảng

và Nhà nước Việt Nam được gọi là các tổ chức chính trị -xã hội. Tuy nhiên, điều
này vẫn có nhiều cách nhìn nhận khác nhau. Bởi vẫn có nhiều ý kiến cho rằng
các tổ chức này không phải là XHDS vì thiều tính độc lập, vẫn gắn với nhà nước
(về nhân sự, ngân sách, tổ chức…). Nhưng nếu với cái nhìn về mặt tiến trình thì
có thể coi các tổ chức này vẫn là các TCXHDS. Khi đó ta chỉ phân loại các tổ
chức dựa vào các tiến trình họ tham gia, ví dụ như cung cấp dịch vụ công, thực
thi những chính sách của nhà nước, tham gia tiến trình giám sát và phản biện xã
hội, vận động chính sách.
Nhóm thứ hai, các tổ chức khoa học và công nghệ hoạt động phi lợi nhuận,
được thành lập theo Luật khoa học và công nghệ. Các tổ chức này tự nhận mình,
và cũng được nhìn nhận bởi xã hội , như các tổ chức phi chính phủ (NGO) vì
tính tương đối độc lập của mình. Các tổ chức này phải đăng ký dưới một ”cơ
quan chủ quản” như Hội nghiên cứu Đông Nam Á hay Liên hiệp các Hội Khoa
học và Kỹ thuật Việt Nam, các trường đại học hoặc các viện nghiên cứu có tư
cách pháp nhân. Về chiến lược hoạt động, nhân sự và tài chính, các tổ chức này
tự chủ, không được nhận tiền từ ngân sách nhà nước, nhưng vì có tư cách pháp
nhân nên họ có thể nhận tiền tài trợ từ các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước
để phục vụ hoạt động. Giám đốc các tổ chức này do hội đồng sáng lập chọn và
đề xuất lên cơ quan chủ quản phê duyệt.
Nhóm thứ ba, các tổ chức cộng đồng, hoạt động tự nguyện, gắn liền với các
nhu cầu của một nhóm người dân. Các tổ chức này rất đa dạng, tồn tại cả ở
thành thị lẫn nông thôn. Các mô hình như các câu lạc bộ nghệ thuật, nhóm hành
động vì môi trường, tổ hợp tác kinh tế, hoặc các câu lạc bộ của các cụ hưu trí.

15


Các tổ chức cộng đồng tự do thành lập, tự do hoạt động và tự do giải thể10.
Ngoài ra, theo tài liệu của Ngân hàng phát triển Châu Á ADB năm 2009,
TCXHDS được chia thành 9 loại như sau:

- Các tổ chức phi chính phủ (NGO): là các tổ chức chuyên môn, trung gian
và phi lợi nhuận cung cấp hoặc hỗ trợ việc cung cấp các dịch vụ liên quan đến
phát triển kinh tế xã hội, nhân quyền, phúc lợi công cộng hoặc cứu trợ khẩn cấp.
- Hiệp hội nghề nghiệp: Đây là tổ chức đại diện cho quyền lợi của các
thành viên là những người hoạt động trong một lĩnh vực nghề nghiệp nhất định
hoặc làm những nghề đặc biệt nào đó. Các hiệp hội nghề nghiệp có thể tạo ra
những chuẩn mực liên quan đến ngành nghề của các thành viên ví dụ hiệp hội
kiến trúc sư, kế toán công...
- Các quỹ: Là tổ chức từ thiện được thành lập bởi các cá nhân hay đơn vị
nào đó với tư cách là 1 thực thể pháp lý (một tập đoàn hoặc một quỹ ủy thác)
ủng hộ những sự nghiệp phù hợp với mục tiêu của quỹ. Ví dụ: Quỹ Ford (Mỹ),
Quỹ Aga Khan (Thụy Sỹ)...
- Các viện nghiên cứu độc lập: Là những tổ chức chủ yếu thực hiện các
hoạt động nghiên cứu và phân tích liên quan đến các vấn đề chính sách công và
truyền bá những kết quả nghiên cứu và khuyến nghị của mình với hy vọng có
thể gây ảnh hưởng lên các nhà hoạch định quyết sách và những người xác lập
chủ trương.
- Các tổ chức cộng đồng (CBO): Các tổ chức này thường giải quyết ngay
những mối quan tâm của các thành viên. Đặc tính cơ bản của CBO là chúng có
thể huy động các cộng đồng thông qua việc thể hiện các nhu cầu, tổ chức và
thực hiện những quá trình có sự tham gia, tiếp cận các dịch vụ phát triển từ bên
ngoài, chia sẻ lợi ích giữa các thành viên.
- Các tổ chức tín ngưỡng: Những nhóm có cơ sở tôn giáo được thành lập
quanh một khu vực thờ cúng hoặc giáo đoàn, một cơ sở tôn giáo hoặc một cơ sở
được hoặc không được đăng ký có đặc trưng hoặc tôn chỉ tôn giáo.
- Các tổ chức nhân dân: Là những tổ chức gồm những tình nguyện bình
dân, nhằm thúc đẩy sự phồn thịnh về kinh tế và xã hội của các thành viên.
- Các phong trào xã hội và công đoàn: Là những nhóm phi chính thức có
10 Mối quan hệ giữa xã hội dân sự & Hội và dự thảo luật Hội ở Việt Nam - GS.TS Nguyễn Đăng Dung


16


quy mô lớn, gồm nhiều cá nhân hoặc tổ chức nhằm thay đổi xã hội, thông qua
những hành động tập thể có tổ chức và lâu dài.
Như vậy, XHDS ở Việt Nam đa dạng trong nhiều khuôn khổ pháp lý, có tổ
chức đăng ký chính thức để hoạt động (như các tổ chức chính trị -xã hội, các hiệp
hội nghiên cứu phát triển khoa học...), nhưng cũng có những tổ chức không đăng
ký chính thức (như các hội mê tín dị đoan, xã hội đen...). Tuy nhiên, trong bối cảnh
đang chuyển đổi của Việt Nam hiện nay quan điểm của nhà nước về XHDS có sự
dè dặt vì vậy trong bài viết có sử dụng thuật ngữ “tổ chức xã hội” thay cho thuật
ngữ “tổ chức xã hội dân sự”.
Bản chất tham gia tự nguyện
Tự chọn và tự quyết, không bị chi phối bởi luật pháp, các tổ chức cộng
đồng tự do thành lập, tự do hoạt động và tự do giải thể.
Thực tế, các tổ chức xã hội mang tính xã hội dân sự ở Việt Nam hoạt động
trên cơ sở tự nguyện của người dân đã tồn tại qua nhiều đời nay. Đặc biệt khi có
thiên tai, lũ lụt, chiến tranh xảy ra thì các hoạt động của các tổ chức xã hội này
lại càng thể hiện rõ tinh thần tự nguyện cưu mang, đùm bọc, giúp đỡ lẫn nhau
của người dân để thoát khỏi hoạn nạn. Các tổ chức xã hội phát triển rất phong
phú và đa dạng với nhiều loại hình và tên gọi khác nhau như: liên hiệp, hiệp hội,
hội, liên đoàn, câu lạc bộ, quỹ, viện, trung tâm, hội đồng, ủy ban, nhóm tình
nguyện…
Nghị định số 45/2010/NĐ-CP ngày 21/4/2010 của Chính phủ quy định hội
là: “Tổ chức tự nguyện của công dân, tổ chức Việt Nam cùng ngành nghề, cùng
sở thích, cùng giới, có chung mục đích tập hợp, đoàn kết hội viên, hoạt động
thường xuyên, không vụ lợi nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của hội, hội
viên, của cộng đồng; hỗ trợ nhau hoạt động có hiệu quả, góp phần vào việc phát
triển kinh tế xã hội của đất nước…”
Như vậy có thể thấy, tính chất hoạt động của các tổ chức như nhóm, hội,

hiệp hội ở Việt Nam tương tự như các tổ chức xã hội dân sự ở các nước khác,
được hoạt động công khai và rộng rãi. Đó là sự tham gia tự nguyện của các cá
nhân vào một tổ chức nào đó với mục đích tích cực.
1.1.4. Thực trạng của các tổ chức xã hội dân sự Việt Nam giai đoạn hiện nay.
17


Xã hội dân sự hiện nay được đánh giá theo các chỉ số dưới dạng một hình
thoi với bốn đỉnh phản ánh gồm: cấu trúc XHDS, môi trường để XHDS hoạt
động, các giá trị trong XHDS và tác động của XHDS tới xã hội chung. Theo kết
quả nhận dạng ban đầu, XHDS tại VN có cấu trúc rất rộng nhưng không sâu, tức
là người dân thường là thành viên một tổ chức nào đó (phụ nữ, thanh niên, hội
nghề nghiệp...) của XHDS nhưng tính tự nguyện còn thấp. Trong khi đó, môi
trường để XHDS hoạt động đã được thúc đẩy trên văn bản, nhưng trên thực tế
yếu tố khích lệ phát huy sự tham gia của XHDS trong công cuộc phát triển còn
yếu. Điều này khiến tác động của XHDS đến xã hội còn yếu tuy các giá trị
XHDS được đánh giá là ở mức độ tương đối cao. Đánh giá bốn lĩnh vực trên ở
Việt Nam, các chuyên gia cho điểm chung ở mức trung bình thấp11.
Bên cạnh đó, nổi bật lên là vấn đề thừa nhận hay không thừa nhận các tổ
chức xã hội dân sự của nhà nước. Các tổ chức XHDS Việt Nam thường băn
khoăn về tính chính danh của mình do nhà nước “chưa thừa nhận” – có nghĩa
chưa có luật hoặc chưa có định nghĩa rõ ràng về XHDS trong các văn bản pháp
luật. Tuy nhiên, sự tồn tại của XHDS là tất yếu bên cạnh nhà nước và thị trường.
Chính vì vậy, việc phát triển XHDS không phụ thuộc vào sự thừa nhận (bằng
luật pháp) của nhà nước, mà phụ thuộc vào sự thừa nhận về một xã hội đa
nguyên, phản biện, thậm chí trái chiều trong các địa hạt khác nhau. Sự thừa nhận
mang tính triết lý này chính là nền tảng cho XHDS phát triển. Điều này dẫn đến
việc XHDS không chỉ vận động cho một khung pháp lý cởi mở, tôn trọng quyền
tự do hiệp hội, hội họp của mình, mà còn vận động cho một xã hội đa nguyên,
tôn trọng sự khác biệt, và đa dạng về cách tiếp cận12.

Sự hiểu biết của quần chúng về xã hội dân sự còn hạn hẹp
Mặc dù các TCXHDS ở Việt Nam đã và đang có sự đóng góp không nhỏ
vào đời sống xã hội, phần lớn công chúng còn thiếu hiểu biết hoặc hiểu biết mơ
hồ về sự tồn tại cũng như vai trò của các tổ chức này. Nhiều người còn không rõ
về vai trò và chức năng của các TCXHDS, vì sao các tổ chức này lại cần thiết
11 Đánh dấu không gian xã hội dân sự Việt Nam
12 Vai trò của xã hội dân sự trong phát triển kinh tế, xã hội và văn hóa Việt Nam – Hội thảo thường niên lần thứ
nhất của nhóm làm việc vì sự tham gia của người dân

18


đối với sự phát triển của đất nước. Lý do nhiều người còn không hiểu về
TCXHDS bởi vì các tổ chức này ít được thông tin trên các phương tiện truyền
thông đại chúng. Một mặt, các TCXHDS không chủ động trong việc xây dựng
và quảng bá hình ảnh của họ đối với công chúng. Họ thiếu kinh nghiệm để tiếp
cận với báo chí một cách bài bản và đưa ra các thông điệp một cách chiến lược
cũng như việc vận động xã hội ủng hộ cho sứ mạng của họ. Mặt khác, báo chí
cũng chưa thực sự đưa các thông tin về các TCXHDS một cách sâu sắc và hấp
dẫn13. Hơn nữa, trong bối cảnh Việt Nam hiện nay thuật ngữ “xã hội dân sự”
thường được né tránh. Đây cũng là một khó khăn trong hoạt động của các tổ
chức xã hội dân sự.
Những khó khăn
Môi trường pháp lý của một tổ chức có tầm quan trọng đặc biệt đối với tổ
chức đó. Có thể lập luận rằng khuôn khổ pháp lý ở Việt Nam mang tính hỗ trợ
về phương diện thành lập các tổ chức, như các bằng chứng cho thấy. So với các
nước khác trong khu vực có nền quản trị điều hành tương tự, Việt Nam có số
lượng tổ chức cao. Tuy nhiên, nhóm SAG (nhóm đánh giá các bên liên quan) chỉ
rõ rằng việc thành lập các tổ chức rất khó khăn, các thủ tục chiếm rất nhiều thời
gian và cần phải có tiền và các mối quan hệ cá nhân. Người ta cũng nhận thấy

một vấn đề nữa là sự hỗ trợ khá hạn chế và rất khó khăn. Luật thuế cũng không
có gì thuận lợi đặc biệt đối với các tổ chức. Mặc dù các tổ chức phi lợi nhuận
không phải đóng thuế, các nhà hảo tâm cũng không được hưởng bất kỳ hình
thức miễn thuế nào, nhóm SAG nhận thấy đây là khu vực có thể dễ dàng cải
thiện và đem lại tác động lớn14
1.2. Nhà nước dân chủ pháp quyền và sự cần thiết phải có sự tham gia của
các tổ chức xã hội dân sự tham gia xây dựng và giám sát thực thi pháp luật
1.2.1. Nhà nước dân chủ pháp quyền
Chủ trương xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
13 hình ảnh các tổ chức xã hội dân sự trên một số báo in và báo mạng
14 Khỏa lấp sự cách biệt: xã hội dân sự mới nổi tại Việt Nam

19


được Đảng ta lần đầu tiên chính thức đưa vào văn kiện tại Đại hội VII. Theo đó
Nhà nước pháp quyền với định nghĩa căn bản nhất là không có ai ở trên luật hay
ngoài luật, mà mọi người phải tuân theo pháp luật hay nói cách khác nhà nước
pháp quyền là nhà nước thượng tôn pháp luật và là biểu hiện tập trung của chế
độ dân chủ.
Tinh thần thượng tôn pháp luật của Nhà nước pháp quyền thể hiện ở chỗ
nhà nước pháp quyền được tổ chức và hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và
pháp luật.
Hiến pháp và pháp luật luôn giữ vai trò điều chỉnh những mối quan hệ cơ
bản đối với toàn bộ hoạt động Nhà nước và hoạt động xã hội, quyết định tính
hợp hiến và hợp pháp của mọi tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước. Tuy
nhiên không phải mọi chế độ lập Hiến, mọi hệ thống pháp luật đều có thể đưa lại
khả năng xây dựng nhà nước pháp quyền, mà chỉ có Hiến pháp và hệ thống pháp
luật dân chủ, công bằng mới có thể làm cơ sở cho chế độ pháp quyền trong nhà
nước và xã hội.

Nhà nước pháp quyền là biểu hiện tập trung của chế độ dân chủ. Dân chủ
vừa là bản chất của nhà nước pháp quyền vừa là điều kiện, tiền đề của chế độ
nhà nước. Dân chủ XHCN là một hình thức chính trị - nhà nước của xã hội,
thừa nhận quyền tự do, bình đẳng của công dân, thừa nhận nhân dân là chủ thể
của quyền lực. Dân chủ ngày càng mở rộng là một trong những nội dung cơ bản
của nhà nước pháp quyền; đặc biệt, với nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
của dân, do dân, vì dân thì nội dung đó càng phải trở thành nội dung căn bản và
quan trọng hàng đầu. Quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân là nội dung căn
bản và là hình thức biểu hiện tập trung của dân chủ trong nhà nước pháp quyền.
Không có một nhà nước pháp quyền thực sự thì cũng không thể có nền dân chủ
thực sự và bền vững. Bởi, chỉ có thông qua nhà nước pháp quyền, nhân dân mới
có thể cùng nhà nước tạo ra được những thiết chế, cơ chế xã hội thích ứng đảm
bảo dân chủ và tự do trong xã hội. Đến lượt mình, dân chủ vừa là điều kiện, vừa
là động lực thúc đẩy sự hình thành, phát triển và hoàn thiện của nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa.
20


Mục tiêu của nhà nước pháp quyền là xây dựng và thực thi một nền dân
chủ, đảm bảo quyền lực chính trị thuộc về nhân dân. Nhân dân thực hiện quyền
dân chủ của mình thông qua dân chủ trực tiếp; dân chủ đại diện.
Hay nói cách khác dân chủ là chính phủ được thành lập bởi nhân dân, trong
đó quyền lực tối cao được trao cho nhân dân và được thực hiện bởi nhân dân,
hoặc các đại diện được bầu ra từ một hệ thống bầu cử tự do. Dân chủ thực tế là
một tập hợp những tư tưởng và nguyên tắc tự do, là sự thể chế hoá tự do. Định
chế dân chủ nói lên khát vọng của nhân dân về tự do và tự quản. Dân chủ chỉ có
thể thực hiện khi đó là mong muốn của các công dân, có quyết tâm sử dụng
quyền tự do để tham gia vào đời sống xã hội, góp tiếng nói của họ vào các cuộc
tranh luận tập thể, bầu ra các vị đại diện có trách nhiệm đối với hành động của
họ, chấp nhận yêu cầu dung hoà và thoả hiệp trong đời sống công cộng.

Quyền lực nhà nước trong nhà nước pháp quyền được tổ chức và thực hiện theo
các nguyên tắc dân chủ: phân công quyền lực và kiểm soát quyền lực. Tính chất
và cách thức phân công, kiểm soát quyền lực nhà nước rất đa dạng, tuỳ thuộc
vào chính thể nhà nước ở các nước khác nhau, nhưng đều có điểm chung là
quyền lực nhà nước không thể tập trung vào một người, vào một cơ quan, mà
phải được phân công (phân chia) giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện
quyền lập pháp, quyền hành pháp và quyền tư pháp. Đồng thời, việc tổ chức và
thực thi quyền lực phải được kiểm soát chặt chẽ với các cơ chế kiểm soát quyền
lực cụ thể kể cả bên trong bộ máy nhà nước và bên ngoài bộ máy nhà nước.15.
Như vậy Xây dựng nhà nước pháp quyền là một yêu cầu tất yếu, khách quan và
phù hợp với xu thế phát triển của thời đại. Thực hiện dân chủ là một trong
những nội dung cơ bản của nhà nước pháp quyền, đặc biệt là Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân. Không có nhà nước pháp quyền
thực sự thì không có nền dân chủ rộng rãi và bền vững. Dân chủ đóng vai trò cơ
sở, động lực thúc đẩy sự phát triển của nhà nước pháp quyền. Đối với nước ta,
15 Đặc trưng của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam – Hồng Đoan – Cổng thông tin điện tử tỉnh
Hà Giang truy cập lần cuối ngày 20/3/2018 />ItemID=747

21


dân chủ hoá xã hội vừa là điều kiện tiên quyết để xây dựng và hoàn thiện Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, vừa là biện pháp căn bản để đẩy nhanh sự
phát triển của đất nước.
Dân chủ phải được thực hiện đầy đủ, nghiêm túc trên tất cả các lĩnh vực
của đời sống xã hội. Bảo đảm để nhân dân tham gia ở tất cả các khâu của quá
trình đưa ra những quyết định liên quan đến lợi ích, cuộc sống của nhân dân.…
Tiếp tục thực hiện tốt dân chủ ở cơ sở; thể chế hóa và thực hiện tốt phương
châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”. Để kết hợp dân chủ đại diện
và dân chủ trực tiếp, Đảng và Nhà nước ta đã ban hành Quy chế dân chủ ở cơ

sở, Pháp lệnh dân chủ ở xã, phường, thị trấn nhằm phát huy quyền làm chủ trực
tiếp của nhân dân ở cơ sở.
1.2.2. Sự cần thiết phải có sự tham gia của các tổ chức xã hội dân sự tham
gia xây dựng và giám sát thực thi pháp luật
Như phần trên đã trình bày về đặc trưng của nhà nước pháp quyền ta thấy
rõ Nhà nước pháp quyền Việt Nam là nhà nước của dân, do dân, vì dân. Vì vậy,
quy trình ban hành pháp luật và mọi chính sách đều phải dân chủ và thượng tôn
pháp luật, có sự tham gia của khu vực công, tư, xã hội, công dân. Mọi người dân
và tổ chức đều có quyền đóng góp ý kiến vào việc xây dựng và giám sát các
chính sách. Hay nói cách khác nhà nước pháp quyền là nhà nước thực hiện dân
chủ với phương châm”dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”.
Hơn nữa, thực tế cho thấy xã hội nào càng mang tính chất giám sát, phản
biện cao thì xã hội đó càng có khả năng phát triển nhanh vững chắc và ngược
lại, chỉ trong xã hội phát triển thì tính giám sát xã hội và phản biện xã hội mới
được phát huy mạnh mẽ và hiệu quả. Giám sát và phản biện xã hội là hai khái
niệm chức năng gắn bó mật thiết và chỉ trên cơ sở giám sát một cách nghiêm túc
thì mới có thông tin đầy đủ và thấu đáo làm tiền đề cho phản biện. Trong hệ
thống chính trị nước ta hiện nay có hai loại giám sát là giám sát mang tính quyền
lực nhà nước và giám sát xã hội mang tính quyền lực nhân dân. Với bản chất
22


nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân do dân và vì dân, cách thức tổ
chức và thực hiện quyền lực nhà nước xã hội chủ nghĩa Việt Nam phải thể hiện
được quyền làm chủ của nhân dân đối với quyền lực nhà nước, thông qua nhiều
hình thức khác nhau. Trong đó giám sát xã hội mang tính quyền lực nhân dân
với tư cách là chủ thể của quyền của quyền lực nhà nước giám sát việc tổ chức
thực hiện và thực hiện quyền lực nhà nước, là một trong những điều kiện quan
trọng, nhằm bảo đảm quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân.
Giám sát xã hội đối với việc tổ chức và thực hiện quyền lực nhà nước có tác

dụng hỗ trợ cho giám sát mang tính quyền lực nhà nước. Cùng với xu hướng dân
chủ hóa đời sống xã hội, giám sát xã hội đối với tổ chức thực hiện quyền lực nhà
nước ngày càng được tăng cường và mở rộng, bảo đảm sự vận hành của tổ chức và
thực hiện quyền lực nhà nước có hiệu quả, khoa học, nhằm mục đích xây dựng và
hoàn thiện pháp quyền dân chủ xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì
nhân dân.
Trong phạm vi báo cáo nghiên cứu này, giám sát xã hội tập trung vào đối
tượng giám sát là người dân, cộng đồng, các tổ chức xã hội, các tổ chức phi
chính phủ Việt Nam.
Vì trình độ dân trí, nhất là trình độ về pháp luật, của người dân còn rất hạn
chế. Hiện nay không chỉ kiến thức pháp luật của người dân còn thấp mà sự chấp
hành, ý thức, tinh thần pháp luật của người dân không cao. Chính vì vậy, khi
tham gia vào các công việc quản lý nhà nước, người dân rất lúng túng. Vì thể để
người dân có thể tham gia vào xây dựng và giám sát pháp luật thì cần có tổ chức
đại diện cho họ đó là những nhà hoạt động chuyên môn độc lập hay là những
TCXHDS.
Xã hội dân sự với tính chất tự nguyện và thể hiện quyền làm chủ của nhân dân
ngoài nhà nước thì cùng với nhà nước pháp quyền, kinh tế thị trường, tất cả tạo
thành cơ cấu dân chủ hiện đại. Xã hội dân sự như vậy còn là cơ sở của nền nhân
23


quyền mới. Nói cách khác nền dân chủ của nhà nước pháp quyền XHCN phải bao
hàm cả nhân quyền và dân quyền. Đó là phần cơ cấu xã hội cứng, cơ bản và là xu
hướng không thể khác của xã hội hiện đại XHCN. Dân chủ ngày nay trên nền tảng
chủ quyền nhân dân, nhưng mà phi pháp quyền, phi nhân quyền thì không thể
là dân chủ tiền tiến.

24



CHƯƠNG II: XÃ HỘI DÂN SỰ VIỆT NAM THAM GIA XÂY DỰNG VÀ
GIÁM SÁT THỰC THI PHÁP
2.1. Xã hội dân sự tham gia xây dựng pháp luật
2.1.1. Khung pháp lý
Các qui định trong Hiến pháp 2013 đã tạo lập các khả năng vận động chính
sách ở cả tầm quốc gia và địa phương. Cụ thể, điều 28 Hiến pháp 2013 xác định:
“Công dân có quyền tham gia quản lý nhà nước và xã hội, tham gia thảo
luận và kiến nghị với cơ quan nhà nước về các vấn đề của cơ sở, địa phương và
cả nước. Nhà nước tạo điều kiện để công dân tham gia quản lý nhà nước và xã
hội; công khai, minh bạch trong việc tiếp nhận, phản hồi ý kiến, kiến nghị của
công dân.”
Bên cạnh đó, Điều 25 quy định: “Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do
báo chí, tiếp cận thông tin, hội họp, lập hội, biểu tình. Việc thực hiện các quyền
này do pháp luật quy định.” Như vậy, Điều 25 Hiến pháp hiện hành quy định
bao gồm cả quyền “hội họp” và “biểu tình”, “tự do báo chí” và “tiếp cận thông
tin” đều là các công cụ vận động quan trọng của người dân và các tổ chức
XHDS. Tuy nhiên, với quy định như vậy lại mở ra khả năng các quyền và tự do
cơ bản này có thể bị thu hẹp lại bởi các văn bản quy phạm pháp luật ở cấp thấp
hơn như nghị định, thông tư, chỉ thị, quyết định. Trên thực tế, khái niệm “vận
động”, “vận động chính sách” hay “vận động hành lang” chưa được luật hóa. Có
thể tìm thấy một số cách biểu đạt khác của khái niệm này trong các văn bản luật
pháp, chính sách như: “lấy ý kiến”, “tư vấn” hay “phản biện”. Ví dụ, Nghị quyết
số 48-NQ/TW ngày 24/5/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược xây dựng và hoàn
thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020 chỉ
rõ “Có cơ chế thu hút các hiệp hội, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội - nghề nghiệp,
các chuyên gia giỏi tham gia vào việc nghiên cứu, đánh giá nhu cầu, hoạch định
chính sách pháp luật, soạn thảo, thẩm định, thẩm tra các dự thảo văn bản pháp
25



×