Tải bản đầy đủ (.doc) (87 trang)

Chế định quyền thừa kế trong đối sánh luật la mã cổ đại luật dân sự việt nam một số vương mắc và đề xuất luận văn tốt nghiệp đại học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (381.87 KB, 87 trang )

MỤC LỤC
Trang
A. MỞ ĐẦU…………………………………………………………..
1. Lý do chọn đề tài…………………………………………………...
2. Tình hình nghiên cứu……………………………………………….
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu …………………………………..

1
1
3
5

4. Nguồn tư liệu và phương pháp nghiên cứu…………………………..
5. Đóng góp của đề tài………………………………………………….
6. Bố cục của đề tài……………………………………………………
B. NỘI DUNG………………………………………………………..
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CHẾ ĐỊNH QUYỀN THỪA KẾ………......
1.1 Khái luận chung về quyền thừa kế………………………………..
1.1.1 Khái niệm thừa kế……………………………………………..
1.1.2 Mối liên hệ giữa thừa kế và sở hữu……………………………..
1.1.3 Khái niệm quyền thừa kế………………………………………
1.1.4 Mối quan hệ giữa quyền thừa kế và quyền sở hữu……………...
1.2 Quyền thừa kế trong pháp luật một số nước……………………..
1.2.1 Quyền thừa kế trong pháp luật Việt Nam……………………….
1.2.2 Quyền thừa kế trong pháp luật La Mã…………………………..
1.2.3 Quyền thừa kế trong pháp luật một số nước trên thế giới……...
Chương 2: CHẾ ĐỊNH QUYỀN THỪA KẾ TRONG ĐỐI SÁNH LUẬT LA

6
7
8


9
9
9
9
11
12
15
16
16
19
25

MÃ CỔ ĐẠI – LUẬT DÂN SỰ VIỆT NAM. MỘT SỐ VƯỚNG MẮC VÀ ĐỀ
XUẤT…………………………………………………………………………………….

33

2.1 Chế định quyền thừa kế trong đối sánh luật La Mã cổ đại - luật
Dân sự Việt Nam…………………………………………………………….
2.1.1 Những qui định chung………………………………………….
2.1.2 Thừa kế theo Di chúc……………………………………………
2.1.3 Thừa kế theo pháp luật………………………………………….
2.2 Một số vướng mắc và đề xuất về chế định thừa kế trong luật Dân

33
34
46
63

sự Việt Nam …………………………………………………………………

2.2.1 Thời điểm mở thừa kế…………………………………………..
2.2.2 Di sản thừa kế…………………………………………………...
2.2.3 Người thừa kế…………………………………………………...
2.2.4 Về quyền từ chối nhận di sản…………………………………...
2.2.5 Thời hiệu khởi kiện về thừa kế………………………………….
2.2.6 Về di chúc hợp pháp…………………………………………….
2.2.7 Sự mâu thuẫn trong phương thức chia di sản thừa kế…………..
C. KẾT LUẬN……………………………………………………….

69
70
72
72
74
76
78
80
81

1


TÀI LIỆU THAM KHẢO

A. MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1 Để quản lý xã hội bằng pháp luật và khơng ngừng nâng cao tính
thực thi của văn bản pháp luật, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa,
Đảng và nhà nước ta chủ trương xây dựng một hệ thống pháp luật ngày
càng hoàn chỉnh, phản ánh tốt hơn đường lối của Đảng trong công cuộc xây

dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Văn kiện đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng ghi rõ: “Mọi đường lối, chính sách
của Đảng đều vì lợi ích chủa nhân dân, có sự tham gia ý kiến của nhân
dân.”
2


Để điều chỉnh tất cả các mối quan hệ xã hội phức tạp Nhà nước cộng
hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã xây dựng một hệ thống pháp luật bao
gồm nhiều ngành luật, trong đó mỗi ngành luật điều chỉnh một nhóm quan
hệ xã hội nhất định, trong mỗi ngành luật lại có những chế định riêng để
điều chỉnh một loại quan hệ xã hội. Trong luật Dân sự thì thừa kế là một
chế định khơng thể thiếu trong pháp luật Việt Nam cũng như pháp luật các
nước trên thế giới. Vì vậy việc nghiên cứu chế định thừa kế đã được rất
nhiều nhà làm luật quan tâm trong suốt tiến trình lịch sử của lồi người.
1.2 Như chúng ta đã biết hệ thống pháp luật Châu Âu lục địa có lịch
sử hình thành và phát triển lâu đời nhất so với các hệ thống pháp luật trong
thế giới đương đại. Các bộ luật lớn của lục địa Châu Âu như Bộ luật dân sự
Napoleon năm 1804, Bộ luật dân sự Đức năm 1896 đều được hình thành
trên cơ sở kết hợp luật pháp địa phương và luật La Mã. Đặc biệt ở Đức, các
đế chế Đức tồn tại thời kì giữa năm 962 và năm 1806 tự cho mình là sự kế
thừa của đế chế La Mã.
Luật La Mã được nghiên cứu tại các trường Đại học của Đức, Pháp
và các nước lục địa Châu Âu và được coi là nguồn luật bổ sung, được áp
dụng trực tiếp nếu pháp luật thành văn và tập quán pháp luật của họ chưa
qui định đối với quan hệ xã hội cần thiết phải điều chỉnh pháp luật. Corpus
juris civilis được tiếp nhận rộng rãi ở Đức, Pháp và các nước lục địa Châu
Âu khác như Italia, Tây Ban Nha, Áo, Bỉ, Hà Lan, Thụy Sĩ và có ảnh
hưởng tới phần lớn các nước Châu Phi, hầu hết các nước châu Mĩ La Tinh,
các nước phương Đông kể cả Nhật Bản. Như vậy ta có thể thấy được sự

ảnh hưởng rất lớn của pháp luật La Mã tới hệ thống pháp luật thế giới hiện
tại.
1.3 Trong quá trình tồn tại và phát triển, khoa học pháp lý đã làm nảy
sinh cuộc tranh luận sôi nổi về luật so sánh, một điều không thể tranh cãi được
cả về mặt nhận thức lẫn thực tiễn là: so sánh là phương pháp khoa học pháp lý

3


được áp dụng một cách rộng rãi, việc nghiên cứu so sánh là một trong những
phương hướng cơ bản của khoa học pháp lý. Chính vì vậy luật so sánh có vai
trị quan trọng trong thực tiễn pháp lý, sẽ không thể nghiên cứu một khối
lượng lớn các lĩnh vực, vấn đề các hệ thống pháp luật nếu khơng có pháp lý so
sánh;
Luật so sánh cịn có nhiệm vụ tổng kết, hệ thống hóa một loạt các kết
quả của những nghiên cứu so sánh cụ thể trong lịch sử phát triển của luật so
sánh; luật so sánh giúp ta phát hiện ra những điểm giống nhau, khác nhau
của hiện tượng pháp luật; lý giải nguyên nhân của sự giống nhau và khác
nhau đó; khơng chỉ dừng lại ở đó luật so sánh còn nghiên cứu mối quan hệ
giữa các hệ thống pháp luật được so sánh, giải thích nguồn gốc của những
điểm tương đồng và khác biệt giữa các hệ thống pháp luật đó nhằm mục
đích cải tổ hệ thống pháp luật, góp phần hồn thiện và phát triển hệ thống
pháp luật và khoa học pháp lý quốc gia cũng như làm hài hịa và đi đến
nhất thể hóa pháp luật của các quốc gia, đưa hệ thống pháp luật quốc gia
hòa nhập vào cộng đồng pháp luật khu vực và thế giới.
Tuy có vai trị to lớn như vậy nhưng luật so sánh còn là ngành khoa học
còn khá mới trong khoa học pháp lý Việt Nam, nó mới được đưa vào giảng
dạy trong các cơ sở đào tạo luật. Hiện nay nó đang nhận được sự quan tâm
sâu sắc của các luật gia các nhà nghiên cứu pháp luật ở Việt Nam. Đặc biệt
trong giai đoạn hiện nay, Việt Nam tiến hành đổi mới và hội nhập ngày càng

toàn diện với thế giới về nhiều lĩnh vực, việc tìm hiểu, so sánh hệ thống pháp
luật của các nước trong khu vực và trên thế giới có ý nghĩa quan trọng trong
khoa học cũng như trong thực tiễn xây dựng thực thi pháp luật ở Việt Nam
hiện nay.
Với ý nghĩa khoa học và thực tiễn nêu trên tác giả mạnh dạn chọn vấn
đề “Chế định quyền thừa kế trong đối sánh luật La Mã cổ đại - luật Dân sự

4


Việt Nam. Một số vướng mắc và đề xuất” làm đề tài Khóa luận tốt nghiệp Đại
học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Chế định quyền thừa kế được các nhà nghiên cứu trong và ngồi nước
đề cập từ nhiều góc độ chuyên môn khác nhau và đạt được những thành tựu
nhất định, trong đó có nhiều cơng trình được cơng bố có liên quan đến đề tài
mà tác giả nghiên cứu, tiêu biểu có một số cơng trình nghiên cứu như:
Tác phẩm “Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và nhà nước”
(NXB Sự thật, Hà Nội, 1961, tr 79) của Ph. Ăng ghen.
Tiếp theo phải kể đến các tác phẩm nghiên cứu là khóa luận tốt
nghiệp, tiêu biểu như cuốn “Thừa kế theo pháp luật trong Bộ Luật dân sự
Việt Nam” (Luận án thạc sĩ luật học, thư viện Trường đại học Luật Hà
Nội) của Nguyễn Thị Vĩnh. Cuốn “Cơ sở lý luận và thực tiễn của những
qui định chung về thừa kế trong bộ luật Dân sự” (Luận án tiến sĩ luật học,
thư viện Trường đại học Luật Hà Nội) của Nguyễn Minh Tuấn. Cuốn“Hình
thức di chúc một số vấn đề lý luận và thực tiễn” (Khoá luận tốt nghiệp, thư
viện Trường đại học Luật Hà Nội, 2010) của Nguyễn Thị Lý. “Thừa kế
theo pháp luật của cháu, chắt theo quy định của pháp luật Việt Nam” (Luận
văn thạc sĩ Luật học, Hà Nội 2009) của Lê Đức Bền.
Các cơng trình là sách đã cơng bố như: “Thừa kế qui định của pháp

luật và thực tiễn áp dụng” (NXB chính trị quốc gia. Hà Nội 2007) cơng
trình này chủ yếu phân tích các qui định của pháp luật về thừa kế những
vấn đề chung; thừa kế theo di chúc, thừa kế theo pháp luật, thanh toán và
phân chia di sản; về thực trạng giải quyết tranh chấp và hướng hoàn thiện
qui định của pháp luật về thừa kế. Với luật La Mã thì có một số cơng trình
được tiếp cận một cách tồn diện pháp luật La Mã như “giáo trình luật La
Mã” (Nhà xuất bản Công an nhân dân. Hà Nội 2003) của trường Đại Học
luật Hà Nội, “Luật La Mã” (Khoa luật - trường Đại học Tổng hợp. Hà Nội
5


1994) của Phó Tiến sĩ sử học Nguyễn Ngọc Đào cơng trình này đã nghiên
cứu về nguồn của luật La Mã; các hình thức kiện Dân sự, chủ thể của pháp
luật; hơn nhân và gia đình; tài sản; nghĩa vụ; thừa kế. “Giáo trình luật La
Mã” (Trường Đại học Cần Thơ, NXB chính trị quốc gia, Hà Nội 2009) của
Tiến sĩ Nguyễn Ngọc Điện cuốn này nghiên cứu chủ yếu về tài sản; nghĩa
vụ; hơn nhân gia đình và thừa kế.
Tiếp đến là phải kể đến các bài viết trên các tạp chí như:
“Quy định về người lập di chúc” (Tạp chí Tồ án. Tồ án nhân dân
tối cao, Số 03/2005, tr. 8 – 9) của TS. Phùng Trung Tập. Trong bài viết này
Tác giả phân tích điều 650 Bộ luật dân sự về người lập di chúc và đưa ra
những vấn đề trong việc áp dụng thực thi thiếu sự thống nhất. Từ đó đề
xuất ý kiến cá nhân khi sửa đổi, bổ sung những quy định về thừa kế
“Về giải thích nội dung di chúc” (Tạp chí Tồ án. Toà án nhân dân
tối cao, Số 21/2005, tr. 17 – 19) của Thái Công Khánh. Bài “Di chúc miệng
theo quy định của Bộ luật dân sự” (Tạp chí Tồ án. Toà án nhân dân tối
cao, Số 22/2005, tr. 30 – 33) của Nguyễn Hồng Nam;
“Về việc cháu, chắt nội, ngoại thừa kế thế vị và hưởng di sản thừa kế
theo hàng của ông, bà nội ngoại, các cụ nội, ngoại” (Tạp chí Tồ án. Tồ
án nhân dân tối cao, Số 24/2005, tr. 13 – 16) của TS. Phùng Trung Tập;

bài“Một số vấn đề xác định di sản thừa kế” (Tạp chí Tồ án nhân dân. Tồ
án nhân dân tối cao, Số 16/2006, tr. 02 – 7) của ThS. Trần Thị Huệ. Bài
“Di sản thừa kế và thời điểm xác lập quyền sử hữu đối với di sản thừa kế”
(Tạp chí Luật học. Trường đại học luật Hà Nội. Số: 11/2007, Tr: 66-69) của
TS. Nguyễn Minh Tuấn
Đặc biệt bài “Di sản thừa kế trong pháp luật dân sự một số nước trên
thế giới” (Tạp chí Nhà nước và pháp luật. Viện Nhà nước và pháp luật, Số
10/2006, tr. 78 – 83) của ThS. Trần Thị Huệ.

6


Nhìn chung, ở những cơng trình này chủ yếu nghiên cứu vào một hoặc
một số qui định từ đó phân tích và chỉ ra những điểm vướng mắc cần tháo gỡ,
hoặc là nghiên cứu về chế định thừa kế trong luật La Mã. Tác giả cho rằng,
việc có một cơng trình chuyên khảo so sánh đối chiếu đầy đủ, hệ thống và
toàn diện các qui định trong chế định thừa kế giữa hai luật La Mã và luật Dân
sự Việt Nam và từ đó chỉ ra những vướng mắc và đề xuất hướng giải quyết là
một nhiệm vụ khoa học cần thiết, trên cơ sở kế thừa kết quả thành tựu nghiên
cứu của các tác giả đã công bố.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đề tài chủ yếu tập trung làm rõ những vấn đề sau: Chế định thừa kế
trong đối sánh giữa luật Dân sự Việt Nam và luật La Mã. Trong đó phân tích
sự khác nhau và giống nhau về cách giải quyết quan hệ thừa kế, chỉ ra được
nguyên nhân dẫn đến sự khác nhau và giống nhau đó đồng thời chỉ ra được sự
ảnh hưởng của luật La Mã tới các qui định của luật Dân sự Việt Nam. Đề tài
đi sâu nghiên cứu chế định thừa kế trong đối sánh và tìm ra những tồn tại
đồng thời đưa ra được hướng tháo gỡ những vướng mắc đó.
3.2. Phạm vi nghiên cứu

Về mặt thời gian, đề tài tập trung nghiên cứu các qui định của pháp luật
về thừa kế trong luật La Mã cổ đại và chế định thừa kế trong bộ luật Dân sự
Việt Nam được Quốc hội nước Cộng hịa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XI,
kì họp thứ 7 thơng qua ngày 14-6-2005 và có hiệu lực thi hành từ ngày 01-012006.
Về mặt nội dung, đề tài tập trung đi sâu nghiên cứu chế định thừa kế
trong đối sánh luật La Mã cổ đại và luật Dân sự Việt Nam. Chỉ ra được sự
giống và khác nhau trong qui định về thừa kế giữa hai luật, đồng thời thấy
được sự ảnh hưởng của luật thừa kế La Mã đối với các qui định về thừa kế ở

7


Việt Nam hiện tại và đặt ra một số vấn đề về khó khăn trong việc áp dụng chế
định thừa kế của Việt Nam trong thực tiễn đồng thời đưa ra hướng giải quyết
cần sửa đổi về thừa kế trong Dân sự Việt Nam.
4. Nguồn tư liệu và phương pháp nghiên cứu
4.1. Nguồn tư liệu
Đề tài được thực hiện dựa trên những nguồn tư liệu chủ yếu sau:
Các tác phẩm kinh điển của Chủ nghĩa Mác-Lênin, tác phẩm lý luận về
thừa kế, các Bộ luật Dân sự của Việt Nam, của Nhật Bản và đặc biệt là Bộ
luật Dân sự Pháp.
Các sách giáo trình, các cơng trình nghiên cứu là luận án Tiến sĩ, luận
văn Thạc sĩ, các cơng trình là khóa luận tốt nghiệp được lưu giữ tại Thư viện
Đại học Luật về thừa kế trong Dân sự Việt Nam.
Các giáo trình về luật La Mã do trường Đại học luật Hà Nội, Đại học
Cần Thơ viết, là những tài liệu lưu trữ, các tài liệu gốc của đề tài.
Một số báo chí chuyên ngành và báo điện tử.
Các cơng trình chun khảo viết về lịch sử lập pháp các nước, lịch sử
pháp luật thế giới... để sử dụng khai thác bối cảnh xã hội hình thành nên
các chế định pháp luật.

4.2. Phương pháp nghiên cứu
Để giải quyết những vấn đề mà đề tài đặt ra tác giả dựa vào Chủ nghĩa
duy vật lịch sử, tư tưởng Hồ Chí Minh, những quan điểm đường lối chính
sách của Đảng làm phương pháp luận cho việc nghiên cứu. Trên cơ sở đó so
sánh một cách chi tiết và hệ thống các qui định về thừa kế của pháp luật hai
quốc gia, xem xét sự ảnh hưởng của Luật La Mã trong mối quan hệ chặt chẽ
với nhau từ đó có cái nhìn khách quan chính xác về tầm ảnh hưởng của Luật

8


La Mã đối với nền pháp luật Việt Nam cũng như các hệ thống pháp luật trên
thế giới.
Phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, phương pháp logic lịch sử và phương pháp so sánh là phương pháp chủ yếu được sử dụng để
nghiên cứu vấn đề. Một số phương pháp nghiên cứu chuyên ngành khác như:
mô tả, liên hệ cũng được sử dụng trong công tác xử lý tài liệu, đảm bảo sự
chính xác, tính khoa học trong phân tích và lý giải sự ảnh hưởng của luật La
Mã.
5. Đóng góp của đề tài
5.1. Trên cơ sở những tư liệu tập hợp được, khoá luận so sánh được hầu
hết các qui định về thừa kế có trong luật La Mã, từ đó chỉ ra được những
nguyên nhân dẫn đến sự giống và khác nhau giữa hệ thống luật cổ của loài
người và luật pháp hiện tại của Việt Nam. Đây là một đóng góp quan trọng
của Khóa luận.
5.2. Bên cạnh đó, khóa luận góp phần làm rõ những hạn chế trong chế
định thừa kế của pháp luật Việt Nam trong quá trình tiến hành so sánh, đồng
thời chỉ ra những hướng giải quyết các hạn chế đó. Đóng góp khơng nhỏ vào
việc xây dựng và áp dụng pháp luật thừa kế trong thực tiễn Việt Nam
5.3. Khóa luận cịn rút ra một số nhận xét về mối liên hệ giữa pháp luật
La Mã cổ đại cũng như sự ảnh hưởng của nền luật pháp hình thành sớm nhất

trong lịch sử lồi người vẫn cịn ngun giá trị cho đến ngày nay. Đây cũng là
đóng góp có ý nghĩa quan trọng của Khóa luận.
5.4. Trong khn khổ đề tài, khóa luận đã tập hợp được nhiều cơng
trình có liên quan, sưu tầm được nhiều tài liệu, trong đó có nhiều tài liệu lần
đầu tiên được cơng bố. Khóa luận cịn là nguồn tài liệu tham khảo đáng tin
cậy trong học tập, tìm hiểu Luật Dân sự, chế định quyền thừa kế trong luật của
Việt Nam cũng như của luật La Mã...

9


6. Bố cục của đề tài
Khóa luận gồm 85 trang, với phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài
liệu tham khảo. Phần Nội dung Khóa luận gồm hai chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về chế định quyền thừa kế
Chương 2: Chế định thừa kế trong đối sánh giữa luật La Mã cổ đại –
luật Dân sự Việt Nam. Một số vướng mắc và đề xuất.

B. NỘI DUNG
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CHẾ ĐỊNH QUYỀN THỪA KẾ
1.2 Khái luận chung về quyền thừa kế
1.2.1 Khái niệm thừa kế
Là một thực thể trong xã hội, con người không thể tồn tại và phát
triển được nếu tách rời những cơ sở vật chất nhất định. Nói cách khác con
người khơng thể sống khi khơng có tài sản để thỏa mãn các nhu cầu thiết
yếu. Nếu tư liệu tiêu dùng là phương tiện sinh hoạt, tư liệu sản xuất là
phương tiện để thực hiện các hoạt động sản xuất kinh doanh thì tài sản nói
chung là phương tiện sống của con người. Khi sống con người khai thác

10



công dụng của tài sản để thỏa mãn nhu cầu của mình, khi chết, tài sản cịn
lại của họ được dịch chuyển cho người cịn sống. Q trình dịch chuyển đó
được gọi là thừa kế.
Hiểu một cách tổng quát nhất thì “thừa kế là việc dịch chuyển tài sản
của người đã chết cho người còn sống”. Về mặt ngữ nghĩa thì thừa kế là
thừa hưởng một cách kế tục, từ điển Tiếng Việt đã định nghĩa “Thừa kế là
hưởng của người chết để lại cho”. Về mặt nội dung thì thừa kế là quá trình
dịch chuyển di sản từ người chết cho người cịn sống.
Q trình dịch chuyển tài sản của người chết cho người cịn sống
được hình thành ở bất cứ xã hội nào và dĩ nhiên khi chưa hình thành nhà
nước và pháp luật, nó được thực hiện theo tập tục xã hội nên được gọi là
thừa kế. Ở thời kì sơ khai của xã hội lồi người, việc thừa kế nhằm dịch
chuyển tài sản của người chết cho những người còn sống được tiến hành
dựa trên quan hệ huyết thống và do những phong tục, tập quán riêng của
từng bộ lạc, thị tộc quyết định. Khi nhà nước xuất hiện, bằng pháp luật nhà
nước tác động đến q trình dịch chuyển tài sản nói trên, trong đó quyền để
lại tài sản cũng như quyền hưởng di sản của các chủ thể được nhà nước ghi
nhận và bảo đảm thực hiện bằng pháp luật.
Quan hệ thừa kế là một quan hệ pháp luật xuất hiện đồng thời với
quan hệ sở hữu và phát triển cùng với sự phát triển của xã hội loài người.
Mặt khác, quan hệ sở hữu là quan hệ giữa người với người về việc chiếm
hữu của cải vật chất trong xã hội, trong quá trình sản xuất lưu thơng, phân
phối của cải vật chất. Sự chiếm hữu vật chất này thể hiện giữa người này
với người khác, giữa tập đoàn người này với tập đồn người khác, đó là
tiền đề đầu tiên làm xuất hiện quan hệ thừa kế.
Trong xã hội cộng sản nguyên thuỷ, tuy là một nền sản xuất đơn giản
với công cụ lao động thô sơ, chủ yếu là hái lượm và săn bắn nhưng nền sản
xuất đó cũng nằm trong một hình thái kinh tế - xã hội nhất định. Các Mác

11


chỉ ra rằng: “bất cứ một nền sản xuất nào cũng là việc con người chiếm hữu
những đối tượng của tự nhiên trong phạm vi một hình thái kinh tế - xã hội
nhất định”. Và “nơi nào, khơng có một hình thái sở hữu nào cả thì nơi đó
khơng thể có sản xuất và do đó cũng khơng có một xã hội nào cả”. Do vậy
sở hữu cũng là một yếu tố khách quan xuất hiện ngay từ khi có xã hội loài
người và cùng với thừa kế, chúng phát triển cùng xã hội loài người.
Như vậy thừa kế là quan hệ xã hội về dịch chuyển tài sản của người
chết cho người cịn sống. Ở đâu có sở hữu thì ở đó có thừa kế. Bản chất của
quan hệ sở hữu quyết định quan hệ thừa kế. Mối liên hệ giữa thừa kế và sở
hữu được thể hiện rất rõ, vì “thừa kế là hưởng của người chết để lại cho”
nên thừa kế được hiểu là sự tiếp nối giữa việc để lại tài sản của người đã
chết với việc nhận di sản của người cịn sống, qua đó chúng ta thấy rằng,
thừa kế bao giờ cũng là hệ luận của quyền sở hữu, có sở hữu mới có thừa
kế.

1.1.2 Mối liên hệ giữa thừa kế và sở hữu
Thừa kế và sở hữu là hai phạm trù kinh tế tồn tại song song trong
mọi hình thái kinh tế xã hội. Trong phạm vi một chế độ xã hội, hai phạm
trù này gắn bó chặt chẽ với nhau, mỗi phạm trù là tiền đề cũng chính là hệ
quả đối với nhau. Nếu sở hữu là yếu tố đầu tiên để từ đó làm xuất hiện thừa
kế thì đến lượt mình, thừa kế lại là phương tiện để duy trì, củng cố và xác
định quan hệ sở hữu. Với tư cách là hệ luận của vấn đề sở hữu, thừa kế xuất
hiện trong xã hội loài người như một hiện tượng tất yếu. Nếu quan hệ sở
hữu cho thấy tài sản trong xã hội thuộc về ai thì thừa kế phản ánh q trình
dịch chuyển tài sản của người đó ra sao khi họ chết.

12



Với mối quan hệ biện chứng giữa thừa kế và sở hữu, chúng ta thấy
rằng khi nào xuất hiện vấn đề sở hữu thì khi đó đồng thời xuất hiện vấn đề
thừa kế. Bất cứ chế độ xã hội nào cũng đều phải tồn tại trên một cơ sở kinh
tế nhất định, nghĩa là sự tồn tại của xã hội bao giờ cũng phải dựa trên một
chế độ sở hữu. Vì vậy sở hữu là một quan hệ tất yếu đối với sản xuất do đó
cũng là quan hệ tất yếu đối với mọi xã hội. Trong một tác phẩm của mình
Các Mác đã chỉ ra rằng: “Bất cứ nền sản xuất nào cũng là việc con người
chiếm hữu những đối tượng của tự nhiên trong một phạm vi, một hình thái
xã hội nhất định và thơng qua hình thái đó nơi nào khơng có một hình thái
sở hữu nào cả thì nơi đó khơng thể có sản xuất và do đó cũng khơng có một
xã hội nào cả”.
Quan hệ sở hữu luôn mang một nội dung kinh tế. Trong một xã hội
nhất định, quan hệ sở hữu phản ánh mối quan hệ giữa các cá nhân với nhau,
giữa tập đoàn này với tập đoàn khác, giữa giai cấp này với giai cấp khác về
việc nắm giữ các tư liệu sản xuất và các vật phẩm tiêu dùng.
Như vậy có thể thấy rằng, ngay từ chế độ cộng sản nguyên thủy đã
hình thành vấn đề thừa kế. Sự phát triển của kinh tế xã hội làm cho các
quan hệ sở hữu thay đổi kéo theo sự thay đổi bản chất về thừa kế. Vì vậy có
thể nói rằng thừa kế là một hiện tượng xã hội tất yếu xuất hiện đồng thời
với quan hệ sở hữu mà nội dung kinh tế của nó chính là sự phản ánh q
trình dịch chuyển tài sản từ những người đã chết sang những người cịn
sống khác.
1.2.4 Khái niệm quyền thừa kế
Trong tiến trình phát triển của xã hội loài người, sự xuất hiện của
chế độ hơn nhân với hình thái gia đình đối ngẫu làm cho kinh tế gia đình
trở thành một đơn vị kinh tế độc lập trong thị tộc khơng cịn phụ thuộc vào
thị tộc và cuối cùng làm tan rã thị tộc. Ở thời kì này gia đình phát triển sang
một hình thức mới hơn (Ănghen gọi là trung gian trong bước chuyển từ chế

13


độ hôn nhân đối ngẫu sang chế độ hôn nhân một vợ một chồng), trong đó
quyền lực thuộc về người chồng, với tư cách là gia trưởng nên tất cả tài sản
trong gia đình thuộc sở hữu của người chồng, và sở hữu của “gia đình riêng
rẽ... đánh một địn rất mạnh vào xã hội”.
Xét rộng ra, do sự phân cơng lao động, ở thời kì này xã hội có
nhiều biến đổi sâu sắc. Cùng với sự phân công lao động xã hội, chăn nuôi
và trồng trọt ngày càng phát triển, năng suất lao động ngày một nâng cao
đã xuất hiện sự dư thừa sản phẩm. Q trình phân hóa của cải trong xã hội
được hình thành và dẫn đến sự phân biệt kẻ giàu với người nghèo trong xã
hội. Những người có quyền hành trong thị tộc, bộ lạc tìm mọi thủ đoạn để
chiếm hữu số của cải dư thừa đó làm của riêng. Chế độ tư hữu xuất hiện và
từ đó chế độ thị tộc, chế độ cộng sản nguyên thủy dần dần bị phá vỡ và
hoàn toàn tan rã nhường chỗ cho một chế độ xã hội mà trong đó có sự phân
hóa giai cấp.
Nếu trước đây tổ chức thị tộc đã sinh ra từ một xã hội khơng biết
đến mâu thuẫn nội tại, trong đó mọi thành viên xã hội hầu như hồn tồn
“hịa tan” vào cuộc sống cộng đồng thì xã hội mới ra đời đã có sự phân chia
giai cấp trong đó các giai cấp có quyền lợi đối lập nhau, “ln ln mâu
thuẫn và đấu tranh gay gắt với nhau để bảo vệ lợi ích của giai cấp mình”.
Trước bối cảnh đó, dĩ nhiên tổ chức thị tộc trở thành bất lực trước xã hội,
không thể phù hợp được nữa. Lúc này xã hội đó địi hỏi phải có một tổ
chức để dập tắt các cuộc xung đột giai cấp ấy, hoặc cùng lắm là để cuộc
đấu tranh diễn ra trong lĩnh vực kinh tế dưới một hình thức hợp pháp. Tổ
chức đó là nhà nước và nhà nước đã xuất hiện.
Từ khi nhà nước xuất hiện, bằng pháp luật nhà nước tác động đến
q trình dịch chuyển tài sản, trong đó quyền để lại tài sản cũng như quyền
hưởng di sản của các chủ thể được nhà nước ghi nhận và bảo đảm thực hiện

bằng pháp luật nên từ đó, q trình dịch chuyển di sản được gọi là quyền

14


thừa kế. Nói cách khác, khái niệm quyền thừa kế là một phạm trù pháp lý
mà nội dung của nó là xác định phạm vi các quyền, các nghĩa vụ của các
chủ thể trong lĩnh vực thừa kế. Quyền thừa kế chỉ xuất hiện trong xã hội đã
có nhà nước. Bên cạnh nội dung kinh tế, quyền thừa kế còn bao hàm ý chí
của nhà nước. Nghĩa là việc dịch chuyển tài sản của người đã chết cho
người còn sống phải hoàn toàn tuân thủ vào sự qui định của pháp luật.
Như vậy nếu thừa kế xuất hiện ngay cả khi xã hội chưa phân chia
giai cấp, chưa có nhà nước và pháp luật thì khái niệm quyền thừa kế chỉ ra
đời và tồn tại trong những xã hội có phân chia giai cấp và có nhà nước. Tuy
nhiên mỗi một chế độ xã hội khác nhau thì qui định về thừa kế cũng khác
nhau, thậm chí trong một chế độ xã hội nhưng ở những giai đoạn khác nhau
cũng có những qui định khác nhau. Điều đó có thể hiểu rằng chế độ thừa kế
phụ thuộc vào từng giai đoạn phát triển kinh tế, xã hội của mỗi nước và đặc
biệt do chế độ sở hữu quyết định. Vì vậy trong mỗi chế độ xã hội, chế độ
thừa kế tồn tại tương ứng với chế độ sở hữu.
Tất cả sự qui định của nhà nước nhằm tác động, điều chỉnh quá
trình dịch chuyển tài sản từ một người chết sang người cịn sống sẽ hình
thành khái niệm quyền thừa kế theo nghĩa khách quan của nó. Quyền thừa
kế là một chế định của ngành luật Dân sự bao gồm tổng hợp các qui phạm
pháp luật do nhà nước đặt ra nhằm điều chỉnh q trình dịch chuyển những
lợi ích vật chất từ người chết sang những người còn sống khác.
Việc ghi nhận và xác định các quyền, nghĩa vụ nói trên khơng phải
hồn tồn do ý chí chủ quan tuyệt đối của giai cấp lãnh đạo xã hội, dù rằng
pháp luật là ý chí của giai cấp đó. Pháp luật của bất kì nhà nước nào cũng
phải xuất phát từ cơ sở kinh tế phù hợp với thực tế khách quan và do cơ sở

kinh tế của xã hội quyết định. Khi chế độ kinh tế thay đổi tương ứng trong
sự qui định của pháp luật. Vì vậy, dẫu rằng pháp luật là ý chí của nhà nước
nhưng nó vẫn mang tính khách quan. Như vậy, khi xem xét quyền thừa kế

15


dưới góc độ một chế định pháp luật thì có nghĩa là xem xét, nhìn nhận ở
phương diện khách quan.
Ngồi ra, quyền thừa kế còn được xem xét ở một phương diện
khác, phương diện chủ quan. Theo phương diện này, quyền thừa kế là
quyền năng cụ thể của mỗi một cá nhân trong việc để lại thừa kế và nhận di
sản thừa kế, đó là những khả năng mà các chủ thể được phép xử sự theo qui
định của pháp luật, được để lại thừa kế như thế nào, việc lập di chúc phải
tuân thủ những yêu cầu gì, ai là người được nhận di sản thừa kế, khi nào thì
bị tước quyền hưởng di sản, người lập di chúc có những quyền năng gì...
Trong thừa kế các chủ thể chủ động hiện thực hóa những quyền năng mà
pháp luật qui định để biến các quyền đó thành những quyền dân sự cụ thể,
qua đó đáp ứng nhu cầu và thực hiện lợi ích cho chính mình.
Vì vậy quyền thừa kế theo phương diện khách quan (pháp luật) là
điều kiện tiên quyết với quyền thừa kế ở phương diện chủ quan. Nghĩa là
cá nhân (chủ thể) có được những quyền gì, phải gánh vác những nghĩa vụ
gì trong lĩnh vực thừa kế trước hết là do pháp luật qui định.

1.1.4 Mối quan hệ giữa quyền thừa kế và quyền sở hữu
Như đã phân tích ở trên các quan hệ sở hữu cũng như thừa kế lúc
đầu tồn tại một cách khách quan với ý nghĩa là một phạm trù kinh tế nhưng
khi chúng tồn tại trong một xã hội đã có nhà nước thì trong những quan hệ
ấy, các chủ thể đã bị ràng buộc bởi các qui phạm pháp luật, ý chí của nhà
nước đã tác động đến chúng thông qua pháp luật. Nếu sở hữu và thừa kế là

hai vấn đề liên quan mật thiết với nhau song song tồn tại bên nhau thì
quyền sở hữu với quyền thừa kế cũng có mối quan hệ hết sức mật thiết với
nhau.

16


Từ chỗ pháp luật qui định chế độ sở hữu về tài sản của cá nhân và
theo đó, cá nhân có được các quyền năng đối với các tài sản của mình dựa
theo đó pháp luật qui định cho họ những quyền năng trong lĩnh vực thừa
kế. Hay nói cách khác, pháp luật về sở hữu là cơ sở cho việc ban hành các
văn bản pháp luật về thừa kế. Vì vậy, quyền thừa kế ln mang một bản
chất giai cấp sâu sắc, ln mang phương tiện để duy trì củng cố quyền sở
hữu ở những xã hội mà chính bản thân nó đang tồn tại. Nghĩa là, với một
chế độ xã hội khác nhau, thông qua pháp luật, nhà nước qui định một chế
định thừa kế, coi đó là một phương tiện để bảo vệ quyền lợi cho các cá
nhân cũng như quyền lợi của giai cấp lãnh đạo xã hội.
Bản thân thừa kế không tạo nên quyền thống trị cho giai cấp thống
trị. Thừa kế không sáng tạo ra khả năng chuyển thành quả lao động từ một
người này sang túi người khác, thừa kế quan hệ đến sự thay đổi những
người có khả năng đó. Tuy nhiên thừa kế là một phương tiện để duy trì
quyền thống trị. Ở các nhà nước mà cơ sở kinh tế dựa trên chế độ tư hữu về
nguồn tư liệu sản xuất thì pháp luật thừa kế là một trong những công cụ
pháp lý quan trọng mà giai cấp thống trị dùng để duy trì và củng cố địa vị
thống trị của mình.
Chẳng hạn trong nhà nước chủ nơ, quyền để lại thừa kế về nô lệ,
quyền nhận thừa kế về nô lệ của những người trong giai cấp chủ nô là việc
dịch chuyển lại sự sở hữu của những người trong giai cấp này đối với
“những cơng cụ biết nói” và cũng chính là truyền lại quyền lực về chính trị
để duy trì sự áp bức bóc lột của giai cấp chủ nô đối với nô lệ.

Trong chế độ phong kiến và tư bản, những giai cấp bóc lột chiếm
hữu tư liệu sản xuất chủ yếu của xã hội; di sản của họ để lại cho con cháu
không những chỉ là truyền lại quyền lực về kinh tế, mà còn là sự truyền lại
quyền lực về chính trị để duy trì sự áp bức bóc lột của những giai cấp đó
với nhân dân lao động. Trong xã hội có các chế độ sở hữu khác nhau thừa

17


kế là một trong những phương thức để củng cố và phát triển chế độ sở hữu
đó.
Tương tự như vậy, ở kiểu nhà nước tư sản giai cấp bóc lột sở hữu
những tư liệu sản xuất chủ yếu của xã hội thì di sản họ để lại cho con cháu
cũng là những tài sản ấy. Và vì thế thừa kế là việc thay đổi kẻ thống trị này
bằng một kẻ thống trị khác trong cùng một giai cấp.
1.3 Quyền thừa kế trong pháp luật một số nước
1.2.1 Quyền thừa kế trong pháp luật Việt Nam
Thừa kế với chức năng bảo đảm sự tiếp nối giữa thế hệ sau đối với
thế hệ trước, bảo vệ lợi ích nhà nước, giai cấp thống trị gắn với tính huyết
thống, quan hệ gia đình. Nhà nước Việt Nam qui định quyền thừa kế của
công dân thơng qua một số khía cạnh sau:
Theo nghĩa rộng, quyền thừa kế là pháp luật về thừa kế là tổng hợp
các qui phạm pháp luật qui định trình tự dịch chuyển tài sản của người chết
cho những người còn sống. Thừa kế là một chế định pháp luật dân sự, là
tổng hợp các qui phạm pháp luật điều chỉnh việc dịch chuyển tài sản của
người chết cho người khác theo di chúc hoặc theo một trình tự nhất định
đồng thời qui định phạm vi quyền và nghĩa vụ và phương thức bảo vệ các
quyền và nghĩa vụ của người thừa kế.
Quyền thừa kế hiểu theo nghĩa chủ quan là quyền của người để lại di
sản và quyền của người nhận di sản. Quyền chủ quan này phải phù hợp với

các qui định của pháp luật nói chung và pháp luật thừa kế nói riêng.
Thừa kế với tư cách là một quan hệ pháp luật Dân sự trong đó các
chủ thể có các quyền và nghĩa vụ nhất định. Trong quan hệ này, người có
tài sản, trước khi chết có quyền định đoạt tài sản của mình cho người khác.
Những người có quyền nhận di sản họ có thể nhận hoặc khơng nhận di sản
(trừ trường hợp pháp luật có qui định khác). Đối tượng của thừa kế là các

18


tài sản, quyền tài sản thuộc quyền của người chết đã để lại (trong một số
trường hợp người để lại tài sản có thể chỉ là hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài
sản). Tuy nhiên, một số quyền tài sản gắn liền với nhân thân người đã chết
không thể chuyển cho người thừa kế (như tiền cấp dưỡng...) vì pháp luật
qui định chỉ người đó mới có quyền được hưởng.
Sự kế thừa, tiếp nối từ thế hệ này sang thế hệ khác là qui luật khách
quan, nhưng các quan hệ thừa kế ở mỗi chế độ được giải quyết như thế nào
là do con người quyết định, do ý thức chủ quan. Quyền sở hữu cá nhân là
cơ sở khách quan của việc thừa kế. Vì vậy quyền thừa kế trong điều kiện
của nước ta hiện nay được thể hiện như một phương tiện để củng cố sở hữu
của công dân, củng cố quan hệ hôn nhân và gia đình; bảo vệ lợi ích của
người chưa thành niên hoặc đã thành niên nhưng khơng có khả năng lao
động.
Pháp luật của nhà nước ta bảo vệ những lợi ích cơ bản của mỗi người
lao động trên cơ sở bảo vệ lợi ích của nhà nước, lợi ích chung của tồn xã
hội, góp phần xố bỏ những tàn tích của chế độ thừa kế do xã hội thực dân
phong kiến để lại, tạo môi trường pháp lý thuận lợi, làm cho nhân dân lao
động sản xuất tạo ra nhiều của cải vật chất cho xã hội. Quyền thừa kế xuất
phát từ quan điểm coi gia đình là tế bào xã hội, phải bảo đảm quyền lợi ích
chính đáng của mọi thành viên và sự ổn định của từng gia đình. Mặt khác

thông qua quyền thừa kế, giáo dục tinh thần trách nhiệm của mỗi thành
viên đối với gia đình. Do đó xác định diện những người thừa kế cũng như
phương thức chia di sản thừa kế trong pháp luật về thừa kế có ý nghĩa quan
trọng trọng việc thực hiện các chức năng, vai trị xã hội của nó. Phần 4 Bộ
luật Dân sự gồm 57 Điều từ Điều 631 đến Điều 687 qui định về thừa kế.
Quyền thừa kế là tổng hợp các qui phạm pháp luật do nhà nước ban
hành qui định các điều kiện, trình tự dịch chuyển những tài sản của người
đã chết cho những người còn sống. Quyền sở hữu và quyền thừa kế là

19


những phạm trù pháp lý song song tồn tại trong cùng một hình thái kinh tế
- xã hội nhất định. Chúng có mối liên hệ mật thiết và chặt chẽ, từ chỗ pháp
luật qui định cho cơng dân có quyền sở hữu tài sản pháp luật cũng qui định
cho công dân có quyền năng trong quan hệ thừa kế.
Trong chế độ xã hội chủ nghĩa một chế độ dựa trên nền tảng cơng
hữu hố tư liệu sản xuất, chủ yếu như đất đai, rừng núi, sông hồ... nhà nước
là người đại diện cho nhân dân nắm giữ những tư liệu sản xuất chủ yếu để
phục vụ cho nhu cầu phát triển kinh tế của đất nước và bảo vệ an ninh quốc
phòng. Quyền thừa kế là quyền thừa hưởng các quyền và lợi ích hợp pháp
mà nhà nước cho phép chuyển dịch. Đối tượng của thừa kế là những tư liệu
sản xuất, tư liệu tiêu dùng như: Nhà máy, cổ phần và các máy móc phục vụ
cho sản xuất cơng, nơng nghiệp...
Cơng dân có quyền để lại thừa kế những tài sản thuộc quyền sở hữu
của mình cho người khác, Nhà nước không hạn chế quyền để lại thừa kế và
quyền nhận thừa kế của công dân (trừ trường hợp vi phạm Điều 643 Bộ
luật Dân sự). Mặt khác Nhà nước khuyến khích cơng dân bằng sức lao
động của mình tạo ra nhiều của cải cho xã hội, làm giàu cho gia đình, là
cho đất nước văn minh và phồn thịnh.

Tóm lại quyền thừa kế gắn liền với quyền sở hữu, có quyền sở hữu
thì tất yếu xuất hiện quyền thừa kế và nếu khơng có quyền sở hữu thì cũng
khơng có quyền thừa kế. Trừ trường hợp thừa kế quyền sử dụng đất là
không gắn với quyền sở hữu đất, bởi đất đai là sở hữu toàn dân theo qui
định tại điều 18 Hiến pháp Việt Nam năm 1992.
1.2.2 Quyền thừa kế trong pháp luật La Mã
1.2.2.1 Cơ sở hình thành luật La Mã
La Mã là một quốc gia hình thành vào thế kỉ thứ VII trước cơng
ngun và tồn tại đến thế kỉ thứ VII sau công nguyên. Theo truyền thuyết

20


về sự hình thành luật La Mã, thì ban đầu sự nghiệp của một số thị tộc La
Tinh và cứ 100 thị tộc liên hợp thành một bộ lạc. Sau đó bộ lạc Xabelian
sáp nhập vào (khoảng 100 thị tộc). Bộ lạc thứ ba bao gồm những phần tử
khác nhau cũng tương ứng với 100 thị tộc. Do vậy, 300 thị tộc ban đầu đã
thành lập được ba bộ lạc. Và theo cơ cấu cứ 10 thị tộc lập thành một bào
tộc, và 10 bào tộc (curia) lập thành một bộ lạc (Tơri).
Thị tộc của người La Mã ở những thời kì đầu của thành La Mã đã
tồn tại chế độ tài sản chung của thị tộc, các thành viên trong thị tộc đều có
quyền thừa kế của nhau, chế độ phụ quyền đã hình thành. Con cháu thuộc
nữ hệ đã mất quyền thừa kế. Sự phân hóa xã hội sâu sắc vào thế kỉ VI TCN
thông qua cuộc cải cách của vua Xer-vi-tu-li. Theo vị vua này, cơ cấu công
xã La Mã theo nguyên tắc tài sản, lãnh thổ. Tầng lớp q tộc và bình dân
vẫn sống trong cùng một công xã. Xã hội thị tộc của người La Mã được
quản lý bằng ba cơ quan gồm: Viện nguyên lão, Đại hội nhân dân, và “vua”
(Rex).
Lãnh thổ La Mã ngày càng được mở rộng do các cuộc chiến tranh
xâm lược mà dân cư được tăng lên. Dân La mã còn do người ở nơi khác di

cư đến, cư dân của các vùng bị chinh phục phần nhiều là các miền La tinh.
Tất cả những thần dân mới này của nhà nước La Mã đều ngoài các thị tộc,
bào tộc và bộ lạc cũ. Họ không thuộc Populus Romanus (dân La Mã chính
thống). Họ có ruộng đất, tự do thân thể, phải nộp thuế, phải đi lính nhưng
họ khơng có chức vụ, không được tham gia các hội nghị nhân dân (đại hội
của các bào tộc), không được chia đất đai do nhà nước chiếm được, họ là
tầng lớp bình dân (plebs). Vào thời vua Xer-vi-tu-li và theo vị vua này thì
tất cả đàn ơng có nghĩa vụ cầm vũ khí, xã hội La Mã được chia thành 6
đẳng cấp tùy thuộc số tài sản của họ.
Đẳng cấp thứ nhất gồm những người có mức tài sản trên 100.000
đồng axơ (axơ làm bằng đồng có khối lượng 327,5 gam, và được viết tắt là

21


AS); Đẳng cấp thứ hai là những người có từ 75.000 axơ đến dưới 100.000
axơ; Đẳng cấp thứ ba gồm những người có từ 50.000 axơ đến dưới 75.000
axơ; Đẳng cấp thứ tư gồm những người có từ 25.000 axơ đến dưới 50.000
axơ; Đẳng cấp thứ năm gồm những người có từ 11.500 axơ đến dưới
25.000 axơ; cịn đẳng cấp thứ sáu là những người đàn ơng ít của cải nhất
được miễn làm nghĩa vụ quân sự và miễn đóng thuế.
Sự phân chia đẳng cấp tạo điều kiện cho những người giàu có chiếm
được đa số phiếu trong đại hội nhân dân. Đại hội nhân dân là đại hội các
Centurie (Comitia Centuriata), thì những người cơng dân đều đứng theo
biên chế nhà binh thành từng đội vào các Centurie, mỗi Centurie có khoảng
100 người và là một đơn vị có quyền biểu quyết. Số lượng Centurie được
phân bổ đẳng cấp. Đẳng cấp thứ nhất cung cấp 80 centurie; đẳng cấp thứ
hai cung cấp 22 centurie, đẳng cấp thứ ba cung cấp 30 centurie và đẳng cấp
thứ sáu cung cấp centurie của mình để giữ thể diện. Các kị sĩ gồm các cơng
dân giàu có cung cấp 18 centurie, vậy tổng centurie là 193, số phiếu quá

bán phải là 97. Nhưng sự mất bình đẳng trong quá trình bầu cử đã xảy ra,
tính dân chủ chỉ là giả hiệu vì theo số lượng centurie đã là 98 phiếu. Do vậy
có thể nói đại hội nhân dân chỉ nhằm tạo quyền lực dựa trên tính chất của
dân chủ giả hiệu và những người giàu có trong xã hội ln chiếm được đa
số phiếu trong đại hội nhân dân.
Nhà nước La Mã cổ đại tồn tại vào khoảng những năm 616 - 615
trước công nguyên đến 578 – 577 trước công nguyên. Chỉ đến khi trục xuất
được vua thứ bảy là Tarvinha kiêu ngạo, kẻ đã tiếm đoạt vương quyền thực
sự và khi vua bị thay bằng hai thủ lĩnh quân sự là quan chấp chính cùng có
quyền lực giống nhau thì chế độ mới hình thành và phát triển. Rơma trở
thành chế độ cộng hịa vào năm 510 – 509 trước cơng nguyên. Bản chất của
nhà nước cộng hòa La Mã là cộng hịa chiếm hữu nơ lệ.

22


Như vậy có thể thấy rằng Đại hội nhân dân trong chế độ cộng hịa
chiếm hữu nơ lệ ở La Mã là đại hội của tầng lớp quí tộc. Lịch sử cộng hịa
chiếm hữu nơ lệ La Mã là những cuộc đấu tranh gay gắt giữa tầng lớp quí
tộc và tầng lớp bình dân xung quanh quyền lợi chính trị và ruộng đất. Mâu
thuẫn giữa bốn bộ lạc khu vực ở Rơma với các đồn thể tư nhân và tơn
giáo, các tầng lớp bình dân trong xã hội đã khơng thể dàn hịa và có nhiều
nguy cơ xảy ra những xung đột giai tầng trong xã hội ngày càng cao hơn.
Vào giữa thế kỉ thứ V, tầng lớp bình dân ở La Mã đã bỏ nơi cư trú để đi tìm
những vùng đất khác nhằm tránh sự o ép của tầng lớp quí tộc. Những cuộc
di dân lớn đã diễn ra. Nhà nước La Mã đã đứng trước nguy cơ bị suy yếu vì
lực lượng trong quân đội chủ yếu được tuyển lựa từ tầng lớp bình dân.
Để ngăn chặn tình hình mất ổn định trong quan hệ xã hội ở nhà nước
La Mã, vào năm 450 trước công nguyên Đại hội nhân dân đã được triệu tập
lần thứ hai tại Aventille (Aventinus). Các thành viên của đại hội yêu cầu

viết luật thành văn thay vì từ trước vẫn sử dụng tập quán của người La Mã
để giải quyết những tranh chấp trong xã hội. Do nguyên nhân trên, một ủy
ban đặc trách đã được đại hội nhân dân thành lập với nhiệm vụ soạn thảo ra
các điều luật ở hình thức văn bản. Ủy ban đặc trách pháp luật gồm 10
người (Desemvir), gồm 5 người đại diện cho tầng lớp bình dân và 5 người
đại diện cho tầng lớp quí tộc.
Ủy ban này đã soạn thảo ra các điều luật được hợp thành 12 bảng và
phổ biến công khai tới từng người dân La Mã được biết. Luật XII Bảng ra
đời như một sự đòi hỏi và nhu cầu của xã hội La Mã, nhằm giải quyết kịp
thời những tranh chấp, mâu thuẫn trong xã hội La Mã thời kì đó. Đồng thời
cũng như một giải pháp kịp thời làm giảm bớt những xung đột về lợi ích
giữa các giai tầng của Nhà nước La Mã. Luật La Mã thực sự là cơng cụ bảo
vệ mọi quyền, lợi ích của tất cả mọi người sống ở La Mã có quốc tịch La
Mã trong suốt quá trình tồn tại và phát triển của nhà nước La Mã.

23


Luật XII bảng là công cụ hữu hiệu bảo vệ các quyền về tài sản, về
nhân thân của công dân La Mã. Luật XII bảng của nhà nước La Mã là kết
quả của hệ thống q trình chuyển hóa các tập quán, các qui ước, các thói
quen của người La Mã lên thành các ngun tắc có tính hệ thống bắt buộc
đối với mọi công dân La Mã trong các quan hệ phù hợp với những nguyên
tắc của pháp luật.
Các tập quán của người La Mã tồn tại trong xã hội La Mã là tập quán
về chiếm hữu sử dụng đất đai và nơ lệ. Gia đình La Mã được hình thành
theo đúng nghĩa của từ này và là hệ quả của sự tan rã tổ chức công xã - thị
tộc trước đó. Gia đình La Mã như một đơn vị nhỏ trong quan hệ về đất đai
về chiếm hữu nô lệ và về các tài sản khác. Do vậy luật XII ra đời như một
nhu cầu của xã hội La Mã và nó là chuẩn mực pháp luật buộc mọi công dân

La Mã phải tuân theo và được bảo vệ theo đúng nội dung của nó đã được
ủy ban soạn thảo luật XII công bố.
Hệ thống những nguyên tắc xử sự giữa người với nhau trong quan hệ
xã hội của chế độ tư hữu La Mã - chế độ chiếm hữu nô lệ đã là một chuẩn
mực để đánh giá công bằng hay không công bằng trong một quan hệ nhất
định. Cũng như mọi chế độ, luật La Mã luôn mang bản chất của giai cấp
thống trị và bảo vệ lợi ích của tầng lớp giàu có trong xã hội. Nguyên tắc
công bằng này chỉ được áp dụng mang tính tương đối mà thơi: Khái niệm
“cơng lý”, “đúng”, “hợp lý” mà trên thực tế con người hay sử dụng trong
khi tự giải quyết những tranh chấp được nhắc tới như một đức tin. Tuy
nhiên tổng hợp các qui phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội phát
sinh trong thời La Mã đã phản ánh một xã hội tư hữu tiến bộ, văn minh vào
bậc nhất so với quốc gia khác tồn tại cùng thời.
1.2.2.2 Khái quát về quyền thừa kế
Thừa kế là việc dịch chuyển tài sản của người đã chết cho một hoặc
nhiều người còn sống. Thừa kế cũng như chiếm hữu xuất hiện trước khi có
24


nhà nước và pháp luật nhưng quyền thừa kế và quyền sở hữu xuất hiện
cùng với sự ra đời của nhà nước chiếm hữu nô lệ.
Quyền thừa kế là quyền hưởng di sản của người chết theo di chúc
hoặc theo pháp luật. Người thừa kế có quyền hưởng tồn bộ hoặc một phần
di sản của người chết (trong trường hợp có nhiều người thừa kế). Trong
quan hệ thừa kế, người được hưởng di sản thừa kế (người thừa kế) đồng
thời phải gánh chịu các nghĩa vụ của người chết chưa thực hiện. Tuy nhiên
pháp luật qui định một số trường hợp quyền tài sản của người chết được
chuyển cho người khác cịn nghĩa vụ khơng chuyển (như di tặng). Luật La
Mã qui định có hai hình thức thừa kế: theo di chúc và theo pháp luật.
Thừa kế theo di chúc được thực hiện trong trường hợp người chết để

lại di chúc hợp pháp. Thừa kế theo pháp luật được thực hiện khi người chết
không lập di chúc, di chúc bị vơ hiệu hoặc có di chúc nhưng người được
chỉ định trong di chúc không nhận di sản.
Đặc trưng của luật La Mã khơng kết hợp hai hình thức thừa kế cùng
một lúc. Có nghĩa là nếu có thừa kế theo di chúc thì khơng có thừa kế theo
pháp luật và ngược lại. Pháp luật không cho phép một phần di sản chia theo di
chúc, một phần khác chia theo pháp luật. Theo pháp luật La Mã thời điểm mở
thừa kế là thời điểm người có tài sản chết - sự kiện chết của người có tài sản
được xác định là chết về mặt sinh học. Những người thừa kế theo di chúc
được hưởng những kỉ phần được xác định trong di chúc. Những người thừa kế
theo pháp luật được hưởng kỷ phần bằng nhau. Theo tỷ lệ di sản mà mỗi
người thừa kế được hưởng họ phải gánh chịu phần nghĩa vụ của người chết
tương ứng.
Trong thời kỳ cộng hòa sự phát triển của các quan hệ sản xuất làm
cho các quan hệ gia đình gắn liền với các quan hệ sở hữu, các thành viên
trong gia đình được pháp luật qui định cho hưởng nhiều quyền lợi hơn các
thời kỳ trước đó. Các thành viên trong gia đình có các quyền lợi chung, do
25


×