Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

một số biện pháp giúp học sinh yêu thích môn thể dục ở trường tiểu học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (4.32 MB, 17 trang )

1


Hương Toàn, ngày 10 tháng 2 năm 2019

BÁO CÁO
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
Đề nghị công nhận danh hiệu: Chiến sĩ thi đua cơ sở
Họ và tên: ĐỖ ĐÌNH QUỐC PHONG. Bí danh: …… Nam/Nữ: Nam
Trình độ chuyên môn: ĐHSP GDTC
Chức vụ hiên nay: Giáo viên – Tổ phó tổ Đặc Thù
Đơn vị công tác: Trường tiểu học số 2 Hương Toàn
Tên đề tài sáng kiến:
MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIÚP HỌC SINH YÊU THÍCH MÔN THỂ DỤC
TẠI TRƯỜNG TIỂU HỌC SỐ 2 HƯƠNG TOÀN

1. Lý do chọn đề tài:
- Trong sự nghiệp giáo dục và đào tạo, Đảng và nhà nước ta luôn quan
tâm đến mục tiêu giáo dục toàn diện cho học sinh, trong đó trí dục, đức dục và
thể dục được coi là mặt quan trọng nhằm tạo cơ hội cho mỗi người có khả năng
phát triển cao về trí tuệ, cường tráng về thể chất, phong phú về tinh thần, trong
sáng về đạo đức.
- Ngày 27/03/1946 Bác Hồ đã ra lời kêu gọi toàn dân tập thể dục: “ Giữ
gìn dân chủ, xây dựng nước nhà, gây đời sống mới, việc gì cũng cần có sức khoẻ
mới thành công. Một người dân yếu ớt tức làm cho cả nước yếu ớt, một người
dân mạnh khoẻ tức làm cho cả nước khoẻ mạnh …” và vì thế: “ Luyện tập thể
dục, bồi bổ sức khoẻ là bổn phận của người dân yêu nước” Bác Hồ đã khẳng
định mục đích của rèn luyện sức khoẻ dưới chế độ mới, để xây dựng một xã hội
văn minh. Mục đích của giáo dục thể chất là phát triển toàn diện thế hệ trẻ Việt
Nam.
- Giáo dục thể chất nói chung và môn thể dục trong nhà trường nói riêng,


thể chất giữ vai trò quan trọng trong việc giáo dục toàn diện. Thể dục là một
biện pháp tích cực tác động nhiều tới sức khỏe học sinh, nhằm cung cấp cho học
sinh những kiến thức, kỹ năng vận động cơ bản, làm cơ sở cho học sinh để rèn
luyện thân thể, bồi dưỡng đạo đức và tác phong con người mới.
- Ở học sinh phổ thông nói chung và học sinh tiểu học nói riêng, tính vui
tươi hồn nhiên, hiếu động là không thể thiếu ở các em. Vì vậy trong môn thể dục
không nên theo khuynh hướng thể dục đơn thuần, máy móc, gây sự mệt mỏi,
căn thẳng, nhàm chán dẫn đến phản tác dụng trong môn học. Cần phải tạo nên
sự hứng thú, giúp các em ham thích, tập luyện tốt hơn. Mặc khác, có nhiều đối
tượng học sinh khác nhau, có em có sức khỏe tốt, có em có sức khỏe yếu, có em
bị khuyết tật…Vậy phải làm thế nào để các em này cùng được tập luyện. Phải
dùng biện pháp nào?

2


- Với suy nghĩ và phương pháp đặc ra như vậy, tôi quyết định lựa chọn đề
tài: “Một số biện pháp giúp học sinh yêu thích môn thể dục tại trường tiểu
học số 2 Hương Toàn”.

3


2. Giải quyết vấn đề:
2.1. Những vấn đề lý luận chung:
Thuật ngữ Giáo dục thể chất có từ lâu trong ngôn ngữ nhiều nước.
Riêng ở nước ta, do bắt nguồn từ gốc Hán - Việt nên cũng có người gọi tắt giáo
dục thể chất là thể dục theo nghĩa hẹp.Vì theo nghĩa rộng của từ Hán - Việt cũ,
thể dục còn có nghĩa là TDTT.
Thông thường, người ta coi giáo dục thể chất là một bộ phận của TDTT.

Nhưng chính xác hơn, đó còn là một trong những hình thức hoạt động cơ bản có
định hướng rõ của TDTT trong xã hội, một quá trình có tổ chức để truyền thụ và
tiếp thu những giá trị của TDTT trong hệ thống giáo dục - giáo dưỡng chung
(chủ yếu trong các nhà trường).
Mặt khác, phạm trù, lĩnh vực chung hơn, tập hợp lớn hơn, bao gồm cả
giáo dục thể chất, lại là giáo dục theo nghĩa rộng của từ này. Cũng như các hình
thức giáo dục khác, thì giáo dục thể chất theo đặc trưng chung, cũng là một quá
trình giáo dục với đầy đủ những dấu hiệu chung của nó (vai trò chủ đạo của nhà
giáo dục trong quá trình dạy học, tổ chức hoạt động theo những nguyên tắc sư
phạm...)
Giáo dục thể chất là một bộ phận của nên giáo dục xã hội chủ nghĩa, nó
tổng hợp các phương tiện, phương pháp nhằm giúp con người phát triển toàn
diện, hài hoà, đặc biệt hoạt động thể dục, thể thao là một trong những hình thức
cơ bản, chuẩn bị thể lực phục vụ cho lao động và các hoạt động khác.
Vì thế mỗi quốc gia đều chú trọng đến công tác giáo dục thể chất và đưa
nền giáo dục thể chất nước mình lên đỉnh cao nhất cũng như giữ vững và phát
triển xu hướng mang tính bản sắc dân tộc. Kinh nghiệm của các nước phát triển
cho thấy rằng: Truyền thống dân tộc là một trong những động lực thúc đẩy sự
phát triển của đất nước.
TDTT là một lĩnh vực của nền văn hoá vì vậy nó cũng mang tính dân
tộc đậm nét, ở Việt Nam cũng đã trải qua hàng nghìn năm các môn thể thao dân
tộc.
2.2. Thực trạng ban đầu:
- Ban đầu khi học bộ môn thể dục, một số học sinh có thái độ coi thường
và cảm thấy nhàm chán là do các em chưa ý thức được tầm quan trọng của môn
thể dục.
- Qua tìm hiểu thực tế và trao đổi với đồng nghiệp; trao đổi với cha mẹ
học sinh tôi biết thêm một vài điều về nguyên nhân dẫn đến tình trạng này là do:
+ Học sinh xem môn học này không quan trọng.
+ Học sinh chưa hiếu được tác dụng ( Bổ ích) của môn thể dục.

+ Một số học sinh có sức khỏe yếu và không mạnh dạng.
+ Một số học sinh không ưa thích vận động.
+ Phương pháp lên lớp của giáo viên vẫn chưa gây hứng thú - yêu thích
cho một số bộ phận học sinh.
+ Một phần từ nhận thức sai lầm của cha mẹ học sinhlà môn học này
không quan trọng nên không quan tâm việc tập luyện của các em

4


- Bởi thế giảng dạy môn thể dục cần phải có phương pháp, cách thức, con
đường, biện pháp phù hợp để học sinh qua giờ thể dục cảm thấy yêu thích, để
qua giờ thể dục các em học mà chơi và chơi mà học.
2.3. Những giải pháp chính của sáng kiến kinh nghiệm.
2.3.1. Biện pháp thứ nhất:
“Tác động đến nhận thức của học sinh và các đối tượng liên quan”
- Đề xuất và tham mưu đến Ban giám hiệu nhà trường, các giáo viên chủ
nhiệm, phụ huynh học sinh và đặc biệt là bản thân học sinh, bằng cách nêu rõ
tác dụng của bộ môn thể dục và là thúc đẩy sự phát triển toàn diện các tố chức:
nhanh nhẹn, mềm dẻo, khéo léo, tinh thần tập thể, đoàn kết, tính kiên nhẫn, tính
kỹ luật…và đặc biệt là có sức khỏe tốt hơn. Ngoài ra tôi cũng phân tích cho học
sinh thấy rõ và khi học môn thể dục các em được vui chơi và nâng cao sức khỏe
cho việc học tập các môn khác. Nếu các em sức khỏe yếu thì việc học các môn
khác cũng không được đảm bảo và được tốt.
- Chúng ta biết thể dục thể thao là một lĩnh vực khoa học, không có kiến
thức khoa học về thể dục thể thao thì không có niềm tin mãnh liệt và lợi ích, tác
dụng của nó tới sức khỏe con người.
- Nhà trường cũng cần tạo điều kiện vế cơ sở vật chất cho việc giảng dạy
môn thể dục được đảm bảo để học sinh được cảm thấy hứng thú và thích học
môn này.

2.3.2. Biện pháp thứ hai:
“Áp dụng các phương pháp giảng dạy phù hợp với tình hình thực tế và
lứa tuổi học sinh”
- Trong môn thể dục, muốn đạt kết quả cao, tạo cho các em niềm say mê
hứng thú – yêu thích tập luyện, nắm được nội dung bài học, không cần ghi lý
thuyết, thực hiện đúng động tác, không thấy mệt mỏi, nhàm chán tập luyện cho
có một cho xong. Muốn đạt được yêu cầu đó cần phải có những phương pháp
thiết thực.
+ Giáo viên cần nghiên cứu kỹ nội dung bài học, nắm được các yếu lĩnh
kỹ thuật tác động trước khi lên lớp để học sinh hiểu và nắm bắt. Vì đã gọi là làm
mẫu thì động tác phải chính xác, đẹp và đúng kỹ thuật, những động tác ấy dễ
gây ấn tượng xấu trong trí nhớ học sinh.
+ Khi phân tích kỹ thuật nên ngắn gọn, chính xác, xúc tích dễ nhớ. Ngoài
trời có thể sử dụng tranh ảnh, biểu đồ để minh họa gây sự chú ý cho các em.

(Tranh minh họa cho động tác Thăng bằng – Lớp 4)

5


+ Các em học sinh có tính hiếu động, thích vui chơi, chạy nhảy, ít tập
trung, chú ý nhất là giờ học ngoài trời. Vì vậy phải cần tạo sự thoải mái cho các
em trong giờ học bằng cách sử dụng các trò chơi các em ưa thích, các bài hát để
tạo sự phấn khởi, thoải mái cho quá trình tập luyện và học tập.
+ Trong giờ thể dục không nhất thiết lúc nào cũng phải theo khuôn khổ
mà phải luôn linh động để có sự thay đổi nhằm tạo sự hứng thú- yêu thích cho
học sinh tập luyện. Như một số biện pháp trò chơi, thi đua khen thưởng, tăng độ
khó, ví dụ:
* Tập luyện động tác rèn luyện thân thể cơ bản thì cho học sinh thi đua
giữa các cá nhân và tổ.


* Tập chạy nhảy mang vác cũng hình thức thi đua.
* Tập luyện ném bóng cho học sinh thi ném bóng trúng đích hoặc ai xa.
- Như vậy học sinh sẽ thấy giờ học rất nhẹ nhàng và không cảm thấy
nhàm chán.
2.3.3. Biện pháp thứ 3:
“Giảng dạy đảm bảo tính khoa học, phối hợp và vận dụng mền dẽo các
phương pháp vừa cổ điển và cũng vừa mang tính hiện dại, nhiệt tình trong
giảng dạy, đánh giá học sinh phải công bằng và khách quan”
- Giáo viên phải có kế hoạch dạy học và tập luyện cho học sinh theo đúng
phương pháp, đúng cách và hợp lý, từ trực quan sinh động đế tư duy trừu tượng,
tập từ dễ đến khó, từ đơn giản đến phức tạp. Đặc biệt khi học và tập luyện giáo
viên cần phân nhóm cho học sinh chủ động và tự giác tập luyện, giáo viên chỉ là
người hướng dẫn, quan sát và giúp đỡ kịp thời. Đôi lúc giáo viên cùng tham gia
vào tập luyện cùng học sinh như: môn Đá Cầu, Bóng Đá, Cờ Vua, Cầu Lông.
- Kịp thời động viên, giúp đỡ những học sinh còn yếu, những học sinh có
tâm lý còn rụt rè, những học sinh khuyết tật. Giáo viên cần tổ chức cho các em
tập với cường độ nhẹ hoặc cho các bạn có sức khỏe tốt giúp đỡ bạn yếu và động
viên khích lệ các em hoặc với những em khuyết tật vận động đi lại khó khăn ta
có thể giúp đỡ các em tham gia những môn thể thao trí tuệ như Cờ Vua.
Ví dụ: Khi chơi có thể phân công các em này làm trọng tài chứ không để
các em ngồi ngoài.

6


- Biểu dương các em học tập và luyện tập tốt, có tổ chức về thể dục thể
thao và thường xuyên đổi mới để phù hợp với hoạt động các em, tạo tinh thần
thoải mái, vui vẻ phấn khởi trong tập luyện để nâng cao sức khỏe.
2.3.4. Biện pháp thứ 4:

“Áp dụng một số biện pháp phòng tránh chấn thương trong tập luyện
và giảng dạy”
- Sắp xếp hợp lí quá trình giảng dạy, huấn luyện và thi đấu
- Phải khởi động và thả lỏng thật tốt trong mỗi giờ học, tập luyện và thi
đấu
Khởi động cần có tính thiết thực vừa phải khởi động chung lại vừa khởi
động chuyên môn theo nội dung môn thể thao mà học sinh tập luyện. Kết thúc
bài khởi động phải có thời gian nghỉ ngơi hoặc chơi một trò chơi nhẹ để bước
vào bài tập là phù hợp, khởi động phải làm nóng cơ thể, lượng vận động ở mùa
đông lớn hơn một chút so với bình thường.

.
(Tranh minh họa cho khởi động chung)

(Tranh minh họa cho khởi động chuyên môn)

Ví dụ: bài dạy có nội dung bật nhảy thì giáo viên phải cho khởi động
chuyên môn gồm các động tác ép dọc, ép ngang, chạy đạp sau.
-Tăng cường công tác bảo hiểm và tự bảo hiểm
Trong quá trình giảng dạy và huấn luyện giáo viên cần giáo dục cho học sinh
nắm được các phương pháp tự bảo hiểm.
Ví dụ: Để phòng tránh chấn thương khi bật nhảy ta phải có nệm đầy đủ

(Tranh minh họa cho động tác bật nhảy)

7


Đối với những động tác, nội dung bài tập khó thì giáo viên cần nhấn mạnh
và chú trọng công tác bảo hiểm cho học sinh như một số bạn luân phiên giúp đỡ,

giảng dạy phân tích kĩ từng chi tiết để tránh chấn thương.

( Tranh minh họa cho công tác bảo hiểm ở những động tác khó )
-Vệ sinh sân bãi, dụng cụ và công tác kiểm tra y học trước khi bước vào
tập luyện.
Giáo viên và học sinh cần tổ chức làm vệ sinh sân tập, cần chú ý kiểm tra, sửa
chữa các phương tiện, dụng cụ đồ dùng dạy học trước khi bước vào tập luyện.
Ví dụ: Trước giờ học nếu sân trường nhiều lá cây có thể cho học sinh vệ
sinh sân tập và giáo viên kiểm tra chất lượng đồ dùng dạy học.

( Tranh minh họa cho việc vệ sinh sân tập, kiểm tra)
2.3.5. Biện pháp thứ 5:
“Tổ chức sinh hoạt câu lạc bộ thể thao trong nhà trường”
Tổ chức câu lạc bộ thể dục thể thao trong trường tiểu học chính là
việc rèn kĩ năng sống vì trong một môi trường mới có nhiều cơ hội phát triển
bản thân, các em sẽ tận dụng và phát huy những khả năng của mình, tạo điều
kiện thực hành những điều đã học nhằm ngày càng tự hoàn thiện mình hơn trong
cuộc sống cũng như phát triển tối đa khả năng còn tiềm ẩn trong mỗi cá nhân.

8


Thông qua cuộc sống và sự trải nghiệm của chính bản thân, câu lạc bộ sẽ cung
cấp cho các em một môi trường rộng lớn để rèn luyện bản thân, bồi dưỡng năng
khiếu, năng lực thực tiễn, khả năng sáng tạo và phẩm chất cá tính, thể hiện mình
và phục vụ cho xã hội.- cơ sở cho việc phấn đấu trở thành nhân tài có tố chất cao
dám đi vào thực tế và dám sáng tạo nhằm trước hết hoàn thiện con người như
một chủ thể chứ không phải một phương tiện.

(Tổ chức hoạt động kỹ năng sống như tìm hiểu về HIV, giao thông, bom mìn…

lồng ghép vào các buổi sinh hoạt câu lạc bộ bóng đá )
- Sinh hoạt các câu lạc bộ phải vào các thời gian ngoại khóa như:
+ Câu lạc bộ Cờ Vua thì vào chiều các ngày thứ 2, 3 sau tiết 4 và sáng
chủ nhật.

9


+ Câu lạc bộ Bóng Đá thì vào chiều các ngày thứ 4 và sáng Thứ 7.

+ Câu lạc bộ Điền Kinh thì vào buổi chiều sau tiết 4 ngày thứ 5.
+ Câu lạc bộ Bơi lội thì vào đầu năm học.

2.4. Hiệu quả và những ảnh hưởng mà sáng kiến kinh nghiệm mang
lại:
- Nhớ áp dụng những phương pháp trên, tôi nhận thấy 100% các em học
sinh được tôi giảng dạy rất yêu thích học môn thể dục. Các em đã tự tìm hiểu,
biết được tầm quan trọng của môn học này và đã tích cực tự giác trong tập
luyện.
- Đa số các em có nhiều tiến bộ trong môn học, cụ thể là học sinh rất ham
thích tập luyện, thường mong đến tiết thể dục, chất lượng tăng lên rõ rệt qua
từng giai đoạn, kế cả học sinh có sức khỏe yếu, khuyết tật, các em đã nắm kỹ

10


năng nội dung chương trình, tuy không đòi hỏi ở mức độ cao, song cũng đảm
bảo tốt về mặt sức khỏe tinh thần ý thức tổ chức kỹ luật, đó là cơ sở để các em
bước vào lớp nối tiếp với sự tự tin hơn và tiến xa hơn một số học sinh cũng đã
đạt được nhiều thành tích cao ở các phong trào thể dục thể thao do Phòng giáo

dục Thị xã tổ chức như:
+ Cờ vua: 1 giải nhất: nữ lớp 3
Nhất đồng đội nữ
Giải nhì đồng đội nam
Nhì toàn đoàn cờ vua cấp Thị xã
Huy chương vàng nữ khối 3 cấp Tỉnh năm 2018-2019.

+ Bóng đá: Giải nhất bóng đá nữ năm 2018-2019

11


+ Hội Khỏe Phù Đổng: Giải nhì toàn đoàn cấp Thị xã năm 2017-2018

+ Bơi lội Cấp Tỉnh: 2 giải khuyến khích bơi 25 mét tự do năm 2017-2018
3.Kết luận:

12


- Nhớ áp dụng những phương pháp như: Tác động đến nhận thức của học
sinh và cha mẹ học sinh; phương pháp giảng dạy phù hợp với tâm sinh lý- lứa
tuổi; phương pháp phòng tránh chấn thương trong tập luyện và giảng dạy
trong mỗi một tiết day và đặc biệt là việc tổ chức các hình thức câu lạc bộ thể
thao trong trường học tôi nhận thấy các phương pháp trên đã giúp học sinh
yêu thích môn thể dục; đáp ứng yêu cầu nâng cao chất lượng dạy và học thể
dục ở trường Tiểu học trong giai đoạn hiện nay. Để đáp ứng là môi trường
cung cấp cho xã hội những con người trẻ có sức khoẻ tráng kiện, hoạt bát
trong cuộc sống
- Đề tài sáng kiến kinh nghiệm này thật dễ áp dụng vì không đòi hỏi nhiều

về cơ sở vật chất nhưng cần phải quán triệt tinh thần của đề tài cộng với sự tận
tâm và tình yêu thương trẻ thì kết quả mang lại thật như ý muốn. Nếu được áp
dụng rộng rãi tôi tin đề tài sẽ có sức lan tỏa trong thị xã.
- Xuất phát từ thực tế giảng dạy và áp dụng những giải pháp mang tính khả
thi cao, năm học 2018 - 2019 môn Thể dục tại trường tiểu học số 2 Hương
Toàn do tôi phụ trách đã đạt được một số hiệu quả nhất định, từ đây tôi rút ra
được bài học kinh nghiệm:
- Giáo viên cần nắm vững đặc trưng bộ môn, nắm vững tâm sinh lí, đặc
điểm sức khỏe, giới tính... từng học sinh. Giáo viên phải nhiệt tình và trình độ
chuyên môn vững vàng để truyền đạt cho học sinh.
- Luôn quan tâm gần gũi và giúp đỡ học sinh trong quá trình học tập.
- Xây dựng "Trường học thân thiện, học sinh tích cực" trong Dạy và Học
để từ đó các em yêu thích môn Thể dục.
Tuy nhiên cơ sở vật chất, dụng cụ, sân bãi nếu đầy đủ và phù hợp với
công tác giảng dạy và tập luyện thì việc học tập và giảng dạy đạt chất lượng và
mang lại hiệu quả cao hơn.
Đề tài này tuy rằng đã hoàn thành nhưng không thể tránh khỏi hạn chế thiếu sót,
mong các bạn đồng nghiệp và hội đồng xét sáng kiến các cấp đóng góp ý kiến,
bổ sung để tôi có thêm các biện pháp mới hay hơn, sát thực hơn với thực tiển địa
phương và từng đối tượng học sinh, qua đố góp phần thúc đẩy sự phát triển toàn
diện của các em học sinh
NHẬN XÉT, ĐÁNH GIÁ, XẾP LOẠI
CỦA HỘI ĐỒNG KH-SK TRƯỜNG
NHẬN XÉT: ……………………………………..

Hương Toàn, ngày20tháng 02năm 2019
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của
mình viết, không sao chép nội dung của
người khác.


……………………………………………………
……………………………………………………
……………………………………………………

13


……………………………………………………
……………………………………………………

Đỗ Đình Quốc Phong

…………………………………………………….
ĐIỂM:…………………………………..
XẾP LOẠI: …………………………….

CHỦ TỊCH HỘI ĐỒNG – HIỆU TRƯỞNG

Nguyễn Xuân Lựa

14


NHẬN XÉT, ĐÁNH GIÁ, XẾP LOẠI
CỦA HỘI ĐỒNG KH-SK PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TX HƯƠNG TRÀ

NHẬN XÉT: ………………………………………..…….……………………………………..
…………………………………………..…………………………….…………………..
………………………………………………..
……………………………………………………………………………………………

……………………..…………………………….…………………..
………………………………………………..
……………………………………………………………………………………………
……………………..…………………………….…………………..
………………………………………………..
……………………………………………………………………………………………
ĐIỂM:…………………………………..
XẾP LOẠI: …………………………….

CHỦ TỊCH HỘI ĐỒNG – TRƯỞNG PHÒNG

NHẬN XÉT, ĐÁNH GIÁ, XẾP LOẠI
CỦA HỘI ĐỒNG KH-SK THỊ XÃ HƯƠNG TRÀ
NHẬN XÉT: ………………………………………..…….……………………………………..
…………………………………………..…………………………….…………………..
……………………………………………………………………………………………………………
………………………………..
……………………..…………………………….…………………..
………………………………………………..
……………………………………………………………………………………………
……………………..…………………………….…………………..
………………………………………………..
……………………………………………………………………………………………
ĐIỂM:…………………………………..
XẾP LOẠI: …………………………….

CHỦ TỊCH HỘI ĐỒNG

15



16


PHÒNG GD & ĐT TX HƯƠNG TRÀ

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

TRƯỜNG TIỂU HỌC SỐ 2 HƯƠNG TOÀN

Độc lập- Tự do- Hạnh phúc

PHIẾU CHẤM ĐIỂM, XẾP LOẠI SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
1. Họ và tên tác giả: Đỗ Đình Quốc Phong
2. Chức vụ : Giáo viên- Tổ phó tổ Đặc Thù
3. Đơn vị công tác : Trường Tiểu học số 2 Hương Toàn
4. Tên đề tài (SKKN): “Một số biện pháp giúp học sinh yêu thích môn thể dục tại trường
tiểu học số 2 Hương Toàn”
5. Lĩnh vực (SKKN): Thể dục
STT
Nội dung
Điểm tối
Điểm GK
đa
thống nhất
1
Lý do chọn đề tài (đặt vấn đề, thực trạng, tính cấp thiết, tính
10
đổi mới của đề tài…)
2

Giải quyết vấn đề, nội dung của đề tài nêu ra
80
2.1. Tính mới và sáng tạo
25
a) Hoàn toàn mới, được áp dụng lần đầu tiên
21-25
b) Có cải tiến so với phương pháp trước đây với mức độ tốt
16-20
c) Có cải tiến so với phương pháp trước đây với mức độ khá
11-15
d) Có cải tiến so với phương pháp trước đây với mức độ TB
6-10
e) Có cải tiến so với phương pháp trước đây với mức độ thấp
1-5
2.2. Khả năng áp dụng và nhân rộng
25
a) Có khả năng áp dụng và nhân rộng ở mức độ tốt
21-25
b) Có khả năng áp dụng và nhân rộng ở mức độ khá
16-20
c) Có khả năng áp dụng và nhân rộng ở mức độ TB
11-15
d) Ít có khả năng áp dụng và nhân rộng
1-10
2.3. Hiệu quả áp dụng và phạm vi của đề tài
30
a) Có hiệu quả và phạm vi áp dụng ở mức độ tốt
26-30
b) Có hiệu quả và phạm vi áp dụng ở mức độ khá
16-25

c) Có hiệu quả và phạm vi áp dụng ở mức độ TB
11-15
d) Ít có hiệu quả và áp dụng
1-10
3.
Hình thức trình bày (cấu trúc, ngôn ngữ, chính tả, văn
10
phong, thể thức văn bản…….)
TỔNG ĐIỂM:
Xếp loại:
Nhận xét chung:................................................................................................................
...........................................................................................................................................
...........................................................................................................................................
...........................................................................................................................................
Giám khảo 1
(Ký, ghi rõ họ tên)

Giám khảo 2
(Ký, ghi rõ họ tên)
dấu)

………, ngày….tháng….năm 2019
Chủ tịch Hội đồng
(Ký, ghi rõ họ tên, đóng

17




×