Tải bản đầy đủ (.pdf) (74 trang)

Đăng ký hộ kinh doanh theo pháp luật việt nam từ thực tiễn quận ngũ hành sơn, thành phố đà nẵng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.09 MB, 74 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

HUỲNH TÂM

ĐĂNG KÝ HỘ KINH DOANH THEO
PHÁP LUẬT VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN
QUẬN NGŨ HÀNH SƠN, THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI, năm 2019


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

HUỲNH TÂM

ĐĂNG KÝ HỘ KINH DOANH THEO
PHÁP LUẬT VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN
QUẬN NGŨ HÀNH SƠN, THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

Ngành: Luật kinh tế
Mã số: 8.38.01.07

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
GS.TS HOÀNG THẾ LIÊN

HÀ NỘI, năm 2019



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn này là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các tư
liệu và kết quả trong luận văn là trung thực. Nếu có gì sai sót, tôi xin hoàn toàn chịu
trách nhiệm.
Tác giả luận văn

Huỳnh Tâm


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HỘ KINH DOANH VÀ PHÁP
LUẬT VỀ ĐĂNG KÝ HỘ KINH DOANH ............................................................ 8
1.1. Những vấn đề lý luận về hộ kinh doanh .............................................................. 8
1.2. Pháp luật về đăng ký hộ kinh doanh ...................................................................... 19
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ ĐĂNG KÝ HỘ KINH
DOANH VÀ THỰC TIỄN HOẠT ĐỘNG ĐĂNG KÝ HỘ KINH DOANH
TRÊN ĐỊA BÀN QUẬN NGŨ HÀNH SƠN, THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG ........... 41
2.1. Thực trạng pháp luật về đăng ký hộ kinh doanh ................................................ 41
2.2. Thực tiễn hoạt động đăng ký hộ kinh doanh ở quận Ngũ Hành Sơn, thành phố
Đà Nẵng..................................................................................................................... 44
CHƯƠNG 3. PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP KHẮC PHỤC NHỮNG
BẤT CẬP CỦA PHÁP LUẬT NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG
ĐĂNG KÝ HỘ KINH DOANH ............................................................................. 55
3.1. Phương hướng hoàn thiện pháp luật về đăng ký hộ kinh doanh ........................ 55
3.2. Hoàn thiện quy định pháp luật về đăng ký hộ kinh doanh............................................. 58
3.3. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác đăng ký hộ kinh doanh..... 61
KẾT LUẬN .............................................................................................................. 65
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO



DANH MỤC CÁC BẢNG
Số hiệu
bảng
2.1.

Tên bảng
Số liệu thống kê đăng ký hộ kinh doanh tại quận Ngũ Hành
Sơn, thành phố Đà Nẵng từ năm 2016 đến năm 2018

Trang

51


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Cùng với sự phát triển như vũ bão của khoa học và công nghệ, nền kinh tế
Việt Nam đã có những bước phát triển nhảy vọt trong nhiều lĩnh vực, cũng như
những chuyển biến tích cực trong thời gian qua. Song song với sự phát triển kinh tế
- xã hội đó, số lượng hộ kinh doanh cũng gia tăng nhanh chóng trên quy mô toàn
quốc. Phải hơn nửa thập kỉ tiến hành những cuộc cải cách về kinh tế và hoàn thiện
hệ thống pháp luật, thành phần kinh tế cá thể (hộ kinh doanh) đã được khai sinh trở
lại và từng bước đạt được sự phát triển nhất định, nó đã đang và sẽ ngày càng khẳng
định vị trí, tầm quan trọng của mình trong nền kinh tế nhiều thành phần dưới sự
quản lý của nhà nước.
Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng cộng sản Việt Nam với
việc thực hiện đường lối đổi mới về kinh tế thông qua chuyển dịch cơ cấu kinh tế từ
nền kinh tế kế hoạch sang nền kinh tế thị trường, trong đó có sự tham gia của thành

phần kinh tế cá thể, Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ VI cũng đã đưa ra giải pháp:
“Khuyến khích phát triển kinh tế gia đình. Sử dụng khả năng tích cực của kinh tế
tiểu sản xuất hàng hóa, đồng thời vận dụng và tổ chức những người lao động cá thể
vào các hình thức làm ăn tập thể để nâng cao hiệu quả sản xuất, kinh doanh…”. Nếu
như thành phần kinh tế quốc doanh giữ vai trò then chốt và là động lực cho sự phát
triển kinh tế, thì thành phần kinh tế cá thể tuy chiếm tỉ trọng nhỏ so với các thành
phần kinh tế còn lại nhưng lại được đánh giá cao trong việc góp phần phát triển bền
vững kinh tế đất nước, góp một nguồn thu không nhỏ cho ngân sách quốc gia, đáp
ứng những yêu cầu của xã hội mà các thành phần kinh tế khác không thể mang lại,
nâng cao chất lượng đời sống của con người. Thành phần kinh tế cá thể (hộ kinh
doanh) đã, đang và sẽ ngày một chiếm vị trí quan trọng, là nguồn lực mạnh mẽ
trong việc phát triển nền kinh tế quốc dân.
Chính vì hiểu được tầm quan trọng của hộ kinh doanh mà pháp luật nước ta đã
không ngừng sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện cho phù hợp với thực tiễn, đến nay các
quy định về hộ kinh doanh đã có nhiều thay đổi, chủ yếu là quy định về đăng ký hộ
1


kinh doanh như: khái niệm pháp lý về “hộ kinh doanh” chính thức được sử dụng,
mở rộng chủ thể có quyền thành lập hộ kinh doanh, đơn giản hóa các thủ tục về
đăng ký kinh doanh cũng như các điều kiện để đăng ký,… Sự rõ ràng, cụ thể trong
quy định pháp lý về đăng ký hộ kinh doanh, đường lối, chính sách đổi mới của
Đảng và Nhà nước đã tạo điều kiện thuận lợi cho việc đăng ký của người dân, qua
đó thúc đẩy việc mở rộng và phát triển hộ kinh doanh trên phạm vi toàn quốc, tăng
của cải xã hội, tạo việc làm và tăng nguồn thu nhập, nâng cao chất lượng đời sống
và góp phần phát triển kinh tế xã hội đất nước. Nhìn chung việc đăng ký kinh doanh
nói chung và đăng ký hộ kinh doanh nói riêng có ý nghĩa quan trọng trong mọi mặt
của đời sống, xã hội. Nó không chỉ đảm bảo quản lý nhà nước, mà hơn hết còn đảm
bảo quyền và lợi ích của những chủ thể khi tham gia vào hoạt động kinh doanh.
Thành phần kinh tế cá thể phát triển và hoạt động rộng khắp trong nhiều lĩnh

vực, ngành sản xuất như giao thông vận tải, ăn uống, dịch vụ,… Đây là thành phần
kinh tế nhạy bén trong trong kinh doanh, dễ dàng chuyển đổi ngành nghề kinh
doanh cho phù hợp với yêu cầu của thị trường. Theo số liệu của Tổng cục thống kê
đến ngày 01/7/2017 cả nước có 5,1 triệu cơ sở sản xuất kinh doanh cá thể, tăng 9%
so với năm 2012, thu hút 8,7 triệu lao động. Tuy nhiên, thực tiễn hoạt động của các
hộ kinh doanh Việt Nam vẫn còn nhiều thiếu sót, bất cập, chưa phát huy hết tiềm
năng của mình, gặp nhiều khó khăn từ nhiều nguyên nhân bắt nguồn chủ yếu từ sự
chưa rõ ràng và thiếu đồng bộ của các văn bản quy phạm pháp luật dẫn đến những
khó khăn nhất định trong quá trình thực thi pháp luật tại nước ta. Đặc biệt tại Thành
phố Đà Nẵng nói chung và quận Ngũ Hành Sơn, Thành phố Đà Nẵng nói riêng,
Luật Doanh nghiệp 2014 với những quy định pháp lý khá cụ thể đã tạo điều kiện
tương đối thuận lợi cho việc đăng ký hộ kinh doanh, nhưng vẫn còn tồn tại một số
bất cập, nhất là trong quy định về điều kiện kinh doanh, trình tự thủ tục hành chính.
Để đáp ứng nhu cầu đăng ký của hộ kinh doanh và thực hiện tốt công tác kiểm tra,
quản lý của cơ quan nhà nước, đòi hỏi cần có sự nghiên cứu thấu đáo về lý luận và
sự tổng kết thực tiễn sâu sắc để tiếp tục đổi mới, hoàn thiện pháp luật về đăng kí
kinh doanh theo hướng phù hợp với thực tiễn.

2


Từ những phân tích nêu trên, có thể thấy rằng việc nghiên cứu pháp luật đăng
kí kinh doanh từ thực tiễn của địa phương là cần thiết, phản ánh thực tiễn mang tính
phản hồi đối với quy định pháp luật về đăng ký kinh doanh góp phần làm cho pháp
luật sát với yêu cầu thực tiễn nhằm thúc đẩy việc thành lập cũng như hoạt động của
hộ kinh doanh, tạo động lực cho sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Là vấn
đề không quá mới mẻ nhưng lại có tầm quan trọng đặc biệt trong chiến lược phát
triển kinh tế đất nước, nên tác giả đã chọn nghiên cứu đề tài: “Đăng ký hộ kinh
doanh theo pháp luật Việt Nam từ thực tiễn Quận Ngũ Hành Sơn, Thành phố Đà
Nẵng” nhằm làm rõ các quy định pháp lý xoay quanh các thủ tục hành chính về

công tác cấp đăng ký hộ kinh doanh, qua đó làm rõ những điểm mới, điểm hạn chế
còn tồn tại và đề ra phương án giải quyết góp phần nâng cao hiệu quả quản lý nhà
nước trong lĩnh vực đăng ký hộ kinh doanh và tạo điều kiện thuận lợi cho chủ thể
kinh doanh phát triển.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Cho đến nay đã có một số công trình nghiên cứu về đăng ký hộ kinh doanh
nhưng mỗi công trình đều tiếp cận từ những góc nhìn và khía cạnh pháp lý khác
nhau. Qua tìm hiểu, bản thân tác giả nhận thấy rằng mỗi công trình đều đưa ra
những quan điểm lý luận và nhận định không giống nhau.
Thứ nhất, các công trình nghiên cứu là sách chuyên khảo và giáo trình thì phải
kể đến như: Giáo trình Pháp luật kinh tế Tập 1, NXB Đại học Kinh tế Quốc dân Hà
Nội, Hà Nội 2008 của Tiến sĩ Nguyễn Hợp Toàn; Giáo trình Luật Thương mại,
NXB Giáo dục năm 2008 của Thạc sĩ Vũ Đặng Hải Yến đề cập đến pháp luật hộ
kinh doanh tại phần II, chương II, tập 1; Tập bài giảng chủ thể kinh doanh năm
2008-2009 của Khoa Luật thương mại, Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí
Minh; ngoài ra pháp luật về đăng ký hộ kinh doanh cũng được đề cập trong giáo
trình phần kiến thức chung của Khoa Luật kinh tế - Học viện Khoa học Xã hội. Tại
các trường đại học có chuyên ngành luật hoặc các ngành thuộc lĩnh vực kinh doanh
thương mại thì trong chương trình đào tạo luôn đề cập đến các vấn đề đăng ký kinh
doanh, đặc biệt chú trọng kiến thức về đăng ký hộ kinh doanh với những kiến thức

3


cơ bản, cần thiết.
Thứ hai, ngoài các công trình nghiên cứu là sách chuyên khảo và giáo trình thì
vấn đề đăng ký hộ kinh doanh còn được khá nhiều nhà khoa học nghiên cứu và
công bố thông qua các bài báo khoa học trên các tạp chí chuyên ngành. Trong đó,
đáng chú ý nhất là bài: “Phân tích pháp luật về hộ kinh doanh để tìm ra các bất
cập” của PGS.TS Ngô Huy Cương, Tạp chí khoa học, Đại học Quốc gia Hà Nội

năm 2009.
Thứ ba, một số luận văn thạc sĩ luật có đề tài nghiên cứu về hộ kinh doanh đã
phân tích, làm rõ pháp luật về hộ kinh doanh, chỉ ra những bất cập và đề xuất hướng
giải pháp khắc phục. Tác giả Hoàng Minh Sơn với đề tài nghiên cứu “Pháp luật về
hộ kinh doanh ở Việt Nam”, đã tập trung lý giải khá kỹ vấn đề lý luận về hộ kinh
doanh theo pháp luật Việt Nam. Tác giả Võ Thị Xuân Danh với đề tài nghiên cứu
“Đăng ký kinh doanh đối với hộ kinh doanh theo pháp luật Việt Nam từ thực tiễn
Quận Gò Vấp”, đã phân tích nhiều về thực trạng các quy định pháp lý về đăng ký
hộ kinh doanh từ thực tiễn thi hành pháp luật tại địa bàn quận Gò Vấp.
Bằng việc tiếp cận từ những khía cạnh và mức độ khác nhau, điều kiện nghiên
cứu khác nhau nên mỗi công trình đều mang lại những giá trị lý luận và thực tiễn
khác nhau. Nhìn chung, hầu hết đều đề cập đến những quy định của pháp luật về
kinh doanh với những phân tích khá sâu về đặc điểm, nội dung pháp lý và thủ tục
thi hành đăng ký hộ kinh doanh. Mỗi công trình đều thể hiện quan điểm riêng của
tác giả về vấn đề khoa học đặt ra, góp phần nâng cao nhận thức của xã hội về vai trò
và tầm quan trọng của pháp luật đăng kí hộ kinh doanh trong đời sống. Cho đến nay,
có thể nói là chưa có công trình nghiên cứu nào về đăng ký hộ kinh doanh gắn với
thực tiễn Quận Ngũ Hành Sơn, Thành phố Đà Nẵng. Vì vậy, nghiên cứu này kế
thừa những nghiên cứu đã có, đồng thời góp thêm một nghiên cứu thực tiễn ở một
thành phố khá năng động. Hơn nữa, những vấn đề mới mẻ trong nội dung pháp lý
về đăng ký hộ kinh doanh, thủ tục đăng ký hộ kinh doanh theo quy định của Luật
Doanh nghiệp 2014 sẽ được tìm hiểu, cập nhật và phân tích đầy đủ trong công trình
nghiên cứu dưới đây.

4


Trên tinh thần kế thừa kết quả nghiên cứu các công trình trước và nghiên cứu
các quy định pháp lý hiện hành, tác giả hy vọng có thể đưa ra những phân tích sâu sắc
về đăng ký hộ kinh doanh theo quy định của pháp luật hiện hành, phần nào giải đáp,

làm sáng tỏ những quy định mới mẻ, tìm hiểu những bất cập và kiến nghị một số giải
pháp nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật về kinh doanh cũng như để giải quyết
những bất cập trong thực tiễn đăng ký hộ kinh doanh tại các cơ quan địa phương.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của luận văn nhằm làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về
hộ kinh doanh và pháp luật về đăng ký hộ kinh doanh, đặc biệt làm rõ những quy
định mới của pháp luật về đăng ký hộ kinh doanh theo quy định của Luật Doanh
nghiệp 2014 và Nghị định 78/2015/NĐ-CP về đăng ký doanh nghiệp, đồng thời chỉ
ra những hạn chế trong đăng ký kinh doanh. Qua phân tích, đánh giá thực trạng
pháp luật về đăng ký hộ kinh doanh và thực tiễn áp dụng tại Quận Ngũ Hành Sơn,
Thành phố Đà Nẵng, từ đó đề xuất phương hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật
về đăng ký hộ kinh doanh và nâng cao hiệu quả hoạt động đăng ký kinh doanh.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để có thể đạt được những mục đích nghiên cứu đề ra, luận văn cần phải thực
hiện các nhiệm vụ sau:
- Nghiên cứu và làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về hộ kinh doanh và đăng
ký hộ kinh doanh theo quy định của pháp luật.
- Phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật và thực tiễn hoạt động đăng ký hộ
kinh doanh, làm rõ ưu điểm và mặt còn bất cập, hạn chế trong đăng ký kinh doanh.
- Đề xuất một số phương hướng và giải pháp nhằm hoàn thiện hệ thống pháp
luật, khắc phục những hạn chế trong đăng ký kinh doanh.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là hộ kinh doanh, pháp luật về đăng ký hộ kinh doanh
và thực tiễn hoạt động đăng ký hộ kinh doanh ở quận Ngũ Hành Sơn, thành phố Đà

5



Nẵng.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu là những vấn đề lý luận về hộ kinh doanh và đăng ký hộ
kinh doanh theo quy định Luật Doanh nghiệp 2014 và các nghị định hướng dẫn thi
hành.
Về thực tiễn, luận văn nghiên cứu thực trạng hoạt động đăng ký hộ kinh doanh
ở quận Ngũ Hành Sơn, thành phố Đà Nẵng giai đoạn 2016 - 2018.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Trên cơ sở phương pháp luận của triết học Mac – Lenin, luận văn sử dụng kết
hợp các phương pháp nghiên cứu như: phân tích, tổng hợp, hệ thống, so sánh.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Thứ nhất, phương pháp tiếp cận hệ thống nhằm làm rõ bản chất pháp lý của
đăng ký hộ kinh doanh.
Thứ hai, phương pháp tổng hợp, phân tích các văn bản quy phạm pháp luật
của Việt Nam về hộ kinh doanh giúp làm rõ các khái niệm, đặc điểm hộ kinh doanh,
đăng ký kinh doanh, hoạt động đăng ký hộ kinh doanh theo quy định của pháp luật
Việt Nam.
Thứ ba, phương pháp so sánh được sử dụng để làm rõ sự khác nhau của các
quy định pháp luật trong các thời kì lịch sử, đồng thời đối chiếu các quy định của
pháp luật về thủ tục đăng ký hộ doanh với quy định về các loại hình doanh nghiệp
khác để từ đó thấy được vị trí, vai trò của hộ kinh doanh, điểm tiến bộ của pháp luật
về đăng ký hộ kinh doanh trong Luật Doanh nghiệp 2014 so với các văn bản quy
phạm pháp luật trước đó.
Thứ tư, để xem xét và đánh giá khách quan lịch sử hình thành, quá trình phát
triển và hoàn thiện hệ thống pháp luật về hộ kinh doanh, tác giả sử dụng phương
pháp lịch sử để có thể khái quát toàn bộ quá trình đó.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
6.1. Ý nghĩa lý luận


6


Về mặt lý luận, luận văn góp phần làm sâu sắc hơn một số vấn đề lý luận về
hộ kinh doanh, pháp luật về đăng ký hộ kinh doanh. Với mong muốn góp phần hệ
thống hóa và đánh giá toàn diện về hộ kinh doanh theo quy định của nước ta, luận
văn đã chỉ ra những điểm mới, đồng thời cũng chỉ ra những điểm hạn chế còn tồn
tại cần được thay đổi và khắc phục để hoàn thiện pháp luật về đăng ký hộ kinh
doanh.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Từ thực tiễn hoạt động đăng ký hộ kinh doanh ở Quận Ngũ Hành Sơn, Thành
phố Đà Nẵng, luận văn phản ánh sự phản hồi của một góc thực tiễn đối với quy
định pháp luật về đăng ký hộ kinh doanh. Với ý nghĩa đó, luận văn có thể trở thành
nguồn tài liệu tham khảo hữu ích cho công tác lập pháp, tổ chức thi hành pháp luật
và nghiên cứu giảng dạy.
7. Kết cấu luận văn
Ngoài mục lục, mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo thì kết cấu
luận văn gồm có 03 chương, cụ thể:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về hộ kinh doanh và pháp luật về đăng ký hộ
kinh doanh.
Chương 2: Thực trạng pháp luật về đăng ký hộ kinh doanh và thực tiễn hoạt động
đăng ký hộ kinh doanh trên địa bàn quận Ngũ Hành Sơn, thành phố Đà Nẵng.
Chương 3: Phương hướng và giải pháp khắc phục những bất cập của pháp luật
nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động đăng ký hộ kinh doanh.

7


CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HỘ KINH DOANH

VÀ PHÁP LUẬT VỀ ĐĂNG KÝ HỘ KINH DOANH
1.1. Những vấn đề lý luận về hộ kinh doanh
1.1.1. Khái niệm hộ kinh doanh
Từ khi bắt đầu công cuộc đổi mới đến nay, nền kinh tế Việt Nam đã có bước
phát triển vượt bậc. Cùng với việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật về
kinh doanh, nền kinh tế Việt Nam ngày càng có những bước tiếp cận đầy đủ hơn
với cơ chế thị trường. Trong bối cảnh đó, xu hướng thành lập hộ kinh doanh ngày
càng gia tăng về số lượng, góp một phần không nhỏ vào việc tăng trưởng nền kinh
tế quốc dân.
Qua mỗi giai đoạn phát triển của đất nước, hộ kinh doanh được định nghĩa
khác nhau do đó nội dung pháp lý cũng khác nhau. Mặc dù vậy, hộ kinh doanh đa
phần được hiểu chỉ do một số cá nhân hoặc một nhóm người đăng ký kinh doanh và
hoạt động nhằm tìm kiếm lợi nhuận. “Hộ kinh doanh cá thể là một loại hình doanh
nghiệp được sở hữu và điều hành bởi một người và trong đó không có sự phân biệt
pháp lý giữa chủ sở hữu và thực thể kinh doanh. Chủ sở hữu kiểm soát trực tiếp tất
cả các yếu tố và chịu trách nhiệm về mặt pháp lý đối với tài chính của doanh
nghiệp đó và điều này có thể bao gồm các khoản nợ, cho vay, thua lỗ,… Một
thương nhân cá thể không nhất thiết phải làm việc một mình mà có thể thuê người
khác” [2]. Đối với nền kinh tế nước ta, hộ kinh doanh đóng vai trò quan trọng trong
việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế bao trùm, khu vực sản xuất kinh doanh cá thể, hộ
kinh doanh giúp giải quyết việc làm cho một bộ phận khá lớn dân cư, linh hoạt
trong nhiều trường hợp và gia tăng mạnh mẽ về số lượng. Để thực hiện các mục tiêu
tìm kiếm lợi nhuận, hộ kinh doanh phải tuân theo các quy định pháp lý để hình
thành và phát triển, dựa trên những cơ sở nền tảng đó giúp cá nhận hiện thực hóa
các ý tưởng về kinh doanh, sản xuất.
Từ trước đến nay, hộ kinh doanh được biết đến với những tên gọi pháp lý khác

8



nhau, điều này cũng thể hiện rõ bản chất, những đặc điểm riêng biệt qua từng thời kì.
Trước khi có Nghị định 88/2006/NĐ-CP của Chính phủ, hộ kinh doanh được gọi là
hộ kinh doanh cá thể và tên gọi này được ghi nhận tại hai Nghị định của Chính phủ
về đăng ký kinh doanh là Nghị định số 02/2000/NĐ-CP ngày 03/02/2000 và Nghị
định số 109/2004/NĐ-CP ngày 02/4/2004. Tại Khoản 1 Điều 24 Nghị định
109/2004/NĐ-CP quy định: “Hộ kinh doanh cá thể do một cá nhân hoặc hộ gia đình
làm chủ, chỉ được đăng ký kinh doanh tại một địa điểm, sử dụng không quá mười
lao động, không có con dấu và chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình đối
với hoạt động kinh doanh”. Cho đến Nghị định số 88/2006/NĐ-CP, với tên gọi pháp
lý mới “hộ kinh doanh” do đó định nghĩa cũng có sự thay đổi rõ rệt, bổ sung thêm
những đặc điểm pháp lý mới: “Hộ kinh doanh do một cá nhân là công dân Việt
Nam hoặc một nhóm người hoặc một gia đình làm chủ, chỉ được kinh doanh tại một
địa điểm, sử dụng không quá mười lao động, không có con dấu và chịu trách nhiệm
bằng toàn bộ tài sản của mình đối với hoạt động kinh doanh”. Như vậy so với
những tên gọi “hộ cá thể” và “hộ tiểu công nghiệp” được quy định trong Nghị định
số 27/HĐBT ngày 09/3/1988, trải qua giai đoạn bổ sung, hoàn thiện hệ thống các
quy định pháp luật về đăng ký kinh doanh, đến nay khái niệm về hộ kinh doanh có
những sự thay đổi khác biệt và nội dung khá đầy đủ, phản ánh đúng bản chất về hộ
kinh doanh, phù hợp với tình hình phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam. Nghị
định số 43/2010/NĐ-CP ngày 15/4/2010 về Đăng ký doanh nghiệp đã cụ thể hóa và
đưa ra các quy định rõ ràng về vấn đề đăng ký hộ kinh doanh: “Hộ kinh doanh do
một cá nhân là công dân Việt Nam hoặc một nhóm người hoặc một hộ gia đình làm
chủ, chỉ được đăng ký kinh doanh tại một địa điểm, sử dụng không quá mười lao
động, không có con dấu và chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình đối với
hoạt động kinh doanh”. Tại Nghị định này đã ghi nhận quyền và nghĩa vụ của hộ
kinh doanh trong quá trình xây dựng và phát triển đất nước, góp phần tạo dựng hành
lang pháp lý về kinh doanh thương mại thêm vững chắc. [7]
Với những đóng góp to lớn cho nền kinh tế quốc dân, đòi hỏi cần phải xây
dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật về hộ kinh doanh, nhằm từng bước thúc đẩy


9


loại hình kinh doanh nhỏ lẻ phát triển, khai thác tối đa các giá trị sản xuất. Trước
yêu cầu đó, Luật Doanh nghiệp 2014 và Nghị định 78/2015/NĐ-CP được ban hành
quy định cụ thể các vấn đề pháp lý về hộ kinh doanh và thủ tục đăng ký kinh doanh
hộ kinh doanh, đề cập đến các quy định pháp lý về loại hình kinh doanh đặc thù
mang tính chất cá nhân, không thành lập tổ chức, có địa điểm cố định hay không cố
định là hộ kinh doanh. Khoản 1 Điều 66 Nghị định 78/2015/NĐ-CP quy định rõ:
“Hộ kinh doanh do một cá nhân hoặc một nhóm người gồm các cá nhân là công dân
Việt Nam đủ 18 tuổi, có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, hoặc một hộ gia đình làm
chủ, chỉ được đăng ký kinh doanh tại một địa điểm, sử dụng dưới mười lao động và
chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình đối với hoạt động kinh doanh”.
Điều khoản đã thể hiện đầy đủ nội dung về chủ sở hữu, quy mô kinh doanh và chế
độ trách nhiệm của chủ sở hữu. Xét về nội hàm khái niệm, có thể nhận thấy hộ kinh
doanh là một loại hình kinh doanh được thành lập và đăng ký theo quy định của
pháp luật nhằm tiến hành các hoạt động kinh doanh. Theo đó, chúng ta cần phân
biệt rõ hộ kinh doanh là loại hình mà chủ thể kinh doanh không có tư cách pháp
nhân do một cá nhân hoặc một hộ gia đình làm chủ kinh doanh, khác với hợp tác xã
và doanh nghiệp có tư cách pháp nhân. Như vậy, theo quy định của pháp luật hiện
hành, hộ kinh doanh gồm ba loại chính căn cứ vào chủ thể tạo lập hay sở hữu nó:
Một là hộ kinh doanh do một cá nhân làm chủ, hai là hộ kinh doanh do gia đình làm
chủ và cuối cùng là hộ kinh doanh do một nhóm người làm chủ.
Hộ kinh doanh chỉ được đăng ký một giấy chứng nhận đăng ký hộ kinh doanh,
chỉ được đăng ký tại một địa điểm, sử dụng không quá mười lao động nhằm phân
biệt với các loại hình doanh nghiệp khác. Theo quy định pháp luật hiện hành, hộ
kinh doanh không hoàn toàn phải là cá nhân kinh doanh mà có thể là các thành viên
tham gia góp vốn để cùng hoạt động kinh doanh. Tuy nhiên so với các loại hình
doanh nghiệp khác, hoạt động kinh doanh cả hộ kinh doanh cũng bị hạn chế hơn
nhiều. Mặc dù hộ kinh doanh hoạt động trên nhiều lĩnh vực sản xuất, dịch vụ và

thương mại mà tập trung chủ yếu vẫn là các hoạt động kinh doanh nhỏ lẻ. Do bản
chất đặc thù nên hộ kinh doanh có những quy định pháp lý khác với các loại hình

10


doanh nghiệp khác, quy định rõ về một số ngành nghề không được kinh doanh theo
hình thức hộ kinh doanh như là bất động sản, kinh doanh vàng, kinh doanh bảo
hiểm… Vì quy mô tương đối nhỏ nên hộ kinh doanh chỉ được sử dụng không quá
mười lao động, hoạt động kinh doanh đối với hộ kinh doanh thông qua việc ấn định
thuế khoán không phải báo cáo thuế hàng tháng hay quyết toán thuế hàng năm như
doanh nghiệp, hộ kinh doanh không có con dấu và không tự xuất hóa đơn giá trị gia
tăng như doanh nghiệp.
Từ khái niệm nêu trên, hộ kinh doanh được phân biệt với các chủ thể kinh
doanh khác dựa vào đặc trưng cơ bản sau: Thứ nhất, hộ kinh doanh mang tính chất
nhỏ lẻ, vốn thấp và lượng lao động ít. Thứ hai, hộ kinh doanh mang dấu ấn gia đình
thể hiện thông qua việc thực hiện kinh doanh và lực lượng lao động sản xuất bao
gồm các cá nhân có quan hệ huyết thống. Thứ ba, mô hình kinh doanh tương đối
nhỏ, bộ máy quản lý đơn giản, thông thường chủ sở hữu là người trực tiếp quản lý,
điều hành các hoạt động kinh doanh.
Khái niệm hộ kinh doanh được quy định khác nhau qua các giai đoạn phát
triển hoàn thiện hệ thống pháp luật, song ở giai đoạn nào thì vai trò của hộ kinh
doanh đối với sự phát triển chung của nền kinh tế đất nước vẫn không thể phủ nhận.
Chính vì vậy, khái niệm về hộ kinh doanh được quy định rõ, cụ thể hóa trong các
văn bản pháp lý là vô cùng cần thiết nhằm phát triển bền vững, ổn định kinh tế nói
chung và hộ kinh doanh nói riêng.
1.1.2. Đặc điểm của hộ kinh doanh
Một là, hộ kinh doanh không có tư cách pháp nhân và không có con dấu pháp
nhân, hộ kinh doanh là chủ thể đặc biệt của pháp luật Việt Nam. Hộ kinh doanh
mang bản chất là cá nhân kinh doanh và do một cá nhân thành lập, do đó không thể

là pháp nhân. Hơn nữa, hộ kinh doanh khác với loại hình Công ty trách nhiệm hữu
hạn một thành viên, bởi công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên là một thực thể
tách biệt với chủ sở hữu của nó. Ngược lại, hộ kinh doanh lại không tách biệt với
chủ sở hữu, mọi tài sản của hộ kinh doanh đều là tài sản của tự cá nhân tạo lập và
được hưởng toàn bộ lợi nhuận sau khi đã thực hiện các nghĩa vụ tài chính theo quy
11


định pháp luật và gánh chịu mọi nghĩa vụ liên quan. Theo mô hình hộ kinh doanh,
cá nhân chủ hộ hoặc cá nhân thành viên của hộ tiến hành hoạt động kinh doanh và
chịu trách nhiệm trực tiếp các rủi ro trong kinh doanh bằng toàn bộ tài sản. Ngoài ra,
hộ kinh doanh không thể nhân danh mình tham gia vào các quan hệ pháp luật mà lệ
thuộc vào tư cách cá nhân của chủ hộ hoặc đại diện hộ. Mặc dù Nghị định
78/2015/NĐ-CP không quy định rõ tư cách pháp lý của hộ kinh doanh nhưng với
đặc điểm về sở hữu tài sản và trách nhiệm về tài sản nêu trên, hộ kinh doanh không
thỏa mãn đầy đủ các điểu kiện của một pháp nhân theo quy định tại Bộ luật Dân sự
2015. Hộ kinh doanh không thỏa mãn hai trong bốn dấu hiệu của một pháp nhân, đó
là: “có tài sản độc lập với cá nhân, tổ chức khác” và “nhân danh chính mình tham
gia vào các quan hệ pháp luật một cách độc lập”. Một điểm khác biệt lớn so với
các loại hình doanh nghiệp khác chính là việc hộ kinh doanh không có con dấu
được khắc và đăng ký theo đúng quy định pháp luật tại cơ quan thẩm quyền. Nghị
định 96/2015/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều của Luật Doanh nghiệp, quy
định cụ thể: “Quy định về con dấu trong Nghị định này áp dụng đối với công ty cổ
phần, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty hợp danh và doanh nghiệp tư nhân
đăng ký doanh nghiệp theo quy định của Luật Doanh nghiệp, Luật Đầu tư. Tổ chức
đơn vị được thành lập theo các luật sau đây không áp dụng quy định về con dấu
trong Nghị định này mà thực hiện theo quy định hiện hành về quản lý và sử dụng
con dấu”. Theo quy định pháp luật về con dấu thì hộ kinh doanh không có con dấu
pháp nhân như các loại hình doanh nghiệp khác, hộ kinh doanh không được làm con
dấu pháp nhân (dấu tròn), mà chỉ có thể sử dụng dấu vuông, dấu chữ ký, dấu logo

để cung cấp thông tin về hộ kinh doanh cá thể.
Hai là, hộ kinh doanh là hình thức kinh doanh với quy mô nhỏ. Đặc điểm này
không xuất phát từ bản chất của hình thức này mà xuất phát từ những quy định của
pháp luật Việt Nam dựa trên việc căn cứ vào số lượng lao động được sử dụng để
sản xuất, kinh doanh. Theo tinh thần của Luật Doanh nghiệp 2014, hộ kinh doanh là
đơn vị có quy mô nhỏ nên phải thực hiện việc đăng ký kinh doanh và hoạt động dựa
trên các quy định của Chính phủ, do đó hình thức kinh doanh này không chịu sự

12


điều chỉnh của Luật Doanh nghiệp. Việc hộ kinh doanh sử dụng thường xuyên hơn
mười lao động phải tiến hành đăng ký thành lập doanh nghiệp theo quy định tại
Luật Doanh nghiệp 2014. Khoản 3 Điều 66 Nghị định 78/2015/NĐ-CP: “Hộ kinh
doanh có sử dụng từ mười lao động trở lên phải đăng ký thành lập doanh nghiệp
theo quy định”. Như vậy, quy định hiện hành về dấu hiệu xác định quy mô hộ kinh
doanh trọng Nghị định 78/2015/NĐ-CP đã kế thừa những quy định tiến bộ đã có
trong các nghị định trước đó. Tuy nhiên, Nghị định 78/2015/NĐ-CP chỉ bắt buộc hộ
kinh doanh sử dụng thường xuyên 10 lao động trở lên phải đăng ký thành lập doanh
nghiệp nhưng lại không cân nhắc đến yếu tố trong trường hợp hộ kinh doanh có hơn
một địa điểm kinh doanh thì có phải thành lập doanh nghiệp hay không. Điều này
dẫn đến nhiều bất cập trong thực tiễn thi hành các quy định pháp luật. [11]
Ba là, hoạt động sản xuất kinh doanh mang tính nghề nghiệp thường xuyên,
nghĩa là hộ kinh doanh hoạt động một cách chuyên nghiệp và thu nhập chính đáng
của họ xuất phát từ hoạt động kinh doanh. Nghị định 78/2015/NĐ-CP về đăng ký
kinh doanh quy định: “Hộ gia đình sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp, làm muối và
những người bán hàng rong, quà vặt, buôn chuyến, kinh doanh lưu động, làm dịch
vụ có thu nhập thấp không phải đăng ký, trừ trường hợp kinh doanh các ngành nghề
có điều kiện”.
Bốn là, hộ kinh doanh sử dụng không quá mười lao động và đăng ký kinh

doanh tại một địa điểm. Điều này giúp phân biệt hộ kinh doanh và các loại hình
doanh nghiệp. Tuy nhiên việc ấn định số lượng lao động và địa điểm kinh doanh lại
cho thấy sự ràng buộc quy mô hoạt động của hộ kinh doanh trong sản xuất, khiến
cho quyền tự do kinh doanh bị bó buộc, không thể mang lại hiệu quả kinh doanh với
năng xuất cao.
Năm là, hộ kinh doanh do một cá nhân, một nhóm người hoặc một gia đình
làm chủ sở hữu. Theo đó, cả ba nhóm đối tượng được pháp luật Việt Nam cho phép
thành lập hộ kinh doanh, bao gồm cá nhân là công dân Việt Nam, nhóm người, hộ
gia đình. Nhóm người hoặc chủ hộ cần phải cử một người đủ điều kiện là đại diện
cho nhóm hoặc cho hộ để tham gia giao dịch với bên ngoài. Mặc dù là chủ thể kinh

13


doanh chuyên nghiệp nhưng hộ kinh doanh không có tư cách của doanh nghiệp,
không có con dấu, không được mở chi nhánh, văn phòng đại diện và hơn nữa không
được thực hiện các quyền mà doanh nghiệp có như hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu
hay áp dụng Luật phá sản khi thua lỗ trong kinh doanh. Hình thức hộ kinh doanh
chỉ thể hiện tại Việt Nam, xét riêng dưới góc độ chủ thể hộ kinh doanh thì không
nước nào trên thế giới có mô hình kinh doanh mà có thể tồn tại ba loại chủ sở hữu.
Vị trí của hộ kinh doanh đã được Nhà nước công nhận và thể hiện một cách sâu sắc
trong xã hội nhằm tạo ra sự chuyển biến tích cực cho tình hình phát triền kinh tế đất
nước.
Sáu là, chủ hộ kinh doanh chịu trách nhiệm vô hạn bằng toàn bộ tài sản của
mình đối với mọi hoạt động kinh doanh, đối với các khoản nợ, cũng như các khoản
tiền nộp thuế khi tham gia hoạt động sản xuất, kinh doanh. Tài sản kinh doanh và
tài sản của chủ hộ kinh doanh không có sự tách bạch, cũng như không có sự phân
biệt rõ ràng về quyền và nghĩa vụ của chủ hộ kinh doanh và hộ kinh doanh. Khác
với loại hình doanh nghiệp với trách nhiệm hữu hạn, có vốn điều lệ và chịu trách
nhiệm giới hạn đối với hoạt động kinh doanh. Khi lựa chọn hình thức hộ kinh doanh

đồng nghĩa với việc chủ sở hữu quyết định chịu trách nhiệm không hạn định bằng
toàn bộ tài sản của mình, kể cả tài sản không đưa vào kinh doanh. Chính vì vậy,
Nhà nước không yêu cầu chủ sở hữu phải chuyển quyền sở hữu đối với tài sản, mà
chỉ cần đăng ký với cơ quan có thẩm quyền về vốn mà mình đầu tư. Đặc điểm này
của hộ kinh doanh có thể được xem là một trong những hạn chế của loại hình này,
tiềm ẩn nguy cơ đe dọa lợi ích không chỉ với chủ sở hữu mà còn ảnh hưởng đến
việc quy rõ trách nhiệm rủi ro cho các đối tác hợp tác kinh doanh với hộ kinh doanh.
Theo quy định pháp luật, trong bất kì trường hợp nào thì chủ sở hữu cũng là người
chịu trách nhiệm cuối cùng về toàn bộ các khoản nợ, cũng như các nghĩa vụ tài sản
khác trong quá trình hoạt động kinh doanh sinh lợi. Dù chủ sở hữu là một trong ba
loại chủ thể nêu trên thì họ vẫn phải chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình
và phải thanh toán các khoản nợ đến cùng. Ở đây còn phải bàn đến việc nếu chủ sử
hữu là nhóm người hoặc hộ gia đình thì các thành viên trong nhóm hoặc trong gia

14


đình phải liên đới chịu trách nhiệm vô hạn về hoạt động kinh doanh.
Hộ kinh doanh là một loại đặc thù riêng ở nước ta, do kinh tế đất nước ngày
càng phát triển nên hộ kinh doanh cũng ngày càng tăng, góp phần vào sự phát triển
kinh tế của đất nước. Với các quy định về hộ kinh doanh cho thấy việc Nhà nước
tạo điều kiện và khuyến khích người dân được tự do kinh doanh, có điều kiện đăng
ký kinh doanh phát triển riêng lẻ, không nhất thiết phải theo con đường thành lập
doanh nghiệp.
1.1.3. Cơ sở kinh tế - xã hội của việc hình thành hộ kinh doanh tại Việt
Nam
Việt Nam là quốc gia đang phát triển với nhiều tiềm lực kinh tế, do vậy bên
cạnh việc đưa ra các chính sách nhằm thu hút vốn đầu tư nước ngoài để đẩy mạnh
cạnh tranh kinh tế và dòng tiền ngoại bang thì việc đẩy mạnh sản xuất kinh doanh
trong nước cũng là một trong những chiến lược phát triển lâu dài. Trong chiến lược

phát triển nền kinh tế thị trường với nhiều thành phần kinh tế, ngay từ đầu vai trò
của hộ kinh doanh đã được đề cập và trở thành một trong các thành phần trọng yếu
đối với việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Có thể nói hộ kinh doanh là thành phần đã
đóng góp lâu dài cho sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Tìm hiểu cơ
sở kinh tế - xã hội của việc hình thành hộ kinh doanh tại Việt Nam nhằm hiểu rõ
hơn vị trí của hộ kinh doanh trong nền kinh tế nước nhà.
Ở Việt Nam, hộ kinh doanh vẫn là loại hình ưa chuộng và được sử dụng rộng
khắp cả nước. Hộ kinh doanh là loại hình có rất nhiều ưu điểm, phù hợp với đất
nước ta trong quá trình xây dựng và phát triển. Hộ kinh doanh tập trung ở nhiều lĩnh
vực nhưng chủ yếu nhất là nông, lâm, ngư nghiệp, tiểu thương,… Vì vậy, chính
sách khuyến khích phát triển hộ kinh doanh của Đảng và Nhà nước ta thực chất là
việc thực hiện phát triển hiệu quả và hợp lý các hình thức sản xuất và kinh doanh
trong nông nghiệp.
Khởi đầu là một quốc gia phát triển trọng yếu về nông nghiệp nên đa phần
các tầng lớp trong xã hội đều có mối quan hệ chặt chẽ với sự phát triển của nền kinh

15


tế nông thôn nên có thể nói rằng người dân nước ta coi trọng mối quan hệ làng xã,
và quan hệ huyết thống tình cảm hơn người phương Tây. Từ xa xưa đã sớm hình
thành tập tục con nối nghiệp cha, truyền thống kinh doanh theo huyết thống từ đời
này sang đời khác… Đến nay, trải qua 30 năm đổi mới thực hiện công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước, với bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, Đảng và Nhà nước ta
đã ban hành nhiều chính sách nhằm thay đổi định hướng phát triển kinh tế, xây
dựng nền kinh tế thị trường, với mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng,
dân chủ, văn mình. Trong hoạt động sản xuất kinh doanh, đặc điểm được quan tâm
nhất là mối quan hệ trong hoạt động kinh doanh. Đó có thể là mối quan hệ thứ bậc
và huyết thống, các hộ gia đình có mối quan hệ giúp đỡ lẫn nhau về kinh tế hay đời
sống tinh thần. Hộ kinh doanh gắn với từng giai đoạn lịch sử của nước ta và hơn

nữa với những sơ sở kinh tế xã hội đủ điều kiện và đòi hỏi hình thành loại hình hộ
kinh doanh nhằm giúp cho việc xây dựng hệ thống pháp luật bền vững. Trong bước
đầu đổi mới nền kinh tế, hộ kinh doanh là mô hình phù hợp để các cá nhân lựa chọn
phát triển thử sức ở lĩnh vực kinh doanh, bởi quy mô nhỏ và thủ tục pháp lý đơn
giản, hơn nữa lại gắn liền với lịch sử hình thành lâu đời đủ để hộ kinh doanh có cơ
hội phát triển và ngày càng lớn mạnh, hướng tới mục tiêu xây dựng hệ thống kinh
doanh bền vững.
1.1.4. Vị trí và vai trò của hộ kinh doanh trong nền kinh tế Việt Nam
Trong công cuộc đổi mới của Đảng và Nhà nước, phát triển nền kinh tế thị
trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay, mọi thành phần kinh tế
đều được quan tâm và khuyến khích phát triển, trong đó ngay từ những giai đoạn
đầu hộ kinh doanh đã sớm cho thấy tiềm năng lớn về đóng góp kinh tế, thúc đẩy sản
xuất cho nền kinh tế đất nước. Trong những năm qua, hoạt động san xuất kinh
doanh của các hộ kinh doanh không chỉ tăng lên về số lượng mà song hành đó còn
nâng cao cả về chất lượng sản xuất, kinh doanh, từng bước khẳng định vị trí và vai
trò to lớn trong hoạt động kinh tế nước nhà. Đối với Việt Nam, hộ kinh doanh tuy
mang quy mô nhỏ hơn so với các loại hình doanh nghiệp khác, nhưng vị trí của loại
hình kinh doanh này lại vô cùng quan trọng, đặc biệt trong những năm gần đây vị trí
16


và vai trò của hộ kinh doanh lại càng quan trọng hơn bao giờ hết.
Một là, hộ kinh doanh đã đóng góp đáng kể vào kết quả của hoạt động kinh tế
Việt Nam. Trong các loại hình sản xuất kinh doanh ở nước ta hiện nay thì hộ kinh
doanh có sức lan tỏa trong mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội, làm đa dạng,
góp phần hỗ trợ tư liệu sản xuất cho các thành phần kinh tế khác. Sự hình thành và
phát triển của hộ kinh doanh đã đóng góp đáng kể cho giá trị sản xuất công nghiệp,
thương mại và dịch vụ của từng địa phương nói riêng và cả nước nói chung. Với
quy mô nhỏ và hình thức đơn giản, hộ kinh doanh không chỉ phù hợp phát triển ở
thành thị mà còn ở nhiều vùng miền khác, đặc biệt là nông thôn. Do vậy, hộ kinh

doanh có đầy đủ các yếu tố thuận lợi cho việc đóng góp lớn vào quá trình phát triển
kinh tế. So với các loại hình kinh tế khác, ước tính trên cả nước hiện nay có khoảng
5,3 đến 5,5 triệu hộ kinh doanh, đóng góp khoảng 11-13% GDP, trong đó bên cạnh
những hộ hoạt động trong lĩnh vực ăn uống, buôn bán, còn bao gồm cả các hộ kinh
doanh thương mại và các dịch vụ khác. Như vậy, từ số liệu thống kê sơ bộ trên có
thể thấy rõ vai trò quan trọng của hộ kinh doanh trong nền kinh tế thị trường hiện
nay, không chỉ góp phần vào việc tăng trưởng kinh tế, bên cạnh đó còn góp phần
tăng nguồn ngân sách nhà nước, phát triển kinh tế bền vững. [15]
Hai là, hộ kinh doanh có vai trò quan trọng trong việc giữ gìn những nghề
truyền thống của Việt Nam. Vai trò quan trọng của hộ kinh doanh là góp phần giữ
gìn những ngành nghề truyền thống, tạo ra những sản phẩm giá trị về vật chất lẫn
tinh thần. Nguồn vốn của Nhà nước và tập thể còn hạn hẹp, do đó để phát huy tối đa
tiềm lực sẵn có, buộc chúng ta cần đề ra các chính sách kinh tế phù hợp, khuyến
khích các hộ kinh doanh tăng vốn sản xuất, tiết kiệm trong tiêu dùng. Hộ kinh
doanh là một trong những thành phần kinh tế chiếm vị trí quan trọng trong quá trình
chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Ba là, hộ kinh doanh góp phần giải quyết việc làm cho người lao động. Song
hành với những chính sách phát triển kinh tế thì Nhà nước luôn chú trọng đến các
vấn đề an sinh xã hội, đặc biệt là việc làm cho lao động. Đó không chỉ là vấn đề cấp
bách của Việt Nam mà còn của tất cả các quốc gia đang phát triển. Hằng năm, Việt

17


Nam phải đối mặt với tình hình lao động thất nghiệp tăng cao và điều này chứng
minh việc làm luôn là nỗi lo lớn của toàn xã hội. Trước đòi hỏi lớn của xã hội, hộ
kinh doanh đã góp phần tạo việc làm cho người lao động cả thành thị và nông thôn,
thu hút đông đảo lao động tham gia sản xuất, kinh doanh. Thực tế trong những năm
qua, hộ kinh doanh đã giải quyết việc làm cho người lao động trong nhiều lĩnh vực.
Cụ thể việc phát triển hộ kinh doanh đã giúp cho khoảng 10 triệu lao động Việt

Nam có việc làm thường xuyên trên phạm vi cả nước. Qua đó có thể thấy rằng hộ
kinh doanh có vai trò rất quan trọng trong việc tạo ra phần lớn các công việc giải
quyết nhu cầu bức thiết về việc làm cho người lao động, đáp ứng đời sống xã hội
cho người dân trong nước, góp phần tạo ra thu nhập ổn định và nâng cao mức sống
toàn dân. [15]
Bốn là, hộ kinh doanh khai thác tốt các nguồn lực tại chỗ và phát huy hiệu
quả nguồn lực đầu tư tại địa phương. Thực tế cho thấy hộ kinh doanh có mặt ở hầu
hết các vùng, địa phương. Đây có thể được xem là lợi thế giúp hộ kinh doanh tận
dụng khai thác tốt các nguồn lực tại chỗ. Ngoài nguồn lao động, hộ kinh doanh còn
sử dụng nguồn tài chính của dân cư trong vùng, nguồn nguyên liệu trong vùng để
hoạt động sản xuất kinh doanh. Không giống như doanh nghiệp với khả năng thu
hút vốn từ nhiều nguồn đa dạng, kênh thu hút vốn của hộ kinh doanh bị hạn chế hơn
bởi quy mô nhỏ và giới hạn trách nhiệm. Do đó, nguồn huy động vốn chủ yếu là tự
thân chủ sở hữu và từ những người thân quen hoặc trong cùng hộ gia đình. Tuy
nhiên, đây được xem là nguồn vốn tiềm ẩn trong thị trường kinh doanh, giúp phát
huy tiềm năng và tận dụng nguồn lực sẵn có để góp phần phát triển kinh tế trong
giai đoạn hội nhập.
Năm là, phát triển hộ kinh doanh góp phần tạo sự đa dạng trong các hoạt
động sản xuất, làm cho nền kinh tế năng động và hiệu quả hơn. Với việc ngày càng
gia tăng về số lượng, hộ kinh doanh ngày càng đẩy mạnh tính cạnh tranh giữa các
chủ sở hữu, mang lại những lợi ích tốt nhất cho người tiêu dùng, bên cạnh đó cũng
giúp thúc đẩy gia tăng số lượng và chủng loại hàng hóa, dịch vụ tiêu dùng cho nền
kinh tế đất nước. Trên thực tế, có những ngành nghề nếu tổ chức sản xuất với quy

18


mô lớn chưa chắc mang lại hiệu quả so với việc sản xuất nhỏ lẻ ở các hộ kinh doanh.
Ngoài ra, sự góp mặt của hộ kinh doanh trong nền kinh tế còn có những tác dụng hỗ
trợ cho các doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả hơn như làm đại lý, trở thành vệ

tinh cho các doanh nghiệp, giúp đẩy mạnh tiêu thụ hàng hóa, gia công sản phẩm,
cung cấp nguyên vật liệu cho thị trường.
Bằng việc sử dụng lượng lao động lớn từ các hộ gia đình ở các địa phương, tạo
ra các chủng loại sản phẩm, hàng hóa dịch vụ đa dạng, phong phú, các hộ kinh
doanh không chỉ giải quyết việc làm cho người lao động mà bên cạnh đó còn giúp
tăng thu nhập, tăng trưởng kinh tế. Hộ kinh doanh từng bước trở thành mạng lưới
rộng lớn, phát triển về những vùng xa, khó khăn mà các lĩnh vực kinh doanh khác
chưa thể đáp ứng được. Đây là kênh phân phối và lưu thông hàng hóa quan trọng,
giúp cân đối thương mại và phát triển kinh tế địa phương.
1.2. Pháp luật về đăng ký hộ kinh doanh
1.2.1. Khái niệm, ý nghĩa của đăng ký hộ kinh doanh
Theo quy định pháp luật hiện hành, khi tiến hành hoạt động kinh doanh thì
buộc các chủ thể phải thực hiện đăng ký kinh doanh, đây được xem là hành vi tiền
đề mang ý nghĩa quan trọng trong việc hình thành hộ kinh doanh cũng như bất kì
loại hình doanh nghiệp khác. Mặc dù được sử dụng rộng rãi nhưng chưa có một
định nghĩa cụ thể về mặt pháp lý đối với đăng ký kinh doanh. Với chủ thể tiến hành
hoạt động kinh doanh thì đăng ký kinh doanh được xem là hoạt động mà trong đó
nhà đầu tư (chủ sở hữu) khai báo với cơ quan nhà nước có thẩm quyền về đăng ký
kinh doanh về dự kiến hoạt động kinh doanh của mình. Với cơ quan quản lý nhà
nước có thẩm quyền thì đăng ký kinh doanh được xem là thủ tục hành chính bắt
buộc, là biện pháp giúp nhà nước quản lý hoạt động của doanh nghiệp, thể hiện sự
ghi nhận bằng văn bản của cơ quan nhà nước có thẩm quyền về mặt pháp lý sự ra
đời của chủ thể kinh doanh. Qua hai cách tiếp cận trên ta thấy rằng đăng ký kinh
doanh là hoạt động của các chủ thể kinh doanh nhằm khai trình với cơ quan nhà
nước có thẩm quyền và giới kinh doanh về hoạt động kinh doanh và được nhà nước
ghi nhận thông qua việc cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh. Đây được xem là

19



thủ tục pháp lý bắt buộc trong hoạt động kinh doanh. [30]
Cũng giống như các loại hình doanh nghiệp, khi một cá nhân, một nhóm hoặc
hộ gia đình tham gia vào hoạt động kinh doanh trên thương trường nhằm mục đích
sinh lợi thì phải đăng ký hộ kinh doanh theo đúng quy định của pháp luật hiện hành.
Ngoài ra còn phải tuân thủ theo những điều kiện về đăng ký kinh doanh như kinh
doanh những ngành nghề mà pháp luật không cấm, chủ sở hữu phải đáp ứng đủ yêu
cầu và điều kiện để thành lập hộ kinh doanh. Đó là vấn đề luôn được đặt ra đối với
cá nhân kinh doanh theo hình thức hộ kinh doanh.
Đăng ký hộ kinh doanh thể hiện quyền tự do trong kinh doanh của công dân
và được pháp luật tôn trọng, bảo vệ. Mọi người có quyền tự do đăng ký kinh doanh
những ngành nghề mà pháp luật không cấm quy định cụ thể tại Điều 33 Hiến pháp
Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Ở đây chúng ta thấy được sự tự do
trong hoạt động kinh doanh của hộ kinh doanh được pháp luật bảo vệ quyền lợi
chính đáng, kinh doanh trong khuôn khổ cho phép. Ngoài ra, đăng ký hộ kinh doanh
còn mang ý nghĩa to lớn trong việc thể hiện nghĩa vụ của công dân đối với kinh tế
và sự phát triển chung của đất nước. Đăng ký hộ kinh doanh đối với hộ kinh doanh
tạo điều kiện thuận lợi cho các cơ quan quản lý nhà nước thực hiện việc kiểm tra,
giám sát, đảm bảo công tác quán lý của nhà nước về kinh tế. Đảm bảo nguồn thu
ngân sách thông qua việc thực hiện nghĩa vụ thuế, góp phần chống thất thu thuế đối
với ngân sách nhà nước, phát triển bền vững kinh tế đất nước. Việc đăng ký hộ kinh
doanh là nghĩa vụ của người dân khi tham gia hoạt động kinh tế, không chỉ mang lại
lợi ích cho riêng cá nhân mà còn góp phần tích cực vào sự phát triển chung của nền
kinh tế đất nước và còn được bảo vệ quyền lợi trong hoạt động kinh doanh.
1.2.2. Đặc điểm của đăng ký hộ kinh doanh
Đăng ký hộ kinh doanh là thủ tục hành chính mang tính bắt buộc chung buộc
các chủ thể phải thực hiện. Khi tham gia vào hoạt động kinh doanh thì hộ kinh
doanh phải thực hiện việc đăng ký thủ tục kinh doanh theo đúng quy định pháp luật
đặt ra nhằm mục đích để hộ kinh doanh công khai việc kinh doanh hợp pháp của
mình. Việc đăng ký hộ kinh doanh tuân theo quy định tại Nghị định số


20


×