Tải bản đầy đủ (.pdf) (75 trang)

Bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm văn học theo pháp luật việt nam từ thực tiễn thành phố đà nẵng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (865.82 KB, 75 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

LÊ TRUNG HIẾU

BẢO HỘ QUYỀN TÁC GIẢ ĐỐI VỚI
TÁC PHẨM VĂN HỌC THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM
TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI – Năm 2019


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

LÊ TRUNG HIẾU

BẢO HỘ QUYỀN TÁC GIẢ ĐỐI VỚI
TÁC PHẨM VĂN HỌC THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM
TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

Chuyên ngành: Luật Kinh tế
Mã số

: 8.38.01.07

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:


PGS.TS LÊ MAI THANH

HÀ NỘI – Năm 2019


LỜI CẢM ƠN
Tác giả xin chân thành cảm ơn Quý thầy cô, cán bộ Học viện Khoa học
Xã hội đã tận tình giảng dạy, hỗ trợ giúp đỡ trong suốt thời gian theo học tại
học viên.
Với tất cả lòng chân thành, em trân trọng kính gửi lời cảm ơn sâu sắc
đến PGS.TS Lê Mai Thanh đã hướng dẫn tận tình, chu đáo và đầy trách
nhiệm. Cô đã tạo mọi điều kiện thuận lợi để giúp đỡ em hoàn thành luận văn
một cách tốt nhất.
Chân thành cảm ơn Liên hiệp Các Hội Văn học nghệ thuật, Hội Nhà
văn thành phố Đà Nẵng, Văn phòng Cục bản quyền tác giả tại thành phố Đà
Nẵng và các Sở Văn hóa & Thể thao, Sở Thông tin Truyền thông và đặc biệt
cảm ơn Nhà xuất bản Đà Nẵng đã tạo điều kiện thuận lợi cho tôi suốt thời
gian học vừa qua.
Xin chân thành cảm ơn gia đình, bạn bè và đồng nghiệp đã giúp đỡ
động viên tôi hoàn thành luận văn này.


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các số liệu nêu trong luận văn là trung thực. Những
kết luận khoa học của luận văn chưa từng được ai công bố
trong bất kỳ công trình nào khác.
Tác giả luận văn

Lê Trung Hiếu



MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1. LÝ LUẬN VỀ BẢO HỘ QUYỀN TÁC GIẢ ĐỐI VỚI
TÁC PHẨM VĂN HỌC VÀ PHÁP LUẬT BẢO HỘ QUYỀN TÁC
GIẢ ĐỐI VỚI TÁC PHẨM VĂN HỌC........................................................ 6
1.1. Khái niệm, nội dung và đặc điểm quyền tác giả đối với tác phẩm văn
học ..................................................................................................................... 6
1.2. Lý luận bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm văn học .......................... 19
1.3. Cơ sở pháp luật về bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm văn học ........ 22
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT BẢO HỘ QUYỀN TÁC
GIẢ ĐỐI VỚI TÁC PHẨM VĂN HỌC TỪ THỰC TIỄN THÀNH
PHỐ ĐÀ NẴNG ............................................................................................. 27
2.1. Tác phẩm văn học tại thành phố Đà Nẵng và yêu cầu bảo hộ quyền tác
giả đối với tác phẩm văn học .......................................................................... 27
2.2. Thực trạng xác lập quyền tác giả đối với tác phẩm văn học tại thành
phố Đà Nẵng.................................................................................................... 32
2.3. Thực trạng thực hiện quyền tác giả đối với tác phẩm văn học từ thực
tiễn thành phố Đà Nẵng................................................................................... 36
2.4. Thực trạng thực thi quyền tác giả đối với tác phẩm văn học từ thực
tiễn thành phố Đà Nẵng................................................................................... 40
CHƯƠNG 3. ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP
LUẬT BẢO HỘ QUYỀN TÁC GIẢ ĐỐI VỚI TÁC PHẨM VĂN
HỌC ................................................................................................................ 47
3.1. Định hướng, hoàn thiện pháp luật về bảo hộ quyền tác giả đối với tác
phẩm văn học .................................................................................................. 47


3.2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về quyền tác giả đối với tác phẩm văn

học ................................................................................................................... 51
KẾT LUẬN .................................................................................................... 61
TÀI LIỆU THAM KHẢO


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
Từ viết tắt

Từ/cụm từ được viết tắt

BLDS

Bộ luật Dân sự năm 2015

BLHS

Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa
đổi bổ sung năm 2017
Bộ Luật Tố tụng Dân sự năm

BLTTDS

2015
CHXHCN

Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa

CSH

Chủ sở hữu


Cư Berne

Công ước Berne

Công ước Bern về bảo hộ các tác
phẩm văn học nghệ thuật.

Hiệp định TRIPs

Trade-Related

Điều ước quốc tế đa phương về

Intellectual

Sở hữu trí tuệ và thương mại

Property Rights

trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ

Agreement
Luật SHTT

Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005
được sửa đổi bổ sung năm 2009.

SHTT


Sở hữu trí tuệ

QTG

Quyền tác giả

PLVN

Pháp luật Việt Nam

TPVH

Tác phẩm văn học

WIPO

World Intellectual

Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới

Property
Organization
WCT
VNNIC

WIPO Copyright

Hiệp ước của WIPO về quyền

Treaty


tác giả
Trung tâm Internet Việt Nam


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trải qua hàng ngàn năm lịch sử, trải qua quá trình lao động, chiến đấu,
xây dựng và bảo vệ đất nước, nhân dân ta đã sáng tạo nên những giá trị vật
chất và tinh thần vô cùng to lớn và đáng tự hào. Nền văn học Việt Nam là một
trong những bằng chứng tiêu biểu cho năng lực tinh thần sáng tạo ấy. Văn học
Việt Nam bao gồm hai bộ phận là văn học dân gian và văn học viết. Tác phẩm
văn học là nền tảng của văn học viết- là chặng đường đầu của nền văn học
dân tộc Việt Nam. Những giá trị mà các tác phẩm văn học (TPVH) mang đến
cho nhân loại là rất to lớn và toàn diện (trong sinh hoạt, giải trí, sản xuất kinh
doanh, học tập, nghiên cứu khoa học, quản lý nhà nước…)
Những giá trị về tinh thần cũng như lợi ích kinh tế mà việc bảo hộ
mang lại cho các tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả của các TPVH hết sức cần
thiết và quan trọng.
Nếu cơ chế bảo hộ quyền tác giả được thực hiện tốt thì sẽ khuyến khích
sự sáng tạo của các tác giả. Nhờ đó có thể bảo tồn, phát huy những giá trị,
những nét tinh hoa văn hóa do các tác phẩm văn học mang lại, nhằm góp
phần làm cho các tác phẩm văn học trở nên phong phú và đa dạng hơn.
Ngược lại, nếu không được ghi nhận xứng đáng thì sẽ là rào cản làm hạn chế
động lực sáng tạo và ứng dụng các tác phẩm văn học vào trong các quá trình
sinh hoạt, giải trí, sản xuất kinh doanh, học tập, nghiên cứu khoa học….
Mặc dù ở Việt Nam quyền tác giả (QTG) đã được ghi nhận lần đầu tiên
tại Nghị định 142/HĐBT ngày 14/11/1986 của Hội đồng Bộ trưởng về bảo hộ
quyền tác giả và đến nay đã có hàng loạt văn bản có liên quan đã được ban
hành gồm Luật, các văn bản hướng dẫn thi hành. Việt Nam cũng là thành viên

của một số các điều ước quốc tế về quyền tác giả nhưng vấn đề bảo hộ QTG
1


đối với tác phẩm văn học vẫn còn nhiều bất cập.
Nhận thức của người dân về quyền tác giả nói chung và quyền tác giả
đối với tác phẩm văn học nói riêng vẫn còn thấp. Việc tuân thủ và thi hành
pháp luật về quyền tác giả đối với tác phẩm văn học vẫn chưa thực sự hiệu
quả.
Trong kỷ nguyên công nghệ số phát triển bùng nổ như vũ bão như hiện
nay thì các phương tiện truyền thông đa dạng trở thành công cụ chủ yếu để
chuyển tải kiến thức, thành tựu đến khắp nơi trên thế giới và đồng thời việc vi
phạm QTG trở nên đa dạng và phức tạp hơn.
Bên cạnh đó, vấn đề bảo hộ quyền tác giả đối với các tác phẩm văn học
vẫn chưa được coi trọng và được quan tâm đúng mức. Quyền tác giả của
nhiều tác phẩm văn học vẫn còn bị xâm phạm trắng trợn và vẫn chưa có biện
pháp thực thi hiệu quả nhằm ngăn chặn và đẩy lùi được những hành vi vi
phạm, tạo rào cản cho hoạt động sáng tác văn học.
Giới luật học đã tiến hành một số nghiên cứu thuộc các thể loại khác
nhau về bảo hộ QTG nói chung và QTG đối với một số đối tượng chuyên biệt
nói riêng. Nhưng vấn đề bảo hộ QTG đối với TPVH tại địa bàn một thành phố
lớn như Đà Nẵng vẫn chưa được nghiên cứu. Xuất phát từ những lý do trên,
tác giả chọn đề tài: “Bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm văn học theo pháp
luật Việt Nam từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng” để làm đề tài cho luận văn
của mình.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Một số luận văn thạc sĩ liên quan đến quyền tác giả nói chung đã khai
thác vấn đề bảo hộ QTG dưới những khía cạnh khác nhau như:
- Bảo hộ quyền tác giả tại Việt Nam với việc Việt Nam gia nhập công
ước Berne, của Ngô Ngọc Phương, khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội,

2006;

2


- Công ước Berne và việc thực hiện trong lĩnh vực xuất bản ở Việt
Nam, của Phạm Thị Hương Giang, Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội,
2008;
- Pháp luật về quyền tác giả ở Việt Nam thực trạng và hướng hoàn
thiện”, của tác giả Phạm Hùng, 2012;
- Pháp luật về bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm âm nhạc được
khai thác trên tàu bay, của tác giả Nguyễn Thị Hà Linh 2012;
- Giới hạn quyền tác giả theo hiệp định TRIPs và pháp luật Việt Nam
của Nguyễn Thị Tuyết Nga, 2012;
- Pháp luật quốc tế và kinh nghiệm một số nước về bảo hộ quyền tác
giả đối với tác phẩm âm nhạc, của Trần Thị Thùy Dung, khoa Luật Đại học
Quốc gia Hà Nội, 2016;
- Quyền tác giả đối với công trình nghiên cứu khoa học theo pháp luật
sở hữu trí tuệ từ thực tiễn Đại học Y Dược thành phố Hồ Chí Minh của Lê Thị
Thanh Tâm, Học viện Khoa học Xã hội , 2016;
- Quyền tác giả đối với tác phẩm mỹ thuật ứng dụng theo pháp luật Việt
Nam của Đỗ Trung Kiên, Học viện Khoa học Xã hội, 2018;
Bên cạnh đó, còn có một số bài tạp chí, các chuyên đề, các cuộc hội
thảo, đề tài với chủ đề bảo hộ QTG được công bố tại Tạp chí chuyên ngành,
được tổ chức nghiên cứu và công bố tại các diễn đàn khác nhau. Tuy nhiên
hiện chưa có một công trình nghiên cứu cụ thể nào về bảo hộ QTG đối với
TPVH tại một số địa bàn nhất định mà việc xuất bản, công bố và lưu hành các
tác phẩm đó rất phổ biến.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu

Luận văn đánh giá thực trạng pháp luật bảo hộ QTG đối với TPVH từ
thực tiễn thành phố Đà Nẵng nhằm xác định cơ sở cho các giải pháp hoàn

3


thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm
văn học.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Làm nổi bật những vấn đề lý luận về quyền tác giả đối với tác phẩm
văn học và cơ sở pháp luật của Việt Nam về bảo hộ quyền tác giả này.
Đánh giá thực trạng pháp luật về bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm
văn học tại thành phố Đà Nẵng.
Trên cơ sở thực trạng bảo hộ, luận văn đề xuất phương hướng và kiến
nghị nhằm góp phần hoàn thiện pháp luật bảo hộ QTG đối với tác phẩm văn
học nói chung và tại thành phố Đà Nẵng nói riêng.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu, phân tích, đánh giá pháp luật về bảo hộ quyền tác
giả đối với tác phẩm văn học theo pháp luật Việt Nam từ thực tiễn thành phố
Đà Nẵng.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn chỉ tập trung nghiên cứu pháp luật về bảo hộ quyền tác giả
đối với tác phẩm văn học (văn học viết) mà không bao gồm các đối tượng
khác của quyền tác giả.
Luận văn giới hạn đánh giá thực trạng pháp luật thông qua thực tiễn
bảo hộ QTG đối với tác phẩm văn học (văn học viết) tại thành phố Đà Nẵng
từ khi Luật Sở hữu trí tuệ có hiệu lực.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ cơ lý luận

Luận văn sử dụng chủ nghĩa duy vật biện chứng, duy vật lịch sử, chủ
nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh và pháp luật làm phương pháp
luận nghiên cứu về bảo hộ QTG đối với tác phẩm văn học.

4


5.2. Phương pháp nghiên cứu
Nhằm có thể đạt được mục đích nghiên cứu, thì các phương pháp
chuyên ngành đều được áp dụng như: phương pháp phân tích - tổng hợp,
phương pháp hệ thống, phương pháp thống kê.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Phân tích tổng thể lý luận và pháp luật bảo hộ quyền tác giả đối với tác
phẩm văn học.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Qua thực trạng về quyền tác giả đối với tác phẩm văn học tại thành phố
Đà Nẵng sẽ đưa ra kiến nghị nhằm hoàn thiện và nâng cao hiệu quả về việc
bảo hộ QTG đối với tác phẩm văn học.
7. Kết cấu của luận văn
Không tính phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, thì
luận văn có kết cấu 03 chương:
Chương 1: Lý luận về bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm văn học
và pháp luật bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm văn học.
Chương 2: Thực trạng pháp luật bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm
văn học từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng.
Chương 3: Phương hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật về bảo hộ
quyền tác giả đối với tác phẩm văn học

5



CHƯƠNG 1
LÝ LUẬN VỀ BẢO HỘ QUYỀN TÁC GIẢ ĐỐI VỚI TÁC PHẨM
VĂN HỌC VÀ PHÁP LUẬT BẢO HỘ QUYỀN TÁC GIẢ ĐỐI VỚI
TÁC PHẨM VĂN HỌC
1.1. Khái niệm, nội dung và đặc điểm quyền tác giả đối với tác
phẩm văn học
1.1.1. Khái niệm quyền tác giả đối với tác phẩm văn học
Tác giả là người trực tiếp sáng tạo ra toàn bộ hoặc một phần tác phẩm
văn học, nghệ thuật, khoa học (tại Điều 6 Nghị định 22/2018/NĐ-CP của
Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Sở hữu trí
tuệ về quyền tác giả và quyền liên quan).
Quyền tác giả, theo tiếng Anh thực chất là quyền sao chép, vì từ
“copyright” được ghép từ “copy” (sao chép) và “right” (quyền) [32].
Quyền tác giả là độc quyền của một tác giả đối với tác phẩm của họ.
Quyền tác giả được dùng để bảo vệ các tác phẩm – những sáng tạo tinh thần
có tính chất văn hóa. Quyền này bảo vệ các quyền lợi của các cá nhân, của
các tổ chức và lợi ích kinh tế của tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả trong mối
liên quan với tác phẩm do mình sáng tạo ra hoặc sở hữu. Quyền này không
cần phải đăng ký và thuộc về tác giả khi một tác phẩm được ghi, giữ lại ít
nhất là một lần trên một phương tiện lưu trữ. Quyền tác giả chỉ được công
nhận khi tác phẩm được tạo lập một cách độc lập và duy nhất dưới hình thức
nhất định.
Ở mỗi quốc gia, pháp luật về quyền tác giả trao cho tác giả, chẳng hạn
nhạc sỹ, nhà văn, người viết phần mềm, nhà thiết kế trang web và các tác giả
sáng tạo khác sự bảo hộ pháp lý. Đối với các sáng tạo văn học của họ thì
thường được gọi là “tác phẩm”. Theo khoản 7 điều 4 Luật Sở hữu trí tuệ quy
6



định: “Tác phẩm là sản phẩm sáng tạo trong lĩnh vực văn học, nghệ thuật và
khoa học thể hiện bằng bất kỳ phương tiện hay hình thức nào”[42]. Từ đó có
thể rút ra là “tác phẩm văn học” (TPVH) là sản phẩm được sáng tạo trong lĩnh
vực văn học thông qua hoạt động lao động bằng trí não của tác giả.
Quyền tác giả đối với tác phẩm văn học là một nhóm độc quyền đối
với tác phẩm của họ; trong số đó một số quyền chỉ có hiệu lực trong một thời
hạn nhất định. Những quyền này cho phép tác giả kiểm soát việc sử dụng tác
phẩm của mình theo nhiều cách khác nhau và nhận được tiền thù lao khi có
người sử dụng tác phẩm của mình.
Hơn nữa, pháp luật về quyền tác giả cũng trao cho tác giả “quyền nhân
thân” nhằm bảo vệ danh tiếng của tác giả và sự toàn vẹn của tác phẩm. Ngoài
ra, đối với mỗi hình thức tác phẩm khác nhau thì có thời hạn bảo hộ khác
nhau, tùy thuộc vào quy định của mỗi quốc gia. Công ước Berne (Cư Berne)
cho phép tác giả được hưởng quyền tài sản suốt đời cộng thêm tối thiểu 50
năm sau đó[62].
Tuy nhiên, các quốc gia tuân thủ Công ước Berne được phép nâng thời
hạn hưởng tác quyền dài hơn [62].
Đối tượng của QTG là những công trình sáng tạo - là thành quả lao
động bằng hoạt động của trí não của một hay nhiều tác giả. QTG là một
quyền năng rất quan trọng có liên quan thiết thực đến lợi ích của những người
sáng tạo khoa học nói riêng và tác động đến cả xã hội nói chung [42], [1],
[28].
Như vậy, hiểu một cách đơn giản quyền tác giả là quyền của tổ chức, cá
nhân đối với tác phẩm do mình sáng tạo hoặc sở hữu, bao gồm các quyền
nhân thân và quyền tài sản (Điều 19 và Điều 20 luật Sở hữu trí tuệ).
Đối tượng được bảo hộ quyền tác giả là các tác phẩm trong lĩnh vực
văn học, khoa học và nghệ thuật [42]. Điều 14 Luật sở hữu trí tuệ (SHTT)

7



quy định các loại hình tác phẩm được bảo hộ ngoài tác phẩm văn học còn các
tác phẩm khác như tác phẩm, khoa học, sách giáo khoa, giáo trình và các tác
phẩm khác, bài giảng, bài phát biểu, bài nói khác, tác phẩm báo chí, tác phẩm
âm nhạc, tác phẩm sân khấu, tác phẩm điện ảnh, tác phẩm tạo hình, mỹ thuật
ứng dụng, tác phẩm nhiếp ảnh, tác phẩm kiến trúc, nghệ thuật dân gian,....
Những đối tượng không thuộc phạm vi bảo hộ quyền tác gải thì được quy
định tại điều 15 luật SHTT: “Tin tức thời sự thuần túy đưa tin; Văn bản quy
phạm pháp luật, văn bản hành chính, văn bản khác thuộc lĩnh vực tư pháp và
bản dịch chính thức cảu văn bản đó; Quy trình hệ thống, phương pháp, hoạt
động, khái niệm, nguyên lý, số liệu”.
Quyền tác giả bao gồm quyền nhân thân và quyền tài sản của tác giả,
chủ sở hữu quyền tác giả đối với tác phẩm văn học [43, tr.12].
Khoản 7 Điều 4 Luật SHTT định nghĩa tác phẩm như sau: “Tác phẩm
là sản phẩm sáng tạo trong lĩnh vực văn học, nghệ thuật và khoa học thể hiện
bằng bất kỳ phương tiện hay hình thức nào”. Do vậy tác phẩm phải là những
sáng tạo tinh thần của tác giả trong lĩnh vực văn học thể hiện dưới một
phương tiện hay hình thức nhất định. Các tác phẩm để được bảo hộ quyền tác
giả phải đáp ứng các yếu tố sau:
Thứ nhất, tác phẩm phải là thành quả của quá trình lao động trí tuệ
mang tính chất sáng tạo và chủ thể của hoạt động sáng tạo này là các tác giả
thông qua quá trình lao động trí óc, kinh nghiệm và các yếu tố hỗ trợ khác. Vì
vậy, tác phẩm văn học hết sức phong phú và đa dạng, chứa đựng những giá trị
tinh thần và giá trị kinh tế, công chúng đón nhận được nội dung tư tưởng, tình
cảm nhất định.
Thứ hai, tác phẩm được bảo hộ phải đảm bảo tính nguyên gốc, tức là
phải do tác giả trực tiếp sáng tạo bằng lao động trí tuệ của mình mà không sao
chép từ bất kỳ một tác phẩm nào khác. Vì ở mỗi quốc gia, ý nghĩa chính xác


8


về tính nguyên gốc là khác nhau trong pháp luật về quyền tác giả. Việc xác
định tác phẩm “gốc” trong tác phẩm văn học dựa trên căn cứ thể hiện quá
trình lao động sáng tạo của tác giả, những “chất riêng” do tác giả sáng tạo ra.
Thực tế, có những trường hợp sao chép, mà tác phẩm gốc và tác phẩm sao
chép tương tự nhau hoặc giống nhau song người bình thường không thể nhìn
thấy được.
Mặc dù đã có tiêu chí xác định tác phẩm văn học mang tính nguyên gốc
nhưng khi có tranh chấp, tác giả phải chứng minh tác phẩm được sáng tạo độc
lập hoặc nếu có sử dụng tác phẩm của người khác thì phải chỉ rõ phần sử
dụng này để có thể xác định tính nguyên gốc của tác phẩm của mình và bảo
đảm quyền của tác giả khác.
Thứ ba, tác phẩm văn học chỉ được bảo hộ hình thức thể hiện như dưới
dạng văn bản hay vật thể, chứ không bảo hộ ý tưởng. Tại khoản 1 điều 6 Luật
SHTT có quy định :“Quyền tác giả phát sinh từ khi tác phẩm được sáng tạo và
được thể hiện dưới một hình thức vật chất nhất định, không phân biệt nội
dung, chất lượng, hình thức, phương tiện, ngôn ngữ, đã công bố hay chưa
công bố, đã đăng ký hay chưa” [37].
Bên cạnh đó, tác phẩm còn được thể hiện dưới dạng vật thể nhưng đa
số các loại hình tác phẩm trên đều được sử dụng trong hoạt động xuất bản.
Tuy nhiên, để đảm bảo an ninh và ổn định chính trị cũng như lợi ích chung
của cộng đồng, nhà nước không bảo hộ những tác phẩm có nội dung: chống
lại nhà nước, phá hoại đoàn kết toàn dân, tuyên truyền bạo lực, chiến tranh
xâm lược; truyền bá tư tưởng văn hóa phản động, lối sống dâm ô đồi trụy, các
hành vi tội ác, tệ nạn xã hội, mê tín dị đoan, phá hoại thuần phong mĩ tục; tiết
lộ bí mật của Đảng, Nhà nước, bí mật quân sự, đời tư của công dân và bí mật
khác do pháp luật quy định; xuyên tạc lịch sử, phủ nhận thành tựu cách mạng,
xúc phạm vĩ nhân, anh hùng dân tộc, vu khống, xúc phạm uy tín, danh dự và


9


nhân phẩm của công dân. Những tác phẩm có nội dung đó không được nhà
nước bảo hộ và cũng không được sử dụng để xuất bản dưới bất kỳ hình thức
xuất bản nào.
Ngoài ra, Công ước Berne về bảo hộ các tác phẩm văn học còn có quy
định điều kiện để một tác phẩm được bảo hộ phải đảm bảo được định hình
dưới một hình thức nhất định. Tại điều 3 Công ước Berne cũng quy định rõ
các nước thành viên tham gia nếu theo luật pháp nước mình quy định "coi sự
tuân thủ các thủ tục như lưu chiểu, đăng kí, thông báo như là một điều kiện để
một tác phẩm được bảo hộ thì cũng phải coi đây là một điều kiện bảo hộ theo
Công ước" [32].
Các tác phẩm văn học được bảo hộ không phụ thuộc vào việc công bố
hoặc chưa công bố nếu như quốc gia có tác phẩm đó là thành viên của Công
ước. Nếu là công dân hay cư dân của một nước là thành viên của Công ước
Berne đã công bố tác phẩm của mình tại một trong số các nước thành viên của
Công ước, thì tác phẩm văn học đấy sẽ tự động được hưởng sự bảo hộ quyền
tác giả theo quy định trong Công ước Berne ở tất cả các nước thành viên còn
lại của Công ước này.
Ngoài ra, tác phẩm văn học đấy cũng sẽ được bảo hộ ở các nước thành
viên khác giống như các nước đó bảo hộ các tác phẩm văn học của công dân
nước mình. Tuy nhiên, cần lưu ý rằng việc bảo hộ quyền tác giả có tính chất
lãnh thổ. Tác phẩm chỉ được hưởng sự bảo hộ quyền tác giả nếu đáp ứng
được các tiêu chuẩn pháp lý được quy định bởi pháp luật về quyền tác giả của
nước muốn bảo hộ tác phẩm của mình. Vì vậy, mỗi nước có hệ thống bảo hộ
quyền tác giả riêng biệt, dựa trên một hay nhiều đạo luật quy định.
1.1.2. Đặc điểm quyền tác giả đối với tác phẩm văn học
Quyền tác giả có tính chất lãnh thổ triệt để, tác phẩm chỉ được hưởng

sự bảo hộ quyền tác giả nếu đáp ứng các điều kiện bảo hộ được quy định bởi

10


pháp luật về quyền tác giả của nước muốn bảo hộ tác phẩm của mình. Vì vậy,
mỗi nước có hệ thống bảo hộ quyền tác giả riêng biệt, dựa trên một hay nhiều
đạo luật quy định. Ngoài ra, quyền tác giả còn có những đặc điểm riêng sau:
Quyền tác giả chỉ được công nhận khi TPVH là sản phẩm của lao động
trí não, sáng tạo hoặc có một phần công sức của tác giả và có tính chất duy
nhất. Đối tượng của QTG là các TPVH luôn mang tính sáng tạo trực tiếp từ
con người cụ thể mang dấu ấn cá nhân hoặc tập thể thông qua hoạt động của
trí não và các yếu tố hỗ trợ khác tạo ra thành quả là các TPVH được thể hiện
dưới hình thức nhất định. Mọi cá nhân đều có quyền sáng tác các tác phẩm
văn học và khi cá nhân tạo ra các TPVH đó phải do tác giả trực tiếp thực hiện
thông qua hoạt động lao động bằng trí não của mình mà không phải sao chép
từ các TPVH của người khác, (khoản 3 điều 14 luật SHTT). Cá nhân làm các
công việc hỗ trợ đóng góp ý kiến, sửa chữa câu từ, cung cấp tư liệu, đưa ra ý
tưởng để người khác sáng tạo không phải là tác giả (Khoản 3 điều 6 Nghị
định 22/2018/NĐ-CP ngày 23/2/2018 của Chính phủ quy định chi tiết một số
điều và biện pháp thi hành Luật Sở hữu trí tuệ về quyền tác giả và quyền liên
quan).
QTG có thể bị giới hạn về thời gian theo quy định của pháp luật như:
quyền công bố, phổ biến các TPVH cũng như quyền cho người khác hoặc
không cho người khác sử dụng TPVH của tác giả đồng thời là CSH QTG đối
với TPVH và chỉ được bảo hộ trong thời hạn suốt cuộc đời tác giả và 50 năm
tiếp theo năm tác giả chết và trong trường hợp TPVH có đồng tác giả thì thời
hạn bảo hộ chấm dứt vào năm thứ năm mươi sau năm đồng tác giả cuối cùng
chết (Khoản 2, Điều 27 luật SHTT). QTG có thể bị giới hạn về không gian,
một TPVH có thể được bảo hộ ở nước ngoài, nhưng không được bảo hộ ở

Việt Nam vì không đáp ứng các tiêu chuẩn bảo hộ theo pháp luật Việt Nam
(PLVN) và ngược lại, một TPVH có thể được bảo hộ ở Việt Nam nhưng

11


không được bảo hộ ở nước ngoài vì không đáp ứng được các tiêu chuẩn bảo
hộ theo pháp luật nước ngoài [42]. QTG có thể không được công nhận, bảo
hộ đối với một số TPVH có nội dung vi phạm đến chính trị, an ninh quốc gia,
văn hóa, đạo đức, thuần phong mỹ tục…[28, tr.47- tr.48]
TPVH phải đảm bảo tính nguyên gốc, có nghĩa là không phải đòi hỏi ý
tưởng của TPVH mà là hình thức thể hiện của ý tưởng đó do chính tác giả lao
động bằng hoạt động của trí não sáng tạo ra. Tính nguyên gốc không có nghĩa
là không có tính kế thừa [35, tr.50] nhưng mang đặc trưng riêng biệt có tính
sáng tạo với tính cách riêng của tác giả là tác phẩm được tác giả sáng tạo.
Pháp luật về QTG chỉ bảo hộ hình thức chứa đựng TPVH khi nó được
sáng tác ra và được thể hiện dưới hình thức nhất định, mà không bảo hộ ý
tưởng sáng tác TPVH, không bảo hộ nội dung ý nghĩa giá trị của ý tưởng sáng
tác. Sự định hình của một TPVH được hiểu là khi TPVH xác lập trên một đối
tượng vật chất nào đó, ở một trạng thái bền vững hoặc ổn định đủ để có thể
nhận biết trực tiếp thông qua các giác quan của con người hoặc gián tiếp qua
máy móc, thiết bị hỗ trợ kỹ thuật mà con người có thể sao chép, nhân bản
TPVH và truyền đạt cho người khác [4, tr.32].
QTG được xác lập dựa vào chính hành vi tạo ra TPVH của tác giả,
không phụ thuộc vào thể thức, thủ tục bất kể nào (khoản 1 điều 6 luật SHTT).
Chủ thể khác được phép sử dụng TPVH được bảo hộ nếu việc sử dụng đó
không nhằm mục đích thương mại, không ảnh hưởng đến việc sử dụng, khai
thác bình thường của TPVH, không xâm hại đến các quyền, lợi ích hợp pháp
khác của tác giả và CSH QTG [42].
1.1.3. Nội dung quyền tác giả đối với tác phẩm văn học

Nội dung quyền tác giả bao gồm quyền nhân thân và quyền tài sản,
nằm đan xen ở các quy định của Công ước Berne về bảo hộ các tác phẩm văn
học nghệ thuật. Theo Điều 6 của Công ước Berne quyền nhân thân độc lập
12


với quyền kinh tế của tác giả và cả sau khi quyền này đã được chuyển
nhượng, tác giả vẫn giữ nguyên quyền nhân thân như được thừa nhận mình là
tác giả của tác phẩm và phản đối bất kỳ sự xuyên tạc, cắt xén hay sửa đổi
hoặc những vi phạm khác đối với tác phẩm có thể làm phương hại đến danh
dự và tiếng tăm tác giả. Việc quy định những quyền trên phụ thuộc vào pháp
luật của từng quốc gia thành viên.
Luật SHTT cũng quy định nội dung của quyền tác giả đối với tác phẩm
bao gồm quyền nhân thân và quyền tài sản. Việc xác định rõ nội dung quyền
tác giả có ý nghĩa rất quan trọng bảo đảm cho tác giả, chủ sở hữu quyền tác
giả biết được mình có một số hay tất cả các quyền tài sản và quyền nhân thân
quy định trong Điều 19 và Điều 20 của Luật SHTT.
Quyền nhân thân bao gồm có quyền nhân thân gắn với tài sản và quyền
nhân thân không gắn liền với tài sản. Các quyền nhân thân không gắn với tài
sản là những quyền gắn liền với nhân thân của tác giả và không thể chuyển
giao, không thể thừa kế và được bảo hộ vô thời hạn, chỉ có tác giả mới có đặc
quyền này cho dù tác giả đồng thời hoặc không đồng thời là CSH QTG, bao
gồm các quyền:
Thứ nhất là quyền được đặt tên cho TPVH, điều này có ý nghĩa trong
việc cá biệt hóa TPVH, thường phản ảnh ý tưởng của tác giả giúp công chúng
dễ dàng tiếp cận với ý đồ của tác giả trong TPVH và không có ý nghĩa pháp
lý với việc bảo hộ QTG vì TPVH có thể được bảo hộ khi nó không có tên và
quyền đặt tên không áp dụng cho trường hợp tác giả dịch TPVH từ ngôn ngữ
này sang ngôn ngữ khác. Quyền đặt tên cho TPVH là quyền nhân thân chỉ
thuộc về tác giả của TPVH kể cả khi tác giả sáng tác ra TPVH theo hợp đồng

hoặc theo nhiệm vụ.
Thứ hai, đứng tên tác giả trong TPVH, điều này khẳng định TPVH là
kết quả hoạt động sáng tạo của mình tác giả thường đứng tên trên TPVH đó

13


(có thể dùng tên thật hoặc bút danh). Tác giả có quyền yêu cầu được nêu tên
thật hoặc bút danh khi TPVH được công bố sử dụng.
Thứ ba, là quyền công bố hoặc cho phép người khác công bố tác phẩm
văn học. Đây là quyền nhân thân duy nhất gắn với các quyền tài sản và có thể
chuyển giao quy định tại khoản 3 điều 19 luật SHTT. Thực chất, quyền này
không hoàn toàn là quyền nhân thân mà là quyền tài sản, vì thông qua việc
công bố TPVH của mình, tác giả thu được những lợi ích kinh tế nhất định.
Quyền này thuộc về tác giả, nếu tác giả đồng thời là CSH QTG; quyền này
thuộc về CSH QTG, nếu tác giả không đồng thời là CSH QTG. Quyền này chỉ
được bảo hộ có thời hạn trong suốt cuộc đời tác giả và 50 năm sau khi tác giả
chết, có thể được chuyển giao và có thể được thừa kế. Tuy nhiên, riêng quyền
được nhận giải thưởng đối với TPVH không chỉ mang ý nghĩa vật chất, mà cả
yếu tố tinh thần trong đó yếu tố tinh thần nổi trội hơn, vì vậy quyền này thuộc
về tác giả đồng thời hay không đồng thời là CSH QTG [42],[52].
Thứ tư, là quyền bảo vệ toàn vẹn TPVH không cho người khác sửa
chữa, cắt xén hoặc xuyên tạc tác phẩm dưới bất kỳ hình thức nào gây phương
hại đến danh dự và uy tín của tác giả. Điều này nhằm bảo vệ sự toàn vẹn của
TPVH nhằm tránh bị sai lệch nội dung. Trong các quyền nhân thân không thể
chuyển giao thì quyền bảo vệ sự toàn vẹn của TPVH được coi là quan trọng
nhất và chính vì quan trọng nhất thì trong thực tiễn nó cũng thường bị xâm
phạm nhiều nhất. Tuy nhiêu cũng có một số các ngoại lệ như:
- Trích dẫn hợp lý các TPVH vì mục đích giảng dạy, TPVH không bị
coi là xâm phạm quyền bảo vệ sự toàn vẹn của TPVH.

- Sau khi TPVH được công bố, những người khác làm phái sinh, có
những thay đổi mới về nội dung cũng như hình thức thể hiện so với ban đầu
thì cũng không được coi là xâm phạm quyền bảo vệ sự vẹn toàn của TPVH.
Khoản 3 Điều 20 Nghị định số 22/2018/NĐ-CP ngày 23/2/2018 của Chính

14


phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Sở hữu trí tuệ về
quyền tác giả và quyền liên quan đã quy định: “Quyền bảo vệ sự toàn vẹn của
tác phẩm, không cho người khác sửa chữa, cắt xén tác phẩm quy định tại
khoản 4 điều 19 của Luật SHTT là việc không cho người khác sửa chữa, cắt
xén tác phẩm trừ trường hợp có thỏa thuận với tác giả”[42].
Quyền tài sản của tác giả tại điều 20 Luật SHTT là một bộ phận của
QTG. Quyền tài sản là tập hợp các quyền nhằm bảo vệ lợi ích được khai thác,
tham gia vào quá trình sử dụng và khai thác các giá trị kinh tế TPVH của tác
giả. Trong trường hợp tác giả đồng thời là CSH QTG, thì phạm vi các quyền
tài sản của tác giả sẽ rộng hơn so với trường hợp tác giả không đồng thời là
CSH QTG. Các quyền tài sản của tác giả đồng thời là CSH QTG có thể
chuyển giao cho người khác thông qua các giao dịch pháp lý hoặc thông qua
thừa kế và có thể bị tịch biên để thi hành nghĩa vụ. Các quyền tài sản này đều
được bảo hộ có thời hạn (trong thời gian tác giả còn sống và 50 năm sau khi
tác giả chết).
Tác giả mà đồng thời là chủ sở hữu tác phẩm văn học được độc quyền
sử dụng TPVH của mình, được quyền cấm mọi hành vi sử dụng tác phẩm văn
học của mình. Điều này cũng có nghĩa tác giả đồng thời là CSH QTG là
người có quyền cho phép người khác sử dụng TPVH của mình và hưởng lợi
ích phân chia từ việc cho người khác sử dụng TPVH đấy và thường được thực
hiện thông qua hình thức hợp đồng sử dụng, chuyển giao, nhượng quyền khai
thác các TPVH. Việc được hưởng nhuận bút, hưởng thù lao và những lợi ích

vật chất khác liên quan đến TPVH của mình là hệ quả của quyền cho người
khác sử dụng các TPVH của mình; pháp luật của nhiều nước quy định quyền
được độc quyền sử dụng TPVH, cho hoặc không cho người khác sử dụng
TPVH là quyền tài sản. Pháp luật của Việt Nam quy định quyền này là quyền
tinh thần hay còn gọi là quyền nhân thân, nhưng lại áp dụng cách điều chỉnh

15


như các quyền tài sản, có nghĩa là quyền này có thể chuyển giao được và chỉ
được bảo hộ có thời hạn.
Đối với trường hợp tác giả không đồng thời là CSH QTG thì quyền
nhân thân của tác giả hẹp hơn so với trường hợp tác giả đồng thời là CSH
QTG gồm: các quyền nhân thân không gắn với tài sản và không thể chuyển
giao và quyền bảo vệ sự toàn vẹn của TPVH, không cho người khác sửa chữa,
cắt xén hoặc xuyên tạc TPVH dưới bất kì hình thức nào gây phương hại đến
danh dự và uy tín của tác giả.
Quyền tài sản của tác giả không đồng thời là chủ sở hữu quyền tác giả
gồm: được hưởng nhuận bút; được hưởng thù lao khi tác phẩm văn học của
mình được sử dụng; được nhận giải thưởng đối với tác phẩm văn học mà
mình là tác giả. Người có nghĩa vụ trả nhuận bút trong trường hợp này là chủ
sở hữu QTG bất kể chủ sở hữu QTG trực tiếp sử dụng tác phẩm văn học hoặc
cho phép người thứ ba sử dụng và CSH QTG có thu được tiền sử dụng từ
người thứ ba hay không, thì CSH QTG vẫn luôn là người có nghĩa vụ trả tiền
nhuận bút cho tác giả.
Trường hợp TPVH được trao giải thưởng, thì tác giả trực tiếp nhận giải
thưởng (kể cả danh hiệu lẫn tiền thưởng, nếu có) từ cơ quan tổ chức trao giải
thưởng, không qua người trung gian là CSH QTG vì giải thưởng chứa đựng
yếu tố tinh thần chiếm ưu thế cao hơn yếu tố vật chất, nên quyền này thuộc về
tác giả. Chủ sở hữu quyền tác giả không đồng thời là tác giả có quyền tài sản:

được hưởng lợi ích vật chất từ việc sử dụng TPVH tại điều 36 luật SHTT quy
định: Chủ sở hữu quyền tác giả là tổ chức, cá nhân nắm giữ một, một số hoặc
toàn bộ các quyền tài sản quy định tại điều 20 của Luật SHTT.
Chủ sở hữu quyền tác giả đương nhiên có độc quyền hoặc cho phép
người khác thực hiện quyền này và sẽ được hưởng lợi ích từ người khác thông
qua việc cho phép thực hiện quyền đó gồm:

16


- Làm tác phẩm văn học phái sinh như: dịch, biên dịch, biên soạn, tuyển
chọn…Người không phải là CSH QTG khi làm TPVH phái sinh phải trả tiền
nhuận bút, thù lao …cho CSH QTG gốc.
- Quyền sao chép tác phẩm văn học được quy định tại khoản 10 điều 4
Luật SHTT: “Là việc tạo ra một hoặc nhiều bản sao của tác phẩm hoặc bản
ghi âm, ghi hình bằng bất kì phương tiện hay hình thức nào, bao gồm cả việc
tạo ra bản sao dưới hình thức điện tử ’’[37] . Quyền sao chép thuộc QTG một
lần nữa được hướng dẫn tại khoản 2 điều 21 Nghị định số 22/2018/NĐ-CP
ngày 23/2/2018 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi
hành Luật Sở hữu trí tuệ về quyền tác giả và quyền liên quan, theo đó “quyền
sao chép quyền tác giả là một trong các quyền tài sản độc quyền thuộc QTG,
do CSH thực hiện hoặc cho phép người khác thực hiện việc tạo ra bản sao tác
phẩm bằng bất kì phương tiện hay hình thức nào, bao gồm cả việc tạo ra bản
sao dưới hình thức điện tử”. Nếu như trước đây, sao chép được hiểu là việc
làm các bản sao dưới các hình thức vật chất hữu hình như văn bản, đĩa…thì
quy định này đã mở rộng phạm vi quyền sao chép đến cả các hình thức điện
tử có nghĩa là sẽ được số hóa thong qua các phương tiện kỹ thuật. Quy định
này hoàn toàn phù hợp với khái niệm sao chép trong điều 9 Cư Berne về bảo
hộ các tác phẩm văn học nghệ thuật qui định: “tác giả được hưởng độc quyền
cho phép sao in các tác phẩm đó dưới bất kì hình thức nào’’[45].

Chủ sở hữu quyền tác giả có quyền được phân phối, được nhập khẩu
bản gốc hoặc bản sao của tác phẩm văn học; Quyền này được xem là một
trong những phương thức sử dụng TPVH một cách độc lập. Phân phối TPVH
là việc đưa những vật thể hiện hoặc sao chép TPVH vào giao lưu dân sự
thông qua các hợp đồng như mua bán, trao đổi, tặng cho…Đối tượng phân
phối có thể là bản gốc hoặc bản sao của TPVH. Bên cạnh đó CSH QTG còn
có quyền truyền đạt TPVH đến công chúng bằng phương tiện hữu tuyến, vô

17


tuyến, mạng thông tin điện tử hoặc bất kỳ phương tiện kỹ thuật nào khác.
CSH QTG có được những độc quyền khai thác, sử dụng những thành
quả sáng tạo, đầu tư của họ vì những đóng góp của họ. Tuy nhiên điều này có
thể là nguyên nhân gây cản trở cho sự tiếp cận của công chúng và vô hình
ngăn chặn các giao lưu dân sự liên quan đến loại quyền tài sản đặc biệt này.
Vì thế, để hài hòa lợi ích của chủ thể QTG và lợi ích cộng đồng trong việc
tiếp cận, sử dụng TPVH.
PLVN có quy định các hạn chế của QTG đối với một số hành vi sử
dụng, khai thác QTG như được sử dụng TPVH được công bố mà không phải
xin phép, không phải trả tiền nhuận bút, thù lao hoặc không phải xin phép
nhưng phải trả tiền nhuận bút, thù lao cho chủ thể quyền khi sử dụng TPVH
được công bố (Điều 25, điều 26 Luật SHTT).
Do đó, bên cạnh việc quy định độc quyền sao chép cho CSH, pháp luật
còn quy định những hạn chế QTG đối với quyền sao chép sao cho phù hợp
với khoản 2 điều 9 Cư Berne về Bảo hộ các tác phẩm văn học nghệ thuật quy
định: “Luật pháp quốc gia thành viên có quyền cho phép sao in tác phẩm
trong một vài trường hợp đặc biệt, miễn là sự sao in đó không phương hại đến
việc khai thác bình thường tác phẩm hoặc không gây thiệt hại bất chính cho
những quyền lợi hợp pháp của tác giả”

Với các quyền trên, chủ sở hữu hoặc đồng chủ sở hữu tự mình thực
hiện hoặc cho phép người khác thực hiện, trong trường hợp khi cho người
khác thực hiện quyền, họ có thể được hưởng tiền nhuận bút, thù lao, các lợi
ích khác theo thỏa thuận. Mọi hành vi sử dụng tác phẩm mà không xin phép
chủ sở hữu tác phẩm đều bị coi là hành vi xâm phạm quyền tác giả.
Bên cạnh việc tác giả được thừa nhận và bảo hộ quyền theo quy định,
thì pháp luật cũng có những giới hạn về quyền tác giả. Việc giới hạn thể hiện
ở chỗ pháp luật quy định những trường hợp nhất định thì cá nhân, tổ chức

18


×