Tải bản đầy đủ (.pdf) (90 trang)

Hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ theo pháp luật việt nam từ thực tiễn thành phố đà nẵng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.31 MB, 90 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN HỒNG CƯƠNG

HỖ TRỢ DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ
THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN
THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT KINH TẾ

HÀ NỘI, năm 2019


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN HỒNG CƯƠNG

HỖ TRỢ DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ
THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN
THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG
Ngành: Luật kinh tế
Mã số: 8.38.01.07

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS. TS. BÙI NGUYÊN KHÁNH

HÀ NỘI, năm 2019



LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu
ghi trong luận văn là trung thực. Những kết luận khoa học của luận văn chưa
từng được công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN

NGUYỄN HỒNG CƯƠNG


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ............................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HỖ TRỢ DOANH NGHIỆP
NHỎ VÀ VỪA THEO PHÁP LUẬT ................................................................. 9
1.1. Tổng quan về doanh nghiệp nhỏ và vừa ......................................................... 9
1.2. Pháp luật về hỗ trợ phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa...............................15
1.3. Kinh nghiệm điều chỉnh pháp luật của một số quốc gia về hỗ trợ phát triển
doanh nghiệp nhỏ và vừa và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam .......................21
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT HỖ TRỢ DOANH NGHIỆP
NHỎ VÀ VỪA Ở VIỆT NAM HIỆN NAY VÀ THỰC TIỄN THỰC THI
TẠI THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG ..........................................................................33
2.1. Thực trạng pháp luật hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam hiện nay
..............................................................................................................................33
2.2. Thực trạng thực thi pháp luật hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa từ thực tiễn
thành phố Đà Nẵng ...............................................................................................55
CHƯƠNG 3. PHƯƠNG HƯỚNG, GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP
LUẬT HỖ TRỢ DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA Ở VIỆT NAM TRONG
THỜI GIAN TỚI................................................................................................70
3.1. Phương hướng hoàn thiện .............................................................................70
3.2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật hỗ trợ phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa .75
KẾT LUẬN .........................................................................................................78


TÀI LIỆU THAM KHẢO


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
Ký hiệu

STT

Ý nghĩa

1

DNNVV

Doanh nghiệp nhỏ và vừa

2

FDI

Đầu tư trực tiếp nước ngoài

3

GTGT

Giá trị gia tăng

4


NHNN

Ngân hàng Nhà nước

5

NHTM

Ngân hàng thương mại

6

R&D

Nghiên cứu và phát triển

7

TCTD

Tổ chức tín dụng

8

TMCP

Thương mại cổ phần

9


TNDN

Thu nhập doanh nghiệp

10

TPP

Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương


DANH MỤC BẢNG, BIỂU

Bảng 1.1. Phân loại DNNVV ...............................................................................11
Bảng 1.2. Tổng hợp tên Luật dành cho DNNVV của một số quốc gia và vùng
lãnh thổ .................................................................................................................24
Bảng 1.3. Ma trận nội dung cơ bản hỗ trợ DNNVV của Luật DNNVV một số
nước ......................................................................................................................29


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trên thế giới, DNNVV đóng vai trị hết sức quan trọng trong việc thực hiện
các mục tiêu phát triển kinh tế xã hội. Tuy nhiên, DNNVV gặp phải nhiều khó
khăn trong q trình phát triển do những hạn chế về quy mô nhỏ, thiếu vốn và
khó tiếp cận nguồn vốn, trình độ cơng nghệ còn lạc hậu, khả năng quản trị doanh
nghiệp yếu, thiếu nguồn nhân lực có trình độ cao, thiếu mặt bằng để phát triển
sản xuất kinh doanh, đại bộ phận chưa quan tâm đến xây dựng thương hiệu,
khó liên kết để tạo thế mạnh chung... Chính vì vậy, trong những thập niên gần

đây, hệ thống doanh nghiệp này đang là mục tiêu trọng tâm của các chính sách
hỗ trợ phát triển kinh tế của các quốc gia. Nhiều chương trình và chính sách đã
được chính phủ các nước triển khai thực hiện để thúc đẩy sự phát triển của các
DNNVV.
Theo Tổng cục Thống kê, năm 2017, trong tổng cố 517.900 doanh nghiệp
(DN) đăng ký, số DN đang hoạt động, có doanh thu, nộp thuế vào ngân sách nhà
nước là 505.000 DN. Số DN còn lại là mới đầu tư, chưa đi vào hoạt động sản
xuất kinh doanh. Dù số lượng DN tăng nhưng chỉ có 10.100 DN lớn, chiếm tỷ lệ
khiêm tốn 1,9%. Số DNNVV chiếm tới 98,1%, trong đó, DN vừa có gần 8,5
nghìn DN, tăng 23,6% so với thời điểm 1/1/2012; DN nhỏ là 114,1 nghìn và DN
siêu nhỏ là 385,3 nghìn. Bình quân năm giai đoạn 2012- 2017, số DNVVN tăng
8,8% cao hơn mức tăng bình quân của DN lớn là 5,4%. Trong khi đó, số lượng
DN nhà nước giảm 18,4% và lao động giảm tới 23,1% so với thời điểm
1/1/2012. Bình quân giai đoạn 2012- 2017 mỗi năm giảm 4% về số DN và 5,1%
về số lao động. Điều này cho thấy, chủ trương cổ phần hóa, sắp xếp lại các
DNNN đã có tiến triển. Như vậy, số DNNVV là 507.860 DN, tăng 52,1% (tương
đương 174.000 DN) so với thời điểm 01/01/2012, chiếm 98,1%. Trong đó, DN
vừa có gần 8.500 DN, tăng 23,6% (tương đương gần 1.600 DN), chiếm 1,6%;
DN nhỏ là 114.100 DN, chiếm 22,0%, tăng 21,2% (tương đương gần 20 nghìn

1


DN) và DN siêu nhỏ là 385.300 DN, chiếm cao nhất với 74,4%, tăng 65,5%
(tương đương 152.000 DN)1. Bình quân năm giai đoạn 2012-2017, số DNVVN
tăng 8,8% cao hơn mức tăng bình qn của DN lớn là 5,3%. Có thể khẳng định
rằng, DNNVV là nơi tạo ra việc làm chủ yếu và tăng thu nhập cho người lao
động, giúp huy động các nguồn lực xã hội cho đầu tư phát triển, xóa đói giảm
nghèo…
Trong năm 2018, cả nước có 131,3 nghìn doanh nghiệp đăng ký thành lập

mới với tổng vốn đăng ký là 1.478,1 nghìn tỷ đồng, tăng 3,5% về số doanh
nghiệp và tăng 14,1% về số vốn đăng ký so với năm 2017. Tại thời điểm ngày 1-72018 cho thấy, cả nước hiện có 702 nghìn doanh nghiệp tồn tại dưới nhiều hình
thức. Từ thời điểm đó đến năm 2020 là còn 2,5 năm, với tốc độ khoảng 130 nghìn
doanh nghiệp được thành lập mới mỗi năm thì con số 1 triệu doanh nghiệp hồn
tồn có thể đạt được theo Nghị quyết số 35/NQ-CP của Chính phủ ngày 16/05/2016
về hỗ trợ và phát triển doanh nghiệp đến năm 2020.
Tuy nhiên, bối cảnh đất nước hội nhập kinh tế ngày càng sâu rộng đang tạo
ra khơng ít thách thức đối với sự phát triển của các DNNVV trên các phương
diện chính sách, pháp luật. Có thể khẳng định rằng, trong một thời gian dài,
pháp luật về hỗ trợ DNNVV hiện hành cịn khá nhiều hạn chế, bất cập: (i) Nhiều
chính sách hỗ trợ được quy định trong nhiều Luật chuyên ngành: Luật Đất đai,
Luật Đầu tư, Luật các tổ chức tín dụng, Luật Đấu thầu, Luật Khoa học và Cơng
nghệ, các Luật về thuế…; (ii) Các chính sách hỗ trợ tài chính, mặt bằng sản xuất,
hỗ trợ mua sắm cơng, ươm tạo doanh nghiệp... còn rất nhiều bất cập, hạn chế;
(iii) Việc triển khai thực hiện chính sách trợ giúp DNNVV cịn rất chậm (như
bảo lãnh tín dụng, hỗ trợ tài chính…); (iv) Nội dung nhiều chương trình trợ giúp
DNNVV còn dàn trải, chưa tập trung hoặc chưa gắn kết với nhau làm cho các
DNNVV chưa tiếp cận hay nhận được sự hỗ trợ một cách thuận lợi. (v) Cơ chế
điều phối hoạt động hỗ trợ DNNVV giữa các Bộ ngành, giữa Trung ương và địa

1

Nguồn: />
2


phương chưa hiệu quả; (vi) Chưa có cơ chế thu hút sự tham gia của khu vực tư
nhân, các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước đối với việc xây dựng và thực
hiện các chương trình hỗ trợ phát triển DNNVV trong khi nguồn ngân sách nhà
nước hạn chế.

Tại Kỳ họp thứ 3 Quốc hội khóa XIV đã thơng qua Luật Hỗ trợ DNNVV số
04/2017/QH14. Sự ra đời của Luật này, lần đầu tiên hoạt động hỗ trợ đối với
DNNVV Việt Nam đã được quy định tại một văn bản pháp quy ở cấp độ cao
nhất. Đây là cơ sở để hình thành một hệ thống quy định và chính sách hỗ trợ
phát triển DNNVV trên phạm vi cả nước. Để các quy định của Luật DNNVV có
thể triển khai trên thực tế, Chính phủ đã ban hành một số văn bản hướng dẫn
như: Nghị định số 34/2018/NĐ-CP ngày 08/3/2018 của Chính phủ về việc thành
lập, tổ chức và hoạt động của Quỹ Bảo lãnh tín dụng cho DNNVV; Nghị định số
38/NĐ-CP ngày 11/3/2018 của Chính phủ quy định chi tiết đầu tư cho DNNVV
khởi nghiệp sáng tạo; Nghị định số 39/2018/NĐ-CP ngày 11/3/2018 của Chính
phủ quy định chi tiết một số điều của Luật Hỗ trợ DNNVV. Chính phủ và các cơ
quan liên quan cũng đang dự thảo một số các văn bản, chính sách có liên quan
khác đến hoạt động trợ giúp, hỗ trợ đối với các DNNVV như vấn đề về quỹ phát
triển DNNVV, về cơ chế tài chính hỗ trợ tư vấn cho DNNVV, vấn đề về miễn
giảm thuế thu nhập DN, tiền sử dụng đất...Tuy nhiên, nhiều văn bản quy phạm
pháp luật nêu trên cịn quy định nhiều vấn đề mang tính ngun tắc, nền tảng, và
là căn cứ rất quan trọng để một số bộ, ngành tiếp tục nghiên cứu, hướng dẫn và
triển khai các chính sách cụ thể đối với hoạt động hỗ trợ phát triển DNNVV.
Trong bối cảnh đó, tác giả lựa chọn đề tài nghiên cứu cho luận văn là “Hỗ
trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ theo pháp luật Việt Nam từ thực tiễn thành phố
Đà Nẵng” nhằm nghiên cứu, làm sáng tỏ những vấn đề lý luận; tổng kết đánh
giá thực trạng pháp luật và thực tiễn thực thi pháp luật về hỗ trợ DNVVN của
thành phố Đà Nẵng để từ đó đề xuất các phương hướng, giải pháp hoàn thiện
pháp luật về hỗ trợ DNVVN trong thời gian tới.

3


2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Hỗ trợ DNNVV thông qua các cơ cấu thể chế đã có sự thay đổi dần mang

tính chất tồn cầu, trong đó nội dung khác biệt cơ bản được thể hiện qua vai trò
của Nhà nước trong sự can thiệp vào thị trường để phát triển khu vực doanh
nghiệp này. Các mơ hình đầu tiên, xuất hiện từ đầu thập niên 1950 trên thế giới,
nhìn nhận khu vực DNNVV như một thực thể yếu đuối cần bảo vệ, do vậy,
chính phủ các nước theo trường phái này đã xây dựng các chính sách phát triển
DNNVV theo chiều rộng nhằm chủ yếu thực hiện các mục tiêu chính trị, xã hội
như giải quyết công ăn việc làm hay phát triển cân đối vùng.
Ở Việt Nam, các nghiên cứu về DNNVV mới chỉ xuất hiện trong vài thập
niên gần đây khi Việt Nam đã trở thành thành viên chính thức của Tổ chức
thương mại thế giới (WTO) và hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế giới. Trong
số đó, phải kể đến các cơng trình khoa học tiêu biểu sau:
- Vũ Quốc Tuấn/Hoàng Thu Hoà, “Phát triển DNNVV, kinh nghiệm nước
ngoài và phát triển DNNVV ở Việt Nam”, NXB Thống kê, Hà Nội 2001. Cơng
trình nghiên cứu này đã giới thiệu kinh nghiệm xây dựng chính sách phát triển
DNNVV, mơ hình điều chỉnh pháp luật về hỗ trợ DNNVV ở một số quốc gia
trên thế giới và giới thiệu những bài học kinh nghiệm cho Việt Nam;
- Hồ Xuân Phương/Đỗ Minh Tuấn/ Chu Minh Phương, “Tài chính hỗ trợ
phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ”, NXB Tài Chính, Hà Nội năm 2002. Từ
cách tiếp cận của kinh tế học, các tác giả đã chỉ rõ các mơ hình hỗ trợ tài chính
cho DNNVV ở một số quốc gia trên thế giới và giới thiệu những bài học kinh
nghiệm cho Việt Nam.
- Viện nghiên cứu Thương Mại, “Xúc tiến xuất khẩu của Chính phủ cho
các doanh nghiệp vừa và nhỏ”, NXB Lao động – Xã hội, Hà Nội, 2003. Từ
thực tiễn khảo sát hoạt động thương mại ở các nước trên thế giới và ở Việt Nam,
cơng trình này đã chỉ rõ các phương thức xúc tiến xuất khẩu của Chính phủ cho
các DNVVN hoạt động xuất khẩu trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế;
- Phạm Thị Minh Nghĩa, “Thực trạng và các giải pháp thúc đẩy sự phát

4



triển DNNVV trên địa bàn thành phố Hà Nội trong điều kiện gia nhập WTO”,
Đề tài cấp Bộ 2008; Phạm Quang Trung, “Giải pháp nâng cao năng lực cạnh
tranh của các DNNVV trên địa bàn thành phố Hà Nội sau khi Việt Nam gia
nhập WTO (giai đoạn 2006-2010)” Đề tài cấp Bộ 2008 của thành phố Hà Nội;
Cả hai đề tài đều nhằm đánh giá thực trạng và xây dựng các giải pháp thúc đẩy
sự phát triển và tăng cường năng lực cạnh tranh của các DNVVN trên địa bàn
thành phố Hà Nội;
- Thái Văn Rê, “DNNVV ở Thành phố Hồ Chí Minh sau khi Việt Nam
gia nhập Tổ chức thương mại thế giới WTO”, 2011, Luận án TS tại Học viện
Chính trị - Hành chính quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh. Từ bối cảnh Việt Nam
là thành viên của Tổ chức thương mại thế giới WTO, tác giả khảo sát, đánh giá
và chỉ rõ lộ trình hỗ trợ cho các DNVVN phát triển trên địa bàn thành phố Hồ
Chí Minh;
- Có thể khẳng định rằng, từ khi có Luật hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa và
các văn bản quy phạm pháp luật hướng dẫn thi hành được ban hành chưa có
cơng trình nghiên cứu nào đánh giá hệ thống pháp luật về hỗ trợ DNVVN, đặc
biệt là các quy định hỗ trợ việc khởi nghiệp của DNVVN trên địa bàn các địa
phương nói chung, và thành phố Đà Nẵng nói riêng
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của Luận văn là làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về
hỗ trợ DNNVV theo pháp luật; phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật về hỗ trợ
DNNVV ở Việt Nam hiện nay và thực tiễn thực thi tại thành phố Đà Nẵng; và để
từ đó đề xuất các phương hướng, giải pháp hoàn thiện pháp luật về hỗ trợ
DNNVV trong thời gian tới.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện mục đích nghiên cứu trên, Luận văn có các nhiệm vụ cụ thể
sau đây:
- Nghiên cứu làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về hỗ trợ DNNVV theo


5


pháp luật;
- Nghiên cứu so sánh về kinh nghiệm điều chỉnh pháp luật hỗ trợ DNNVV
của một số quốc gia trên thế giới: Mỹ, Nhật Bản, Hàn Quốc, một số nước
ASEAN và đề xuất cho Việt Nam;
- Phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật hỗ trợ DNNVV ở Việt Nam hiện
nay và thực tiễn thực thi tại thành phố Đà Nẵng;
- Đề xuất các phương hướng, giải pháp hoàn thiện pháp luật hỗ trợ
DNNVV trong thời gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Các quy định pháp luật về hỗ trợ phát triển DNNVV tại Việt Nam và thành
phố Đà Nẵng
4.2. Phạm vi nghiên cứu
+ Về không gian, luận văn nghiên cứu các quy định pháp luật về hỗ trợ phát
triển DNNVV tại Việt Nam và thành phố Đà Nẵng.
+ Về thời gian, giới hạn trong khoảng thời gian từ năm 2017 đến nay.
+ Về nội dung, tập trung vào các quy định pháp luật về hỗ trợ cho DNNVV
của Việt Nam và thực tiễn thực hiện tại thành phố Đà Nẵng.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Đề tài nghiên cứu chủ yếu dựa trên phương pháp luận duy vật biện chứng,
trong đó vận dụng các quan điểm khách quan, toàn diện, lịch sử khi xem xét,
đánh giá từng vấn đề trong thời điểm cụ thể. Đồng thời dựa trên quan điểm,
đường lối của Đảng và chính sách, pháp luật của nhà nước về những vấn đề liên
quan.
5.2. Phương pháp nghiên cứu

Các phương pháp cụ thể sử dụng trong quá trình nghiên cứu là phương
pháp thu thập dữ liệu kết hợp với phương pháp phân tích và tổng hợp
Phương pháp thu thập số liệu: Dữ liệu được thu thập từ các văn bản quy

6


phạm pháp luật, sách, giáo trình, các cơng trình khoa học, tạp chí chuyên ngành
liên quan đến DNNVV, báo cáo hàng năm của Hiệp hội DNNVV, số liệu từ
Tổng cục Thống kê và Cục Phát triển doanh nghiệp – Bộ Kế hoạch và Đầu tư,
Phịng Thương mại và Cơng nghiệp Việt Nam… có giá trị trong việc đưa ra
những dẫn chứng rõ ràng, đảm bảo tính logic, thuyết phục cho luận văn cũng
như đáp ứng tính thực tiễn;
Phương pháp luật so sánh: được Luận văn sử dụng để làm rõ kinh nghiệm
điều chỉnh pháp luật về hỗ trợ DNNVV của một số quốc gia trên thế giới: Mỹ, Nhật
Bản, Hàn Quốc, một số nước ASEAN và đề xuất cho Việt Nam;
Phương pháp phân tích: Dựa trên những số liệu và thông tin đã thu thập
được trong phương pháp thu thập số liệu, tác giả tiến hành hệ thống hóa những
dữ liệu nhằm phục vụ mục đích nghiên cứu đặt ra, phân tích, đánh giá các nội
dung của quy định pháp luật hỗ trợ phát triển DNNVV hiện nay ở Việt Nam;
Phương pháp tổng hợp: Từ những kết quả nghiên cứu, Luận văn đã sử dụng
phương pháp này để đánh giá thực trạng pháp luật về hỗ trợ DNNVV ở Việt Nam
hiện nay và thực tiễn thực thi tại thành phố Đà Nẵng và qua đó đề xuất các
phương hướng, giải pháp hoàn thiện pháp luật.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Luận văn đã góp phần làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về hỗ trợ DNNVV
theo pháp luật nói chung và pháp luật về hỗ trợ DNNVV ở Việt Nam nói riêng.
Từ việc nghiên cứu so sánh, làm rõ kinh nghiệm điều chỉnh pháp luật về hỗ trợ
DNNVV của một số quốc gia trên thế giới: Mỹ, Nhật Bản, Hàn Quốc, một số

nước ASEAN và đề xuất cho Việt Nam
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
+ Phân tích, đánh giá có hệ thống thực trạng pháp luật về hỗ trợ DNNVV ở
Việt Nam hiện nay và thực tiễn thực thi tại thành phố Đà Nẵng;
+ Đề xuất các phương hướng, giải pháp hoàn thiện pháp luật về hỗ trợ
DNNVV trong thời gian tới

7


+ Kết quả nghiên cứu của luận văn nhằm tiếp tục hoàn thiệnpháp luật về hỗ
trợ DNNVV trong thời gian tới
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung của
luận văn được chia thành 3 chương, như sau:
Chương 1. Những vấn đề lý luận về hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa theo
pháp luật
Chương 2. Thực trạng pháp luật hỗ trợ DNNVV ở Việt Nam hiện nay và
thực tiễn thực thi tại thành phố Đà Nẵng
Chương 3. Phương hướng, giải pháp hoàn thiện pháp luật hỗ trợ DNNVV
trong thời gian tới

8


CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HỖ TRỢ DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ
VỪA THEO PHÁP LUẬT
1.1. Tổng quan về doanh nghiệp nhỏ và vừa


1.1.1. Khái niệm doanh nghiệp nhỏ và vừa
DNNVV là những doanh nghiệp có quy mơ vốn, lao động hay doanh thu ở
dưới ngưỡng do pháp luật quy định. Theo thơng lệ quốc tế, DNNVV có thể chia
thành ba loại cũng căn cứ vào quy mơ đó là doanh nghiệp siêu nhỏ, doanh
nghiệp nhỏ và doanh nghiệp vừa.
Qua khảo sát pháp luật của các quốc gia trên thế giới đã cho thấy, pháp luật
về hỗ trợ DNVVN sử dụng 2 nhóm tiêu chí phổ biến để phân loại DNNVV: tiêu
chí định tính và tiêu chí định lượng.
Tiêu chí định tính: được xác định dựa trên những đặc điểm cơ bản của
DNVVN như: khơng có vị thế độc quyền hoặc có vị trí thống lĩnh trên thị
trường, kỹ năng chun mơn hố thấp, chưa thiết lập mạng lưới phân phối… và
do đó thường khó xác định trên thực tế. Do đó, nó chỉ được làm cơ sở để tham
khảo mà ít được sử dụng trên thực tế để phân loại.
Tiêu chí định lượng: được xác định dựa trên những chỉ tiêu định lượng của
doanh nghiệp như: (i) Số lao động thường xuyên và không thường xuyên trong
doanh nghiệp; (ii) Giá trị tài sản hay vốn, doanh thu, lợi nhuận. Trong đó: - Số
lao động có thể là lao động trung bình trong danh sách, lao động thường xuyên,
lao động thực tế... - Tài sản hoặc vốn có thể dùng tổng giá trị tài sản (hay vốn),
tài sản hay vốn cố định, giá trị tài sản còn lại...- Doanh thu có thể là tổng doanh
thu trong một năm, tổng giá trị gia tăng trong một năm (hiện nay có xu hướng sử
dụng chỉ tiêu này).
Ở mỗi quốc gia, người ta có tiêu chí riêng để xác định DNNVV ở nước
mình. Ở Đức, DNNVV được định nghĩa có số lao động dưới 500 người, ở Bỉ là
dưới 100 người. Trong khi đó tại Mỹ lại phân loại chi tiết hơn, những doanh

9


nghiệp có số lao động dưới 100 người được coi là doanh nghiệp nhỏ, dưới 500
người là doanh nghiệp vừa…

Theo tiêu chí của Nhóm Ngân hàng Thế giới, doanh nghiệp siêu nhỏ là
doanh nghiệp có số lượng lao động dưới 10 người, doanh nghiệp nhỏ có số
lượng lao động từ 10 đến dưới 200 người và nguồn vốn 20 tỷ trở xuống, cịn
doanh nghiệp vừa có từ 200 đến 300 lao động và nguồn vốn 20 đến 100 tỷ [2,
tr. 30].
Theo Điều 4, Luật số 04/2017/QH14 hỗ trợ DNNVV ngày 12/06/2017 hiện
hành thì khơng đưa ra quy phạm định nghĩa về DNVVN mà chỉ khái quát các
loại DNNVV bao gồm: doanh nghiệp siêu nhỏ, doanh nghiệp nhỏ và doanh
nghiệp vừa được xác định theo lĩnh vực nông nghiệp, lâm nghiệp, thủy sản; công
nghiệp và xây dựng; thương mại và dịch vụ, có số lao động tham gia bảo hiểm
xã hội bình qn năm khơng q 200 người và đáp ứng một trong hai tiêu chí (i)
tổng nguồn vốn khơng q 100 tỷ đồng; (ii) tổng doanh thu của năm trước liền
kề không quá 300 tỷ đồng.
Theo Điều 6, Nghị định 39/2018/NĐ-CP ngày 11 tháng 03 năm 2018 quy
định chi tiết hướng dẫn thi hành Luật hỗ trợ DNVVN, tiêu chí xác định DNVVN
cụ thể như sau:
“Doanh nghiệp nhỏ và vừa được phân theo quy mô bao gồm doanh nghiệp
siêu nhỏ, doanh nghiệp nhỏ, doanh nghiệp vừa.
1. Doanh nghiệp siêu nhỏ trong lĩnh vực nông nghiệp, lâm nghiệp, thủy sản
và lĩnh vực cơng nghiệp, xây dựng có số lao động tham gia bảo hiểm xã hội bình
qn năm khơng q 10 người và tổng doanh thu của năm không quá 3 tỷ đồng
hoặc tổng nguồn vốn không quá 3 tỷ đồng.
Doanh nghiệp siêu nhỏ trong lĩnh vực thương mại, dịch vụ có số lao động
tham gia bảo hiểm xã hội bình quân năm không quá 10 người và tổng doanh thu
của năm không quá 10 tỷ đồng hoặc tổng nguồn vốn không quá 3 tỷ đồng.
2. Doanh nghiệp nhỏ trong lĩnh vực nông nghiệp, lâm nghiệp, thủy sản và
lĩnh vực công nghiệp, xây dựng có số lao động tham gia bảo hiểm xã hội bình

10



quân năm không quá 100 người và tổng doanh thu của năm không quá 50 tỷ
đồng hoặc tổng nguồn vốn không quá 20 tỷ đồng, nhưng không phải là doanh
nghiệp siêu nhỏ theo quy định tại khoản 1 Điều này.
Doanh nghiệp nhỏ trong lĩnh vực thương mại, dịch vụ có số lao động tham
gia bảo hiểm xã hội bình quân năm không quá 50 người và tổng doanh thu của
năm không quá 100 tỷ đồng hoặc tổng nguồn vốn không quá 50 tỷ đồng, nhưng
không phải là doanh nghiệp siêu nhỏ theo quy định tại khoản 1 Điều này.
3. Doanh nghiệp vừa trong lĩnh vực nông nghiệp, lâm nghiệp, thủy sản và
lĩnh vực cơng nghiệp, xây dựng có số lao động tham gia bảo hiểm xã hội bình
qn năm khơng quá 200 người và tổng doanh thu của năm không quá 200 tỷ
đồng hoặc tổng nguồn vốn không quá 100 tỷ đồng, nhưng không phải là doanh
nghiệp nhỏ, doanh nghiệp siêu nhỏ theo quy định tại khoản 1, khoản 2 Điều này.
Doanh nghiệp vừa trong lĩnh vực thương mại, dịch vụ có số lao động tham
gia bảo hiểm xã hội bình qn năm khơng q 100 người và tổng doanh thu của
năm không quá 300 tỷ đồng hoặc tổng nguồn vốn không quá 100 tỷ đồng, nhưng
không phải là doanh nghiệp siêu nhỏ, doanh nghiệp nhỏ theo quy định tại khoản
1, khoản 2 Điều này”.
Bảng 1.1. Phân loại DNNVV
Quy Doanh nghiệp siêu nhỏ


Tổng
doanh thu

Ngành
kinh tế

năm/Tổng
nguồn vốn


Số lao
động bình
qn năm

Doanh nghiệp nhỏ
Tổng doanh
thu
năm/Tổng
nguồn vốn

Số lao
động bình
quân năm

Doanh nghiệp vừa
Tổng doanh
thu
năm/Tổng
nguồn vốn

Số lao
động bình
qn năm

1. Nơng, lâm Dưới 3 tỷ 10 người

Dưới 50 tỷ

Từ trên 10 Dưới 200 tỷ Từ trên


nghiệp, thủy

đồng/Dưới trở xuống

đồng/Dưới

người đến đồng/Dưới

100 người

sản, công

3 tỷ đồng

20 tỷ đồng

dưới 100

đến dưới

nghiệp và xây

người

dựng

11

100 tỷ đồng


200 người


2. Thương

Dưới 10 tỷ 10 người

mại, dịch vụ đồng/Dưới trở xuống
3 tỷ đồng

Dưới 100 tỷ Từ trên 10 Dưới 300 tỷ Từ trên 50
đồng/Dưới

người đến đồng/Dưới

người đến

50 tỷ đồng

dưới 50

dưới 100

100 tỷ đồng

người

người


Nguồn: Điều 6, Nghị định 39/2018/NĐ-CP

1.1.2. Đặc điểm pháp lý của doanh nghiệp nhỏ và vừa
Qua khảo sát hệ thống pháp luật trên thế giới và của Việt Nam có thể cho
phép rút ra những đặc điểm pháp lý của DNVVN như sau:
Thứ nhất, DNNVV là một chủ thể kinh doanh, có đầy đủ các đặc điểm của
một doanh nghiệp theo hệ thống pháp luật quốc gia.
Theo khoản 1, Điều 4, Luật số 04/2017/QH14 hỗ trợ DNNVV ngày
12/06/2017 DNNVV là một doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp,
lâm nghiệp, thủy sản; công nghiệp và xây dựng; thương mại và dịch vụ, có số
lao động tham gia bảo hiểm xã hội bình qn năm khơng q 200 người và đáp
ứng một trong hai tiêu chí (i) tổng nguồn vốn không quá 100 tỷ đồng; (ii) tổng
doanh thu của năm trước liền kề không quá 300 tỷ đồng.
Theo số liệu được Ủy ban châu Âu công bố 8/2014, hơn 20 triệu doanh
nghiệp nhỏ và vừa ở châu Âu chiếm 99% tổng số doanh nghiệp. Theo báo cáo
mới nhất vào tháng 1/2014 của Tradeup về tình hình tài chính của các doanh
nghiệp nhỏ và vừa tại Mỹ, nhóm doanh nghiệp này chiếm tới 99% tổng số doanh
nghiệp, sử dụng trên 50% tổng số lao động xã hội, tạo công ăn việc làm cho 65%
lượng lao động ở khu vực tư nhân.
Theo số liệu của Tổng cục Thống kê năm 2017, trong tổng cố 517.900
doanh nghiệp (DN) đăng ký, số DNNVV chiếm tới 98,1%, trong đó, DN vừa có
gần 8,5 nghìn DN, tăng 23,6% so với thời điểm 1/1/2012; DN nhỏ là 114,1 nghìn
và DN siêu nhỏ là 385,3 nghìn. Bình quân năm giai đoạn 2012- 2017, số
DNVVN tăng 8,8% cao hơn mức tăng bình quân của DN lớn là 5,4%.
Thứ hai, DNNVV gặp phải nhiều khó khăn trong quá trình phát triển do những
hạn chế về quy mơ nhỏ, thiếu vốn và khó tiếp cận nguồn vốn, trình độ cơng nghệ cịn

12



lạc hậu, khả năng quản trị doanh nghiệp yếu, thiếu nguồn nhân lực có trình độ cao,
thiếu mặt bằng để phát triển sản xuất kinh doanh, đại bộ phận chưa quan tâm đến xây
dựng thương hiệu, khó liên kết để tạo thế mạnh chung...
Các mơ hình đầu tiên, xuất hiện từ đầu thập niên 1950 trên thế giới, nhìn
nhận khu vực DNNVV như một thực thể yếu đuối cần bảo vệ, do vậy, chính phủ
các nước theo trường phái này đã xây dựng các chính sách phát triển DNNVV
theo chiều rộng nhằm chủ yếu thực hiện các mục tiêu chính trị, xã hội như giải
quyết công ăn việc làm hay phát triển cân đối vùng. Do vậy, các chính sách phát
triển DNNVV được đặt ra vào thời điểm đó thường không mang các yếu tố
khách quan mà chủ yếu là để thực hiện các chỉ tiêu kế hoạch đã được đặt ra,
nhằm thực hiện các mục tiêu chính trị. Các DNNVV được xem là những cứu
cánh để tạo ra công ăn việc làm, hay là động lực chính để phát triển cân đối vùng
và đồng thời cũng được xem là lực lượng đối trọng đối với sự tập trung quyền
lực kinh tế của các doanh nghiệp lớn.
Thứ ba, DNNVV chịu sự cạnh tranh khốc liệt của các công ty, tập đồn lớn
và từ chính các doanh nghiệp với nhau.
Khu vực doanh nghiệp lớn với công nghệ sử dụng nhiều vốn thì cung cấp
hàng hố cho thị trường bậc cao, trong khi đó khu vực doanh nghiệp nhỏ với
cơng nghệ lạc hậu thì cung cấp hàng hố kém chất lượng cho thị trường thấp
cấp. Kết quả là các biện pháp chính sách đã tạo ra một môi trường biệt lập giữa
hai khu vực doanh nghiệp, ln xem phía bên kia như là đối thủ và điều này
ngăn cản nghiêm trọng mối quan hệ sản xuất kinh doanh giữa các doanh nghiệp
nhỏ và doanh nghiệp lớn.
Thứ tư, do sự hạn chế về quy môn vốn và lao động, các DNVVN chủ yếu
hoạt động trong các lĩnh vực vực nông nghiệp, lâm nghiệp, thủy sản và lĩnh vực
công nghiệp, xây dựng, thương mại và dịch vụ.
DNNVV là loại hình có quy mơ vốn và lao động nhỏ nên nó có nhiều ưu
điểm, lợi thế, cụ thể:
Một là: Dễ dàng khởi sự kinh doanh, khởi nghiệp với bộ máy gọn nhẹ và


13


năng động, nhạy bén và dễ dàng sử dụng các cơng nghệ cao. Với một số vốn hạn
chế song có thể tạo ra hiệu quả rất cao từ việc tận dụng các thành tựu của cuộc
cách mạng khoa học công nghệ 4.0. Bộ máy tổ chức gọn nhẹ linh hoạt, dễ quản
lý, dễ quyết định.
Hai là: Sẵn sàng đầu tư vào các lĩnh vực mạo hiểm, lĩnh vực có độ rủi ro
cao, đặc biệt là các doanh nghiệp khởi nghiệp. Do các doanh nghiệp loại này có
vốn đầu tư nhỏ, sử dụng ít lao động nên sẵn sàng tiên phong tham gia vào cung
cấp các dịch vụ mới, có giá trị gia tăng cao;
Ba là: Do có sử dụng cơng nghệ cao nên ln có động lực đổi mới cơng
nghệ, hoạt động hiệu quả với chi phí cố định thấp, có thể đạt được hiệu quả kinh
tế - xã hội cao, cũng như có thể sản xuất được hàng hố có chất lượng tốt và có
sức cạnh tranh trên thị trường;
Bốn là: trên thực tế hầu như không tồn tại tranh chấp và giải quyết tranh
chấp giữa người thuê lao động với người lao động. Nếu xảy ra xung đột, mâu
thuẫn thì dễ dàn xếp.
Tuy có vai trị như vậy, nhưng DNNVV lại thường gặp phải những vấn đề sau:
Thứ nhất, thiếu vốn, thiếu nguồn lực nội sinh và ngoại sinh để thúc đẩy các
ý tưởng kinh doanh lớn, hay tham gia các dự án đầu tư có quy mơ lớn.
Thứ hai, do dễ khởi nghiệp, các DNNVV cũng có nguy cơ phải gánh chịu
nhiều loại rủi ro trong kinh doanh, thậm chí phá sản. Trong mơi trường cạnh
tranh khốc liệt, nếu DNNVV khơng thích ứng linh hoạt sẽ nhanh chóng bị bỏ xa
về khoảng cách.
Thứ ba, doanh nghiệp gặp khó khăn khi hoạt động trong mơi trường khơng
tạo điều kiện thuận lợi về hệ thống pháp lý.
Thứ tư, trình độ công nghệ lạc hậu, khả năng quản trị doanh nghiệp yếu,
thiếu nhân lực có trình độ cao, thiếu mặt bằng để phát triển sản xuất, kinh doanh,
đại bộ phận chưa quan tâm đến xây dựng thương hiệu, khó liên kết để tạo thế

mạnh chung…

14


1.2. Pháp luật về hỗ trợ phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa

1.2.1. Khái niệm pháp luật hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa
Kết quả không thành công của mô hình phát triển DNNVV theo định
hướng chính trị cùng với các tiến bộ đặc biệt trong lĩnh vực công nghệ thơng tin,
cơng nghệ vật liệu và các chương trình tự do hố các nền kinh tế đã góp phần
chuyển dịch mơ hình trên sang dạng “phát triển DNNVV có lựa chọn”. Theo
cách tiếp cận này, trọng tâm của chiến lược phát triển DNNVV ở các nước là
chương trình hỗ trợ DNNVV trong một số ngành sản xuất kỹ thuật cao hoặc dịch
vụ mới với những khoản trợ cấp lớn từ ngân sách nhà nước. Ở Hàn Quốc từ cuối
những năm 1970, phát triển DNNVV được coi là một quốc sách quan trọng
nhằm đạt được những mục tiêu xã hội là tăng trưởng và phát triển kinh tế. Hàn
Quốc có một hệ thống hỗ trợ DNNVV rộng lớn bao gồm nhiều tổ chức quan
trọng như Quỹ Bảo lãnh tín dụng (thành lập năm 1976) chức năng chủ yếu là
cung cấp vốn chuyển giao công nghệ cho các DNNVV; Viện Phát triển cơng
nghiệp Hàn Quốc (thành lập năm 1970) chức năng chính là đào tạo, tư vấn cho
DNNVV; Trung tâm năng suất Hàn Quốc (thành lập năm 1957), có chức năng
đào tạo, cung cấp và chuyển giao công nghệ, tư vấn cho DNNVV. Chính sách
phát triển DNNVV của Hàn Quốc tập trung chủ yếu vào các nội dung nhằm đáp
ứng những thay đổi về môi trường trong nước và quốc tế thông qua sự điều
chỉnh cơ cấu kinh tế với các biện pháp hỗ trợ DNNVV có lựa chọn theo các
chương trình:
(i) hiện đại hố máy móc thiết bị và cơng nghệ sản xuất nhằm phát triển sản
phẩm mới, nâng cao chất lượng sản phẩm, giảm chi phí sản xuất;
(ii) chính sách ổn định hoá và nâng cao năng lực quản lý DNNVV với các

chương trình thúc đẩy các hợp tác cơng nghiệp như Quỹ mua chung bán chung,
Quỹ tương hỗ (thành lập năm 1984) với sự tài trợ lớn từ ngân sách nhà nước với
mục đích để giúp DNNVV phát triển kỹ năng quản lý cho chủ doanh nghiệp;
(iii) Hỗ trợ về tài chính cho DNNVV: Chính phủ đã thiết lập mạng lưới các
ngân hàng có sự đầu tư của Chính phủ chỉ để phục vụ riêng cho các DNNVV.

15


Các ngân hàng thương mại cũng phải cam kết dành cho DNNVV vay ở mức 3540% tổng mức cho vay với lãi suất ưu đãi do chính phủ quy định. Mơ hình xúc
tiến DNNVV này đã giúp cho DNNVV của một số nước như Nhật Bản, Hàn
Quốc, Đức... đã có những bước phát triển đáng kể.
Tuy nhiên, theo quan điểm của nhiều nhà kinh tế theo trường phái thị
trường tự do thì sự hỗ trợ thái q của Chính phủ trong nhiều trường hợp sẽ dẫn
đến việc bóp méo thị trường để ưu tiên phát triển DNNVV, làm giảm tính cạnh
tranh của các ngành nghề nói chung, đồng thời hạn chế lợi thế đầu tư quy mơ lớn
nói riêng. Quan điểm này phù hợp với quan điểm phát triển kinh tế của một số
nước như Mỹ, Anh, Hồng Kông, Thái Lan (những năm 1980). Các nước này cho
rằng, Chính phủ tham dự càng ít vào nền kinh tế càng tốt. Vai trị của chính phủ
là duy trì luật pháp và trật tự xã hội, cung cấp một số cơ sở hạ tầng như đường
xá, điện nước, nhà ở... Thậm chí một số dịch vụ công cộng khác như cung cấp
năng lượng, giao thông công cộng... cũng được giao cho khu vực tư nhân. Các
nước theo trường phái này cho rằng, phương thức tiếp cận theo hướng thị trường
tự do sẽ giảm thiểu việc ban hành các chính sách một cách tuỳ tiện và việc thu
lợi bất chính bằng hối lộ và tham nhũng. Do đó, xu hướng hỗ trợ DNNVV đã có
những thay đổi. Từ năm 1991 Ngân hàng Thế giới đã chấm dứt toàn bộ các
khoản cho vay trực tiếp đối với DNNVV, phản ánh một xu thế chuyển dịch quan
điểm từ bỏ việc hỗ trợ trực tiếp DNNVV sang các biện pháp hỗ trợ gián tiếp.
Trong nền kinh tế thị trường hoàn toàn tự do, các DNNVV được bảo trợ bởi
pháp luật về chống độc quyền, cũng tự tìm được các thị trường ngách thích hợp

với lợi thế của sản xuất quy mô nhỏ. Đồng thời, với cơ chế này, các doanh
nghiệp được tự do phát huy các thế mạnh của mình trong việc lựa chọn các loại
hàng hoá và dịch vụ cung cấp. Do vậy, khu vực DNNVV ở nhiều nước theo
trường phái thị trường tự do cũng đạt được những thành tựu phát triển nhất định,
đóng vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế của các nước đó. Tuy nhiên, mơ
hình phát triển DNNVV theo trường phái này thường chỉ đạt được kết quả khả
quan tại các nước phát triển, sự phân bổ các nguồn lực đã được thị trường điều

16


tiết khá hiệu quả. Ngược lại, đối với các nước đang phát triển, việc áp dụng mơ
hình trên khơng thu đựoc kết quả đáng kể nào như trường hợp của nhiều quốc
gia châu Phi trong nhiều thập kỷ qua.
Đến cuối thập niên 1980 và đầu những năm 1990, với xu hướng tồn cầu
hố và khu vực hố một cách phổ biến, một mơ hình mới với cách tiếp cận là
“tạo điều kiện thuận lợi để DNNVV phát triển”, với trọng tâm nhấn mạnh vào
năng lực cạnh tranh của DNNVV được hình thành và trở lên phổ biến ở nhiều
nước, đặc biệt là các nước đang tham gia sâu rộng và quá trình hội nhập quốc
tế. Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng, trong việc can thiệp vào thị trường dịch vụ
phát triển cho DNNVV, nhà nước chỉ lên đóng vai trị là người tạo ra các điều
kiện thuận lợi (facilitator) để thị trường cung cấp những dịch vụ phát triển tốt
nhất cho các DNNVV. Điều đó có nghĩa là, nhà nước chỉ nên dừng lại ở việc xây
dựng năng lực cho các nhà cung ứng tư nhân, thay vì thành lập ra các tổ chức
cung ứng dịch vụ của nhà nước với các công chức quan liêu và cách thức hoạt
động không theo cơ chế thị trường của các tổ chức đó. Đồng thời, các nước theo
trường phái này cũng khơng hồn tồn theo mơ hình thị trường tự do vì cho rằng,
quá trình giải quyết mọi vấn đề kinh tế chỉ dựa trên cơ sở thị trường là quan
điểm quá đơn giản2. Như vậy, phương thức can thiệp của chính phủ các nước
vào thị trường để thúc đẩy sự phát triển DNNVV đã trải qua rất nhiều mơ hình

khác nhau. Mỗi mơ hình đều đã đạt được những kết quả nhất định.
Tuy nhiên, trong điều kiện nước ta hiện nay, qua xem xét những hạn chế
của từng mơ hình, có thể nói rằng, phương thức tiếp cận của mơ hình “tạo điều
kiện thuận lợi để DNNVV phát triển” có lẽ là phù hợp hơn cả.
Theo đó, vai trị của Nhà nước trong phát triển DNNVV thông qua công cụ
pháp luật chỉ nên tập trung vào việc sửa chữa và bù đắp khiếm khuyết của thị
Đài Loan là một trong những nền kinh tế theo đuổi trường phái này. Vai trò của Chính phủ trong nền kinh
tế Đài Loan rất lớn nhưng chính phủ khơng can thiệp vào thị trường tiêu thụ vì cho rằng, lĩnh vực đó khu vực
tư nhân làm tốt hơn Chính phủ. Đặc điểm quan trọng của chính sách phát triển DNNVV của Đài Loan là sự
gắn kết chặt chẽ của chính sách phát triển DNNVV với chiến lược phát triển kinh tế của toàn xã hội. Vai trị
của chính quyền Đài Loan tập trung chủ yếu vào 3 nhóm: Xây dựng mơi trường kinh doanh tối ưu; Thúc đẩy
hợp tác giữa DNNVV và doanh nghiệp lớn và; thúc đẩy sự tăng trưởng độc lập của các DNNVV.
2

17


trường, với các nhiệm vụ chủ yếu là xây dựng các chính sách tạo mơi trường kinh
doanh thuận lợi cho DNNVV, thiết kế và áp dụng các biện pháp nâng cao khả năng
tiếp cận tài chính để tạo điều kiện về vốn kinh doanh cho DNNVV và tăng cường
các dịch vụ phát triển doanh nghiệp mà DNNVV cần để bù đắp những kỹ năng
thiếu hụt do nguồn nhân lực trong DNNVV khơng có. Và cuối cùng, cần phải
khẳng định rằng, Nhà nước không phải là nhà cung cấp trực tiếp dịch vụ hỗ trợ cho
DNNVV, mà việc này thị trường đảm nhiệm sẽ có hiệu quả hơn.
Với cách tiếp cận trên, đã cho thấy, pháp luật về hỗ trợ DNVVN được hiểu
là tổng thể các quy phạm pháp luật quy định về nguyên tắc, nội dung, nguồn lực,
phương thức, trình tự, thủ tục và trách nhiệm của các chủ thể có liên quan đến hỗ
trợ doanh nghiệp

1.2.2 Nguyên tắc, nội dung pháp luật hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa

Qua khảo sát hệ thống pháp luật trên thế giới và của Việt Nam có thể cho
phép rút ra các nguyên tắc, nội dung pháp luật hỗ trợ DNVVN như sau
Nguyên tắc pháp luật hỗ trợ DNVVN
- Việc hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa phải tôn trọng quy luật thị trường,
phù hợp với điều ước quốc tế mà quốc gia ddos là thành viên;
- Bảo đảm công khai, minh bạch về nội dung, đối tượng, trình tự, thủ tục,
nguồn lực, mức hỗ trợ và kết quả thực hiện;
- Nhà nước hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa có trọng tâm, có thời hạn, phù
hợp với mục tiêu hỗ trợ và khả năng cân đối nguồn lực;
- Việc hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa sử dụng nguồn lực ngoài Nhà nước
do các tổ chức, cá nhân tài trợ được thực hiện theo quy định của tổ chức, cá nhân
đó nhưng không được trái quy định của pháp luật;
- Trường hợp doanh nghiệp nhỏ và vừa đồng thời đáp ứng điều kiện của
các mức hỗ trợ khác nhau trong cùng một nội dung hỗ trợ thì doanh nghiệp được
lựa chọn mức hỗ trợ có lợi nhất;
- Ưu tiên lựa chọn doanh nghiệp nhỏ và vừa do phụ nữ làm chủ, doanh
nghiệp nhỏ và vừa sử dụng nhiều lao động nữ;

18


- Nguồn vốn hỗ trợ DNVVN phải là những nguồn vốn hợp pháp theo quy
định của pháp luật
Nội dung pháp luật hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa
Nhận thấy vai trò to lớn của DNNVV và tầm quan trọng của việc hỗ trợ
DNNVV phát triển, nhiều quốc gia đã xây dựng pháp luật hỗ trợ phát triển
DNNVV. Các quy định pháp luật ở các quốc gia rất đa dạng tuỳ thuộc vào đặc điểm
phát triển kinh tể của từng quốc gia, tuy nhiên, tựu chung lại có thể thấy các pháp
luật hỗ trợ phát triển DNNVV quy định các phương thức hỗ trợ sau:
- Hỗ trợ về tài chính bao gồm: hỗ trợ tiếp cận tín dụng; hỗ trợ thuế, kế

tốn; thuế
Các DNNVV có ít tài sản và nền tảng kinh tế cịn yếu nên họ khó có thể thu
hút vốn trên thị trường chứng khoán. Việc đảm bảo cung ứng đủ vốn cho doanh
nghiệp là yêu cầu thường xuyên và là thách thức lớn đối với họ.
Vốn tín dụng sẽ là một nguồn bổ sung quan trọng cho các DNNVV trong
quá trình phát triển. Nếu coi DNNVV là một bộ phận cấu thành của nền kinh tế
quốc dân, cần tạo mơi trường thuận lợi trong quan hệ tín dụng ngân hàng thương
mại đối với loại hình kinh tế này. Sự hỗ trợ tín dụng đó, trước tiên phải thơng
qua các biện pháp để các ngân hàng thương mại nới lỏng việc cho vay vốn trong
giới hạn cho phép, đặc biệt trong khâu lập dự án đầu tư và mở rộng đầu tư có
tính khả thi.
Ngồi ra, việc khuyến khích thành lập các tổ chức, các quỹ, các chương
trình hỗ trợ các DNNVV sẽ tạo điều kiện và môi trường thơng thống cho sự
hoạt động của DNNVV. Bên cạnh đó, có thể mở rộng cả hình thức cho th tài
chính (trung hạn, dài hạn) đối với DNNVV, thông qua việc cho thuê máy móc,
thiết bị và các bất động sản cần thiết khác cũng là một biện pháp hiệu quả khắc
phục hạn chế về vốn của DNNVV.
Việc hỗ trợ thuế cho DNNVV bằng cách áp dụng các biện pháp ưu đãi như
miễn, giảm thuế sẽ hỗ trợ các hoạt động thúc đẩy kinh doanh của các DNNVV.
Thông qua pháp luật về thuế và đặc biệt là chế độ ưu đãi về thuế đối với các sản

19


×