Tải bản đầy đủ (.doc) (33 trang)

đáp án Triết học duy vật biện chứng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (288.78 KB, 33 trang )

VẤN ĐỀ 1. ĐỐI TƯỢNG, CHỨC NĂNG, VAI TRÒ CỦA TRIẾT HỌC MÁC – LÊNIN.
1. TRIẾT HỌC VÀ ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU CỦA TRIẾT HỌC
1.1. Khái niệm Triết học:
Dù ở phương Đông hay phương Tây, ngay từ đầu, triết học đã là hoạt động tinh thần biểu hiện khả năng
nhận thức, đánh giá của con người, nó tồn tại với tư cách là một hình thái ý thức xã hội.
Đã có rất nhiều cách định nghĩa khác nhau về triết học, nhưng đều bao hàm những nội dung cơ bản giống
nhau: Triết học nghiên cứu thế giới với tư cách là một chỉnh thể, tìm ra những quy luật chung nhất chi phối sự
vận động của chỉnh thể đó nói chung, của xã hội loài người, của con người trong cuộc sống cộng đồng nói riêng
và thể hiện nó một cách có hệ thống dưới dạng duy lý.
Khái quát lại, có thể hiểu: Triết học là hệ thống quan điểm lý luận chung nhất của con người về thế giới;
về vị trí, vai trò của con người trong thế giới ấy; là khoa học về những quy luật vận động, phát triển chung
nhất của tự nhiên, xã hội và tư duy.
Triết học ra đời do hoạt động nhận thức của con người phục vụ nhu cầu sống; song, với tư cách là hệ
thống tri thức lý luận chung nhất, triết học chỉ có thể xuất hiện trong những điều kiện nhất định sau đây:
Con người đó phải có một vốn hiểu biết nhất định và đạt đến khả năng rút ra được cái chung trong muôn
vàn những sự kiện, hiện tượng riêng lẻ.
Xã hội đã phát triển đến thời kỳ hình thành tầng lớp lao động trí óc. Họ đã nghiên cứu, hệ thống hóa các
quan điểm, quan niệm rời rạc lại thành học thuyết, thành lý luận và triết học ra đời.
Tất cả những điều trên cho thấy: Triết học ra đời từ thực tiễn, do nhu cầu của thực tiễn; nó có nguồn gốc
nhận thức và nguồn gốc xã hội.
Triết học khác với các khoa học khác ở tính đặc thù của hệ thống tri thức khoa học và phương pháp
nghiên cứu. Tri thức khoa học triết học mang tính khái quát dựa trên sự trừu tượng cao và sâu sắc về thế giới,
về bản chất cuộc sống con người. Phương pháp nghiên cứu của triết học là xem xét thế giới như một chỉnh thể
và tìm cách đưa lại một hệ thống các quan niệm về chỉnh thể đó.
1.2. Đối tượng của triết học
* Thời cổ đại:Triết học là khoa học của mọi khoa học thực chất chưa phân biệt được đối tượng nghiên
cứu của triết học với các khoa học cụ thể.
* Thời trung cổ: Triết học là bộ phận của thần học, có nhiệm vụ giải thích kinh thánh.
* Thời kỳ Phục Hưng (TK XV- XVI): Triết học dần tách khỏi các khoa học cụ thể và phát triển thành các bộ
môn riêng biệt: bản thể luận, nhận thức luận, logic học, triết học lịch sử, mỹ học, đạo đức học, tâm lý học.
* TK XVII XVIII: CNDV hoặc CNDT


* Ngày nay, đối tượng nghiên cứu của triết học có sự phát triển, không những nghiên cứu những vấn đề
chung nhất, bản chất nhất mà nó còn nghiên cứu những vấn đề chung, những vấn đề bản chất ở các lĩnh vực cụ
thể. Chính vì vậy, nó có triết học trong tóan học, trong sinh học, đạo đức học, mỹ học, chiến tranh quân đội…
2. ĐỐI TƯỢNG VÀ CHỨC NĂNG CỦA TRIẾT HỌC MÁC - LÊNIN
a. Đối tượng:
Đoạn tuyệt triệt để với tham vọng trở thành “khoa học của mọi khoa học”, triết học Mác –Lênin xác định
đối tượng nghiên cứu của mình là giải quyết mối quan hệ giữa vật chất và ý thức trên lập trường duy vật triệt
để và nghiên cứu những quy luật vận động, phát triển chung nhất của tự nhiên, xã hội và tư duy.
Đối tượng của triết học Mác – Lênin và đối tượng của các khoa học cụ thể là thống nhất nhưng không
đồng nhất, chúng khác nhau nhưng lại quan hệ mật thiết với nhau.
b. Chức năng của triết học Mác - Lênin
Là bộ môn khoa học do đó cũng như các bộ phận khoa học khác nó có đa chức năng như (Nhận thức, giáo
dục, phê phán, dự báo…). Tuy nhiên, với tính cách là một khoa học triết học, triết học Mác – Lênin thực hiện
hai chức năng cơ bản là thế giới quan và phương pháp luận.
* Chức năng TGQ:
- TGQ là toàn bộ những quan niệm của con người về TG và vị trí của con người trong TG đó. Triết học là
hạt nhân lý luận của thế giới quan. Triết học ML đem lại TGQ DVBC, là hạt nhân thế giới quan cộng sản.
- TGQDVBC là nhân tố định hướng cho con người nhận thức đúng đắn thế giới hiện thực.
- TGQDVBC giúp con người hình thành quan điểm khoa học định hướng mọi hoạt động.
- TGQDVBC nâng cao vai trò tích cực, sáng tạo của con người.
- TGQDVBC là cơ sở khoa học để đấu tranh với các loại TGQ duy tâm, tôn giáo, phản khoa học.
1


- TGQDVBC là hạt nhân của hệ tư tưởng của giai cấp công nhân và các lực lượng tiến bộ, cách mạng, là
cơ sở lý luận trong cuộc đấu tranh với các tư tưởng phản cách mạng, phản động.
* Chức năng PPL:
- PPL là hệ thống về những quan điểm, những nguyên tắc xuất phát, những cách thức chung để
thực hiện hoạt động nhận thức và thực tiễn. PPL cũng có nghĩa là lý luận về hệ thống phương pháp.
Triết học Mác - Lênin thực hiện chức năng PPL chung nhất cho nhận thức và thực tiễn.

- Vai trò PPLDVBC được thể hiện trước hết là phương pháp chung của toàn bộ nhận thức khoa
học. PPLDVBC trang bị cho con người hệ thống những nguyên tắc, quy tắc, yêu cầu, chỉ thị của hoạt
động nhận thức và thực tiễn.
- Triết học Mác - Lênin trang bị cho con người hệ thống các khái niệm, phạm trù, quy luật làm
công cụ nhận thức khoa học; giúp con người phát triển tư duy khoa học, đó là tư duy ở cấp độ phạm
trù, quy luật.
3. VAI TRÒ CỦA TRIẾT HỌC MÁC - LÊNIN ĐỐI VỚI ĐỜI SỐNG XÃ HỘI
3.1. Vai trò của triết học Mác - Lênin trong giải quyết những nhiệm vụ cấp thiết của đời sống
xã hội
- Triết học Mác - Lênin là cơ sở TGQ và PPL khoa học và cách mạng để phân tích xu hướng phát triển của
xã hội trong điều kiện cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại phát triển mạnh mẽ.
- Chủ nghĩa Mác - Lênin nói chung và triết học Mác - Lênin nói riêng là lý luận khoa học và cách
mạng soi đường cho giai cấp công nhân và nhân dân lao động trong cuộc đấu tranh giai cấp và đấu
tranh dân tộc đang diễn ra trong điều kiện mới, dưới hình thức mới.
- Triết học Mác - Lênin là cơ sở lý luận khoa học của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội trên
thế giới và sự nghiệp đổi mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
- Triết học Mác - Lênin là cơ sở khoa học của đổi mới tư duy đáp ứng những yêu cầu mới của sự
nghiệp xây dựng quốc phòng và sự nghiệp xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam cách mạng, chính
quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại.
3.2. Vai trò của triết học Mác - Lênin trong giải quyết những nhiệm vụ cấp thiết của lý luận
và thực tiễn quân sự hiện nay
- Là cơ sở khoa học để chúng ta phân tích, xem xét xác định chính xác bản chất, thực chất cũng
như những vấn đề có tính quy luật của chiến tranh, của đấu tranh vũ trang và các hiện tượng, các quá
trình quân sự khác.
- Là cơ sở để xây dựng, phát triển quân đội theo hướng “CM, CQ…”
VẤN ĐỀ 2. VẬT CHẤT VÀ Ý THỨC
1. SỰ PHÁT TRIỂN CỦA PHẠM TRÙ VẬT CHẤT
1.1. Quan điểm của triết học trước Mác về phạm trù vật chất
*Quan điểm của tôn giáo: Thiên chúa giáo cho rằng, chúa trời sinh ra thế giới trong vòng 7 ngàyQuan
điểm này là duy tâm thần bí, thiếu cơ sở khoa học, nhằm phủ nhận sự tồn tại của TGVC.

* Quan điểm của CNDT:
CNDT đã phủ nhận sự tồn tại khách quan của vật chất; hoặc vật chất chỉ là hình ảnh, là cái bóng của ý
niệm, hoặc là sản phẩm phức hợp của cảm giác.
*Quan điểm của CNDV ngoài Mác:
Đã đồng nhất vật chất với vật thể cụ thể, với thuộc tính của nó.
* Cuộc khủng hoảng vật lý học cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX:
- Năm 1895, Rơnghen phát hiện ra tia X, một loại sóng điện từ có bước sóng từ 0,01 - 100.10-8 cm.
- Năm 1896, Béccơren phát hiện ra hiện tượng phóng xạ, đã bác bỏ quan niệm về sự bất biến của nguyên
tử.
- Năm 1897, Tômxơn phát hiện ra điện tử (êléctrôn) và chứng minh được nó là một trong những thành
phần cấu tạo nên nguyên tử. Nhờ phát minh này, lần đầu tiên trong khoa học, sự tồn tại hiện thực của nguyên tử
được chứng minh bằng thực nghiệm.
- Năm 1901, Kaufman đã chứng minh được khối lượng của điện tử không phải là bất biến, mà thay đổi
phụ thuộc vào tốc độ vận động của nó.

2


- Năm 1905, Anhxtanh phát minh ra thuyết tương đối hẹp và năm 1916, ông đưa ra thuyết tương đối tổng
quát, chứng minh được không gian, thời gian, khối lượng không phải là bất biến, không thể đặc trưng chung
cho vật chất.
 Như vậy, những quan niệm đương thời về vật chất là nguyên tử, khối lượng, ... đã sụp đổ trước khoa
học. Đây chính là cơ hội để CNDT lợi dụng, cho rằng vật chất đã tiêu tan, nền tảng của CNDV đã sụp đổ. Các
nhà khoa học có quan điểm duy vật lâm vào cuộc khủng hoảng về thế giới quan.
=>Từ đó xuất hiện yêu cầu cần có sự khái quát về mặt triết học đối với những thành tựu mới của KHTN,
đưa ra định nghĩa khoa học về vật chất, đấu tranh chống CNDT, bảo vệ và phát triển CNDV.
+ Thực chất của cuộc khủng hoảng vật lý học là cuộc khủng hoảng thế giới quan, làm đảo lộn những
quan niệm cũ của KHTN về thế giới.
+ Nguyên nhân của sự khủng hoảng nằm ngay trong bước nhảy vọt của nhận thức con người khi chuyển
từ nhận thức thế giới vĩ mô sang nhận thức thế giới vi mô.

+ Con đường thoát ra khỏi khủng hoảng là phải thay CNDVSH bằng CNDVBC.
1.2. Quan điểm của triết học Mác- Lênin về phạm trù vật chất
a. Tư tưởng của C.Mác và Ph. Ăngghen
Chưa đưa ra định nghĩa về vật chất, những đã có những tư tưởng đúng đắn về vật chất và vận động, không
gian, thời gian:
* Vật chất:
- Vật chất đặt trong mối quan hệ với ý thức.
- Vật chất được tiếp cận bằng phương pháp trừu tượng hóa và chỉ ra vật chất tồn tại khách quan, độc lập
với ý thức con người.
- Chỉ ra sự thống nhất và khác biệt giữa phạm trù vật chất của triết học với các khoa học cụ thể.
- Chỉ ra tính thống nhất vật chất của thế giới.
- Chỉ ra thuộc tính của vật chất là vận động, không gian, thời gian.
* Vận động:
- Đã đưa ra định nghĩa về vận động.
- Phân loại 5 hình thức vận động cơ bản.
* Không gian, thời gian: Không gian thời gian gắn với vật chất, mang tính khách quan. Không gian, thời
gian gắn với vận động của vật chất. Chỉ ra sự thống nhất và khác biệt giữa không gian, thời gian của vật chất
với không gian, thời gian của các SV-HT.
b. Định nghĩa vật chất của V. I. Lênin.
“Vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được đem lại cho con người trong
cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh, và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác”.
*Phương pháp định nghĩa của V. I. Lênin:
- Định nghĩa theo cách mà các nhà triết học duy vật trước đây vẫn định nghĩa. Tức là quy vật chất về một
bản nguyên nào đó như: Vật chất là nước, lửa, không khí, nguyên tử… Cách định nghĩa này rơi vào siêu hình.
- Định nghĩa thông qua giống khác biệt về loài.(Hình chữ nhật là hình bình hành có 2 đường chéo = nhau)
- Định nghĩa theo phương pháp phát sinh.(Con người là động vật có ý thức)
- Qua nghiên cứu nhiều cách định nghĩa khác nhau, nhưng cuối cùng V.I.Lênin đã đưa ra phương pháp
định nghĩa vật chất thông qua mối quan hệ với mặt đối lập với nó là ý thức, qua đó chỉ ra thuộc tính đặc trưng
“tồn tại khách quan” để phân biệt VC với YT. Đây là phương pháp duy nhất đúng để định nghĩa một phạm trù
có ngoại diên rộng lớn như vật chất.

*Phân tích:
- Vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan.
+ Vật chất với tư cách là một phạm trù triết học, dùng để phân biệt với các phạm trù của khoa học cụ thể.
+ Vật chất với tư cách là phạm trù triết học, là sự khái quát hóa, trừu tượng từ những SVHT cụ thể; phân
biệt vật chất với SVHT cụ thể.
Vì vậy không được đồng nhất vật chất với vật thể cụ thể, nhưng cũng không được tách rời giữa chúng.
Bởi vì phạm trù vật chất do sản phẩm của tư duy được khái quát từ vật thể cụ thể, có đặc tính chung là tồn tại
khách quan.
+ Khi nghiên cứu vật chất với tư cách là một phạm trù triết học, cần chú ý tính trừu tượng và tính cụ thể
của nó.

3


: Ở nội dung này cần thấy được, đây là góc độ (phạm vi) xem xét giữa phạm trù vật chất theo quan
điểm của triết học khác với KHTN, không được lẫn lộn giữa vật chất với vật thể cụ thể, vật chất vừa mang tính
trừu tượng vừa mang tính cụ thể.
- Thuộc tính chung của vật chất là “thực tại khách quan, ở ngoài và độc lập với ý thức của con người”.
+ Thực tại khách quan là tất cả những gì có thực tồn tại bên ngoài ý thức, không phụ thuộc vào ý thức.
Vật chất tồn tại thông qua các dạng vật thể cụ thể, cảm tính, đều có chung một thuộc tính là tồn tại khách
quan, cho dù ta không muốn chúng tồn tại thì chúng vẫn tồn tại, ta muốn chúng tồn tại thế này hay thế kia
nhưng các SVHT ấy không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của con người.. Sự tồn tại của TGVC là vốn có, là
khách quan,độc lập với ý thức của chúng ta.
+ Vật chất có nhiều thuộc tính, nhưng thuộc tính tồn tại khách quan là dấu hiệu cơ bản của vật chất, là tiêu
chuẩn để phân biệt vật chất với ý thức. Nghĩa là, các SVHT trong thế giới dù ở trạng thái vĩ mô hay vi mô, dù
dưới dạng hạt hay dạng trường, dù tồn tại trong tự nhiên hay xã hội, dù con người đã biết hay chưa biết, nhưng
nếu có thuộc tính tồn tại khách quan thì đó là vật chất, nếu không tồn tại khách quan thì đó không phải vật chất.
: Như vậy, thuộc tính tồn tại khách quan đặc trưng ở mọi dạng vật chất, đây là tiêu chuẩn để phân biệt
vật chất với ý thức.
- Vật chất là “thực tại khách quan được đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của

chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh”.
+ Thực tại khách quan “được đem lại cho con người trong cảm giác”. Nghĩa là, vật chất không tồn tại một
cách vô hình trừu tượng, mà có thực, được biểu hiện ra ở các sự vật hữu hình cảm tính, khi tác động vào các
giác quan của con người thì đem lại cho chủ thể những cảm giác về chúng.
+ Thực tại khách quan được cảm giác của con người chép lại, chụp lại, phản ánh. Nghĩa là khẳng định con
người có thể nhận thức được thế giới vật chất bằng nhiều phương pháp khác nhau như: chép lại, chụp lại và
phản ánh.
 Như vậy, nội dung này định nghĩa vật chất của Lênin đã giải quyết được cả hai mặt của vấn đề cơ bản
của triết học trên lập trường duy vật triệt để: đó là vật chất có trước, ý thức có sau; cảm giác, ý thức chỉ là sự
phản ánh vật chất, và con người có khả năng nhận thức được vật chất.
* Ý nghĩa của định nghĩa vật chất của V. I. Lênin.
- Nó đã khắc phục triệt để thiếu sót của CNDV và những biến tướng của nó trong quan niệm về VC của
các nhà triết học tư sản hiện đại; Là cơ sở khoa học, là vũ khí tư tưởng để đấu tranh chống CNDT và thuyết
“không thể biết” một cách hiệu quả, bảo đảm sự đứng vững của CNDV trước sự phát triển mới của KHTN.
- Giải quyết một cách khoa học và triệt để cả hai mặt của vấn đề cơ bản của triết học trên lập trường
DVBC. Tạo cơ sở khoa học cho quan điểm duy vật về xã hội, cho sự thống nhất giữa CNDVBC và CNDVLS.
- Nó đã khắc phục cuộc khủng hoảng Vật lý học vào cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX. Nó trang bị TGQ và
PPL cho các nhà khoa học trong nghiên cứu về thế giới vật chất; động viên, cổ vũ họ tin vào khả năng nhận
thức của con người, tiếp tục đi sâu khám phá những thuộc tính mới của vật chất.
- Đến nay, định nghĩa vật chất vẫn còn nguyên giá trị, là tiêu chuẩn căn bản nhất để phân biệt TGQDV và
TGQDT.
2. NGUỒN GỐC VÀ BẢN CHẤT CỦA Ý THỨC
2.1. Nguồn gốc ý thức
- Mác: Ý thức không bao giờ có thể là cái gì khác hơn là sự tồn tại được ý thức.(Hệ tư tưởng Đức,C.Mác và
Ph.Ăngghen TT,tập3, Nxb.CTQG,H.1995, tr.37). Điều đó có nghĩa ý thức là sự phản ánh tồn tại.
- V.I.Lênin: Cảm giác (ý thức) là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan. (V. I. Lênin:TT, tập18, Nxb
Tiến bộ, M. 1981, tr.138). Nghĩa là, ý thức được nẩy sinh trong mối quan hệ tác động qua lại giữa con người và
thế giới khách quan thông qua hoạt động thực tiễn.
=> Ý thức: Là phạm trù triết học dùng để chỉ hình thức phản ánh cao nhất, riêng có của óc người về hiện
thực khách quan trên cơ sở thực tiễn.

* Quan điểm của triết học trước Mác về nguồn gốc ý thức:
- CNDT: Ý thức là một thực thể duy nhất, có trước, tồn tại vĩnh viễn và là nguyên nhân sinh ra vật chất,
chi phối sự tồn tại và biến đổi của thế giới vật chất.
Thực chất quan điểm của CNDT là tách ý thức ra khỏi vật chất, phủ nhận sự tồn tại khách quan của vật
chất, lấy ý thức làm điểm xuất phát để giải thích thế giới.
- Quan điểm của CNDV trước Mác:
+ Cổ đại: Đại biểu Đêmôcơrít: Quan niệm ý thức là do những nguyên tử đặc biệt (hình cầu, nhẹ, linh
động) liên kết với nhau tạo thành.
4


+ Cận đại: các nhà duy vật tầm thường thế kỷ XVIII (Phôtơgô, Môlétsốt, ..) lại cho rằng: Óc tiết ra ý thức
như gan tiết ra mật, như thận tiết ra nước tiểu...
+ Một số nhà duy vật khác thuộc phái "Vật hoạt luận" (Rôbinê, Hếchken, Điđơrô) quan niệm ý thức là thuộc
tính phổ biến của mọi dạng vật chất - từ giới vô sinh đến giới hữu sinh, mà cao nhất là con người. Có chăng sự khác
nhau ấy giữa các giống, loài chỉ là ở cấp độ biểu hiện ra bề ngoài bằng ngôn ngữ hay không mà thôi.
+Triết học cổ điển Đức: Phoiơbắc (1804-1872): Thừa nhận YT là sản phẩm đặc biệt của óc người. Song
do không thấy được bản chất xã hội của con người, nên ông không thấy được yếu tố xã hội - lịch sử của YT.
Ông hiểu YT một cách chung chung, trừu tượng, không thấy được bản chất xã hội của YT.
* Quan điểm của CNDVBC Khẳng định: Ý thức là sản phẩm của quá trình phát triển tự nhiên và lịch sử xã hội. Do đó, để hiểu nguồn gốc của ý thức cần xét trên hai mặt tự nhiên và xã hội.
- Xét về mặt tự nhiên (Bộ óc người và TGVC):
- Xét về mặt xã hội (vai trò của lao động và ngôn ngữ)
+ Vai trò của lao động đối với sự hình thành ý thức
Lao động là quá trình con người sáng tạo ra công cụ và sử dụng công cụ tác động vào tự nhiên để tạo ra
của cải vật chất bảo đảm cho con người và xã hội tồn tại, phát triển.
Vai trò của lao động được thể hiện:
Một là, lao động là quá trình con người khám phá, chinh phục tự nhiên, từ đó hiện thực khách quan
được phản ánh vào bộ óc.
Hai là, quá trình lao động làm cho các giác quan của con người được hoàn thiện, bộ não được phát
triển, khả năng tư duy trừu tượng ngày càng được nâng cao, hình thành phương pháp tư duy khoa học.

Ba là, lao động là cơ sở hình thành và phát triển ngôn ngữ.
+ Vai trò của ngôn ngữ đối với sự hình thành ý thức
Ngôn ngữ là sự phản ánh hiện thực khách quan vào trong não người, bằng những dấu hiệu, tín hiệu, là
phương tiện mã hoá và truyền đạt thông tin.
+ Ngôn ngữ gồm: ngôn ngữ nói, ngôn ngữ viết, ngôn ngữ thầm, …
+ Vai trò của ngôn ngữ được thể hiện:
Một là, ngôn ngữ giữ vai trò là “cái vỏ vật chất” của tư duy, là hiện thực trực tiếp của ý thức (tư tưởng).
Hai là, ngôn ngữ là công cụ của tư duy, là phương tiện vật chất để con người giao tiếp trong xã hội. Nhờ
có ngôn ngữ mà con người có thể tổng kết thực tiễn, trao đổi thông tin cho nhau, trao đổi tri thức từ thế hệ này
sang thế hệ khác.
Lao động và ngôn ngữ là hai sức kích thích chủ yếu làm chuyển biến dần bộ óc của loài vượn thành bộ óc con
người và tâm lý đông vật thành ý thức con người.
Xem xét nguồn gốc tự nhiên và nguồn gốc xã hội của ý thức cho thấy, ý thức xuất hiện là kết quả của quá
trình tiến hóa lâu dài của giới tự nhiên, của lịch sử con người. Trong đó, nguồn gốc tự nhiên là điều kiện cần,
còn nguồn gốc xã hội là điều kiện đủ để ý thức hình thành, tồn tại và phát triển. Nếu chỉ nhấn mạnh mặt này mà
xem nhẹ mặt kia thì sẽ dẫn đến sai lầm, phiến diện không hiểu gì về nguồn gốc của ý thức. Nghiên cứu nguồn
gốc của ý thức cũng là một cách tiếp cận để hiểu rõ bản chất của ý thức.
2.2. Bản chất của ý thức
CNDVBC dựa trên cơ sở lý luận phản ánh khẳng định:
Ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan; là sự phản ánh hiện thực khách quan vào trong bộ
óc con người một cách tích cực, chủ động, sáng tạo.
- Ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan.
+ Ý thức không có tính vật chất, nó không phải là sự vật, mà chỉ là hình ảnh của sự vật ở trong óc người.
+ Nội dung phản ánh của ý thức mang tính khách quan, do thế giới khách quan quy định. Nhưng kết quả
phản ánh của ý thức lại phụ thuộc vào năng lực chủ quan của chủ thể phản ánh.
- Sự phản ánh của ý thức mang tính tích cực, chủ động, sáng tạo.
+ Phản ánh của ý thức mang tính tích cực, chủ động. Nghĩa là trên cơ sở hoạt động thực tiễn, con người
chủ động tác động vào SVHT làm cho chúng bộc lộ những thuộc tính tính chất của nó, giúp cho con người nhận
thức ngày càng đúng đắn về hiện thực khách quan.
Sự phản ánh của ý thức về thế TGVC là sự phản ánh có mục đích, có kế hoạch, mang tính tích cực, chủ

động, nhằm cải tạo tự nhiên - xã hội để phục vụ cho sự tồn tại phát triển của loài người. Biểu hiện ở việc con
người biết vận dụng những tri thức của mình để nhận thức và cải tạo thế giới khách quan.
5


+ Ý thức là sự phản ánh sáng tạo TGKQ vào bộ óc con người, có nghĩa là sự phản ánh của ý thức không
mang tính thụ động, máy móc. Bởi vì sự phản ánh của ý thức do nhu cầu thực tiễn quy định, đòi hỏi chủ thể phải
nhận thức được đối tượng cần phản ánh, trên cơ sở đó hình thành nên hình ảnh tinh thần và hình ảnh đó ngày
càng phản ánh đúng đắn hiện thực khách quan.
> Phản ánh của ý thức là sáng tạo, vì nó dựa trên hoạt động thực tiễn và là sản phẩm của các quan hệ xã
hội. ý thức chịu sự chi phối chủ yếu của các quy luật xã hội, do nhu cầu giao tiếp xã hội và các điều kiện hiện
thực của con người quy định.
> Tính sáng tạo của ý thức không có nghĩa là ý thức sinh ra vật chất. Sáng tạo của ý thức là sáng tạo trên
cơ sở sự phản ánh, trong khuôn khổ, theo tính chất, quy luật của sự phản ánh, và kết quả bao giờ cũng là những
khách thể tinh thần.
> Sự phản ánh của ý thức không phải chép lại, chụp lại một cách nguyên xi như soi gương, hoặc như các
phản xạ của động vật bậc thấp; sự phản ánh của ý thức là phản ánh được bản chất, quy luật vận động của đối
tượng phản ánh, tìm ra và dự báo được xu thế vận động của đối tượng phản ánh.
> Tính sáng tạo của ý thức là một đặc tính căn bản để phân biệt trình độ phản ánh ý thức con người với
trình độ phản ánh tâm lý động vật. Chúng ta hãy so sánh hoạt động của con người và hoạt động của con vật để
thấy điều đó:
 Như vậy, sáng tạo là đặc trưng bản chất nhất của ý thức. Ý thức phản ánh hiện thực khách quan vào
bộ óc người, song đây là sự phản ánh đặc biệt, gắn liền với thực tiễn sinh động cải tạo thế giới khách quan theo
nhu cầu của con người
+ Biểu hiện tính sáng tạo của ý thức rất phong phú:
Một là, trên cơ sở những cái đã có, ý thức có thể tạo ra tri thức mới về sự vật, tưởng tượng ra cái chưa có
trong thực tế, có thể tiên đoán, dự báo xu hướng vận động phát triển trong tương lai của sự vật.
Hai là, thông qua hoạt động thực tiễn con người chế tạo ra công cụ, phương tiện “nối dài” giác quan của
mình để có thể ngày càng nhận thức sâu sắc bản chất của thế giới.
2.3. Kết cấu của ý thức.

a. Theo các yếu tố hợp thành (chiều ngang)
Ý thức bao gồm các yếu tố cấu thành như: tri thức, tình cảm, niềm tin, lý trí, ý chí, v.v., trong đó tri thức là
nhân tố cơ bản cốt lõi nhất.
b. Theo chiều sâu của nội tâm (chiều dọc)
Ý thức bao gồm các yếu tố: tự ý thức, tiềm thức, và vô thức.
* Ý nghĩa phương pháp luận
- Ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan nên trong nhận thức và hoạt động thực tiễn phải
xuất phát từ thực tế khách quan, tôn trọng quy luật khách quan, chống chủ quan duy ý chí.
- Ý thức là sự phản ánh tự giác sáng tạo hiện thực, nên cần chống tư tưởng thụ động, và chủ nghĩa giáo
điều, xa rời thực tiễn.
* Ý nghĩa vận dụng
- Cần có thái độ đúng đối với con người, quan tâm, chăm lo phát triển con người toàn diện cả về thể chất
và tinh thần.
- Trong xây dựng quân đội, trước hết chăm lo xây dựng, phát triển nguồn nhân lực có chất lượng cao, có
phẩm chất nhân cách phát triển toàn diện.
3. TÍNH THỐNG NHẤT VẬT CHẤT CỦA THẾ GIỚI
3.1. Quan điểm của triết học trước Mác
* Quan điểm của CNDT: bản chất thế giới là “ý niệm tuyệt đối” hoặc ở ý thức con người, cho nên thế
giới thống nhất là vì nó được người ta nghĩ về nó như cái thống nhất.
* Quan điểm của tôn giáo:
Chia thế giới thành ba bộ phận: thiên đường, địa ngục, trần gian. Các bộ phận của thế giới thống nhất ở
chúa, thượng đế, những đấng sáng thế.
* Quan điểm của CNDV trước Mác
CNDV trước Mác thừa nhận sự thống nhất vật chất của thế giới, song giải thích sự thống nhất ợ các vật
thể, các dạng, các thuộc tính của vật chất.
 Các quan điểm trên đều là quan điểm duy tâm thần bí, hoặc siêu hình, thiếu cơ sở khoa học.
3.2. Quan điểm của triết học Mác- Lênin

6



Bằng sự phát triển lâu dài của bản thân triết học và sự phát triển của khoa học, CNDVBC chứng minh
rằng: bản chất của thế giới là vật chất, thế giới thống nhất ở tính vật chất. Điều đó được thể hiện ở những
điểm cơ bản sau đây:
- Chỉ một thế giới duy nhất và thống nhất là thế giới vật chất. Thế giới vật chất tồn tại khách quan, có
trước và độc lập với ý thức con người, được ý thức con người phản ánh.
- Mọi bộ phận của thế giới có mối quan hệ vật chất thống nhất với nhau, biểu hiện ở chỗ chúng đều là
những dạng cụ thể của vật chất, là sản phẩm của vật chất, cùng chịu sự chi phối của những quy luật khách quan,
phổ biến của thế giới vật chất.
- Thế giới vật chất không do ai sinh ra và cũng không tự mất đi, nó tồn tại vĩnh viễn, vô hạn và vô tận.
Trong thế giới, các sự vật, hiện tượng luôn luôn vận động, biến đổi không ngừng và chuyển hoá lẫn nhau, là
nguồn gốc, nguyên nhân và kết quả của nhau, về thực chất, đều là những quá trình vật chất.
* Quan điểm của Lênin về ý nghĩa tuyệt đối và ý nghĩa tương đối của sự đối lập giữa vật chất và ý thức:
Lênin khẳng định: "sự đối lập giữa vật chất và ý thức chỉ có ý nghĩa tuyệt đối trong những phạm vi hết sức
hạn chế: trong trường hợp này chỉ giới hạn trong vấn đề nhận thức luận cơ bản là thừa nhận cái gì có trước và
cái gì là cái có sau? Ngoài giới hạn đó, thì không còn nghi ngờ gì nữa rằng sự đối lập đó là tương đối". ( V. I.
Lênin, Toàn tập, Nxb Tiến bộ, M. 1980, tập 18, tr. 173.)
- Tính tuyệt đổi: thể hiện trong mặt nhận thức luận, vật chất là cái có trước, ý thức là cái có sau; vật chất
quyết định ý thức.
- Tính tương đối: thể hiện thông qua mối quan hệ thống nhất hữu cơ giữa vật chất và ý thức; tuy bị vật
chất quyết định nhưng ý thức tác động trở lại vật chất, ý thức là sự phản ánh sáng tạo vật chất, là “hình ảnh chủ
quan của thế giới khách quan”.
* Ý nghĩa phương pháp luận và vận dụng:
- Học thuyết Mác - Lênin về vật chất là cơ sở lý luận khoa học trực tiếp của nguyên tắc khách quan trong
nhận thức và thực tiễn nói chung, trong nhận thức và thực tiễn quân sự nói riêng. Nguyên tắc này khẳng định:
con người muốn đạt được mục đích không có cách nào khác là phải nhận thức và tác động vào thế giới đúng
như nó có; không bao giờ được tô hồng, bóp méo bản chất của sự vật, hay tác động vào sự vật bằng các phương
thức chủ quan tuỳ tiện.
- Nguyên tắc khách quan đòi hỏi các chủ thể của lĩnh vực quân sự phải phân tích nguồn gốc chiến tranh từ
trong tồn tại xã hội; Việc xác định không gian và thời gian của một cuộc chiến tranh, một chiến dịch, một trận

chiến đấu cũng đòi hỏi phải quán triệt sâu sắc nguyên tắc khách quan;
- Khẳng định nguyên tắc khách quan cũng đồng nghĩa với việc thừa nhận nguyên tắc về một thế giới có
thể nhận thức được. Nguyên tắc này khẳng định rằng, xét về khả năng, tiến trình, mục đích cuối cùng, thì nhận
thức của con người về thế giới là tuyệt đối và vô tận, đồng thời đối với mỗi con người cụ thể trong điều kiện
lịch sử cụ thể, nhận thức lại tương đối, có hạn, không thể có đối tượng nào nhận thức một lần là xong. Chống lại
thuyết “bất khả tri”.
4. QUAN HỆ VẬT CHẤT VÀ Ý THỨC; QUAN HỆ KHÁCH QUAN VÀ CHỦ QUAN
4.1. MỐI QUAN HỆ VẬT CHẤT VÀ Ý THỨC
Mối quan hệ vật chất và ý thức là "vấn đề cơ bản của mọi triết học, đặc biệt là của triết học hiện đại". Tuỳ
theo lập trường thế giới quan khác nhau, khi giải quyết mối quan hệ giữa chúng mà hình thành hai đường lối cơ
bản trong triết học là chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm
1. Một số quan điểm phi mác xít
* Quan điểm của CNDT: CNDT nhìn chung đều tuyệt đối hoá vai trò của ý thức, coi ý thức là tính thứ
nhất quyết định vật chất.
* Quan điểm của CNDV siêu hình: Thừa nhận tính thứ nhất của thế giới vật chất, khẳng định vật chất
quyết định và sản sinh ra ý thức, nhưng lại tuyệt đối hoá vai trò của vật chất, hạ thấp vai trò tác động tích cực
của ý thức đối với vật chất.
2. Quan điểm của CNDVBC
VC và YT là hai hiện tượng khác nhau về bản chất, nhưng có mối quan hệ biện chứng với nhau. Trong đó
VC có trước, YT có sau, VC quyết định YT; YT có tính độc lập tương đối có tác động to lớn trở lại VC.
a. Vai trò quyết định của vật chất đối với ý thức.
- Vì sao?
+ Ý thức chỉ là sản phẩm của bản thân thế giới vật chất, do thế giới vật chất vận động, phát triển sinh ra.
+ Ý thức chỉ là một thuộc tính chung, thuộc tính phản ánh của thế giới vật chất, nhưng là hình thức phản
ánh cao nhất của thế giới vật chất.
7


- Biểu hiện: Vật chất quyết định nguồn gốc ra đời, nội dung và sự vận động, biến đổi của ý thức.
+ Vật chất quyết định nguồn gốc của ý thức. Nghĩa là, nguồn gốc của ý thức (cả TN và XH) đều do vật

chất sinh ra.
+ Vật chất quyết định nội dung phản ánh của ý thức. Nghĩa là nội dung của ý thức như thế nào do thế giới
vật chất quyết định.
+ Vật chất quyết định sự vận động, biến đổi của ý thức. Nghĩa là, khi TGKQ biến đổi, ý thức – là sự phản
ánh TGKQ cũng biến đổi theo.
b. Vai trò tác động trở lại của ý thức đối với vật chất.
Sau khi ra đời, ý thức không tồn tại thụ động mà tác động trở lại thế giới vật chất thông qua hoạt động
thực tiễn của con người, chỉ đạo hoạt động cải tạo thế giới hiện thực theo nhu cầu của con người.
- Vì sao?
Vì ý thức có tính độc lập tương đối so với vật chất, có tính năng động sáng tạo nên có thể tác động trở lại
vật chất, góp phần cải biến thế giới khách quan.
- Phương thức tác động.
Ý thức tác động trở lại vật chất phải thông qua hoạt động thực tiễn của con người.
- Biểu hiện của sự tác động: Đó là việc con người đề ra mục tiêu, phương hướng, chủ trương, biện pháp
cho hoạt động thực tiễn nhằm cải tạo, biến đổi hiện thực KQ.
- Chiều hướng của sự tác động: Sự tác động trở lại của ý thức đối với vật chất diễn ra theo hai chiều
hướng trái ngược nhau:
+ Nếu ý thức phản ánh đúng bản chất, quy luật của hiện thực khách quan, đề ra mục tiêu, chủ trương, biện
pháp phủ hợp thì sẽ thúc đẩy hiện thực khách quan phát triển.
Ví dụ : Đường lối đổi mới toàn diện của Đảng tại Đại hội VI là đúng đắn, giúp nước ta thoát khỏi khủng
hoảng KT-XH, giữ vững sự ổn định và phát triển đi lên.
+ Nếu ý thức phản ánh sai bản chất, quy luật của hiện thực khách quan, đề ra mục tiêu, chủ trương, biện
pháp không phù hợp thì sẽ kìm hãm sự phát triển của hiện thực khách quan.
Ví dụ : Giai đoạn trước những năm diễn ra Đại hội VI của Đảng, do cơ chế tập trung quan liêu bao cấp
kéo dài, làm nước rơi vào khủng hoảng KT-XH.
Chú ý : Sự tác động của YT đối với VC như thế nào còn phụ thuộc:
- > Trình độ phản ánh của YT : cao hay thấp, độ chính xác như thế nào ?
- > Việc tổ chức chỉ đạo người lao động ...
- > Mức độ thâm nhập của YT vào lực lượng vật chất xã hội
- > Sự tác động trở lại của YT chỉ làm cho quá trình vận động của VC diễn ra nhanh hay chậm mà thôi,

chứ không thể đảo ngược quan hệ vật chất với ý thức.
* Ý nghĩa phương pháp luận
- Trong nhận thức và hoạt động thực tiễn, phải tôn trọng nguyên tắc khách quan. Phải luôn xuất phát từ
thực tế khách quan, tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan
- Phát huy tính năng động, sáng tạo của ý thức, phát huy vai trò của nhân tố con người
- Khắc phục và ngăn ngừa bệnh chủ quan duy ý chí.
4.2. MỐI QUAN HỆ BIỆN CHỨNG GIỮA KHÁCH QUAN VÀ CHỦ QUAN
Mối quan hệ vật chất và ý thức là cơ sở TGQ và PPL chỉ đạo giải quyết mối quan hệ khách quan và chủ
quan, nhưng hai mối quan hệ này không đồng nhất với nhau.
1. Khái niệm khách quan và chủ quan
a. Khái niệm khách quan:
- Khách quan: là phạm trù dùng để chỉ tất cả những gì tồn tại không lệ thuộc vào ý thức của chủ thể, hợp
thành một hoàn cảnh hiện thực thường xuyên và trực tiếp quy định mọi hoạt động của chủ thể.
- Nghiên cứu khái niệm KQ cần chú ý:
+ Cái KQ bao giờ cũng được xem xét trong quan hệ xác định, với một chủ thể xác định.
Chủ thể: Là con người (một cá nhân, hoặc một tập thể) có tri thức, có ý chí, tình cảm và năng lực tổ chức
hành động cải tạo thế giới khác quan.
Khách thể: Là đối tượng (có thể là một sự vật, một hiện tượng, một con người, v.v.) chịu sự tác động,
nhận thức và cải tạo của chủ thể.
+ Phạm vi của cái KQ tùy thuộc vào chủ thể mà nó quan hệ .
VD: Chủ thể là một cá nhân – KQ hẹp hơn KQ của chủ thể là một đơn vị.
8


+ Cái KQ bao gồm cả những yếu tố vật chất và yếu tố tinh thần ở bên ngoài ý thức của chủ thể. Do đó cái
KQ không đồng nhất với phạm trù vật chất vì:
Cái KQ là một mặt của hoạt động thực tiễn con người, bao giờ nó cũng bị chi phối bởi điều kiện xã hội lịch sử, còn vật chất với tư cách là phạm trù nhận thức luận thì không.
Cái KQ bị chế ước bởi: Trình độ của LLSX, QHSX, trình độ nhận thức, tri thức của con người. Vật chất là
vô cùng vô tận, không do ai sinh ra cũng không tự mất đi, nó vận động theo quy luật khách quan vốn có của nó
 Phạm trù cái khách quan không chỉ bao hàm những SVHT vật chất mà bao hàm cả những hoạt động tinh

thần.
Ví dụ: Quan hệ ta - địch, cái khách quan đối với chúng ta là những điều kiện vật chất và tinh thần, tư
tưởng của địch.
- Nội dung chủ yếu của phạm trù khách quan bao gồm:
+ Điều kiện KQ: Là tổng hợp những mặt, những yếu tố tạo nên một hoàn cảnh hiện thực mà trong đó chủ
thể sống và hoạt động cải tạo khách thể.
+ Quy luật KQ: Là những quy luật vận động tất yếu của khách thể, là cái bao trùm nhất của phạm trù KQ,
nó quyết định hoạt động của chủ thể.
+ Khả năng KQ: Là những mầm mống, tiền đề, khuynh hướng của hoàn cảnh, của đối tượng mà trong
những điều kiện nhất định sẽ trở thành hiện thực.
b. Khái niệm chủ quan.
- Chủ quan: là phạm trù dùng để chỉ sự phản ánh cái khách quan vào ý thức của chủ thể và toàn bộ hoạt
động của chủ thể dựa trên sự phản ánh đó.
+ Chủ quan chính là YT của chủ thể trong hoạt động thực tiễn, là YT của chủ thể biến thành hành động.
+ Chủ quan phụ thuộc vào chủ thể, là căn cứ để đánh giá khả năng hoạt động thực tiễn của chủ thể.
- Nội dung phạm trù CQ bao gồm: Hệ thống phẩm chất, năng lực nhận thức cái KQ; Năng lực tổ chức
hành động của chủ thể; Năng lực hoạt động của chủ thể; Thể chất...
 Như vậy có thể nói, cái chủ quan là toàn bộ những phẩm chất, năng lực của chủ thể huy động vào để
nhận thức và cải tạo khách thể
- Phạm trù cái chủ quan không trùng khít với phạm trù ý thức. Nó bao gồm cả yếu tố vật chất và tinh
thần của chủ thể.
+ Yếu tố thuộc về tinh thần gồm: Những phẩm chất, năng lực, tri thức, tình cảm...
+ Yếu tố thuộc về vật chất: Thể chất (cấu tạo sinh học của cơ thể, sức khoẻ, tâm sinh lý của chủ thể...)
+ Cái chủ quan không đồng nhất với YT và cái chủ quan phải gắn với chủ thể, chủ thể khác nhau thì cái
chủ quan cũng khác nhau.
+ Chủ thể không phải chung chung trừu tượng, có thể là một con người, một nhóm người, một giai cấp, một
tổ chức, một cộng đồng cụ thể trong quan hệ với khách thể mà nó cần nhận thức và cải tạo.
 Việc xác định cái khách quan, cái chủ quan chỉ mang tính tương đối, trong mối quan hệ này là cái
khách quan nhưng trong mối quan hệ khác lại là cái chủ quan và ngược lại. Chẳng hạn như cách đánh đối với ta
là chủ quan, nhưng đối với địch là khách quan.

2. Mối quan hệ chủ quan và khách quan.
CNDVBC khẳng định: KQ và CQ là hai mặt không tách rời trong hoạt động thực tiễn của con người,
giữa chúng có sự tác động qua lại lẫn nhau; trong đó KQ là cơ sở, là tiền đề, điểm xuất phát, cái suy đến cùng
quyết định CQ, CQ tác động to lớn trở lại đối với KQ.
* KQ là tính thứ nhất, là cơ sở, tiền đề, xuất phát điểm, là cái giữ vai trò quyết định suy đến cùng
đối với CQ.
- Vì sao? Vì VC quyết định YT nên trong thực tiễn KQ quyết định CQ, cụ thể:
+ Mọi hoạt động của con người chỉ là sự phản ánh và thực hiện những nhu cầu đã chín muồi của đời sống
xã hội.
VD: LĐSX làm ra của cải vật chất; khi thi đại học nên chọn trường nào …
+ Những nhiệm vụ mà con người phải giải quyết đều do lịch sử đề ra và quy định nội dung, biện pháp giải
quyết nó.
+ Hoạt động chủ yếu của con người là phát hiện và vận dụng những quy luật khách quan để tạo ra những
điều kiện và hoàn cảnh cần thiết cho đời sống xã hội.
- Biểu hiện sự quyết định:
+ Quyết định sự ra đời của cái chủ quan. Tức là quyết định sự nảy sinh ý định của chủ thể.
9


VD: Căn cứ vào tình hình địch – ta, điều kiện thời tiết, khí hâu, địa hình …mà người chỉ huy đề ra phương
án tác chiến tối ưu để đánh thắng kẻ thù.
+ Quyết định nội dung của chủ quan. Tức là quyết định mục đích, kế hoạch, phương pháp, biện pháp cải
tạo khách quan.
VD: Căn cứ vào đối tượng cụ thể để người CTV đề ra mục đích, yêu cầu, nội dung, phương pháp tiến
hành giáo dục chính chị cho cán bộ, chiến sĩ trong đơn vị một cách có hiệu quả.
+ Quyết định phạm vi, giới hạn thành công của chủ quan. Tức là phạm vi, giới hạn thành công của CQ
phụ thuộc vào điều kiện, hoàn cảnh, khả năng KQ và phụ thuộc vào khách thể.
+ Quyết định sự biến đổi của chủ quan. Tức là chủ quan phải biến đổi phù hợp với sự biến đổi, phát triển
của khách quan.
VD: Chuyển hướng chỉ đạo chiến lược từ “đánh nhanh thắng nhanh”sang “đánh chắc thắng chắc” trong

chiến dịch Điện Biên Phủ của quân ta.
* Chủ quan không hoàn toàn thụ động mà có vai trò to lớn trong việc biến đổi, cải tạo cái khách
quan thông qua hoạt động thực tiễn.
- Vì sao?
+ Cái CQ mang nội dung KQ nhưng lại tồn tại trong chủ thể, chỉ đạo hoạt động của chủ thể, nhằm cải tạo
KQ để thoả mãn nhu cầu của chủ thể.
+ Thực chất nói đến vai trò của CQ là nói vai trò của chủ thể, của con người. Con người không hoàn toàn
phụ thuộc vào giới tự nhiên như những động vật. Con người luôn tích cực, chủ động khám phá, cải tạo giới tự
nhiên để thoả mãn nhu cầu của mình.
- Biểu hiện:
+ Con người có thể tác động vào HTKQ, tạo ra những điều kiện KQ có lợi phục vụ cho hoạt động của mình.
VD: Đắp đê, quai sông lấn biển, trồng rừng…
+ Trên cơ sở nhận thức quy luật KQ và những điều kiện hoạt động của nó, con người có thể điều chỉnh sự
tác động của quy luật khách quan theo mục đích của mình
VD: Trong thời kỳ chống Mỹ xâm lược, mặc dù trình độ LLSX của ta còn thấp, nhưng chúng ta vẫn phải
tổ chức sản xuất tập thể để tập trung sức người, sức của cho sự nghiệp giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống
nhất đất nước.
* Ý nghĩa phương pháp luận.
- Trong nhận thức và hoạt động thực tiễn phải xuất từ cái khách quan, tôn trọng và hành động theo quy
luật khách quan, chống chủ quan duy ý chí.
- Trên cơ sở tôn trọng cái khách quan mà phát huy cao độ tính năng động chủ quan, nhằm nâng cao chất
lượng và hiệu quả hoạt động thực tiễn. Kiên quyết chống tự ty, trông chờ ỷ lại, lệ thuộc hoặc bó tay trước cái
khách quan.
VẤN ĐỀ 3: PHÉP BIỆN CHỨNG
3.1: KHÁI NIỆM PHÉP BIỆN CHỨNG; BIỆN CHỨNG KHÁCH QUAN VÀ BIỆN CHỨNG CHỦ
QUAN
3.1.1. Khái niệm phép biện chứng.
*Phép siêu hình (phương pháp tư duy siêu hình): Xem xét SVHT trong trạng thái biệt lập, ngưng đọng,
tĩnh tại, bất biến. Như Ph. Ăngghen nhận xét: “Chỉ thấy những SVHT cá biệt mà không thấy mối liên hệ giữa
những sự vật ấy; chỉ thấy sự tồn tại của sự vật mà không thấy sự ra đời và sự biến đi của sự vật, chỉ thấy trạng

thái tĩnh của sự vật mà không thấy trạng thái động của sự vật; chỉ thấy cây mà không thấy rừng”.(Ph. Ăngghen:
chống Đuyrinh, Nxb Sự thật, H. 1971 tr.35).
* Phép biện chứng: Xem xét SVHT trong trạng thái liên hệ, tác động qua lại lẫn nhau, ràng buộc lẫn nhau
và trong quá trình vận động, phát triển không ngừng.
3.1.2. Lịch sử phát triển của Phép biện chứng:
Phép biện chứng trải qua các giai đoạn phát triển như sau:
- PBC tự phát, ngây thơ thời cổ đại: ra đời khoảng thế kỷ VI - V trước CN (Thời kỳ cổ đại). Điển hình là
PBC trong triết học Hy lạp cổ đại và triết học Trung Quốc cổ đại.
- PBCDT khách quan: ra đời cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX, trong triết học của Cantơ và hoàn thiện
trong triết học Hêghen. Hêghen là người đầu tiên xây dựng hoàn chỉnh PBCDT, với một hệ thống khái niệm,
phạm trù, quy luật cơ bản. Song triết học của ông mang tính chất duy tâm, tư biện.
10


- PBCDV với tính cách là một khoa học: do C.Mác và Ph. Ăngghen sáng lập vào giữa thế kỷ XIX, V.I.
Lênin phát triển vào đầu thế kỷ XX, và các Đảng Cộng sản, đảng công nhân sau này bổ sung những yếu tố mới.
Trong PBCDV, TQG DVBC và PPL BCDV thống nhất hữu cơ với nhau. Vì thế nó khắc phục được hạn
chế của PBC tự phát, ngây thơ thời cổ đại và những thiếu sót của PBC DTKQ thời cận đại. Nó đã khái quát
đúng đắn những quy luật cơ bản chung nhất của sự vận động, phát triển của thế giới. PBCDV trở thành một
khoa học.
3.1.3. Định nghĩa phép biện chứng duy vật
* PBCDV là khoa học về những quy luật chung nhất của sự vận động, phát triển của tự nhiên, xã hội và
tư duy.
Ăng ghen định nghĩa: “PBC là khoa học về sự liên hệ phổ biến” và “PBC (…) là môn khoa học về những
quy luật phổ biến của sự vận động và sự phát triển của tự nhiên, của xã hội loài người và của tư duy”.
* Đối tượng nghiên cứu của PBCDV là những quy luật chung nhất, những mối liên hệ phổ biến của thế
giới vật chất (khác khoa học cụ thể).
* Mục đích nghiên cứu của PBCDV: Nghiên cứu sự vận động, phát triển của thế giới rút ra hệ thống các
quy luật chung nhất (cả phạm trù) và hệ thống PPL trong nhận thức và cải tạo thế giới.
* Nội dung của PBCDV:

Nội dung cơ bản của PBCDV được trình bày một cách hệ thống, chặt chẽ tính chất biện chứng của thế
giới thông qua các nguyên lý cơ bản, các cặp phạm trù cơ bản và các quy luật cơ bản được sắp xếp một cách
lôgíc, hệ thống. Trong đó:
- Gồm 2 nguyên lý
+ Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến: Nguyên lý này khẳng định tính chất chỉnh thể tất yếu của thế giới.
+ Nguyên lý về sự phát triển: Nguyên lý này khẳng định xu hướng vận động tất yếu của các SVHT.
- 3 quy luật cơ bản:
+ Quy luật chuyển hoá từ những thay đổi về lượng thành những thay đổi về chất và ngược lại, phản ánh
phương thức của sự vận động, phát triển.
+ Quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập phản ánh nguồn gốc, động lực của sự phát triển.
+ Quy luật PĐCPĐ phản ánh khuynh hướng và con đường của sự phát triển qua việc làm sáng tỏ những
mối liên hệ giữa những nấc thang của quá trình đó.
Ba quy luật này không tách rời nhau và thống nhất hữu cơ với nhau, phản ánh sự tác động qua lại của
những mặt quan trọng nhất trong sự liên hệ và vận động phát triển của sự vật, hiện tượng.
- 6 cặp phạm trù cơ bản: Cặp phạm trù cái chung và cái riêng; Cặp phạm trù nguyên nhân và kết quả;
Cặp phạm trù nội dung và hình thức; Cặp phạm trù bản chất và hiện tượng; Cặp phạm trù khả năng và hiện
thực; Cặp phạm trù tất nhiên và ngẫu nhiên.
* Đặc điểm của PBCDV
- Tính hệ thống: PBCDV được xây dựng trên cơ sở một hệ thống những nguyên lý những phạm trù cơ
bản, những quy luật phổ biến phản ánh đúng đắn thế giới hiện thực. Trong hệ thống đó, nguyên lý về mối liên
hệ phổ biến và nguyên lý về sự phát triển là hai nguyên lý khái quát nhất.
- Tính hoàn bị: đó là sự thống nhất giữa tính đảng với tính khoa học, giữa CNDV và PBC thành môn
khoa học duy nhất vừa là TGQ vừa là PPL, vừa là lý luận vừa là phương pháp.
Nghĩa là, nó khắc phục được mọi thiếu sót cơ bản của PBC cổ đại, PSH, PBCDT, CNDV cũ; khắc phục
được tính phiến diện hoặc tách rời giữa các bộ phận triết học. Nó duy vật cả trong tự nhiên và trong xã hội: đó
là sự thống nhất giữa CNDVBC và CNDVLS; giữa CNDV, PBC và LLNT; giữa TGQ và PPL khoa học.
Phê phán quan điểm cho rằng: CNDVBC = CNDV + PBC; hoặc quan điểm cho rằng CNDV là lý luận,
còn PBC là phương pháp.
3.1.4. Biện chứng khách quan và biện chứng chủ quan:
- Biện chứng khách quan là phạm trù dùng để chỉ biện chứng của bản thân các SVHT, quá trình tồn tại độc

lập và ở bên ngoài ý thức con người.
- Biện chứng chủ quan là phạm trù dùng để chỉ tư duy biện chứng và biện chứng của chính quá trình phản
ánh hiện thực khách quan vào đầu óc của con người.
3.2. NGUYÊN LÝ VỀ MỐI LIÊN HỆ PHỔ BIẾN VÀ SỰ PHÁT TRIỂN.
1. Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến
a. Vị trí: đây là một trong hai nguyên lý cơ bản của PBCDV chỉ ra cơ sở tồn tại của mọi sự vật. Thực chất
nguyên lý mối liên hệ phổ biến nhằm lý giải các SVHT trong thế giới vật chất phong phú đa dạng nhưng có liên
hệ với nhau.
11


b. Nội dung nguyên lý:
* Quan điểm siêu hình : Nhìn chung, quan điểm siêu hình phủ nhận sự liên hệ giữa các SVHT, có chăng
thì cũng chỉ là những mối liên hệ bề ngoài, ngẫu nhiên. Tuy cũng có người thừa nhận sự liên hệ và tính đa dạng
của nó, nhưng lại phủ nhận khả năng chuyển hoá lẫn nhau giữa các hình thức liên hệ khác nhau.
* CNDT: Thừa nhận sự liên hệ tác động qua lại giữa các SVHT và sự chuyển hoá lẫn nhau giữa chúng,
song hiểu cơ sở của sự liên hệ, tác động qua lại và sự vận động, chuyển hoá của các mối liên hệ là do các lực
lượng siêu nhiên hay ở ý thức, cảm giác của con người.
* CNDVBC cho rằng :
- Liên hệ: là một phạm trù triết học dùng để chỉ sự quy định, sự tác động, ảnh hưởng qua lại, chuyển hoá lẫn
nhau giữa các sự vật, hiện tượng hoặc giữa các mặt, các yếu tố của một sự vật, hiện tượng.
+ Liên hệ là một đặc trưng của thế giới khách quan.
+ Liên hệ là cơ sở tồn tại của mọi SVHT.
>Vì cách thức (phương thức) liên hệ giữa các yếu tố, các bộ phận cấu thành sự vật quyết định hình thức
tồn tại của sự vật (ở dạng này hay dạng khác).
> Khi các mối liên hệ thay đổi (chủ yếu là những mối liên hệ đối lập) thì sự vật cũng thay đổi theo. Đương
nhiên khi sự vật thay đổi thì các mối liên hệ của nó cũng thay đổi.
> Mặt khác, thông qua các mối liên hệ và quan hệ mà các thuộc tính của sự vật được bộc lộ ra, nhờ đó mà
con người có thể nhận thức được bản chất của sự vật.
 Trong thế giới vật chất các SVHT có rất nhiều mối liên hệ, PBCDV tập trung nghiên cứu những mối

liên hệ phổ biến. Còn các hình thức và các kiểu liên hệ cụ thể trong các lĩnh vực khác nhau của thế giới là đối
tượng nghiên cứu của các khoa học cụ thể.
- Mối liên hệ phổ biến : là những mối liên hệ chung nhất, bản chất nhất, quyết định sự vận động, phát
triển của toàn bộ hiện thực khách quan.
+ Đây là những mối liên hệ chung nhất, diễn ra ở tất cả mọi sự vật, hiện tượng, mọi lĩnh vực của hiện thực.
+ Đây là những mối liên hệ bản chất nhất, tất nhiên, ổn định của hiện thực. Nghĩa là một mối liên hệ cụ
thể nào đó có thể mất đi, nhưng mối liên hệ phổ biến thì luôn tồn tại.
+ Đây là những mối liên hệ quan trọng nhất. Vai trò của một mối liên hệ cụ thể nào đó đối với sự vật, hiện
tượng có thể thay đổi tuỳ theo từng trường hợp nhất định, nhưng vai trò quyết định nhất của mối liên hệ phổ
biến là không thay đổi trong mọi trường hợp.
- Nội dung của nguyên lý về mối liên hệ phổ biến:
CNDVBC khẳng định: Mọi sự vật hiện tượng của thế giới vật chất đều tồn tại trong mối liên hệ phổ biến.
Mối liên hệ đó có tính khách quan, tính phổ biến và tính phong phú đa dạng.
+ Tính khách quan: nghĩa là các MLH là vốn có của mọi SVHT nó không phụ thuộc vào ý thức của con
người, cơ sở của nó là tính thống nhất vật chất của thế giới.
+ Tính phổ biến: Mối liên hệ tồn tại trong tất cả mọi SVHT, mọi quá trình, ở tất cả các lĩnh vực tự nhiên,
xã hội, tư duy; ngay trong các mặt, các yếu tố, các bộ phận của một SVHT hay giữa các giai đoạn của nó cũng
có liên hệ lẫn nhau.
+ Tính đa dạng phong phú của mối liên hệ phổ biến : bắt nguồn từ tính phong phú, muôn vẻ của thế giới
> Sự vật khác nhau có mối liên hệ khác nhau
> Sự vật có nhiều MLH nhưng vai trò và vị trí không ngang bằng nhau, có MLH bên trong và bên ngoài,
MLH bản chất và không bản chất; có mối liên hệ bao quát toàn bộ thế giới, có mối liên hệ bao quát một lĩnh
vực hoặc một số lĩnh vực của thế giới ; có mối liên hệ chủ yếu và mối liên hệ thứ yếu; có mối liên hệ tất nhiên
và mối liên hệ ngẫu nhiên; có mối liên hệ trực tiếp và mối liên hệ gián tiếp, v.v.
> Có MLH quyết định sự tồn tại phát triển của sự vật, có mối liên hệ chỉ ảnh hưởng đến sự phát triển của
sự vật. Ví dụ : Quân đội nhân dân Việt Nam có mối liên hệ với Đảng, với nhân dân với quốc tế đây là MLH
quyết định sự tồn tại của QĐ vì nếu MLH này thay đổi thì QĐ không còn là QĐ CM nữa. Còn các MLH với vũ
khí, biên chế chỉ ảnh hưởng đến sự phát triển.
> Sự vật phát triển qua các giai đoạn khác nhau thì có các MLH khác nhau. Ví dụ : Nước ta từ giai đoạn
phát triển từ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân lên cách mạng XHCN thì MLH với quốc tế và khu vực cũng có

những thay đổi phù hợp vơí xu thế phát triển của thời đại.
c. Ý nghĩa phương pháp luận và ý nghĩa vận dụng.
* Ý nghĩa phương pháp luận.
- Cần có quan điểm toàn diện trong nhận thức và hoạt động thực tiễn: đòi hỏi chúng ta nhận thức về sự
vật trong mối liên hệ qua lại giữa các bộ phận, giữa các yếu tố, giữa các mặt của chính sự vật và trong sự tác
12


động qua lại giữa sự vật đó với các sự vật khác, kể cả mối liên hệ trực tiếp và mối liên hệ gián tiếp. Chỉ trên cơ
sở đó mới có thể nhận thức đúng về sự vật.
+ Đồng thời, nhận thức đúng vị trí vai trò của từng MLH đối với sự phát triển của SV HT.
+ Trong cải tạo sự vật chúng ta không những phải chú ý tới những mối liên hệ nội tại của nó mà còn phải
chú ý tới những mối liên hệ của sự vật ấy với các sự vật khác. Đồng thời, chúng ta phải biết sử dụng đồng bộ
các biện pháp, các phương tiện khác nhau để tác động nhằm đem lại hiệu quả cao nhất.
- Có quan điểm lịch sử - cụ thể : đòi hỏi chúng ta khi nhận thức về sự vật và tác động vào sự vật phải chú
ý điều kiện, hoàn cảnh lịch sử - cụ thể, môi trường cụ thể trong đó sự vật sinh ra, tồn tại và phát triển.
- Phê phán chủ nghĩa chiết trung và thuật nguỵ biện:
+ Chủ nghĩa chiết trung : Một mặt, tuy tỏ ra chú ý tới nhiều mặt, nhiều mối liên hệ khác nhau, nhưng lại
kết hợp vô nguyên tắc những cái khác nhau tạo thành một hình ảnh không đúng về sự vật. Mặt khác, chủ nghĩa
chiết trung xem xét « cào bằng » các mặt, kết hợp vô nguyên tắc các mối liên hệ với nhau, cho nên không biết rút
ra mặt cơ bản chất, mối liên hệ căn bản, do đó hoàn toàn bất lực khi cần có quyết sách đúng đắn.
+ Thuật nguỵ biện : chú ý tới nhiều mặt, nhiều mối liên hệ khác nhau của sự vật, song lại đưa cái không cơ
bản thành cái cơ bản, cái không bản chất thành cái bản chất.
* Ý nghĩa vận dụng
- Đảng ta: đổi mới toàn diện trong đó ưu tiên đổi mới kinh tế, đổi mới chính trị từ từ, từng bước thận trọng.
- Quân đội: ‘‘Xây dựng quân đội ta vững mạnh toàn diện, có chất lượng tổng hợp ngày càng cao, trong đó
lấy xây dựng về chính trị làm cơ sở’’
- Vận dụng trên cương vị là người CTV trong xen xét, đánh giá tình hình đơn vị, xem xét, đánh giá cácn
bộ chiến sỹ…
2. Nguyên lý về sự phát triển

a. Vị trí: Đây là một trong hai nguyên lý cơ bản của PBCDV, chỉ ra khuynh hướng phát triển tất yếu của
mọi sự vật hiện tượng.
b. Nội dung nguyên lý :
* Quan điểm duy tâm, tôn giáo : Giải thích nguồn gốc của sự phát triển ở thần linh, thượng đế, ở các lực
lượng siêu tự nhiên, hay ở ý thức con người.
* Quan điểm siêu hình : Hiểu sự phát triển chỉ là sự tăng hay giảm thuần tuý về mặt lượng, không có sự
thay đổi về chất của sự vật; hoặc có sự thay đổi nhất định về chất thì sự thay đổi ấy cũng chỉ diễn ra theo một
vòng tròn khép kín; hoặc là lại hiểu phát triển như là một quá trình tiến lên liên tục, không có những bước
quanh co, phức tạp. Động lực của sự phát triển là xung đột giữa lực lượng đối lập ở bên ngoài SVHT.
* Quan điểm của CNDVBC :
- Phát triển là một phạm trù triết học dùng để chỉ quá trình vận động tiến lên từ thấp đến cao, từ đơn
giản đến phức tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện và được đánh dấu bằng việc ra đời cái mới.
(Phát triển không đồng nhất với vận động ?)
- Nội dung của nguyên lý về sự phát triển.
CNDVBC khẳng định : mọi sự vật hiện tượng trong thế giới luôn vận động, biến đổi, phát triển không
ngừng. Phát triển mang tính khách quan, tính phổ biến và là khuynh hướng chung của mọi SVHT
+ Phát triển mang tính khách quan: Nghĩa là, sự phát triển của sự vật, hiện tượng là một quá trình khách
quan, là sự tự thân phát triển, không phụ thuộc vào ý thức con người và không phụ thuộc lực lượng siêu tự
nhiên. Nguồn gốc, động lực của sự phát triển là cuộc đấu tranh giải quyết mâu thuẫn giữa các mặt đối lập bên
trong của sự vật, hiện tượng; trạng thái phát của sự phát triển thông qua các bước nhảy chuyển hoá từ lượng
sang chất và ngược lại; con đường của sự phát triển quanh co phức tạp theo đường xoáy ốc.
Hơn nữa vận động là phương thức tồn tại của vật chất, là thuộc tính cố hữu của vật chất, là sự tự thân vận
động, mang tính tất yếu khách quan mà phát triển là một trường hợp đặc biệt của vận động, do đó phát triển
mang tính khách quan.
+ Phát triển mang tính phổ biến: nó diễn ra ở tất cả các lĩnh vực của thế giới,trong tất cả các quá trình, ở
cả tự nhiên, xã hội và tư duy
Tự nhiên : ở giới vô cơ, sự phát triển biểu hiện dưới dạng biến đổi các yếu tố và hệ thống vật chất, sự
tác động qua lại giữa chúng và trong những điều kiện nhất định sẽ làm nảy sinh hợp chất mới.
Giới hữu cơ: sự phát triển thể hiện ở khả năng thích nghi của sinh vật trước sự biến đổi phức tạp của môi
trường; ở sự hoàn thiện quá trình trao đổi chất giữa cơ thể và môi trường; ở sự tự sản sinh ra chính mình với

trình độ ngày càng cao hơn, từ đó làm xuất hiện nhiều giống loài mới phù hợp với môi trường sống.
13


 Trong xã hội: sự phát triển thể hiện ở năng lực chinh phục tự nhiên và cải biến xã hội cũng như bản
thân con người, là sự thay thế nhau của các HTKTXH
 Trong tư duy: sự phát triển thể hiện ở khả năng nhận thức ngày càng sâu sắc, đầy đủ, chính xác hơn về
hiện thực. Cụ thể như các hình thức của PBC.
 Trong mỗi con người: sự phát triển thể hiện ở khả năng tự hoàn thiện mình cả về thể chất và tinh thần
phù hợp với sự vận động và phát triển của môi trường trong đó con người sống.
+ Phát triển là khuynh hướng chung của thế giới vật chất nhưng CNDVBC còn thừa nhận bước thụt
lùi nhất định trong sự phát triển.
c. Ý nghĩa phương pháp luận và vận dụng
- Trong nhận thức và hoạt động thực tiễn cần có quan điểm phát triển.
+ Quan điểm phát triển đòi hỏi khi nhận thức, khi giải quyết một vấn đề nào đó con người phải đặt chúng
ở trạng thái động, nằm trong khuynh hướng chung là phát triển.
+ Quan điểm phát triển đòi hỏi phải thấy tương lai của chúng, phải thấy được những biến đổi đi lên cũng
như những biến đổi có tính chất thụt lùi. Song điều cơ bản là phải khái quát những biến đổi để vạch ra khuynh
hướng biến đổi chính của sự vật.
+ Quan điểm phát triển đòi hỏi phải biết phân chia quá trình phát triển của sự vật ấy thành những giai
đoạn. Trên cơ sở ấy để tìm ra phương pháp nhận thức và cách tác động phù hợp nhằm thúc đẩy sự vật tiến triển
nhanh hơn hoặc kìm hóm sự phát triển của nó, tùy theo sự phát triển đó có lợi hay có hại đối với đời sống của
con người.
- Phân tích SVHT trong sự phát triển là phát hiện ra cái mới, ủng hộ cái mới, tìm ra nguồn gốc sự phát
triển ở bên trong sự vật.
- Cần chống tư tưởng bảo thủ, trì trệ, định kiến trong nhận thức và hoạt động thực tiễn.
- Thấy được sự phát triển là một quá trình khó khăn, phức tạp, mang tính khuynh hướng, nên khi đánh giá
sự phát triển phải có quan điểm lịch sử- cụ thể.
- Đảng ta : Xã hội loài người nhất định tiến lên CNXH.
- Bản thân...

3.3. CÁC QUY LUẬT CƠ BẢN CỦA PBCDV
3.3.1. QUY LUẬT MÂU THUẪN
1. Vị trí : "Quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập" - Quy luật mâu thuẫn là một trong 3
quy luật cơ bản của phép BCDV, giữ vai trò “hạt nhân” của phép biện chứng. Quy luật vạch ra nguồn gốc,
động lực của sự vận động và phát triển.
V.I.Lênin viết: “Có thể định nghĩa vắn tắt phép biện chứng duy vật là học thuyết về sự thống nhất của
các mặt đối lập. Như thế là nắm được hạt nhân của phép biện chứng, nhưng điều đó đòi hỏi phải có những giải
thích và một sự phát triển thêm”. (V.I.Lênin, Toàn tập, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1981, t.29, tr240).
2. Nội dung quy luật:
a. Mặt đối lập và mâu thuẫn:
* Mặt đối lập: Đó là những mặt (những thuộc tính, sự vật, hệ thống sự vật...) có những đặc điểm, những
thuộc tính có khuynh hướng biến đổi trái ngược nhau tồn tại một cách khách quan trong cả tự nhiên, xã hội và
tư duy.
* Mâu thuẫn: Là phạm trù dùng để chỉ các mặt đối lập có mối quan hệ biện chứng với nhau, cùng tồn tại
trong một sự vật, hiện tượng.
 Mâu thuẫn không phải được tạo dựng từ những sự đối lập bất kỳ. Chỉ những mặt đối lập nằm trong sự
liên hệ, sự tác động qua lại với nhau mới tạo thành mâu thuẫn.
* Đặc trưng của mâu thuẫn:
- Mâu thuẫn có tính khách quan: Nghĩa là, mâu thuẫn là cái vốn có của các SVHT, không phụ thuộc ý thức
của con người và các lực lượng siêu nhiên.
- Mâu thuẫn có tính phổ biến: Nghĩa là: Mâu thuẫn tồn tại trong mọi SVHT của thế giới vật chất, tồn tại ở
tất cả các lĩnh vực tự nhiên, xã hội và tư duy.
- Mâu thuẫn có tính đa dạng và phức tạp: Nghĩa là, SVHT khác nhau thì mâu thuẫn cũng khác nhau. Trong
cùng 1 SV ở các thời điểm khác nhau, các điều kiện khác nhau thì mâu thuẫn khác nhau.
b. Nội dung quy luật:
Khái quát: Mọi sự vật, hiện tượng đều chứa đựng những mặt đối lập cấu thành những mâu thuẫn nội tại;
sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập là nguồn gốc, động lực của mọi sự vận động, phát triển.
* Thống nhất của các mặt đối lập là điều kiện tiền đề của đấu tranh:
14



- Sự thống nhất của các mặt đối lập: là sự nương tựa vào nhau, đòi hỏi có nhau của mặt đối lập, sự tồn tại
của mặt này phải lấy tồn tại của mặt kia làm tiền đề. (VD: Vô sản và Tư sản)
- Biểu hiện:
+ Sự thống nhất của các mặt đối lập là một trạng thái đặc biệt của mâu thuẫn, ở đó các mặt đối lập tạm gác
đi sự đối lập để duy trì sự phát triển và làm tiền đề cho nhau.
+ Sự thống nhất của các mặt đối lập được biểu hiện như một thời điểm đặc biệt xuất hiện trong quá trình
phát triển của mâu thuẫn, ở đó, tương quan so sánh lực lượng giữa các mặt là ngang bằng nhau.
+ Sự thống nhất của các mặt đối lập được biểu hiện như một trường hợp đặc biệt về sự đối lập giữa các
mặt, đó là việc giữa chúng có những đặc trưng, những yếu tố nào đó giống nhau, “đồng nhất” với nhau. Đây
chính là cơ sở để các mặt đối lập có thể chuyển hoá được cho nhau.
+ Sự thống nhất của các mặt đối lập là có điều kiện, tạm thời, thoáng qua, tương đối; nó tương ứng với
trạng thái đứng im tương đối của sự vật.
- Vai trò
+ Sự thống nhất của mặt đối lập là cơ sở cho sự tồn tại của mọi SVHT; không có sự thống nhất thì không
có sự tồn tại thực tế của mọi SVHT.
+ Sự thống nhất của các mặt đối lập là điều kiện, tiền đề cho đấu tranh của các mặt đối lập không có thống
nhất thì không có đấu tranh.
 Vì vậy, phải thừa nhận sự thống nhất của SVHT, song không tuyệt đối hoá nó, mà phải phân tích tìm ra
sự khác nhau, sự đối lập trong sự thống nhất ấy.
* Đấu tranh của các mặt đối lập là nguồn gốc động lực bên trong của sự vận động, phát triển.
- Sự đấu tranh giữa các mặt đối lập: là sự tác động qua lại theo xu hướng bài trừ và phủ định lẫn nhau
giữa chúng.
- Biểu hiện:
+ Sự đấu tranh của các mặt đối lập là quá trình các mặt đối lập lấy nhau làm đối tựơng để thâm nhập vào
nhau làm cho cả mặt này lẫn mặt kia cùng vận động, biến đổi.
+ Sự đấu tranh của các mặt đối lập là quá trình phá vỡ sự thống nhất vốn có giữa các mặt đối lập do việc
tăng cường xu hướng trái ngược nhau.
+ Đấu tranh của các mặt đối lập là phương thức giải quyết mâu thuẫn của SVHT bằng việc các
mặt đối lập bài trừ và chuyển hoá lẫn nhau.

+ Sự phát triển của mâu thuẫn: đi từ đồng nhất đến khác biệt đến đối lập và cuối cùng đến chuyển hoá.
+ Sự đấu tranh của các mặt đối lập dẫn đến sự chuyển hoá của chúng.
Theo Ph. Ăngghen, có hai hình thức chuyển hoá cơ bản: chuyển hoá lẫn nhau giữa hai mặt đối lập, hoặc
cả hai cùng chuyển hoá thành những mặt đối lập mới trong sự vật mới có trình độ cao hơn.
+ Đấu tranh của các mặt đối lập là tuyệt đối, vĩnh viễn, nó tương ứng với sự vận động, phát triển của mọi
SVHT.
- Vai trò: Đấu tranh của các mặt đôi lập là nguồn gốc, động lực của sự vận động, phát triển của mọi
SVHT. Vì: nhờ có đấu tranh giữa các mặt đối lập mà mâu thuẫn được giải quyết dẫn đến sự vật cũ mất đi, sự vật
mới ra đời. Đó chính là quá trình vận động phát triển của mọi SVHT.
 Xem xét sự vật không dừng lại ở mâu thuẫn mà phải tiến hành cuộc đấu tranh để giải quyết mâu thuẫn
của sự vật.
* Mối quan hệ: Với tính cách là hai trạng thái đối lập nhau trong biện chứng của mâu thuẫn, sự thống
nhất và đấu tranh của hai mặt đối lập có quan hệ chặt chẽ với nhau. Sự thống nhất duy trì sự đứng im, sự ổn
định tạm thời của mâu thuẫn, do đó, nó là cơ sở, tiền đề cho đấu tranh, chuyển hoá của các mặt đối lập. Sự đấu
tranh trực tiếp quy định sự vận động, sự phát triển không ngừng của mâu thuẫn, do đó, nó vừa là thực chất, vừa
là nội lực quy định sự thay thế lẫn nhau của các trình độ thống nhất. Điều đó cũng có nghĩa, sự thống nhất của
các mặt đối lập là tương đối, sự đấu tranh giữa các mặt đối lập là tuyệt đối.
 Như vậy, trong phép biện chứng duy vật, mâu thuẫn xét về thực chất, là sự thống nhất và đấu tranh
của các mặt đối lập. Thống nhất là điều kiện, tiền đề cho đấu tranh, là cơ sở cho sự tồn tại của SVHT. Đấu tranh
là tuyệt đối, là nguồn gốc, động lực bên trong của sự vận động, phát triển.
c. Phân loại mâu thuẫn:
- Căn cứ vào quan hệ giữa các mặt đối lập với một sự vật cụ thể có: mâu thuẫn bên trong và mâu thuẫn
bên ngoài.
15


+ Mâu thuẫn bên trong là sự tác động qua lại giữa các mặt, các khuynh hướng đối lập của cùng một sự vật.
VD: sự tác động qua lại giữa đồng hoá và dị hoá của một sinh vật.
+ Mâu thuẫn bên ngoài đối với một sự vật là mâu thuẫn diễn ra trong mối liên hệ giữa sự vật đó với các
sự vật khác. VD: sự tác động qua lại giữa cơ thể và môi trường.

 Mâu thuẫn bên trong có vai trò quyết định trực tiếp đối với quá trình vận động, phát triển của sự vật.
- Căn cứ vào ý nghĩa đối với sự tồn tại và phát triển của toàn bộ sự vật, các mâu thuẫn được chia thành:
mâu thuẫn cơ bản và mâu thuẫn không cơ bản.
+ Mâu thuẫn cơ bản là mâu thuẫn quy định bản chất của sự vật, quy định sự phát triển ở tất cả các giai
đoạn của sự vật, nó tồn tại trong suốt quá trình tồn tại của sự vật.
+ Mâu thuẫn không cơ bản là mâu thuẫn đặc trưng cho một phương diện nào đó của sự vật, nó quy định sự
vận động, phát triển của một mặt nào đó của sự vật.
- Căn cứ vào vai trò của mâu thuẫn đối với sự phát triển của sự vật trong một giai đoạn nhất định, có mâu
thuẫn chủ yếu và mâu thuẫn thứ yếu.
+ Mâu thuẫn chủ yếu là mâu thuẫn nổi lên hàng đầu ở một giai đoạn phát triển nhất định của sự vật, giải quyết
nó sẽ tạo điều kiện để giải quyết mâu thuẫn khác ở cùng giai đoạn (những mâu thuẫn thứ yếu).
+ Mâu thuẫn thứ yếu là những mâu thuẫn khác bên cạnh mâu thuẫn chủ yếu trong từng giai đoạn phát
triển của SVHT.
- Căn cứ vào tính chất các lợi ích đối lập tạo thành mâu thuẫn xã hội, có mâu thuẫn đối kháng và mâu
thuẫn không đối kháng.
+ Mâu thuẫn đối kháng là mâu thuẫn giữa những giai cấp, những tập đoàn người, những xu hướng xã hội
có lợi ích cơ bản đối lập nhau. Ví dụ: mâu thuẫn giữa chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản, giữa địa chủ và
nông dân, giữa tư sản và vô sản.
+ Mâu thuẫn không đối kháng là mâu thuẫn giữa những lực lượng, khuynh hướng xã hội có đối lập về lợi
ích không cơ bản, cục bộ, tạm thời. Ví dụ: mâu thuẫn giữa các tầng lớp nông dân, giữa các bộ phận công nhân
khác nhau...
3. Ý nghĩa phương pháp luận và vận dụng
- Nhận thức đúng mâu thuẫn của sự vật, tìm ra những mặt, những mối liên hệ, tác động qua lại lẫn nhau
giữa chúng.
- Phải nhận thức rõ vai trò của từng mâu thuẫn và mối quan hệ giữa các mâu thuẫn, điều kiện chuyển hoá
giữa chúng. Trên cơ sở đó tìm ra phương thức, phương tiện, lực lượng để giải quyết mâu thuẫn. Không thủ tiêu,
né tránh, điều hoà mâu thuẫn.
- Mâu thuẫn chỉ được giải quyết khi điều kiện đã chín muồi; không chủ quan, nóng vội.
- Vận dụng phân tích quan điểm “vừa hợp tác, vừa đấu tranh” trong chính sách đối ngoại của Đảng ta hiện
nay. Phê phán những nhận thức sai trái xung quanh vấn đề này.

- Vận dụng lý luận mâu thuẫn để phân tích xác định đối tượng và đối tác trong quá trình bảo vệ và xây
dựng Tổ quốc Việt Nam XHCN.
- Vận dụng quy luật mâu thuẫn trong hoạt động quân sự, thực tiễn xây dựng quân đội và quá trình học tập
của học viên tại nhà trường.
3.3.2. QUY LUẬT LƯỢNG - CHẤT
1. Vị trí: là một trong ba quy luật cơ bản của PBCDV, nó chỉ rõ trạng thái, cách thức của sự vận động,
phát triển của mọi SVHT.
2. Nội dung quy luật:
a. Chất và lượng:
* Chất là phạm trù triết học dùng để chỉ sự thống nhất hữu cơ của các thuộc tính thành tính quy định
khách quan vốn có của sự vật, hiện tượng, làm cho nó là nó mà không phải là cái khác.
- Chất của sự vật, hiện tượng được tạo nên bởi các thuộc tính của nó, là sự thống nhất hữu cơ của các
thuộc tính. VD: có bản lĩnh chính trị vững vàng; có trình độ kỹ thuật, chiến thuật quân sự tốt; có ý thức tổ chức
- kỷ luật tự giác, nghiêm minh, v. v. nói lên chất của một quân nhân cách mạng.
- Chất của sự vật, hiện tượng tồn tại khách quan, là cái để phân biệt sự vật, hiện tượng này với sự vật, hiện
tượng khác. Bởi vì, các sự vật khác nhau có những đặc trưng, thuộc tính, những tính quy định khác nhau. Ví dụ: Con
người không chỉ khác động vật ở cấu tạo hình thể, hình dạng... mà còn ở khả năng lao động sáng tạo, có ý thức.
- Ở mỗi sự vật chỉ có một chất căn bản, đó là chất mà sự tồn tại hay mất đi của nó quy định sự tồn tại hay
mất đi của bản thân sự vật. Ví dụ: chất căn bản của nền kinh tế tư bản là sản xuất vì giá trị thặng dư, khi đặc
trưng đó mất đi, nền kinh tế đó không còn là kinh tế tư bản chủ nghĩa.
16


- Chất biểu hiện tính ổn định tương đối của sự vật.
* Lượng là phạm trù triết học để chỉ số lượng các thuộc tính, tổng số các bộ phận, các đại lượng biểu thị
tính quy định vốn có của sự vật, để phân biệt sự vật này với sự vật khác về quy mô, trình độ, nhịp điệu của sự
vận động, phát triển của chúng.
- Lượng của sự vật tồn tại khách quan gắn với chất của sự vật, bất kỳ một sự vật nào cùng với những tính
quy định về chất bao giờ cũng có những tính quy định về lượng. Ví dụ: hai chiếc bàn giống nhau về chất liệu,
hình dáng nhưng lại khác nhau về kích thước, v. v..

- Lượng của sự vật vừa biểu hiện tính cụ thể, vừa biểu hiện tính trừu tượng:
+ Tính cụ thể: Nhận thức về lượng của sự vật có thể thông qua đong, đo, đếm được bằng các dụng cụ đo
lường. Ở đây, Lượng có hai loại: số lượng và đại lượng: Số lượng là loại lượng xác định bằng cách đếm
(1,2,3..); còn đại lượng là loại lượng xác định bằng cách đo (độ dài, thể tích, khối lượng...).
+ Tính trừu tượng: Nhận thức thông qua phương pháp tư duy khoa học, khái quát hoá, trừu tượng hoá.
VD: Đánh giá trình độ giác ngộ cách mạng, phẩm chất đạo đức của một con người; trình độ phát triển của
một xã hội v. v..
- Lượng đặc trưng cho tính thường xuyên biến đổi.
b. Nội dung quy luật:
* Quan điểm siêu hình: phủ nhận mối liên hệ giữa lượng và chất, tách rời mối liên hệ giữa sự thay đổi về
về lượng và sự thay đổi về chất; thường nhấn mạnh, tuyết đối hoá sự thay đổi về lượng.
* CNDVBC: Mọi SVHT đều là sự thống nhất giữa lượng và chất, thay đổi của SVHT là đi từ sự biến đổi
dần dần về lượng vượt quá giới hạn của độ sẽ dẫn tới bước nhảy làm chuyển hoá căn bản về chất của sự vật,
chất cũ mất đi, chất mới ra đời tạo điều kiện cho lượng mới phát triển.
@ Mọi sự vật đều là sự thống nhất giữa lượng và chất.
- Sự thống nhất giữa chất và lượng là sự thống nhất giữa hai mặt đối lập.
+ Trong một quan hệ xác định, lượng đặc trưng cho tính thường xuyên biến đổi (tính liên tục), chất đặc
trưng cho tính ổn định (tính gián đoạn).
+ Chất thay đổi trực tiếp dẫn đến sự vật thay đổi; còn lượng có thể thay đổi khi sự vật vẫn còn là nó, chưa
là cái khác (trong giới hạn độ).
+ Chất đặc trưng cho khác biệt giữa sự vật này với sự vật khác (vì nó phản ánh tính chất các yếu tố, các
đại lượng); lượng đặc trưng cho sự đồng nhất, giống nhau giữa các sự vật cùng nhóm, cùng loại (vì nó phản ánh
về quy mô, số lượng các thuộc tính, các yếu tố)
- Chất là chất của một sự vật, hiện tượng cụ thể xác định; Lượng là lượng của một chất nhất định.
Trong một mối quan hệ xác định và trong những điều kiện xác định, chất và lượng thống nhất với nhau,
chất nào thì lượng ấy; một chất chỉ biểu hiện ra một lượng nhất định, không thể khác được.
- Sự thống nhất giữa lượng và chất là điều kiện tồn tại của mọi SVHT, giới hạn của sự thống nhất là “độ”
của sự vật.
+ Không có sự thống nhất giữa lượng và chất thì không có SVHT nào tồn tại, song sự thống nhất ấy không
phải là tuyệt đối, vĩnh viễn. Đây là sự thống nhất của hai mặt đối lập nên chỉ được duy trì trong một khoảng giới

hạn nhất định gọi là “độ”. Trong sự thống nhất đó, một chất nhất định không tách rời một lượng nhất định, hai
mặt chất và lượng phù hợp với nhau. Tuy nhiên, lượng có thể thay đổi nhưng chỉ trong giới hạn của độ, do chất
quy định. Nhờ sự thống nhất này mà sự vật còn tồn tại là nó, chưa là cái khác.
+ Khi sự biến đổi về lượng đạt đến một mức độ nhất định thì những thay đổi về lượng chỉ cần tăng (hoặc
giảm) một chút, tức là vượt quá độ của nó thì sẽ phá vỡ độ, phá vỡ sự thống nhất giữa lượng và chất, làm cho sự
vật biến đổi.
- Độ là phạm trù triết học dùng để chỉ sự thống nhất giữa lượng và chất, nó là khoảng giới hạn trong
đó sự thay đổi về lượng của sự vật chưa làm thay đổi căn bản về chất của sự vật ấy.
+ Một “độ” nào cũng được giới hạn bởi 2 điểm nút.
+ Điểm nút là những điểm giới hạn mà tại đó sự thay đổi về lượng sẽ làm thay đổi về chất của sự vật.
+ Sự phát triển của SVHT thông qua vô sồ những điểm nút tạo thành đường nút.
- Khi lượng biến đổi vượt quả giới hạn độ, tạo thành bước nhảy cho chất mới ra đời. “Bước nhảy” là
phạm trù dùng để chỉ sự chuyển hoá về chất của sự vật do sự thay đổi về lượng trước đó gây ra.
@ Sự chuyển hoá của sự vật bao giờ cũng đi từ những sự thay đổi dần dần về lượng đến nhảy vọt
về chất:
- Thay đổi dần dần về lượng là quá trình tích luỹ dần dần các yếu tố, các đặc trưng, các thuộc tính, các tính
quy định của sự vật mới trong giới hạn “độ” của sự vật cũ.
17


- Sự thay đổi về chất chỉ diễn ra khi sự tích luỹ về lượng đạt đến “điểm nút”.
- Sự vật chỉ chuyển sang sự vật mới với một chất-lượng mới khi toàn bộ các thuộc tính hoặc ít nhất là các
thuộc tính căn bản của nó đã chuyển sang cái khác.
- Sự vật mới ra đời lại có sự thống nhất giữa lượng và chất mới trong “độ” mới với “điểm nút” mới.
- Từ chất cũ sang chất mới bao giờ cũng được thực hiện bằng một “bước nhảy”.
- Đây là bước ngoặt căn bản kết thúc một giai đoạn trong sự biến đổi về lượng, là sự gián đoạn trong quá
trình biến đổi liên tục của SVHT. Sự phát triển do đó, là sự “đứt đoạn” trong liên tục.
- Trong xã hội, thay đổi về lượng gọi là tiến hoá, thay đổi về chất theo chiều hướng tiến lên gọi là cách mạng.
@ Chất mới ra đời tạo điều kiện, khả năng mới cho sự biến đổi của lượng mới
- Thực chất cái gọi là chất mới chính là sự vật mới với hệ thống các mối quan hệ (lượng và chất) mới sẽ

tạo điều kiện để làm thay đổi quy mô, nhịp điệu vận động, phát triển của sự vật.
VD: So với hình thái xã hội trước, hình thái xã hội sau là một chất mới tiến bộ hơn, nó mở đường, tạo ra
những điều kiện mới, khả năng mới cho lực lượng sản xuất phát triển với nhịp độ mới cao hơn.
- Sự phát triển mới về lượng như thế nào là tuỳ thuộc vào điều kiện, hoàn cảnh cụ thể mà ở đó chất mới ra đời.
- Quá trình tác động biện chứng giữa lượng và chất là một quá trình liên tục, thống nhất giữa “tiệm tiến”
và “nhảy vọt”.
Vì khi chất mới (sự vật mới) ra đời lại thiết lập một sự thống nhất mới giữa lượng và chất mới. Lượng và
chất mới lại tiếp tục đấu tranh với nhau, và theo cách thức phát triển của nó tất yếu làm cho sự vật cũ mất đi, sự
vật mới ra đời thông qua bước nhảy chuyển sang chất khác, đó là một quá trình vừa mang tính liên tục, vừa
mang tính “gián đoạn”.
VD: Sự phát triển của 5 hình thái KT-XH
c. Các hình thức của bước nhảy.
@ Bước nhảy đột biến và bước nhảy dần dần.
- Bước nhảy đột biến:Là bước nhảy được thực hiện trong một thời gian rất ngắn làm thay đổi chất của
toàn bộ kết cấu cơ bản của sự vật. VD : phản ứng dây chuyền dẫn tới vụ nổ nguyên tử diễn ra trong thời gian
hết sức nhanh chóng là bước nhảy đột biến
- Bước nhảy dần dần:Là bước nhảy được thực hiền từ từ, từng bước bằng cách tích luỹ dần dần những yếu
tố của chất mới và những nhân tố của chất cũ được dần dần mất đi. VD: sự tiến hóa để vượn thành người.
@ Bước nhảy toàn bộ và bước nhảy cục bộ.
- Bước nhảy toàn bộ:Là bước nhảy làm thay đổi chất của toàn bộ các mặt, các yếu tố tạo thành sự vật.
VD trong xã hội, sự chuyển hoá từ hình thái kinh tế - xã hội này sang hình thái kinh tế - xã hội khác cao hơn là
bước nhảy toàn bộ.
- Bước nhảy cục bộ: Là bước nhảy làm thay đổi chất của những mặt, những yếu tố riêng của sự vật.
VD :Trong xã hội những bước nhảy về chất trên từng mặt khác nhau trong khuôn khổ xã hội là bước nhảy cục bộ.
 Các SVHT có sự phức tạp về tính chất, về cấu trúc và những bộ phận cấu thành, do đó bước nhảy
thường diễn ra bằng con đường thay đổi về chất cục bộ đến thay đổi về chất toàn bộ.
3.Ý nghĩa phương pháp luận và vận dụng:
- Để có tri thức đầy đủ về SVHT, cần nhận thức cả mặt lượng và mặt chất của nó.
- Trong xem xét và cải tạo SVHT, muốn có sự phát triển, trước hết phải kiên trì tích luỹ về lượng để tạo
những biến đổi về chất của SVHT theo quy luật.

- Cần có thái độ khách quan khoa học và có quyết tâm thực hiện bước nhảy kịp thời chuyển hoá từ
những thay đổi về lượng thành những thay đổi về chất, từ tiến hoá sang cách mạng, khi có đủ điều kiện
chín muồi.
- Cần phê phán những biểu hiện chủ quan, duy ý chí, nóng vội, “đốt cháy giai đoạn”, chưa đủ điều
kiện tích luỹ về lượng đã muốn nhảy vọt về chất, hoặc những biểu hiện bảo thủ trì trệ, thụ động, đã có đủ
điều kiện về lượng nhưng lại không dám thực hiện bước nhảy về chất, thúc đẩy SVHT tiến lên.
- Vận dụng vào phân tích phương hướng “Xây dựng quân đội nhân dân … cách mạng, chính quy, tinh
nhuệ, từng bước hiện đại, có bản lĩnh chíng trị vững vàng…”
- Vận dụng vào quá trình học tập rèn luyện tại trường của người học viên sĩ quan
3.3.3. QUY LUẬT PHỦ ĐỊNH CỦA PHỦ ĐỊNH
1. Vị trí: Là một trong ba quy luật cơ bản của PBCDV, chỉ ra khuynh hướng chung của sự vận động, phát
triển của SVHT.
2. Nội dung quy luật:
a. Khái niệm phủ định biện chứng
18


* Phủ định: là sự bài trừ, gạt bỏ và thay thế sự vật này bằng sự vật khác trong quá trình vận động và phát
triển của thế giới.
Trong thực tế có hai hình thức phủ định khác nhau là PĐSH và PĐBC:
- PĐSH là phủ định phá hoại sự vận động, phát triển của SVHT; là phủ định sạch trơn, không kế thừa,
không phát triển.
Đặc trưng của PĐSH:
+ Do nguyên nhân bên ngoài.
+ Không ra đời SVHT mới.
+ Chấm dứt sự vận động, phát triển của SVHT.
VD: Giết chết một con vật; Nghiền nát một hạt giống…
- PĐBC: là phạm trù triết học chỉ quá trình tự phủ định, tự phát triển do nguyên nhân bên trong mỗi sự
vật, hiện tượng; cái cũ mất đi, cái mới ra đời trên cơ sở kế thừa những yếu tố tiến bộ và tích cực trong lòng cái
cũ, tạo ra điều kiện, tiền đề cho bước phát triển tiếp theo.

Đặc trưng của PĐBC: (Tính khách quan và tính kế thừa)
+ Tính khách quan: PĐBC là một quá trình mang tính khách quan, vốn có của bản thân SVHT, không lệ
thuộc vào ý thức của con người, hoặc bất cứ một lực lượng siêu nhiên, thần bí nào. Nguyên nhân của sự phủ
định nằm trong bản thân sự vật - đó là do sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập bên trong SVHT. Do
đó, PĐBC là tự thân phủ định.
Ví dụ: Quả trứng nở thành con, hạt phát triển thành cây là khách quan do nội tại bản thân nó quy định.
Còn độ ẩm, ánh sáng, không khí…chỉ là điều kiện mà thôi.
+ Tính kế thừa: là giữ lại cái tích cực, cái hợp quy luật, thúc đẩy sự phát triển. Đó là kế thừa có sự lọc bỏ;
nó vừa khắc phục những yếu tố lạc hậu, vừa bảo tồn, vừa cải tạo những yếu tố đồng thuận, có lợi cho sự phát
triển. Vì PĐBC là tự thân phủ định, tự thân phát triển trên cơ sở giải quyết mâu thuẫn vốn có bên trong SVHT, cho
nên cái mới ra đời không thủ tiêu hoàn toàn cái bị phủ định, mà nó giữ lại những nội dung tích cực của cái bị phủ
định. Với ý nghĩa đó, phủ định đồng thời cũng là khẳng định (những giá trị tiến bộ, tích cực).
b. Nội dung quy luật phủ định của phủ định
Khái quát: Phát triển là quá trình cái mới phủ định cái cũ; cái mới vừa gạt bỏ cái cũ, vừa kế thừa những
hạt nhân hợp lý trong lòng cái cũ theo chu kỳ phủ định của phủ định để khẳng định sự tiến lên; con đường tiến lên
trong quá trình phát triển, do đó, không theo đường thẳng mà theo đường “xoáy ốc”; cái mới là cái tất thắng.
* Phát triển là một quá trình thông qua chu kỳ phủ định của phủ định:
- Chu kỳ phủ định của phủ định là từ một điểm xuất phát ban đầu, trải qua một số lần phủ định, về hình
thức dường như sự vật lặp lại cái ban đầu nhưng trên cơ sở cao hơn.
- Số lần phủ định trong một chu kỳ có thể nhiều, ít khác nhau tuỳ theo từng SVHT, quá trình cụ thể, như ng
về thực chất bao giờ cũng gồm hai lần phủ định cơ bản, khác nhau về nội dung: phủ định lần một và phủ định
lần hai.
Phủ định lần một: là phủ định cái khẳng định.
Phủ định lần hai: là phủ định của phủ định.
VD: cây lúa phủ định hạt thóc (lần 1), đến lượt nó bông lúa (hạt thóc) lại phủ định cây lúa (lần 2)
- Qua hai lần phủ định cơ bản, sự vật mới dường như quay trở lại cái ban đầu nhưng trên cơ sở cao hơn.
- Vai trò của các lần phủ định đối với sự vận động, phát triển của sự vật:
Hai lần phủ định cơ bản quan hệ chặt chẽ với nhau theo một cơ chế thống nhất: vừa phủ định, vừa kế thừa.
Trong đó:
PĐL1: Tạo ra SV trung gian (đối lập với SV ban đầu)

PĐL2: Tạo ra SV mới (dường như lặp lại sự vật ban đầu nhưng trên cơ sở cao hơn)
 Phủ định lần sau bao giờ cũng phong phú hơn, đa dạng hơn lần phủ định lần trước.
* Con đường phát triển quanh co, phức tạp theo đường “xoáy ốc”:
- Vì:
+ Sự phát triển của SV diễn ra theo chu kỳ- chu kỳ PĐCPĐ.
+ Thực chất PĐCPĐ là quá trình đấu tranh gay go, quyết liệt giữa cái cũ và cái mới. Đặc biệt trong lĩnh
vực xã hội, quá trình đấu tranh đó lại càng gay go, quyết liệt hơn nhiều.
- Hình thức “xoáy ốc” của sự phát triển:
+ Con đường phát triển là quá trình bao hàm trong đó cả tính kế thừa, tính lặp lại nhưng không có tính
quay trở lại.
19


+ Tính chất của sự phát triển là tiến lên, nhưng sự phát triển tiến lên đó không diễn ra theo đường thẳng
mà theo đường “xoáy ốc”.
+ Diễn tả quy luật PĐCPĐ bằng đường “xoáy ốc” là hình thức diễn đạt được rõ ràng nhất các đặc trưng
của quá trình phát triển biện chứng. Đó là: Tính kế thừa, tính lặp lại nhưng không quay trở lại cái ban đầu; Tính
chất tiến lên; Tính quanh co, phức tạp; Tính liên tục và tính đứt đoạn.
- Tính chất của sự phát triển là tiến lên, song không loại trừ mà còn bao hàm cả khả năng thụt lùi đi
xuống tạm thời:
+ Khuynh hướng chung của sự phát triển là vận động tiến lên, nhưng những yếu tố riêng lẻ của sự vận
động đó có thể không tiến lên, mà thụt lùi, thoái bộ. Nói cách khác, phát triển là khuynh hướng chung của toàn
bộ thế giới vật chất, nhưng từng SVHT cụ thể thì có sự phát sinh, phát triển và diệt vong. Và ngay trong một SV
không phải lúc nào cũng phát triển, mà có lúc thụt lùi.
+Vì đây chính là cuộc đấu tranh vô cùng gay go, quyết liệt giữa cái cũ và cái mới, cái khẳng định và cái
phủ định.
- Phát triển là một quá trình tất yếu dẫn đến sự ra đời cái mới, cái tiến bộ hơn:
+ Cái mới là cái biểu hiện sự phát triển tất yếu hợp quy luật của SVHT, là giai đoạn cao về chất trong sự
phát triển.
+ Đặc trưng của cái mới: (3 đặc trưng)

+ Là cái tất yếu ra đời, là kết quả của quá trình phát triển hợp quy luật của các SVHT.
+ Là GĐ cao về chất trong sự phát triển, là cái tiến bộ, tích cực, đi lên, là cái thúc đẩy sự phát triển, tiêu
biểu cho xu thế của sự phát triển.
+ Cái mới ra đời lúc đầu còn non yếu, chưa vững chắc, nhưng là cái tất thắng
3. Ý nghĩa phương pháp luận và vận dụng:
- Quy luật PĐCPĐ giúp chúng ta hiểu đúng con đường phát triển của mọi SV, do đó xem xét SV phải phân
tích bản chất của nó để vạch ra chiều hướng phát triển, đồng thời dự kiến đư ợc những bước quanh co trong sự
vận động, phát triển của nó.
- Quy luật PĐCPĐ là cơ sở khoa học để xây dựng niềm tin vào tương lại, vào sự tất thắng của cái mới, xây
dựng tinh thần lạc quan cách mạng, kiện định trước những khó khăn thử thách của cuộc sống.
- Trong khi phê phán cái cũ, cần biết sàng lọc, kế thừa những yếu tố hợp lý của nó: chống thái độ “hư vô
chủ nghĩa”, phủ định sạch trơn quá khứ; và khắc phục thái độ bảo thủ, cản trở sự phát triển.
- Trong hoạt động thưc tiễn cần phát hiện cái mới, tìm ra cái mới và tạo điều kiện, ủng hộ cho cái mới phát triển.
- Vận dụng PPL của quy luật PĐCPĐ xem xét con đường phát triển của xã hội loài người nói chung và
của Việt Nam nói riêng.
- Vận dụng PPL của quy luật PĐCPĐ phân tích quan điểm kế thừa của Đảng ta về lĩnh vực văn hoá, theo
tinh thần Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban chấp hành Trung ương khoá VIII: “Xây dựng nền văn hoá VN
tiên tiến…”
3.4. CÁC CẶP PHẠM TRÙ
3.4.1. BẢN CHẤT VÀ HIỆN TƯỢNG
1. Khái niệm bản chất và hiện tượng
* Bản chất: là tổng hợp tất cả những mặt, những mối liên hệ tất nhiên, tương đối ổn định bên trong sự
vật, quy định sự vận động và phát triển của sự vật.
* Hiện tượng: là biểu hiện của những mặt, những mối liên hệ bản chất ra bên ngoài.
Như vậy:
- Bản chất là những mối liên hệ tất yếu, những quy luật vận động, những mâu thuẫn nội tại vốn có, những
thuộc tính quy định sự vật. Vì vậy, bản chất là cái tương đối ổn định, cái bên trong, cơ bản của sự vật, là nội
dung cơ bản của sự vật.
- Hiện tượng là mặt bề ngoài, mặt di động và biến đổi của bản chất, là hình thức biểu hiện của bản chất.
Ví dụ: Bản chất thế giới là vật chất, thế giới thống nhất ở tính vật chất, bản chất đó được bộc lộ ra qua các

SVHT cụ thể – hiện tượng.
Bản chất con người là tổng hoà những quan hệ xã hội, bản chất đó được biểu hiện ra qua những mối quan
hệ cụ thể của chủ thể – hiện tượng.
* Phân biệt bản chất với “cái chung” và “quy luật”.
- Bản chất là cái chung, nhưng đó là cái chung tất yếu, quyết định sự tồn tại, phát triển của sự vật. Còn
những cái chung không tất yếu, không quyết định sự tồn tại, phát triển của sự vật là cái chung không bản chất.
20


Ví dụ: Mọi học viên đều có cái chung đó là những quân nhân, có phẩm chất và năng lực đủ điều kiện để đào
tạo trở thành người cán bộ, đảng viên của Đảng ở trong quân đội,.. đó là cái chung bản chất. Còn những cái
chung, giống nhau về mặt hình thể, trang phục…là những cái chung không bản chất.
+ Bản chất và quy luật là những phạm trù cùng loại, hay cùng một bậc (xét về mức độ nhận thức của con
người). Song bản chất không hoàn toàn đồng nhất với quy luật. Mỗi quy luật thường biểu hiện một mặt, một
khía cạnh nhất định của bản chất. Bản chất là tổng hợp của nhiều quy luật. Vì vậy, phạm trù bản chất rộng hơn
và phong phú hơn quy luật.
Ví dụ: Các quy luật kinh tế: giá trị, cạnh tranh, cung cầu… phản ánh các mặt khác nhau bản chất của nền
kinh tế thị trường.
Bản chất của chiến tranh là sự kế tục của chính trị bằng thủ đoạn bạo lực, các quy luật của chiến tranh, các
quy luật của đấu tranh vũ trang, v.v. là sự phản ánh những mặt khác nhau của bản chất ấy.
2. Mối quan hệ biện chứng giữa bản chất và hiện tượng
Khái quát: Bản chất và hiện tượng tồn tại khách quan, là hai mặt vừa thống nhất, vừa đối lập với nhau
trong sự vật.
* Sự thống nhất giữa bản chất và hiện tượng
- Bản chất bao giờ cũng bộc lộ qua các hiện tượng; còn hiện tượng bao giờ cũng là biểu hiện của bản
chất nhất định. Nghĩa là, không có bản chất tồn tại thuần tuý ngoài hiện tượng và cũng không có hiện tượng
không phải là sự biểu hiện của một bản chất nào đó.
+ Bản chất bộc lộ qua hiện tượng: bản chất tuy là cái bên trong, nhưng không tồn tại thần bí, mà nhất
thiết phải được bộc lộ ra các hiện tượng.
Ví dụ: Bản chất của XHCN là tốt đẹp. Biểu hiện thông qua các hiện tượng như: nhân dân lao động làm

chủ, xã hội không có sự áp bức bất công, làm theo năng lực hưởng theo lao động, …
+ Hiện tượng mang tính bản chất: bất cứ một hiện tượng nào cũng là biểu hiện của bản chất ở một mức độ,
một mặt, một khía cạnh nào đấy của bản chất. Không có hiện tượng nào đứng ngoài bản chất.
Cho nên cổ nhân đã có câu: “Trông mặt mà đặt hình dong”; “Con nhà tông không giống lông thì cũng
giống cánh”.
- Bản chất và hiện tượng về căn bản là phù hợp với nhau.
+ Bất kỳ bản chất nào cũng được bộc lộ ra qua các hiện tượng tương ứng; bất kỳ hiện tượng nào cũng là
sự biểu hiện của bản chất.
+ Bản chất khác nhau thì bộc lộ ra qua các hiện tượng khác nhau.
Ví dụ: Bản chất của quân đội đế quốc bộ lộ qua các hiện tượng: hiếu chiến, xâm lược..
Bản chất của quân đội cách mạng biểu hiện thông qua: sẵn sàng chiến đấu hi sinh, gắn bó mật thiết với
nhân dân...
+ Khi bản chất thay đổi thì sớm hay muộn hiện tượng cũng thay đổi theo; khi bản chất mất đi thì hiện
tượng biểu hiện nó cũng biến đi.
Ví dụ: Bản chất của chế độ tư bản chủ nghĩa là bóc lột giá trị thặng dư. Bản chất này được bộc lộ ra ở
nhiều hiện tượng như: bần cùng hóa giai cấp vô sản, thất nghiệp, khủng hoảng kinh tế theo chu kỳ, ô nhiễm môi
trường, chiến tranh. Khi không còn chế độ bóc lột giá trị thặng dư nữa thì những hiện tượng trên cũng sẽ mất
theo, con người sẽ làm chủ thực sự được tự nhiên, xã hội và bản thân mình.
* Sự đối lập giữa bản chất và hiên tượng
- Bản chất là cái bên trong, sâu sắc hơn hiện tượng; hiện tượng là cái bên ngoài, phong phú hơn bản chất.
Vì bản chất phản ánh cái chung, cái tất yếu, quyết định sự tồn tại và phát triển của sự vật, còn hiện tượng
phản ánh cái riêng, cái cá biệt. Một bản chất có thể biểu hiện ra ngoài bằng vô số hiện tượng khác nhau tùy theo
sự biến đổi của điều kiện và hoàn cảnh.
- Bản chất bao giờ cũng là mặt bên trong ẩn giấu sâu xa của sự vật, còn hiện tượng là sự biểu hiện bản chất
đó ra bên ngoài, nhưng biểu hiện dưới hình thức đã cải biến, nhiều khi xuyên tạc bản chất.
 Khi xem xét SVHT , không thể dừng lại ở biểu hiện bề ngoài mà phải đi sâu vào tìm hiểu bản chất của
nó.
- Bản chất tương đối ổn định, biến đổi chậm, còn hiện tượng thường xuyên biến đổi và biến đổi nhanh
hơn so với bản chất.
Vì hiện tượng không chỉ do bản chất quy định, mà còn chịu sự chi phối của những điều kiện ở ngoài bản

chất, chịu sự tương tác của các hiện tượng trong xã hội và của môi trường bao quanh. Các điều kiện này, cũng
như sự tác động của các hiện tượng và môi trường xung quanh thường xuyên thay đổi. Do đó hiện tượng luôn
luôn biến đổi nhanh hơn bản chất.
21


* Bản chất và hiện tượng có thể chuyển hoá lẫn nhau, tràn sang nhau
- Bản chất hiện ra, lan tràn ra hiện tượng, xâm nhập vào hiện tượng; còn hiện tượng không tách rời bản
chất, có tính bản chất.
Ví dụ: Gương ngưồi tốt, việc tốt, anh hùng.....
- Hiện tượng chuyển hoá thành bản chất, đây là sự chuyển hoá trong quá trình nhận thức.
Tức là quá trình nhận thức là đi từ hiện tượng đến bản chất, thông qua hiện tượng mà tìm ra bản chất, từ bản
chất kém sâu sắc đến bản chất sâu sắc hơn. Do đó, xét dưới quá trình nhận thức, một bản chất nào đó được biểu
hiện ra ở những hiện tượng nhất định, đồng thời được coi như hiện tượng của một bản chất sâu sắc hơn.
3. Ý nghĩa phương pháp luận và ý nghĩa vận dụng
- Muốn hiểu biết đúng đắn về sự vật, nhận thức không được dừng ở hiện tượng mà phải đi từ hiện tượng
để tìm ra bản chất.
- Cần xem xét, phân tích tất cả các hiện tượng, song cần ưu tiên cho hiện tượng điển hình trong hoàn cảnh
điển hình để có kết luận chính xác bản chất sự vật.
- Trong hoạt động thực tiễn cần dựa chắc vào bản chất chứ không thể dựa vào hiện tượng để cải tạo chúng.
- Vận dụng mối quan hệ biện chứng giữa bản chất và hiện tượng vào hoạt động an ninh (điều tra, dấu
tranh với tội phạm); quân sự: công tác trinh sát nắm địch, công tác điệp báo, phản gián, v.v..
- Trong công tác giác dục chính trị tư tưởng trong quân đội hiện nay là phải làm cho bộ đội nhận thức
được bản chất của chiến tranh. Bản chất của một cuộc chiến tranh cụ thể, do mục đích chính trị chi phối, nhưng
luôn bị nhiễu loạn bởi những hiện tượng “đánh lừa” được tung ra một cách có chủ ý của các chủ thể quân sự.
3.4.2. NỘI DUNG VÀ HÌNH THỨC
1. Khái niệm nội dung và hình thức
* Nội dung là tổng hợp tất cả những mặt, những yếu tố, những quá trình tạo nên sự vật.
* Hình thức là phương thức tồn tại và phát triển của sự vật, là hệ thống các mối liên hệ tương đối bền
vững giữa các yếu tố của sự vật đó.

Ví dụ: Nội dung của một tác phẩm văn học là toàn bộ những tư tưởng, sự kiện, những vấn đề của cuộc
sống hiện thực mà tác phẩm phản ánh; còn hình thức bên trong của tác phẩm đó là thể loại, cách thức kết cấu bố
cục, nghệ thuật xây dựng hình tượng, các thủ pháp miêu tả, tu từ ... Ngoài ra, một tác phẩm văn học còn có hình
thức bề ngoài như màu sắc trình bày, khổ chữ, kiểu chữ ... Tuy nhiên, PBCDV chủ yếu muốn nói đến hình thức
bên trong gắn liền với nội dung, là cơ cấu của nội dung chứ không muốn nói đến hình thức bề ngoài của sự vật.
2. Mối quan hệ biện chứng giữa nội dung và hình thức
Khái quát: Mọi sự vật đều có nội dung và hình thức, đây là hai mặt đối lập có quan hệ biện chứng với
nhau; trong đó nội dung quyết định hình thức, hình thức có tính độc lập tương đối, tác động trở lại nội dung.
* Sự thống nhất giữa nội dung và hình thức
- Nội dung và hình thức luôn gắn bó chặt chẽ với nhau trong một thể thống nhất.
Nghĩa là, nội dung bao giờ cũng tồn tại trong một hình thức nhất định, không có nội dung chung chung
tồn tại tách rời hình thức; không có hình thức tồn tại thuần tuý không chứa đựng nội dung, tách rời nội dung.
Nội dung nào, hình thức ấy.
 Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa là một nội dung bao giờ cũng chỉ được thể hiện ra trong một hình
thức nhất định, và một hình thức bao giờ cũng chỉ chứa đựng một nội dung nhất định. Cùng một nội dung trong
tình hình phát triển khác nhau có thể có nhiều hình thức, và ngược lại, cùng một hình thức có thể thể hiện những
nội dung khác nhau.
- Song đây là sự thống nhất biện chứng của hai mặt đối lập nên giữa chúng không bao giờ có sự phù hợp
hoàn toàn tuyệt đối. Vì:
+ Nội dung là mặt năng động, còn hình thức là mặt tương đối ổn định. Cho nên sự thống nhất giữa nội
dung và hình thức bao hàm mâu thuẫn trong quá trình phát triển cuả sự vật.
+ Khi mâu thuẫn giữa nội dung và hình thức được giải quyết, sự thống nhất giữa nội dung và hình thức cũ
bị phá vỡ, khi đó sự vật sẽ mất đi và được thay thế bằng sự vật khác, với sự thống nhất mới giữa nội dung và
hình thức mới.
Ví dụ: Sự phù hợp giữa QHSX và LLSX trải qua các hình thái KT-XH diễn ra trong lịch sử.
* Nội dung giữ vai trò quyết định đối với hình thức trong quá trình phát triển của sự vật, song hình
thức có tính độc lập tương đối tác động trở lại nội dung
- Nội dung quyết định hình thức: quyết định sự ra đời, biến đổi của hình thức; quyết định cách tổ chức và
kết cấu kết cấu của hình thức. Nghĩa là nội dung của sự vật như thế nào thì hình thức nó như thế ấy. Khi nội
dung thay đổi thì sớm hay muộn hình thức của nó cũng phải thay đổi theo.

22


+ Nội dung quyết định sự ra đời của hình thức: Bởi vì, do kết cấu vật chất quy định, bất cứ ND của sự vật
nào cũng lựa chọn những HT phù hợp để nó tồn tại phát triển. Cho nên ND nó quyết định sự ra đời của HT, HT
là sự phản ánh ND.
Ví dụ: Các PTXS khác nhau trong lịch sử, LLSX bao giờ cũng quy định QHSX, Mác viết : Cái cối xay
quay bằng tay đưa lại cho chúng ta một XH có lãnh chúa PK, cái cối xay chạy hơi nước đem lại cho ta một XH
với nhà TB công nghiệp.
+ Nội dung quyết định sự biến đổi của hình thức: Bởi vì khuynh hướng chủ đạo của ND là biến đổi, còn
HT là tương đối bền vững, chậm biến đổi hơn so với ND. Sự tác động của những mặt trong sự vật làm cho các
yếu tố của ND biến đổi trước; còn những mối liên kết giữa các yếu tố của ND, tức HT thì chưa biến đổi ngay, vì
vậy HT sẽ trở nên lạc hậu hơn so với ND và sẽ trở thành nhân tố kìm hãm ND phát triển. Để sự vật phát triển
được, đến một lúc nào đó, HT nhất định phải thay đổi cho phù hợp với sự phát triển của ND.
Ví dụ: LLSX là nội dung của PTSX còn QHSX là hình thức của quá trình sản xuất. LLSX như thế nào thì
nó quy định QHSX như thế ấy. Lúc đầu QHSX cũng là hình thức thích hợp cho LLSX. Nhưng do LLSX biến
đổi nhanh hơn nên sẽ đến lúc QHSX lạc hậu hơn so với trình độ phát triển của LLSX và sẽ trở thành yếu tố kìm
hãm LLSX phát triển. Để mở đường cho LLSX phát triển, con người phải thay đổi QHSX cũ bằng QHSX mới
phù hợp với LLSX.
+ ND quyết định cách thức tổ chức và kết cấu của HT. Sự vật được tạo nên bởi những mặt, những thuộc tính
(nội dung) - đây là cái bản chất của sự vật, do đó nó quy định các mối liên hệ tương đối bền vững giữa các mặt, các
thuộc tính (hình thức) của sự vật; hay nói cách khác ND nó quyết định tổ chức và kết cấu HT của sự vật.
VD: ND của một đơn vị cụ thể là những tập thể quân nhân với chức năng, nhiệm vụ mà nó đảm nhiệm.
Chính ND đó đã quyết định cơ cấu tổ chức, biên chế và các mối quan hệ trong đơn vị đó chính là HT.
- Hình thức có tính đối lập tương đối tác động trở lại nội dung:
+ Trong quá trình phát triển, hình thức có thể lạc hậu so với nội dung. Vì nội dung là cái năng động nó
thường xuyên biến đổi, còn hình thức chậm biến đổi hơn so với nội dung, nên khi nội dung biến đổi hình thức
không theo kịp sự biến đổi của nội dung.
VD: Trong một PTSX, LLSX (ND) là yếu tố thường xuyên biến đổi còn QHSX (HT) biến đổi chậm hơn
so với LLSX, nên QHXS thường lạc hậu so với LLSX

+ Cùng một nội dung có thể chứa đựng một số hình thức và ngược lại.
VD: Một nội dung tuyên truyền ngày thành lập Đoàn TNCS Hồ Chí Minh, nhưng lại được tổ chức bằng nhiều
hình thức như: tổ chức VHVN, Thi báo tường, Mít tinh kỷ niệm.....( Một nội dung chứa đựng nhiều hình thức)
Cùng một loại hình nghệ thuật chèo có thể truyền tải được nhiều nội dung mà tác giả muốn đem đến cho
người xem.
+ Hình thức có thể tác động trở lại nội dung theo hai khả năng: nếu phù hợp với nội dung, nó sẽ thúc đẩy
nội dung phát triển; nếu không phù hợp với nội dung, nó sẽ kìm hãm sự phát triển của nội dung.
VD: Trong cơ chế bao cấp ở nước ta trước đây, do QHSX chưa phù hợp với trình độ phát triển của LLSX
nên không kích thích được tính tích cực của người sản xuất, không phát huy được năng lực sẵn có của LLSX.
Nhưng từ sau đổi mới, khi chúng ta chuyển sang xây dựng nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, hoạt động
theo cơ chế thị trường, định hướng XHCN, QHSX phù hợp với trình độ của LLSX nước ta, do vậy tạo điều kiện
thuận lợi thúc đẩy sản xuất phát triển.
* Nội dung và hình thức có thể chuyển hoá cho nhau trong quá trình vận động phát triển của sự vật.
Đây là sự chuyển hoá của hai mặt đối lập, không phải là sự đổi chỗ cho nhau. Sự chuyển hoá ở đây là sự
chuyển hoá trong quan hệ xem xét. Tức là cái ở trong mối quan hệ này là nội dung, còn ở trong mối quan hệ
khác lại là hình thức và ngược lại.
Ví dụ: Giáo dục chính trị là một mặt công tác, nó được xem như là nội dung để cấu tạo lên toàn bộ hoạt
động CTĐ,CTCT. Nhưng giáo dục chính trị lại đóng vai trò là hình thức khi người CTV sử dụng nó để truyền
tải những nội dung cần lên lớp cho cán bộ, chiến sĩ thuôc quyền trong đơn vị.
3. Ý nghĩa phương pháp luận và vận dụng
- Xem xét sự vật phải toàn diện cả nội dung và hình thức, nhưng để cải tạo sự vật trước hết phải đi từ nội
dung, tác động vào nội dung của nó. Đồng thời, phải sử dụng sáng tạo các loại hình thức theo yêu cầu của hoạt
động thực tiễn.
- Cần chống chủ nghĩa hình thức: phô trương hào nhoáng, không đi vào thực chất nội dung; song cũng
tránh xem nhẹ hình thức.
- Trong hoạt động thực tiễn cải tạo xã hội cần phải chủ động sử dụng nhiều hình thức khác nhau, đáp ứng
với yêu cầu thực tiễn của hoạt động cách mạng trong những giai đoạn khác nhau.
23



- Trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa cũng cần có sự phát triển mới về hình thức
tổ chức lực lượng và hình thái thế trận quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân, hình thức tiến hành chiến tranh
nhân dân, hình thức tác chiến cho phù hợp tình hình mới.
- Vận dụng mối quan hệ giữa nội dung và hình thức vào hoạt động CTĐ,CTCT trong QĐNDVN: công
tác giáo dục chính trị tư tưởng cho bộ đội, thì nội dung và hình thức giáo dục là một thể thống nhất không thể tách
rời. Do đó, cần đổi mới nội dung và sử dụng sáng tạo các hình thức. Lựa chọn những hình thức phù hợp với nội
dung và điều kiện, hoàn cảnh cụ thể, phải tính toán đến những nhiệm vụ riêng, cụ thể của mỗi phân đội
3.4.3. TẤT NHIÊN VÀ NGẪU NHIÊN
1. Khái niệm tất nhiên và ngẫu nhiên.
* Tất nhiên là cái do những nguyên nhân cơ bản, bên trong kết cấu vật chất quyết định và trong những
điều kiện nhất định phải xảy ra như thế chứ không thể khác được.
* Ngẫu nhiên là cái do các nguyên nhân bên ngoài, do sự kết hợp của nhiều hoàn cảnh bên ngoài quyết
định; do đó, nó có thể xuất hiện, có thể không xuất hiện, có thể xuất hiện như thế này, hoặc có thể xuất hiện như
thế khác.
Ví dụ: trong xã hội tư bản, nhà tư bản bóc lột công nhân là tất nhiên, do bản chất quan hệ sản xuất tư bản
chủ nghĩa quy định. Song, nhà tư bản sản xuất mặt hàng gì lại là ngẫu nhiên, vì nó do những nguyên nhân riêng
biệt, do những điều kiện cá nhân không thuộc bản chất của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa.
Tất nhiên gắn với nguyên nhân cơ bản, nội tại của sự vật, còn ngẫu nhiên là kết quả tác động của một số
nguyên nhân bên ngoài.
Cả tất nhiên và ngẫu nhiên đều tuân theo quy luật: tất nhiên tuân theo quy luật động lực; còn ngẫu nhiên
tuân theo quy luật thống kê.
2. Mối quan hệ biện chứng giữa tất nhiên và ngẫu nhiên
a. Quan điểm của triết học trước Mác.
* CNDT: Trong tự nhiên chỉ có cái ngẫu nhiên tồn tại, không có tính tất nhiên; tất nhiên chỉ là thuộc tính
của ý thức con người.
VD: C. Piếcxơn cho rằng, tất nhiên chỉ tồn tại trong thế giới khái niệm, trong tư duy của con người, chứ
không tồn tại trong sự vật.
* CNDV trước Mác: thừa nhận tất nhiên, phủ nhận tính khách quan của ngẫu nhiên.
VD: Đêmôcrít và Xpinôza cho rằng, mỗi sự vật đều có nguyên nhân của nó nên không có ngẫu nhiên;
ngẫu nhiên là kết quả của sự hiểu biết không đầy đủ của con người về nguyên nhân của sự vật.

Một số nhà duy vật khác lại thừa nhận sự tồn tại khách quan của cả tất nhiên và ngẫu nhiên, nhưng xem
chúng là những cái tách rời nhau, loại trừ lẫn nhau, không có liên hệ với nhau.
Những quan điểm trên đều phiến diện; đề cao, tuyệt đối hoá cái tất nhiên mà xem nhẹ cái ngẫu nhiên
hoặc ngược lại. Do đó dẫn đến sai lầm khi xem xét mối quan hệ giữa cái tất nhiên và cái ngẫu nhiên.
b. Quan điểm của CNDVBC
- Tất nhiên và ngẫu nhiên đều tồn tại khách quan, ở bên ngoài và độc lập với ý thức của con người và đều
có vị trí nhất định đối với sự phát triển của sự vật.
Trong quá trình phát triển của sự vật, cả tất nhiên và ngẫu nhiên đều có vai trò quan trọng: tất nhiên chi
phối sự phát triển của sự vật, còn ngẫu nhiên làm cho sự phát triển của sự vật diễn ra nhanh hoặc chậm.
Ví dụ: Cá tính của một lãnh tụ là yếu tố tất nhiên của người đó, nhưng lại là cái ngẫu nhiên của phong trào
quần chúng. Nó không quyết định xu hướng phát triển của phong trào, nhưng lại có ảnh hưởng làm cho phong trào
phát triển nhanh hay chậm, tính chất sâu sắc, triệt để mà phong trào đạt được, v.v..
- Tất nhiên và ngẫu nhiên luôn tồn tại trong sự thống nhất hữu cơ với nhau: tất nhiên bao giờ cũng vạch
đường đi cho mình xuyên qua vô số cái ngẫu nhiên; còn ngẫu nhiên là hình thức biểu hiện của tất nhiên, bổ
sung cho tất nhiên.
+ Tất nhiên bao giờ cũng vạch đường đi cho mình xuyên qua vô số cái ngẫu nhiên. Nghĩa là, cái tất nhiên
bao giờ cũng thể hiện sự tồn tại của mình thông qua vô số cái ngẫu nhiên. Bởi vì tất nhiên bao giờ cũng là
khuynh hướng chủ đạo của sự phát triển, nhưng khuynh hướng này không tồn tại thuần tuý mà bộc lộ ra dưới
một hình thức ngẫu nhiên nào đó so với chiều hướng chung.
Ví dụ: Ph.Ăngghen nhận xét: sự xuất hiện các nhân vật xuất sắc trong lịch sử là tất nhiên do nhu cầu xã
hội phải giải quyết những nhiệm vụ chín muồi của lịch sử tạo nên. Nhưng nhân vật đó là ai lại không phải cái
tất nhiên, vì cái đó không phụ thuộc vào tiến trình chung của lịch sử. Nếu gạt bỏ nhân vật này thì nhân vật khác
sẽ xuất hiện thay thế. Người thay thế này có thể tốt hơn hoặc xấu hơn, nhưng cuối cùng nhất định nó phải xuất
hiện. Như vậy ở đây cái tất yếu như là khuynh hướng chung của sự phát triển. Khuynh hướng đó không tồn tại
24


thuần tuý, biệt lập mà phải thể hiện dưới hình thức cái ngẫu nhiên. Cái ngẫu nhiên cũng không tồn tại thuần tuý
mà luôn là hình thức thể hiện cái tất nhiên. Trong cái ngẫu nhiên ẩn giấu cái tất yếu.
+ Ngẫu nhiên là hình thức biểu hiện của tất nhiên, bổ sung cho tất nhiên: nó làm phong phú thêm tất

nhiên, làm cho tất nhiên đa dạng, nhiều vẻ và được bộc lộ ra một cách sinh động, cụ thể. Thông qua vô số cái
ngẫu nhiên mà người ta tìm ra được cái tất nhiên.
Ví dụ: Có những phát minh khoa học ra đời một cách “ngẫu nhiên”, góp phần bổ sung vào cái tất nhiên
của quá trình nghiên cứu khoa học. Chẳng hạn, Niutơn tìm ra định luật “vạn vật hấp dẫn” do tình cờ bị quả táo
rơi vào đầu. Ácsimét tìm ra lực đẩy khi ông đang tắm, v.v..
 Cần phê phán thái độ tuyệt đối hoá cái tất nhiên sẽ rơi vào thuyết định mệnh; tuyệt đối hoá cái ngẫu
nhiên sẽ bi quan, trông chờ may rủi, bất lực trước cuộc sống.
- Tất nhiên và ngẫu nhiên có thể chuyển hoá cho nhau trong những điều kiện nhất định
+ Sự chuyển hoá giữa tất nhiên và ngẫu nhiên thể hiện ở chỗ, cái là tất nhiên trong mối quan hệ này thì
lại là ngẫu nhiên trong mối quan hệ khác, và ngược lại.
Ví dụ: Việc trao đổi vật này lấy vật khác trong xã hội công xã nguyên thuỷ lúc đầu chỉ là việc ngẫu nhiên.
Vì khi đó LLSX thấp kém, mỗi công xã chỉ sản xuất đủ cho riêng mình dùng, chưa có sản phẩm dư thừa. Nhưng
về sau, nhờ có sự phân công lao động, kinh nghiệm sản xuất của con người cũng được tích luỹ. Con người đã
sản xuất được nhiều sản phẩm hơn, dẫn đến có sản phẩm dư thừa. Khi đó sự trao đổi sản phẩm trở nên thường
xuyên hơn và biến thành một hiện tượng tất nhiên của xã hội.
+ Sự chuyển hoá diễn ra theo hai chiều: tất nhiên biến thành ngẫu nhiên, và ngược lại. Do đó, không được
máy móc, cứng nhắc khi xem xét sự vật.
3. Ý nghĩa phương pháp luận và vận dụng
- Trong hoạt động thực tiễn cần dựa vào cái tất nhiên chứ không thể dựa vào cái ngẫu nhiên. Nhưng không
phải vì thế mà có thể bỏ qua cái ngẫu nhiên. Vì thế, trong hoạt động thực tiễn cần phải có phương án hành động
dự phòng cho trường hợp các sự biến ngẫu nhiên bất ngờ xuất hiện. Có như vậy mới tránh được bị động trong
hoạt động thực tiễn.
- Cái tất nhiện biểu lộ ra ngoài thông qua cái ngẫu nhiên, cho nên muốn nhận thức cái tất nhiên cần bắt
đầu từ cái ngẫu nhiên. Cùng với đó, ta chỉ có thể vạch ra được cái tất nhiên bằng cách nghiên cứu qua rất nhiều
cái ngãu nhiên.
- Cái tất nhiên có thể chuyển hóa thành cái ngẫu nhiên và ngược lại, cho nên, cần chú ý tạo những điều
kiện cần thiết hoặc để ngăn trở, hoặc để sự chuyển hóa đó diễn ra tùy theo yêu cầu của hoạt động thực tiễn.
- Vận dụng trong hoạt động quân sự, trong xây dựng đất nước...
VẤN ĐỀ 4: LÝ LUẬN NHẬN THỨC
4.1. BẢN CHẤT CỦA NHẬN THỨC VÀ CÁC NGUYÊN TẮC CƠ BẢN CỦA LÝ LUẬN NHẬN

THỨC MÁC – LÊNIN
1. Một số quan điểm trước Mác
* Quan điểm của CNDT: Phủ nhận khả năng nhận thức của con người, hoặc coi nhận thức không phải là
sự phản ánh hiện thực khách quan, mà chỉ là sự phản ánh tự nhận thức của “ý niệm”, “ý niệm tuyệt đối”, tư
tưởng tồn tại ở đâu đó ngoài con người.
- Platôn: Coi nhận thức chỉ là sự hồi tưởng của linh hồn bất tử về những điều mà nó đã thấy và trải qua
khi còn ở thế giới bên kia (vương quốc của những cái đẹp thuần tuý). Cho nên muốn nhận thức được chân lý
phải từ bỏ những gì hữu hình cảm tính chỉ cần nhắm mắt bịt tai để hồi tưởng, nhớ lại cái linh hồn bất tử đã quan
sát được.
- Hêghen: coi "ý niệm tuyệt đối" là linh hồn của nhận thức khoa học chân chính; nhận thức của con người
là “ý niệm tuyệt đối tự nhận thức bản thân mình". Ông còn quy “thực tiễn” vào hoạt động tinh thần; hơn nữa, do
chưa thoát khỏi lập trường giai cấp nên ông không đánh giá đúng vai trò của thực tiễn, đặc biệt là vai trò sản
xuất vật chất đối với sự phát triển xã hội.
- Beccơli: “tồn tại có nghĩa là cảm giác được”, đối tượng nhận thức và cảm giác chỉ là một. Tất cả mọi cái
từ cảm giác mà ra, và sự vật là sự kết hợp của những cảm giác chủ quan; không có chủ thể thì không có khách thể.
* Thuyết hoài nghi: nghi ngờ tính xác thực của tri thức, biến sự hoài nghi thành một nguyên tắc nhận
thức, thậm chí chuyển thành nghi ngờ sự tồn tại của bản thân thế giới bên ngoài.
* Thuyết không thể biết: (bất khả tri luận) khẳng định thế giới là không thể biết được; lý trí con người có
tính chất hạn chế ngoài giới hạn của cảm giác, con người không thể biết được gì.
25


×