Tải bản đầy đủ (.pdf) (90 trang)

Quản lý nhà nước về làng nghề truyền thống, từ thực tiễn quận ngũ hành sơn, thành phố đà nẵng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.02 MB, 90 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

PHẠM VĂN THỌ

QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ LÀNG NGHỀ TRUYỀN
THỐNG TỪ THỰC TIỄN QUẬN NGŨ HÀNH SƠN,
THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI, năm 2019


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

PHẠM VĂN THỌ

QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ LÀNG NGHỀ TRUYỀN
THỐNG TỪ THỰC TIỄN QUẬN NGŨ HÀNH SƠN,
THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

Chuyên ngành : Luật Hiến pháp và Luật Hành chính
Mã số

: 8 38 01 02

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:

PGS.TS.VŨ CÔNG GIAO



HÀ NỘI, năm 2019


LỜI CAM ĐOAN
Học viên xin cam đoan luận văn “Quản lý nhà nước về làng nghề truyền
thống từ thực tiễn quận Ngũ Hành Sơn, thành phố Đà Nẵng” trên địa bàn quận Ngũ
Hành Sơn, thành phố Đà Nẵng là công trình nghiên cứu khoa học, độc lập của tôi
được thực hiện dưới sự hướng dẫn của PGS.TS Vũ Công Giao.
Các số liệu, những kết luận nghiên cứu được trình bày trong luận văn này
hoàn toàn trung thực.
Tôi xin chịu trách nhiệm về nghiên cứu của mình.

Học viên

Phạm Văn Thọ


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ KHUNG PHÁP LUẬT VỀ
QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI LÀNG NGHỀ TRUYỀN THỐNG Ở VIỆT
NAM HIỆN NAY ......................................................................................................8
1.1. Khái niệm, biểu hiện và đặc điểm của làng nghề truyền thống ...........................8
1.2. Khái niệm, đặc điểm, vai trò của quản lý nhà nước đối với làng nghề truyền
thống ..........................................................................................................................15
1.3. Khung pháp luật hiện hành của Việt Nam về quản lý làng nghề truyền thống .19
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ LÀNG NGHỀ
TRUYỀN THỐNG Ở QUẬN NGŨ HÀNH SƠN, THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG ...25
2.1. Lịch sử phát triển, đặc điểm và những vấn đề đang đặt ra với làng nghề truyền

thống ở quận Ngũ Hành Sơn, thành phố Đà Nẵng....................................................25
2.2. Thực trạng công tác quản lý nhà nước đối với làng nghề truyền thống ở quận
Ngũ Hành Sơn, thành phố Đà Nẵng 5 năm gần đây .................................................32
2.3. Đánh giá chung về những kết quả, hạn chế trong quản lý nhà nước đối với làng
nghề truyền thống ở quận Ngũ Hành Sơn, thành phố Đà Nẵng trong 5 năm gần đây
...................................................................................................................................45
2.4. Những kinh nghiệm và vấn đề đặt ra với quản lý nhà nước đối với làng nghề
truyền thống từ thực tiễn quận Ngũ Hành Sơn, thành phố Đà Nẵng ........................53
CHƯƠNG 3. QUAN ĐIỂM, GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG QUẢN LÝ NHÀ
NƯỚC ĐỐI VỚI LÀNG NGHỀ TRUYỀN THỐNG Ở QUẬN NGŨ HÀNH
SƠN, THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG .............................................................................59
3.1. Các quan điểm ....................................................................................................59
3.2. Các giải pháp ......................................................................................................60
KẾT LUẬN ..............................................................................................................74
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN
BQL

Ban quản lý

BVMT

Bảo vệ môi trường

CNH, HĐH

Công nghiệp hóa - hiện đại hóa


CN-TTCN

Công nghiệp-Tiểu thủ công nghiệp

dBA

decibel

ĐKKD

Đăng ký kinh doanh

Fe

Độ sắt trong nước

GTSX

Giá trị sản xuất

ha

héc - ta

HCL

Axit clohydric

HĐND


Hội đồng Nhân dân

KHXH

Khoa học xã hội

LĐ-TB&XH

Lao động -Thương binh và Xã hội

NHS

Ngũ Hành Sơn

NN&PTNT

Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn

NO3
QLNN

Nitrat
Quản lý nhà nước

Pb

Tổng độ chì trong nước

pH


Chỉ số các ion hyđrô trong nước

SXKD

Sản xuất kinh doanh

TCCP

Tiêu chuẩn cho phép

TNMT

Tài nguyên Môi trường

TPĐN

Thành phố Đà Nẵng

UBND

Ủy ban Nhân dân

VH – KT - XH

Văn hóa - Kinh tế - Xã hội

Zn

Độ kẽm trong nước



DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
Số hiệu

Tên bảng

bảng
2.1
2.2

Thu nhập của thợ điêu khắc đá
Thống kê số lượng khách du lịch đến tham quan danh
thắng Ngũ Hành Sơn

Trang
28
28

2.3

Bảng thống kê chất lượng lao động của làng nghề

30

2.4

Bảng các sản phẩm đá thường làm

31


2.5

Bảng cân bằng sử dụng đất

38

2.6

Bảng số lượng lao động làng nghề qua 5 năm gần đây

39

2.7

Kết quả phân tích môi trường nước ngầm tại làng nghề

44


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Nghề thủ công mỹ nghệ Việt Nam vốn có truyền thống lâu đời. Truyền
thống đó gắn liền với tên những làng nghề, phố nghề và được biểu hiện bằng sản
phẩm độc đáo, tinh xảo, hoàn mỹ. Sản phẩm thủ công mỹ nghệ của Việt Nam có
nét riêng và độc đáo, thể hiện qua tên sản phẩm kèm theo tên làng làm ra nó như:
làng gốm sứ Bát Tràng; làng lụa Vạn Phúc; làng nghề điêu khắc đá Ngũ Hành
Sơn… Làng nghề thủ công Việt Nam có lịch sử phát triển hàng ngàn năm, đến
đầu thế kỷ XI sản phẩm thủ công của nước ta bắt đầu xuất khẩu và phát triển
mạnh mẽ ở thế kỷ XIII. Cũng trong thời kỳ này đã hình thành một số lượng lớn

làng nghề thủ công ở Việt Nam.
Làng nghề Việt Nam không chỉ đóng góp cho sự phát triển đất nước mà
còn là môi trường văn hoá, kinh tế, xã hội (VH-KT-XH) và công nghệ truyền
thống lâu đời. Trong tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá (CNH, HĐH) đất
nước, việc phát triển kinh tế làng nghề là giải pháp quan trọng nhằm huy động
tối đa các nguồn lực có sẳn trong nông thôn như tài nguyên thiên nhiên, nguồn
nguyên liệu, phế phẩm công nghiệp… vào quá trình sản xuất kinh doanh
(SXKD), đồng thời khai thác có hiệu quả cơ sở vật chất kỹ thuật, nguồn vốn
trong nhân dân và những kỹ năng, kỹ xảo của người lao động. Sản phẩm thủ
công của làng nghề đáp ứng nhu cầu tiêu dùng và tâm linh của người dân Việt
Nam và cả du khách ngoài nước.
Trong nền kinh tế mở với nhiều thành phần kinh tế thì làng nghề có thể
phát huy mạnh mẽ tiềm năng lợi thế của mình để sản xuất ra những sản phẩm
phục vụ cho nhu cầu nội địa và xuất khẩu. Quá trình chuyển dịch cơ cấu làng
nghề theo cơ chế thị trường ở nước ta trong thời gian qua đã từng bước khơi dậy
được nhiều nguồn lực, giải quyết nhiều lao động dư thừa ở nông thôn, thu hút
hàng ngàn lao động có tay nghề khá cao. Kèm với việc phát triển làng nghề đã
kéo theo nhiều ngành nghề dịch vụ liên quan và tạo thêm nhiều việc làm mới.

1


Không chỉ vậy, bảo tồn và phát triền làng nghề còn là giữ gìn và phát huy bản
sắc văn hóa của dân tộc, văn minh nhân loại, làm tăng thêm những giá trị văn
hóa truyền thống trong một thế giới đa phương tiện thông tin và đầy biến động
như hiện nay.
Thành phố Đà Nẵng được xem là hạt nhân của vùng kinh tế trọng điểm
Miền Trung - Tây Nguyên. Cùng với quá trình phát triển đô thị nhanh, vẫn còn
những làng quê, làng nghề nông thôn mang một nét riêng của Đà Nẵng như làng
nghề điêu khắc đá Ngũ Hành Sơn, làng chiếu Cẩm Nê, làng nước mắm Nam Ô,

bánh tráng Túy Loan, bánh khô mè Bà Liểu... Trong tiến trình CNH, HĐH nông
nghiệp, nông thôn, kinh tế làng nghề Đà Nẵng đã đóng góp không nhỏ trong
tổng sản phẩm nội địa và giải quyết tạo việc làm cho hàng ngàn lao động của
thành phố.
Phát triển kinh tế làng nghề được xem là một trong những nhiệm vụ trọng
tâm trong chương trình phát triển KT-XH của Đảng bộ và chính quyền quận Ngũ
Hành Sơn cũng như Đảng bộ và chính quyền thành phố Đà Nẵng, góp phần xây
dựng thành phố giàu mạnh, văn minh, hiện đại; xây dựng Đà Nẵng trở thành một
trong những trung tâm thương mại, du lịch, dịch vụ lớn của cả nước; phấn đấu là
một trong những địa phương đi đầu trong sự nghiệp CNH, HĐH mà Nghị quyết
số 33-NQ/TW ngày 16/10/2003 của Bộ Chính trị đã đề ra.
Là một quận, huyện tập trung nhiều làng nghề truyền thống của thành phố
Đà Nẵng, trong thời gian qua, Đảng bộ và chính quyền quận Ngũ Hành Sơn đã
có nhiều chủ trương, giải pháp khai thác tối đa lợi thế của Làng nghề truyền
thống điêu khắc đá mà đã hình thành từ hơn 400 năm qua. Cùng với những nỗ
lực của các tổ chức, cá nhân hoạt động sản xuất, kinh doanh (SXKD) trong làng
nghề, sản phẩm điêu khắc đá của làng nghề không chỉ được nhân dân trong
nước, mà còn được nhiều du khách ngoại quốc ưa chuộng. Sản phẩm nghệ thuật
của làng nghề gắn liền với tên tuổi quần thể danh lam thắng cảnh nổi tiếng Ngũ
Hành Sơn được giới chuyên môn xếp vào hạng nhất nhì của ngành du lịch Việt
Nam.

2


Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đã đạt được, trong những năm gần
đây, quá trình phát triển làng nghề điêu khắc đá ở quận Ngũ Hành Sơn, thành
phố Đà Nẵng còn những mặt hạn chế nhất định, chưa tương xứng với lợi thế và
tiềm năng của nó. Quản lý nhà nước đối với làng nghề còn nhiều mặt hạn chế,
chưa theo kịp với các yêu cầu của tình hình mới như đảm bảo việc sản xuất phải

thân thiện với môi trường, văn minh thương mại, phù hợp pháp luật.
Để làng nghề truyền thống đá mỹ nghệ Non Nước phát triển một cách bền
vững, phát huy hết tiềm năng, đóng góp nhiều hơn cho sự phát triển kinh tế - xã
hội của thành phố Đà Nẵng, cần phải có giải pháp khắc phục những tồn tại, hạn
chế hiện nay, trong đó bao gồm những tồn tại, hạn chế liên quan đến quản lý nhà
nước với làng nghề. Bối cảnh đó đòi hỏi phải có những nghiên cứu chuyên sâu
từ thực tiễn cơ sở.
Học viên được sinh ra và lớn lên tại quận Ngũ Hành Sơn, được chứng
kiến quá trình phát triển của làng nghề đá mỹ nghệ; quản lý Nhà nước đối với
làng nghề trên địa bàn quận Ngũ Hành Sơn là đòi hỏi khách quan và cần thiết.
Đó là lý do tôi chọn đề tài “Quản lý nhà nước về làng nghề truyền thống, từ thực
tiễn quận Ngũ Hành Sơn, thành phố Đà Nẵng” để thực hiện luận văn thạc sĩ luật
học của mình, với mong muốn tìm ra các giải pháp khắc phục những mặt hạn
chế, tồn tại; qua đó góp phần thúc đẩy sự phát triển của làng nghề truyền thống ở
địa phương cũng như các làng nghề truyền thống đá mỹ nghệ khác ở nước ta
theo hướng ổn định, bền vững, phù hợp với định hướng của Đảng và Nhà nước
trong xu thế hội nhập hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong thời gian qua ở nước ta đã có khá nhiều công trình nghiên cứu liên
quan đến làng nghề truyền thống nói chung, quản lý nhà nước với làng nghề
truyền thống nói riêng, trong đó có những công trình tiêu biểu như sau:
- Dương Bá Phượng (2001): “Bảo tồn và phát triển làng nghề trong quá
trình CNH”, Nxb Khoa học Xã hội Hà Nội.

3


- Mai Thế Hởn, Hoàng Ngọc Hòa, Vũ Phúc (2003): “Phát triển làng nghề
truyền thống trong quá trình CNH, HĐH nông nghiệp và kinh tế nông thôn”,
Nxb Chính trị quốc gia Hà Nội.

- Nguyễn Thị Tươi (2003): “Ô nhiễm môi trường làng nghề: “Bài toán
khó”, Thời báo Tài chính Việt Nam.
- Trần Minh Yến “Làng nghề truyền thống trong quá trình công nghiệp
hóa, hiện đại hóa”, sách chuyên khảo, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 2004.
- Lưu Duy Dần (2009): “Làng nghề truyền thồng từ góc nhìn văn hóa”,
Hiệp hội làng nghề Việt Nam.
- Nguyễn Cửu Loan (2009): “Đồng hành cùng làng nghề Việt Nam trước
khúc quanh suy thoái”, Hiệp hội làng nghề Việt Nam.
- Trương Minh Hằng (2012) “Tổng tập nghề và làng nghề truyền thống
Việt Nam”, NXB Khoa học xã hội, Viện nghiên cứu văn hoá.
- Nguyễn Thị Lan Hương (2008), Làng nghề ở Thanh Hoá trong hội nhập
kinh tế quốc tế, Luận văn Thạc sỹ Kinh tế, Học viện Chính trị - Hành chính quốc
gia Hồ Chí Minh.
- Trần Thị Mẫn (2016), Quản lý nhà nước đối với làng nghề truyền thống
đá mỹ nghệ từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng, Luận văn thạc sỹ chuyên ngành
Luật học, Học viên KHXH, Đà Nẵng.
Những công trình nghiên cứu nêu trên đã cung cấp một lượng kiến thức,
thông tin lớn về làng nghề truyền thống ở nước ta. Đây là những tư liệu tham
khảo rất hữu ích cho tác giả trong quá trình thực hiện luận văn này, trong đó đặc
biệt là luận văn của Trần Thị Mẫn.
Tuy nhiên cho đến nay, các công trình nghiên cứu nêu trên mới chỉ đề cập
đến làng nghề truyền thống nói chung, chưa tập trung nghiên cứu sâu về quản lý
Nhà nước đối với làng nghề truyền thống đá mỹ nghệ. Thêm vào đó, các vấn đề
được phân tích chủ yếu về tổ chức sản xuất và văn hoá làng nghề, vấn đề quản lý
nhà nước (QLNN) với làng nghề khá mờ nhạt. Riêng luận văn của Thị Mẫn, mặc

4


dù trực tiếp đề cập đến QLNN với làng nghề truyền thống đá mỹ nghệ ở Đà

Nẵng song do thực hiện từ năm 2016 nên đến nay đã có nhiều thông tin, văn bản
chính sách, pháp luật không còn cập nhật. Trước những đòi hỏi của thực tiễn,
cần phải tăng cường quản lý Nhà nước đối với làng nghề truyền thống. Vì vậy,
việc nghiên cứu đề tài luận văn là cần thiết.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích của luận văn là phân tích thực trạng QLNN đối với làng nghề
truyền thống đá mỹ nghệ Non Nước ở quận Ngũ Hành Sơn, thành phố Đà Nẵng,
từ đó rút ra những bài học kinh nghiệm và đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu
quả QLNN đối với Làng nghề truyền thống đá mỹ nghệ ở quận Ngũ Hành Sơn,
thành phố Đà Nẵng nói riêng, trên cả nước nói chung .
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích trên, các nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn là:
- Nghiên cứu làm rõ những vấn đề lý luận, pháp lý về QLNN đối với làng
nghề truyền thống nói chung, làng nghề truyền thống đá mỹ nghệ nói riêng ở
nước ta.
- Khảo sát, phân tích thực trạng QLNN đối với làng nghề điêu khắc đá mỹ
nghệ Non Nước quận Ngũ Hành Sơn, thành phố Đà Nẵng, chỉ ra những thành
tựu, hạn chế và nguyên nhân.
- Đề xuất các quan điểm, giải pháp nhằm xây dựng làng nghề đá mỹ nghệ
Non nước quận Ngũ Hành Sơn, thành phố Đà Nẵng phát triển bền vững, tôn
vinh các giá trị truyền thống, mang bản sắc vùng miền, thân thiện với môi trường
và văn minh trong thương mại.
- Đề xuất các quan điểm, giải pháp tăng cường QLNN đối với làng nghề
truyền thống đá mỹ nghệ ở quận Ngũ Hành Sơn, thành phố Đà Nẵng.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu: Đối tượng nghiên cứu của luận văn là thực

5



trạng QLNN đối với làng nghề truyền thống đá mỹ nghệ ở quận Ngũ Hành Sơn,
thành phố Đà Nẵng.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi về nội dung: Đề tài chỉ tập trung nghiên cứu các vấn đề lý luận,
pháp lý và thực tiễn liên quan đến QLNN đối với làng nghề truyền thống đá mỹ
nghệ, không đi sâu nghiên cúu các vấn đề khác như truyền thống, văn hoá, cấu
trúc, tổ chức… của các làng nghề.
- Phạm vi về không gian: Đề tài tập trung nghiên cứu thực trạng QLNN
đối với làng nghề truyền thống đá mỹ nghệ Non Nước ở quận Ngũ Hành Sơn,
thành phố Đà Nẵng, không mở rộng đến các làng nghề dạng này ở các địa
phương khác.
+ Về thời gian: Đề tài tập trung nghiên cứu thực trạng QLNN đối với làng
nghề truyền thống đá mỹ nghệ Non Nước ở quận Ngũ Hành Sơn, thành phố Đà
Nẵng trong vòng 5 năm trở lại đây (2013-2018).
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Về phương pháp luận, Luận văn được thực hiện dựa trên cơ sở phép duy
vật biện chứng của Chủ nghĩa Mác – Lê Nin.
Về phương pháp nghiên cứu, Luận văn kết hợp sử dụng các phương pháp
tổng hợp, thống kê, phân tích, so sánh các số liệu, dữ liệu trong các công trình
nghiên cứu đã công bố, các báo cáo của cơ quan chức năng nhà nước địa
phương, các văn bản pháp luật của nhà nước…để làm rõ các vấn đề nghiên cứu
đặt ra.
Thêm vào đó, với tư cách là một cán bộ đang làm việc tại đia phương, tác
giả còn sử dụng phương pháp quan sát thực tế để làm rõ các vấn đề đặt ra trong
quá trình thực hiện luận văn này.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận: Luận văn là công trình nghiên cứu toàn diện và cập
nhật về QLNN đối với làng nghề truyền thống đá mỹ nghệ ở quận Ngũ Hành


6


Sơn, thành phố Đà Nẵng. Vì vậy, luận văn cung cấp nhiều kiến thức, thông tin,
luận điểm và đề xuất mới có giá trị tham khảo với việc nâng cao hiệu quả QLNN
đối với làng nghề truyền thống đá mỹ nghệ ở quận Ngũ Hành Sơn, thành phố Đà
Nẵng và ở các địa phương khác của nước ta trong thời gian tới.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn: Luận văn có thể được sử dụng là nguồn tài liệu
tham khảo cho chính quyền quận Ngũ Hành Sơn và thành phố Đà Nẵng trong
việc nâng cao hiệu quả QLNN với làng nghề truyền thống đá mỹ nghệ ở địa
phương. Luận văn góp phần tăng cường QLNN đối với làng nghề truyền thống
đá mỹ nghệ ở quận Ngũ Hành Sơn là tất yếu, khách quan, đúng định hướng
trong quá trình CNH, HĐH; làm cơ sở cho Quận ủy, UBND, các ban, ngành liên
quan của quận Ngũ Hành Sơn có các định hướng và các giải pháp khoa học, thiết
thực để đẩy mạnh phát triển làng nghề nhằm chuyển dịch cơ cấu kinh tế của
quận theo hướng dịch vụ - du lịch - công - nông nghiệp, từng bước xây dựng
quận Ngũ Hành Sơn giàu về kinh tế, vững về chính trị, mạnh về an ninh quốc
phòng, nhân dân có cuộc sống ấm no, hạnh phúc.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm 3 chương:
- Chương 1: Những vấn đề lý luận và khung pháp luật về quản lý nhà
nước đối với làng nghề truyền thống ở Việt Nam hiện nay.
- Chương 2: Thực trạng quản lý nhà nước về làng nghề truyền thống ở
quận Ngũ Hành Sơn, thành phố Đà Nẵng
- Chương 3: Quan điểm, giải pháp tăng cường quản lý nhà nước đối với
làng nghề truyền thống ở quận Ngũ Hành Sơn, thành phố Đà Nẵng.

7



CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ KHUNG PHÁP LUẬT VỀ
QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI LÀNG NGHỀ TRUYỀN THỐNG
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
1.1. Khái niệm, biểu hiện và đặc điểm của làng nghề truyền thống
1.1.1. Khái niệm làng nghề truyền thống
Lịch sử phát triển của làng nghề Việt Nam gắn liền với lịch sử phát triển
kinh tế, văn hoá, xã hội của đất nước. Bên cạnh đó, sự tồn tại và phát triển của
làng nghề đồng hành với quá trình phát triển của làng, xã nông thôn, và trong
một số trường hợp, là các đô thị của Việt Nam. Đó là một quá trình tích lũy kinh
nghiệm lâu đời của những người thợ, quá trình phát triển của tiểu thủ công
nghiệp ở nông thôn và thành thị mà qua đó không ít làng nghề đã có lịch sử phát
triển hàng ngàn năm và được truyền qua nhiều thế hệ. Đến đầu thế kỷ XI sản
phẩm làng nghề nước ta bắt đầu xuất khẩu và phát triển mạnh mẽ ở thế kỷ XIII.
Nhiều làng nghề là những chứng tích kinh tế, văn hoá quan trọng, thậm chí có
nghề được nâng lên thành “di sản vật thể”.
Đến nay, các nhà nghiên cứu đã đưa ra các quan niệm khác nhau về làng
nghề truyền thống, song những quan niệm sau đây được nhiều người quan tâm
và chấp nhận nhất:
Quan niệm thứ nhất: Theo Giáo sư Trần Quốc Vượng, làng nghề được
hiểu là một địa phương trong khi vẫn một số nghề phụ khác (đan lát, làm tương,
làm đậu phụ…) song nổi trội về một nghề cổ truyền, tinh xảo với một lực lượng
lao động thủ công chuyên nghiệp hay bán chuyên nghiệp, có phường hội (cơ cấu
tổ chức), có ông Trùm, ông Phó cả...cùng một số thợ và phó nhỏ làm việc
chuyên tâm, có quy trình công nghệ nhất định, sống chủ yếu được bằng nghề đó
và sản xuất ra những mặt hàng thủ công, những mặt hàng có tính mỹ thuật, đã
trở thành sản phẩm hàng hoá.
Quan niệm thứ hai: Theo nhà nghiên cứu Bùi Văn Vượng thì làng nghề


8


là làng cổ truyền làm nghề thủ công, dù ở đó không nhất thiết tất cả dân làng đều
sản xuất hàng thủ công và người thợ thủ công nhiều trường hợp cũng đồng thời
là người làm nghề nông (nông dân). Tuy nhiên, do yêu cầu chuyên môn hoá cao
đã tạo ra những người thợ chuyên sản xuất truyền thống ngay tại làng quê của
mình hay ở làng nghề, phố nghề nơi khác. Nói đến làng nghề thủ công truyền
thống tức là nói nhiều mặt, trong cả không gian và thời gian, nghĩa là quan tâm
đến tính hệ thống toàn diện của làng nghề đó, trong đó yếu tố quyết định là nghệ
nhân, sản phẩm, kỹ thuật sản xuất và thủ pháp nghệ thuật [39, tr.13].
Quan niệm thứ ba: Theo Tiến sĩ Dương Bá Phượng thì làng nghề là làng
ở nông thôn có một (hay một số) nghề thủ công tách hẳn khỏi nông nghiệp và
kinh doanh độc lập [23, tr.13-14]. Như vậy có hai yếu tố của làng nghề là “làng”
và “nghề”, trong đó nghề thủ công đã tách ra khỏi ngành nông nghiệp và kinh
doanh độc lập.
Quan niệm thứ tư: Một số nhà nghiên cứu cho rằng làng nghề là trung
tâm sản xuất thủ công, nơi quy tụ các nghệ nhân trong nhiều hộ gia đình chuyên
làm nghề, giữa các hộ có sự liên kết, hỗ trợ trong sản xuất, bán sản phẩm theo
kiểu phường hội có cùng tổ nghề.
Những quan niệm nêu trên đã phần nào cho thấy các đặc trưng cơ bản,
song đều chưa phản ánh đầy đủ tính chất, đặc điểm của làng nghề, chưa thể hiện
được sự khác biệt giữa làng nghề nông thôn với những trung tâm sản xuất thủ
công nghiệp ở thành thị, thị trấn.
Về mặt pháp lý, Nghị định số 52/2018/NĐ-CP ngày 12/4/2018 của Chính
phủ về phát triển ngành nghề nông thôn quy định nội dung và các tiêu chí công
nhận nghề truyền thống, làng nghề, làng nghề truyền thống, theo đó:
Nghề truyền thống là nghề được hình thành từ lâu đời, tạo ra những sản
phẩm độc đáo, có tính chất riêng biệt, được lưu truyền và phát triển đến ngày nay
hoặc đang có nguy cơ bị mai một hoặc thất truyền.

Làng nghề là một hoặc nhiều cụm dân cư cấp thôn, ấp, bản, làng, buôn,
phum, sóc hoặc các điểm dân cư tương tự trên địa bàn một xã, thị trấn, có các

9


hoạt động ngành nghề nông thôn, sản xuất ra một hoặc nhiều loại sản phẩm khác
nhau.
Làng nghề truyền thống là làng có nghề truyền thống được hình thành từ
lâu đời tại địa phương từ trên 50 năm và hiện đang được tiếp tục phát triển tính
đến thời điểm đề nghị công nhận; nghề tạo ra những sản phẩm mang bản sắc văn
hoá dân tộc; nghề gắn với tên tuổi của một hay nhiều nghệ nhân hoặc tên tuổi
của làng nghề. Làng nghề truyền thống phải có đủ 3 dấu hiệu quy định tại mục 3,
Điều 5 Nghị định số 52/2018/NĐ-Chính phủ, ngày 12/4/2018 của Chính phủ
[29, tr.2].
Từ các quan niệm trên cho thấy làng nghề được cấu thành bởi hai yếu
tố là làng và nghề. Song, không phải bất cứ quy mô nào của nghề trong làng
cũng gọi nó là làng nghề mà việc công nhận làng nghề ở đây phải xét đến cả hai
mặt là định lượng và định tính. Xét về mặt định lượng thì một (hay nhiều) nghề
trong làng phải phát triển đạt đến một quy mô nhất định và có tính ổn định, lâu
dài vì điểm xuất phát của làng nghề là làng gắn với nông nghiệp nên quy mô làm
nghề của làng đó phải phát triển đến mức độ nhất định mới được gọi là làng
nghề. Xét về mặt định tính thì đặc điểm của làng nghề phải có sự khác biệt so
với làng thuần nông hoặc so với phố nghề của thành thị. Trong nền kinh tế thị
trường hiện nay, trong làng nghề các công nghệ sản xuất của nhiều nghề không
còn hoàn toàn là thủ công mà có nhiều nghề, nhiều công đoạn sản xuất theo quy
trình hiện đại được áp dụng những kỹ thuật tiên tiến với những máy móc hiện
đại thay cho sức người với độ tinh xảo kỹ thuật cao, đồng thời trong làng nghề
xuất hiện nhiều hộ, nhiều cơ sở chuyên làm dịch vụ đầu vào, đầu ra phục vụ cho
các hộ, các cơ sở chuyên làm nghề. Do vậy, việc xác định sự phát triển của làng

nghề phải tính đến quy mô làng về số hộ, số cơ sở, số lao động tham gia vào các
nghề, trình độ kỹ thuật của làng nghề, thị trường đầu vào, đầu ra cho làng nghề,
thu nhập từ hoạt động kinh tế của làng nghề, hoạt động xã hội của làng nghề…

10


1.1.2. Phân loại làng nghề truyền thống ở Việt Nam
Làng nghề ở nước ta rất phong phú và đa dạng. Tuỳ theo mục đích nghiên
cứu và nhu cầu quản lý có các cách phân loại làng nghề khác nhau. Tuy nhiên,
tựu trung lại có những cách phân loại làng nghề phổ biến như sau:
- Phân loại theo thời gian hình thành và phát triển của làng nghề:
Làng nghề truyền thống là làng nghề có nghề truyền thống được hình thành
lâu đời, trải qua thử thách thời gian vẫn được duy trì, phát triển và được lưu truyền
từ đời này sang đời khác. Sản phẩm của làng nghề truyền thống có tính độc đáo,
riêng biệt và đòi hỏi kỹ năng, kỹ xảo cao được truyền nghề từ đời này sang đời
khác, trước hết là sự truyền nghề ở trong nội bộ dòng tộc. Theo cách phân loại này
có các làng nghề như làng gốm Bát Tràng (Hà Nội), làng nghề tranh dân gian Đông
Hồ (Bắc Ninh), làng nghề đúc lư hương ở Tân Hoà Đông (thành phố Hồ Chí Minh),
làng nghề đá mỹ nghệ Non Nước, thành phố Đà Nẵng...
- Phân loại theo cách thức tổ chức sản xuất, theo số lượng nghề:
Theo cách phân loại này có làng chuyên nghề và làng đa nghề.
+ Làng chuyên nghề là những làng nghề mà ngoài nghề nông ra có nhiều
hộ trong một làng cùng tham gia làm một nghề khác với trình độ chuyên môn
hoá cao, mang tính chất truyền nghề từ đời này sang đời khác, gọi là “nghề của
làng”, ví dụ như làng dệt Thái Phương (Hưng Hà, Thái Bình), làng Chạm bạc
Đồng Xuân (Kiến Xương, Thái Bình), làng dệt thổ cẩm Mỹ Nghiệp (Ninh
Thuận)…
Làng chuyên nghề mang tính chất truyền nghề, vì vậy việc tổ chức sản
xuất thường theo hộ gia đình hoặc theo dòng họ. Các hộ gia đình trong làng

chuyên nghề tự lo địa điểm, công cụ sản xuất, bố trí lao động...song thường có
sự liên kết nhau theo nhóm, trong một nhóm có hộ đứng ra làm vai trò trung tâm.
Sự liên kết của các nhóm dựa trên cơ sở lợi ích kinh tế, dưới các hình thức như
mua nguyên liệu, bán thành phẩm, gia công từng công đoạn hoặc toàn bộ quy
trình công nghệ để tạo ra sản phẩm cuối cùng. Hiện nay, trong làng chuyên nghề
phần lớn các hộ đứng ra làm vai trò trung tâm, trong đó nhiều hộ làm các công

11


việc khép kín toàn bộ quá trình sản xuất, tái sản xuất, còn một số hộ chỉ làm dịch
vụ một hoặc hai khâu trong các công đoạn sản xuất.
Làng chuyên nghề đòi hỏi công nghệ sản xuất tương đối phức tạp, thường
có bí quyết nghề nghiệp, mang tính chất “truyền nghề” nhiều hơn là “dạy nghề”.
Vì vậy, trong làng thường xuất hiện đội ngũ “thợ đầu đàn”, “thợ cả” hay “nghệ
nhân” có khả năng hướng dẫn kỹ thuật, truyền nghề, sáng tác mẫu mã mới hoặc
cải tiến những khâu quan trọng.
+ Làng đa nghề là những làng nghề mà ngoài nghề nông còn có một số
hoặc nhiều nghề sản xuất, kinh doanh khác. Làng đa nghề cũng được tổ chức
theo dòng họ, chòm xóm hoặc một số người có cùng một tay nghề tương đương.
Thông thường làng đa nghề có quy mô sản xuất nhỏ, sử dụng nguồn nguyên liệu
tại chỗ, sản phẩm làm ra tiêu thụ ở thị trường địa phương, thậm chí làm ngày nào
bán ngày đó. Vì vậy, hộ là đơn vị sản xuất khép kín, tự mua nguyên liệu, tự
hoạch toán, tự sản xuất và tiêu thụ sản phẩm. Mặt khác, do đặc điểm của làng đa
nghề nên người lao động không đòi hỏi trình độ chuyên môn kỹ thuật cao và sự
hợp tác giữa các thành viên trong làng không đòi hỏi chặt chẽ.
- Phân theo trình độ kỹ thuật của làng nghề:
Theo cách phân loại này có làng nghề làm nghề có kỹ thuật đơn giản và
làng nghề làm nghề có kỹ thuật phức tạp.
+ Làng nghề làm nghề có kỹ thuật đơn giản như: đan lát, chế biến lương

thực, thực phẩm, làm gạch, nung vôi... Sản phẩm của các làng nghề này có tính
chất thông dụng, loại làng nghề này phù hợp với nền kinh tế tự cung, tự cấp.
+ Làng nghề làm nghề có kỹ thuật phức tạp như kim hoàn, đúc đồng, khảm
gỗ, điêu khắc đá, thêu dệt... Những nghề này không chỉ có kỹ thuật phức tạp mà
đòi hỏi sự khéo léo. Sản phẩm làm ra vừa có giá trị kinh tế cao, vừa có giá trị nghệ
thuật lớn.
1.1.3. Đặc điểm cơ bản của làng nghề truyền thống ở Việt Nam
Làng nghề không chỉ là môi trường kinh tế mà còn là môi trường xã hội
và văn hoá. Sản phẩm của các làng nghề truyền thống vừa là những sản phẩm

12


tiêu dùng vừa là những sản phẩm văn hoá, có giá trị mỹ thuật cao. Do đó, phát
triển các làng nghề góp phần đắc lực vào việc giữ gìn các giá trị văn hoá của dân
tộc Việt Nam trong quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá.
Làng nghề truyền thống có thể có một nghề hoặc vài nghề truyền thống.
Nếu làng có vài nghề thì có một nghề chính và tên nghề đó thường được gọi
thành tên của làng. Sản phẩm của làng nghề có quy trình công nghệ nhất định,
được truyền từ thế hệ này sang các thế hệ khác.
Trong các làng nghề truyền thống của nước ta, trước đây chủ yếu là dạy
nghề theo phương thức truyền nghề mà trước tiên là trong phạm vi gia đình.
Nhìn chung, các nghề được bảo tồn trong từng gia đình hoặc từng dòng họ của
các làng, xã mà ít được phổ biến ra bên ngoài, bởi vì ở một số nơi quy định
truyền nghề rất chặt chẽ. Tuy nhiên, từ sau khi thực hiện cải cách công thương
nghiệp (1957 - 1960) phương thức dạy nghề và truyền nghề truyền thống ở nước
ta trở nên đa dạng và phong phú hơn.
Làng nghề truyền thống là một cụm dân cư sinh sống tạo thành một thôn
làng ở nông thôn hay phường hội ở đô thị; đó còn là cộng đồng nhỏ về văn hoá.
Các sản phẩm do làng nghề truyền thống làm ra là sự kết tinh và phát triển các

giá trị văn hoá, văn minh của dân tộc. Các làng nghề truyền thống có đặc điểm
chung là thường yêu cầu vốn đầu tư không lớn nhưng có khả năng thu hút nhiều
lao động, mang lại hiệu quả kinh tế - xã hội cao.
Làng nghề truyền thống gắn bó chặt chẽ, không tách rời với nông nghiệp
nông thôn về lao động, nguyên liệu, thị trường... Ở nông thôn nước ta gần như
100% người làm làng nghề đều có đất nông nghiệp. Diện tích đất này có thể do
họ tự canh tác hoặc cho thuê hoặc nhượng cho người khác canh tác. Trong điều
kiện toàn cầu hoá nền kinh tế thế giới như hiện nay, sự cạnh tranh ngày càng
mạnh mẽ, nếu phải xem xét để tìm ra được những sản phẩm có sức cạnh tranh
trên thị trường quốc tế của những nước đang phát triển như Việt Nam thì trên hết
phải kể đến sản phẩm của các làng nghề thủ công truyền thống.

13


1.1.4. Phân bố và đặc điểm đặc thù của làng nghề truyền thống đá mỹ
nghệ ở Việt Nam
1.1.4.1. Phân bố làng nghề truyền thống đá mỹ nghệ ở Việt Nam
Làng nghề truyền thống đá mỹ nghệ là một dạng của làng nghề truyền
thống nói chung. Những làng nghề kiểu này được phân bố dọc theo chiều dài đất
nước, ở các vùng núi đá. Các làng nghề truyền thống đá mỹ nghệ được hình
thành từ sự sẵn có của nguồn nguyên liệu tại địa phương.
1.1.4.2. Đặc điểm đặc thù của làng nghề truyền thống đá mỹ nghệ ở Việt
Nam
Từ những khái niệm làng nghề và làng nghề truyền thống nêu trên, có thể
khái quát khái niệm làng nghề truyền thống đá mỹ nghệ như sau:
Làng nghề truyền thống đá mỹ nghệ là một đơn vị thôn làng đã và đang
làm ra một hoặc một số loại sản phẩm bằng các loại đá quý có giá trị sử dụng
và giá trị nghệ thuật cao, sử dụng những phương pháp điêu khắc, chế tác đá
truyền thống được các nghệ nhân của làng nghề truyền dạy qua nhiều đời và

nguyên liệu đặc thù ở địa phương hoặc trong vùng, được pháp luật công nhận có
đủ các tiêu chí của một làng nghề truyền thống.
Cũng từ những đặc điểm của làng nghề truyền thống nói chung, có thể rút
ra những đặc điểm đặc thù của làng nghề truyền thống đá mỹ nghệ ở Việt Nam
như sau:
- Làng nghề truyền thống đá mỹ nghệ chỉ sản xuất và kinh doanh các sản
phẩm được tạo ra từ đá, có giá trị kinh tế và giá trị nghệ thuật cao, giá trị sử
dụng lâu dài.
- Phương pháp tạo ra sản phẩm của làng nghề truyền thống đá mỹ nghệ
chủ yếu là điêu khắc đá bằng phương pháp cổ truyền, được các nghệ nhân đúc
kết, truyền bá cho các thế hệ sau theo kiểu truyền nghề trong gia đình, dòng họ.
Vì vậy, mặc dù có những điểm chung, song các làng nghề đá mỹ nghệ vẫn có
những bí quyết riêng trong quá trình sản xuất và đặc điểm riêng về nghệ thuật
của sản phẩm.

14


- Xuất phát từ đặc thù về nguyên liệu và cách thức chế tác sản phẩm, làng
nghề truyền thống đá mỹ nghệ tiềm ẩn nhiều rủi ro về tai nạn lao động, ô nhiễm
môi trường hơn so với nhiều loại hình làng nghề truyền thống khác như: tai nạn
lao động có thể phát sinh trong quá trình chế tác đá, như bị thương, bị chết do đá
đè, do công cụ sản xuất gây ra, hay bị tổn thương về phổi, thị giác, thính giác...
do tiếp xúc với bột đá, bụi đá và tiếng động mạnh, liên tục từ việc cưa cắt, đục
đẽo đá.
- Làng nghề truyền thống đá mỹ nghệ thường nằm ở vùng nguyên liệu đá
quý. Thông thường, đây là những vùng miền núi hoặc bán sơn địa, có khoảng
cách tương đối xa các trung tâm dân cư, điều kiện đi lại tương đối khó khăn.
1.2. Khái niệm, đặc điểm, vai trò của quản lý nhà nước đối với làng
nghề truyền thống

1.2.1. Khái niệm, đặc điểm của quản lý nhà nước
1.2.1.1. Khái niệm về quản lý Nhà nước
Quản lý nhà nước là một dạng của quản lý xã hội đặc biệt, mang tính
quyền lực nhà nước và sử dụng pháp luật, chính sách để điều chỉnh hành vi cá
nhân, tổ chức trên tất cả các mặt của đời sống xã hội do các cơ quan trong bộ
máy nhà nước thực hiện, nhằm phục vụ nhân dân, duy trì ổn định và phát triển
của xã hội. Theo nghĩa rộng, 3 chức năng cơ bản của Quản lý nhà nước, đó là:
(1) chức năng lập pháp do cơ quan lập pháp thực hiện; (2) chức năng hành pháp
(chấp hành và điều hành) do hệ thống hành chính nhà nước đảm nhiệm; (3) chức
năng tư pháp do cơ quan tư pháp thực hiện. Tuy vậy, nếu hiểu theo nghĩa hẹp,
Quản lý nhà nước là hoạt động hành chính của cơ quan thực thi quyền lực nhà
nước (quyền hành pháp) để quản lý, điều hành các lĩnh vực của đời sống xã hội
theo quy định của pháp luật. Theo đó, quản lý hành chính nhà nước là hoạt động
quản lý được giới hạn trong các cơ quan hành pháp, đó là Chính phủ và Uỷ ban
nhân dân các cấp; hệ thống các cơ quan: quyền lực, xét xử và kiểm sát thực hiện
quyền lập pháp và tư pháp không thuộc hệ thống quản lý hành chính nhà nước.
Nếu tiếp cận khái niệm Quản lý nhà nước dưới góc độ này, Quản lý nhà nước

15


bao gồm có 2 chức năng cơ bản: (1) Lập quy được thực hiện bằng việc ban hành
các văn bản quy phạm pháp luật để hướng dẫn thực hiện pháp luật; (2) Tổ chức,
điều hành, phối hợp các hoạt động kinh tế – xã hội để đưa luật pháp vào đời sống
xã hội.
Nói tóm lại, QLNN là một dạng đặc biệt của quản lý, được sử dụng các
quyền lực nhà nước như lập pháp, hành pháp và tư pháp để quản lý mọi lĩnh vực
của đời sống xã hội. QLNN mang tính quyền lực và tính tổ chức cao, có mục
tiêu chiến lược, chương trình kế hoạch để thực hiện mục tiêu. QLNN đòi hỏi
phải đảm bảo tính liên tục, ổn định trong tổ chức và điều hành.

1.2.1.2. Đặc điểm của quản lý nhà nước
Từ khái niệm trên về quản lý nhà nước như nêu trên, ta rút ra các đặc
điểm của quản lý nhà nước như sau:
- Quản lý nhà nước mang tính quyền lực đặc biệt, tính tổ chức cao và tính
mệnh lệnh đơn phương của nhà nước. Quản lý nhà nước được thiết lập trên cơ sở
mối quan hệ “quyền uy” và “sự phục tùng”.
- Quản lý nhà nước mang tính tổ chức và điều chỉnh. Tổ chức ở đây được
hiểu như một khoa học về việc thiết lập những mối quan hệ giữa con người với
con người nhằm thực hiện quá trình quản lý xã hội. Tính điều chỉnh được hiểu là
nhà nước dựa vào các công cụ pháp luật để buộc đối tượng bị quản lý phải thực
hiện theo quy luật xã hội khách quan nhằm đạt được sự cân bằng trong xã hội.
- Quản lý nhà nước mang tính khoa học, tính kế hoạch. Đặc trưng này đỏi
hỏi nhà nước phải tổ chức các hoạt động quản lý của mình lên đối tượng quản lý
phải có một chương trình nhất quán, cụ thể và theo những kế hoạch được vạch ra
từ trước trên cơ sở nghiên cứu một cách khoa học.
- Quản lý nhà nước là những tác động mang tính liên tục, và ổn định lên
các quá trình xã hội và hệ thống các hành vi xã hội. Cùng với sự vận động biến
đổi của đối tượng quản lý, hoạt động quản lý nhà nước phải diễn ra thường
xuyên, liên tục, không bị gián đoạn. Các quyết định của nhà nước phải có tính ổn

16


định, không được thay đổi quá nhanh. Việc ổn định của các quyết định của nhà
nước giúp cho các chủ thể quản lý có điều kiện kiện toàn hoạt động của mình và
hệ thống hành vi xã hội được ổn định.
1.2.2. Khái niệm, đặc điểm của quản lý nhà nước đối với làng nghề
truyền thống
1.2.2.1. Khái niệm quản lý nhà nước đối với làng nghề truyền thống
Từ các khái niệm chung về QLNN và làng nghề truyền thống, có thể hiểu

QLNN đối với làng nghề truyền thống như sau: QLNN đối với làng nghề truyền
thống là hoạt động thực thi quyền lực của Nhà nước đối với làng nghề truyền
thống, thể hiện qua việc áp dụng hệ thống các công cụ quản lý bao gồm pháp
luật, chính sách, quy hoạch, quy định, kế hoạch… tác động vào đối tượng quản
lý để hướng dẫn các làng nghề truyền thống sử dụng hiệu quả các nguồn lực kinh
tế, duy trì và phát huy tốt các giá trị văn hóa truyền thống, nâng cao chất lượng
sản phẩm, đào tạo tốt nguồn nhân lực tại chỗ…từ đó phát triển làng nghề truyền
thống một cách bền vững, đúng theo định hướng mà Nhà nước và chính quyền
địa phương đã đặt ra.
1.2.2.2. Đặc điểm của quản lý nhà nước đối với làng nghề truyền thống
Từ những đặc điểm chung của QLNN và đặc thù của làng nghề truyền
thống, có thể xác định những đặc điểm chủ yếu của QLNN đối với làng nghề
truyền thống như sau:
+ Về đặc điểm:
- Các văn bản của nhà nước đề ra để quản lý làng nghề truyền thống hầu hết
là mang tính quyền lực, tính tổ chức và tính mệnh lệnh đơn phương của nhà nước
đối với làng nghề như: bảo vệ môi trường xung quanh làng nghề, công nhận nghệ
nhân, công nhận di sản phi vật thể, thành lập hiệp hội làng nghề truyền thống nào
đó….
- QLNN đối với làng nghề truyền thống nhằm mục tiêu duy trì, mở rộng,
phát triển nghề truyền thống một cách bền vững, qua đó giữ gìn và tôn vinh các
giá trị văn hóa của nghề truyền thống đó.

17


- QLNN đối với làng nghề truyền thống tạo cơ sở cho làng nghề từng
bước kiện toàn, củng cố, duy trì và phát triển về mặt mỹ thuật, văn hóa, nguồn
lực, đào tạo, lao động, môi trường…
- QLNN đối với làng nghề truyền thống có tính chủ động, tính sáng tạo và

linh hoạt. Điều này là do làng nghề vốn tồn tại nhiều mối quan hệ phức tạp trên
các lĩnh vực văn hóa, kinh tế, lao động, môi trường và cả an ninh trật tự; sự phát
triển làng nghề truyền thống kết hợp du lịch đang ngày càng phổ biến và được
khai thác mạnh nên càng làm phong phú thêm khách thể quản lý, những khách thể
đó làm mọi mặt của đời sống xã hội luôn biến động và phát triển, đòi hỏi việc
QLNN phải linh hoạt, nhanh nhạy kịp thời, vận dụng sáng tạo pháp luật trên các
lĩnh vực một cách phù hợp, giải quyết mọi tình huống phát sinh một cách hiệu
quả.
- QLNN đối với làng nghề truyền thống vừa là hoạt động mang tính kinh
tế và vừa mang tính chính trị, văn hoá. Về mặt kinh tế, các hoạt động QLNN
nhằm thúc đẩy làng nghề phát triển, trong đó có phát triển về kinh tế, nâng cao
đời sống cho các cá nhân và hộ gia đình sống bằng nghề truyền thống, khẳng
định thương hiệu sản phẩm của làng nghề, mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm
của làng nghề, đóng góp nguồn thu ngân sách cho địa phương và trung ương…
góp phần thúc đẩy phát triển nền kinh tế quốc dân. Về mặt chính trị, văn hoá,
làng nghề truyền thống được xem là những di sản phi vật thể cần được bảo tồn,
tôn vinh và phát huy trong xã hội ngày nay nhằm góp phần xây dựng nền văn
hóa tiến tiến đậm đà bản sắc dân tộc Việt Nam theo như định hướng của Đảng.
- QLNN đối với làng nghề truyền thống là hoạt động không mang tính vụ
lợi: QLNN đối với làng nghề có nhiệm vụ phục vụ lợi ích của làng nghề và lợi
ích của các cơ sở sản xuất kinh doanh của làng nghề, của các cá nhân sống bằng
nghề của làng nên hoàn toàn mang tính chất vô tư, công tâm, trong sạch với
mong muốn tạo điều kiện tốt nhất cho làng nghề phát triển.
1.2.3. Vai trò của quản lý Nhà nước đối với làng nghề truyền thống
Cũng từ những đặc điểm, vai trò chung của QLNN và đặc thù của làng

18


nghề truyền thống, có thể xác định những và vai trò chủ yếu của QLNN đối với

làng nghề truyền thống như sau:
- Thứ nhất, QLNN đối với làng nghề truyền thống là mang tính định
hướng cho các hoạt động của làng nghề truyền thống phát triển theo đúng định
hướng và mục tiêu của địa phương đã đề ra trên cơ sở tạo lập môi trường thuận
lợi cho các làng nghề tại địa phương tiếp cận với các yếu tố tài nguyên, nguồn
nhân lực.
- Thứ hai, QLNN đối với làng nghề truyền thống có vai trò điều tiết các
nguồn lực, phân bổ hợp lý nguồn tài nguyên phù hợp với đặc điểm từng ngành
nghề của địa phương. Bằng công cụ quản lý, cơ quan QLNN sẽ giám sát các hoạt
động kinh doanh của các làng nghề và có những biện pháp thích hợp để xử lý
nếu có vi phạm pháp luật xảy ra.
- Thứ ba, QLNN đối với làng nghề truyền thống có vai trò giám sát, đảm
bảo phát hiện và xử lý kịp thời các sai phạm trong hoạt động sản xuất kinh doanh
của các làng nghề nhằm đảm bảo tính công bằng, đảm bảo quyền và nghĩa vụ
của các cơ sở sản xuất kinh doanh, từ đó bảo tồn giá trị văn hóa truyền thống của
làng nghề.
1.3. Khung pháp luật hiện hành của Việt Nam về quản lý làng nghề
truyền thống
1.3.1. Khái quát hệ thống văn bản pháp luật hiện hành về quản lý nhà
nước đối với làng nghề truyền thống
Trong thời gian qua, Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản quy phạm pháp
luật trực tiếp và gián tiếp đề cập đến việc QLNN đối với làng nghề truyền thống,
trong đó những văn bản quan trọng được liệt kê dưới đây:
* Văn bản Luật:
- Luật Di sản văn hóa năm 2001;
- Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005;
- Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Di sản văn hóa năm 2009;
- Luật Khoáng sản năm 2010;

19



×