Tải bản đầy đủ (.docx) (19 trang)

tiểu luận ngạch chuyên viên tình huống thay đổi hộ tịch tại phòng công chứng số 1 hà tĩnh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (120.2 KB, 19 trang )

PHẦN I. LỜI MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài:

Nhà nước ta đang xây dựng Nhà nước pháp quyền, trong quá trình hội
nhập quốc tế, pháp luật nước ta ngày càng thể hiện rõ vai trò quan trọng là công
cụ điều chỉnh hàng đầu các quan hệ xã hội.
Có thể nói vai trò của pháp luật đối với việc nâng cao tính tự quản của
cộng đồng trong việc sử dụng các quy tắc, đạo đức, phong tục, tập quán và các
loại quy phạm xã hội khác để quản lý xã hội. Vì cùng tham gia điều chỉnh hành
vi và các quan hệ xã hội của con người nên giữa pháp luật và các quy phạm xã
hội luôn có mối quan hệ biện chứng, tác động mạnh mẽ đến nhau.
Pháp luật có vai trò to lớn trong việc giữ gìn, phát huy các phong tục, tập
quán tốt đẹp của các dân tộc nước ta. Hiến pháp, các văn bản pháp luật khác
nhau đã quy định các tiền đề cho việc áp dụng và phát huy những mặt tích cực
của tập quán, phong tục, truyền thống, trong đó có Luật tục, Hương ước, Quy
ước.
Trong những năm đổi mới đất nước vừa qua, xét trên bình diện tổng thể,
pháp luật đó có tác động tích cực đối với sự phát triển kinh tế, xã hội theo định
hướng xã hội chủ nghĩa.
Tuy vậy, trong mỗi lĩnh vực cũng có nhiều điều quy định pháp luật bất
cập, cơ chế quản lý, kiểm tra, yêu cầu của phát triển của đất nước. Trong áp
dụng pháp luật, cơ chế quản lý, kiểm tra, kiểm soát và xử lý vi phạm pháp luật
cũng còn nhiều yếu kém, sơ hở, chưa kịp thời nên chưa phát huy được hiệu lực
và hiệu quả của pháp luật.
Đơn cử như trong quản lý, đăng ký hộ tịch là việc thực hiện thủ tục thay
đổi hộ tịch. “Thay đổi hộ tịch ” là việc cơ quan Nhà nước có thẩm quyền đăng
ký thay đổi những thông tin hộ tịch của cá nhân khi có lý do chính đáng theo
quy định của pháp luật dân sự hoặt thay đổi thông tin về cha, mẹ trong nội dung
khai sinh đã đăng ký theo quy định của pháp luật. Đăng ký và quản lý hộ tịch có
ý nghĩa quan trọng để Nhà nước thực hiện quản lý dân cư và quản lý các mặt
kinh tế, xã hội, quốc phòng - an ninh đồng thời tạo cơ sở pháp lý để Nhà nước




công nhận và bảo hộ các quyền nhân thân phi tài sản và quyền nhân thân gắn
liền với tài sản của cá nhân.
Vì vậy, việc thay đổi tên trong một số trường hợp là cần thiết, nếu không
sẽ gây ảnh hưởng đến tình cảm gia đình, gây sự hiểu nhầm.
Với việc chọn vấn đề tình huống “Thay đổi hộ tịch”, với kiến thức của
bản thân còn nhiều hạn chế nên không tránh khỏi thiếu sót, kính mong được sự
giúp đỡ của các Thầy cô giáo để tôi củng cố kiến thức hơn nữa.
Các giải pháp nêu ra trong chuyên đề sẽ gợi ý để vận dụng có hiệu quả
hơn trong việc giải quyết các tình huống tương tự có thể xảy ra trong thời gian
tới, góp phần vào việc xử lý hiệu quả các vi phạm xảy ra trong công tác quản lý
nhà nước về các lĩnh vực chuyên môn nói chung và về lĩnh vực hộ tịch nói
riêng.
Với thời lượng và kiến thức có hạn, đề tài không thể tránh được những
thiếu sót, rất mong nhận được sự đóng góp, phản biện của quý thầy cô để đề tài
được hoàn chỉnh và đạt được kết quả cao nhất.
2. Mục tiêu của đề tài.

Đề tài sẽ gợi ý để vận dụng có hiệu quả hơn trong việc giải quyết các tình
huống tương tự có thể xảy ra trong thời gian tới, góp phần vào việc xử lý hiệu
quả các vi phạm xảy ra trong công tác quản lý nhà nước về các lĩnh vực chuyên
môn nói chung và về lĩnh vực tư pháp hộ tịch trên địa bàn xã nói riêng.
Đề tài cũng là nguồn bổ sung tình huống cho việc nghiên cứu pháp luật,
tuyên truyền phổ biến pháp luật rộng rãi hơn đến mỗi người dân cũng như các
cán bộ, công chức.
Nâng cao, tăng cường sự hiểu biết, nhận thức, mức độ phản biện và có
cách nhìn nhận sâu sát với các kiến thức pháp luật, các tình huống tại cơ sở đối
với người viết.
3. Phương pháp nghiên cứu


Trong đề tài này có sử dụng một số phương pháp nghiên cứu như:
phương pháp phân tích, phương pháp tổng hợp, phương pháp phỏng vấn,
phương pháp điều tra, phương pháp so sánh, phương pháp chọn lọc.


4. Phạm vi nghiên cứu

Tình huống được nghiên cứu tại Phòng công chứng số 1 - Thành phố Hà
Tĩnh.
5. Bố cục tiểu luận: 3 phần

Phần 1: Lời mở đầu
Phần 2: Nội dung
Phần 3: Kết luận và kiến nghị


PHẦN II. NỘI DUNG
2.1. Mô tả tình huống

Anh Trần Minh Long đến Bộ phận tiếp nhận và trả kết quả hồ sơ hành
chính Sở tư pháp Hà Tĩnh trình bày với cán bộ tiếp nhận lĩnh vực hộ tịch sự việc
như sau: trước đây, khi đăng ký khai sinh cho con tại UBND phường Đại Nài,
con trai của anh được đặt tên là Trần Minh Phú. 6 năm sau, bên họ ngoại tìm
thấy mộ của cụ cố chết từ ngày xưa, theo di vật để lại cũng tên tên là Trí, vì sợ
kiêng cho cháu đích tôn nên ông bà nội của cháu Trí yêu cầu cả họ gọi lái tên
cháu Phú thành Phúc đồng thời buộc anh Long phải đi sửa tên con trong Giấy
khai sinh thành Phúc. Không muốn làm trái ý cha mẹ nên anh Long đã tự điền
thêm chữ “c” vào sau chữ Phú ở trong bản sao Giấy khai sinh của con, riêng bản
chính Giấy khai sinh vẫn để nguyên tên là Phú. Khi con đến tuổi đi học, anh

Long đã nộp bản sao Giấy khai sinh của con mang tên Trần Minh Phúc cho nhà
trường, do đó tất cả hồ sơ học bạ của con anh ở trường, sau này có chứng minh
thư, bằng tốt nghiệp tiểu học và một số giấy tờ khác đều mang tên đó.
Khi cháu Phú lên đủ 14 tuổi, khi làm hồ sơ chuyển trường mới do bố mẹ
cháu chuyển nhà, nhà trường yêu cầu nộp bản chính Giấy khai sinh để đối chiếu
thì phát hiện tên của cháu trong bản chính Giấy khai sinh và học bạ khác nhau
nên yêu cầu anh Long phải thay đổi tên trong bản chính Giấy khai sinh của cháu
Phú cho phù hợp với hồ sơ và học bạ của cháu.
Sau khi nghe anh Long trình bày, cán bộ tiếp nhận lĩnh vực hộ tịch yêu
cầu anh Long quay về nhà trường đề nghị sửa tên trong học bạ, cơ quan có thẩm
quyền khác đã cấp giấy tờ, đính chính tên theo đúng bản chính Giấy khai sinh
cho thống nhất. Nhưng anh Long thiết tha đề nghị cán bộ tiếp nhận giúp anh làm
theo yêu cầu của nhà trường bằng cách ghi thêm chữ “c” vào trong bản chính
Giấy khai sinh của cháu Phú. Anh cũng trình bày thêm rằng vì cha mẹ anh
không chấp nhận để cháu đích tôn mang tên là Phú nên mong cán bộ giải quyết
để gia đình không mâu thuẫn.
Cán bộ tiếp nhận hộ tịch sẽ hướng dẫn công dân như thế nào, đến cơ quan nào
có thẩm quyền giải quyết?


2.2. Xác định mục tiêu xử lý tình huống

Thứ nhất, giải quyết vấn đề do tình huống đặt ra, đó là:
Anh Long muốn đổi tên con thành Trần Minh Phúc cho phù hợp với học
bạ và một số giấy tờ khác do việc đã tự chỉnh sửa tên trong bản sao Giấy khai
sinh của con; tránh gây mâu thuẫn trong gia đình do ông bà nội cháu không
muốn cháu đích tôn mang tên Phú.
Thứ hai, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa thông qua việc nâng cao
trình độ, năng lực của đảng viên, cán bộ công chức và người dân; kiến nghị để
sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện pháp luật.

Thứ ba, bảo vệ lợi ích chính đáng của công dân, Nhà nước cụ thể là
quyền và lợi ích hợp pháp của cháu Trần Minh Phú về thống nhất tên trong các
loại giấy tờ với Giấy khai sinh tạo điều kiện thuận lợi trong học tập và công việc
sau này.
Thứ tư, giải quyết hài hòa giữa tính pháp lý, lợi ích kinh tế và lợi ích xã
hội để cái lý, cái tình được dung hòa.
2.3. Phân tích nguyên nhân và hậu quả:
2.3.1. Nguyên nhân

Đối với công dân:
- Do trình độ dân trí và ý thức pháp luật của công dân còn hạn chế.
- Nhận thức của người dân đối với quyền và nghĩa vụ đăng ký hộ tịch

còn hạn chế.
Đối với cơ quan quản lý nhà nước:
Th ứ nhất: Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về hộ tịch còn phức
tạp:
Mặc dù công tác hộ tịch có vị trí, vai trò quan trọng đối với quản lý nhà
nước và bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân như đã nêu ở trên,
nhưng cho đến nay, ngoại trừ các quy định mang tính nguyên tắc trong Bộ Luật
Dân sự, Luật Hôn nhân và gia đình..., văn bản điều chỉnh trực tiếp trong lĩnh vực
hộ tịch chỉ là Nghị định và Thông tư, chưa có đạo luật riêng về hộ tịch.
Mặc khác, có tới 06 Nghị định, 01 Thông tư liên tịch và 05 Thông tư cùng


điều chỉnh trong lĩnh vực hộ tịch nên tạo độ phức tạp, gây khó khăn cho cơ quan
hộ tịch khi áp dụng (khó nhớ, khó áp dụng), người dân cũng khó phân biệt việc
hộ tịch của mình sẽ được áp dụng theo văn bản nào.
Thứ hai: Việc phân cấp thẩm quyền đăng ký hộ tịch ch ưa triệt để
Mặc dù Nghị định số 158/2005/NĐ-CP đã có sự phân cấp đăng ký hộ

tịch, nhưng chưa triệt để. Hiện nay, cả 03 cấp (tỉnh, huyện, xã) đều có thẩm
quyền đăng ký hộ tịch, thậm chí có việc Bộ Tư pháp phải cho ý kiến trước khi
địa phương giải quyết. Chính vì vậy, đã dẫn đến chồng chéo chức năng quản lý
và đăng ký; cũng do việc phân cấp chưa triệt để nên từng cấp chủ yếu lo việc
đăng ký, ít quan tâm đến nhiệm vụ quản lý, đặc biệt là công tác kiểm tra, chỉ đạo
đối với cấp dưới, từ đó không kịp thời uốn nắn những sai sót (nếu có), đồng thời
dẫn đến đùn đẩy nhiệm vụ hướng dẫn, chỉ đạo chuyên môn lên cấp trên.
Th ứ ba: Sự quan tâm và đầu tư cho công tác hộ tịch chưa đồng đều
Một số địa phương vẫn còn coi nhẹ công tác tổ chức bồi dưỡng nghiệp vụ
chuyên môn, có địa phương chỉ tổ chức triển khai khi có những văn bản mới mà
không định kỳ tổ chức bồi dưỡng về nghiệp vụ hộ tịch; chính vì không được kịp
thời bồi dưỡng nghiệp vụ nên số công chức mới thay không đáp ứng được yêu
cầu công việc.
Th ứ tư: Hạn chế trong cải cách thủ tục hành chính
Mặc dù, việc cải cách thủ tục hành chính trong lĩnh vực hộ tịch bước đầu
đã phát huy hiệu quả; tuy nhiên, việc thực hiện cơ chế một cửa, một cửa liên
thông (theo Quyết định số 181/2003/QĐ-TTg ngày 4 tháng 9 năm 2003 của Thủ
tướng Chính phủ về việc ban hành Quy chế thực hiện cơ chế “một cửa” tại các
cơ quan hành chính Nhà nước ở địa phương) trong đăng ký hộ tịch đôi khi lại có
tác động ngược lại, đặc biệt là tiến độ xử lý hồ sơ. Để giải quyết yêu cầu đăng
ký hộ tịch, đòi hỏi cán bộ thụ lý hồ sơ phải chuyên sâu về chuyên môn để kiểm
tra, hướng dẫn hồ sơ, nhưng thực tế trình độ, năng lực của đội ngũ cán bộ tham
gia vào quy trình "một cửa", cụ thể là cán bộ tiếp nhận hồ sơ còn nhiều hạn chế
về trình độ chuyên môn (người được bố trí vào vị trí này thường là cán bộ văn
phòng), nên trong trường hợp hồ sơ của đương sự còn thiếu hoặc chưa đạt yêu


cầu nhưng cán bộ tiếp nhận không phát hiện được để hướng dẫn hoặc hướng dẫn
không đầy đủ nên người dân phải đi lại nhiều lần, kéo dài thời gian giải quyết.
Mặt khác, theo quy định của pháp luật hộ tịch hiện hành, thì có một số việc đăng

ký hộ tịch phải giải quyết ngay (như đăng ký khai sinh, đăng ký khai tử, cấp lại
bản chính Giấy khai sinh, cấp bản sao giấy tờ hộ tịch từ sổ hộ tịch...) nếu cứ áp
dụng theo quy trình nộp hồ sơ cho bộ phận một cửa, bộ phận một cửa chuyển
cho phòng hoặc cán bộ chuyên môn kiểm tra hồ sơ. thì không thể bảo đảm trả
kết quả cho công dân ngay trong ngày.
Thứ năm: Phương thức đăng ký hộ tịch còn mang tính chất thủ công,
mức độ áp dụng công nghệ thông tin còn hạn chế
Mặc dù việc đăng ký hộ tịch bằng điện tử đã được triển khai ở một số địa
phương, nhưng mức độ còn rất hạn chế. Phương thức đăng ký hộ tịch hiện nay
chủ yếu vẫn thực hiện theo phương pháp thủ công (ghi bằng tay, lưu bằng sổ
giấy). Do chưa có Cơ sở dữ liệu hộ tịch điện tử, nên việc lưu sổ giấy dễ dẫn đến
bị hỏng, bị mất, từ đó không đáp ứng được yêu cầu thống kê số liệu cũng như
yêu cầu cấp giấy tờ hộ tịch cho người dân. Hơn nữa, phương thức đăng ký hộ
tịch này không phù hợp với định hướng xây dựng nền hành chính chuyên
nghiệp, hiện đại.
Thứ sáu: Đội ngũ công chức Tư pháp - Hộ tịch phải kiêm nhiệm nhiều
công việc khác nhau và không ổn định
Hiện nay, ở Phòng công chứng tham mưu giúp Ủy ban nhân dân cấp
thành phố 20 đầu việc, trong đó có việc đăng ký và quản lý hộ tịch. Trong khi
đó, trên thực tế, số lượng cán bộ của phòng lại không đủ số đầu công việc;
không có thời gian đầu tư cho việc nghiên cứu, nâng cao trình độ chuyên môn
cũng như cập nhật kịp thời những văn bản mới; phải kiêm nhiệm nhiều công
việc một lúc, không có thời gian tìm hiểu chuyên sâu lĩnh vực mà mình phụ
trách.
Thứ bảy: Việc phân cấp thẩm quyền đăng ký hộ tịch chưa triệt để (vẫn
còn nhiều cấp có thẩm quyền đăng ký hộ tịch); việc quy định về ghi sổ và cấp
giấy tờ hộ tịch chưa khoa học (không có sổ hộ tịch chung và cũng không có một


loại giấy tờ hộ tịch chung cấp cho cá nhân trong đó tích hợp mọi thông tin về hộ

tịch của cá nhân).
2.3.2 Hậu quả:
- Hậu quả trực tiếp:

Ở tình huống trên: cháu Nguyễn Văn Phú khi đi học các thông tin bằng
cấp, học bạ, một số giấy tờ khác sẽ theo thông tin như bản chính Giấy khai sinh;
nhưng vì người cha tự ý sửa trong bản sao Giấy khai sinh vì thế mà nội dung
thông tin của giấy tờ và bản chính Giấy khai sinh không thống nhất.
- Hậu quả gián tiếp:

Các thông tin khác công dân phải dựa trên bản chính Giấy khai sinh.
Giấy khai sinh còn có ý nghĩa, giá trị trong suốt cuộc đời của mỗi người,
đặc biệt là trong việc chứng minh độ tuổi, quan hệ cha mẹ và con cái hay chứng
minh quyền thừa kế tài sản ... Khi anh Long tự ý sửa trong bản sao Giấy khai
sinh của con là vi phạm quy định của pháp luật.
2.4. Xây dựng, phân tích và lựa chọn phương án giải quyết tình

huống
Cơ sở để xây dựng phương án:
- Bộ luật Dân sự 2005;
- Nghị định số 158/2005/NĐ-CP ngày 27/12/2005 về đăng ký và quản lý

hộ tịch (gọi tắt là NĐ 158);
- Nghị định số 06/2012/NĐ-CP ngày 02/02/2012 của Chính phủ, có liệu

lực thi hành từ ngày 01/4/2012 sửa đổi bổ sung một số điều của các Nghị định
về hộ tịch, hôn nhân gia đình và chứng thực;
- Thông tư số 01/2008/TT-BTP ngày 2/6/2008 của Bộ Tư pháp hướng

dẫn thực hiện một số quy định của Nghị định số 158/2005/NĐ-CP ngày

27/12/2005 về đăng ký và quản lý hộ tịch
* Lựa chọn giải pháp hợp lý:

Qua phân tích tình huống trên và đối chiếu với những quy định của Pháp
luật, thủ tục đăng ký thay đổi hộ tịch của cháu Trần Minh Phúc có thể giải quyết
theo các phương án sau:


Phương án 1:
Việc đăng ký khai sinh cho con của anh Trần Minh Long đã được thực
hiện đúng pháp luật tại UBND phường Đại Nài; họ tên hợp pháp của cháu được
xác định là Trần Minh Phú theo nguyên tắc quy định tại Điều 26 Bộ luật Dân sự:
“Họ, tên của một người được xác định theo họ, tên khai sinh của người đó”.
Để có sự thống nhất giữa Giấy khai sinh và các giấy tờ khác thì nhà
trường đã cấp học bạ, bằng tốt nghiệp cấp 1, cơ quan cấp chứng minh nhân dân
và một giấy tờ khác phải căn cứ vào bản chính Giấy khai sinh của cháu Phú để
thực hiện việc đính chính tên trong các giấy tờ đó từ Phúc thành Phú theo
nguyên tắc quy định tại Điều 5 Nghị định số 158/2005/NĐ-CP: “Giấy khai sinh
là giấy tờ hộ tịch gốc của mỗi cá nhân. Mọi hồ sơ, giấy tờ của cá nhân có nội
dung ghi về họ, tên, chữ đệm, ngày, tháng, năm sinh; giới tính; dân tộc; quốc
tịch; quê quán; quan hệ cha, mẹ, con phải phù hợp với Giấy khai sinh của người
đó”.
Do đó để thống nhất thông tin thì vẫn giữ nguyên tên Phú; các giấy tờ
khác sẽ thay đổi theo đúng tên đã được ghi trong bản chính Giấy khai sinh.
* Ưu điểm:
- Giải quyết thống nhất nội dung ghi đúng như trong bản chính Giấy khai

sinh của cháu Phú.
- Đúng như tên khai sinh ban đầu của cháu đã được đăng ký tại UBND


xã Ngũ Hiệp do bố cháu đi đăng ký khai sinh.
* Nhược điểm
- Việc đính chính tên trong các giấy tờ khác theo tên khai sinh của cháu

Phú sẽ phức tạp, nhiều thủ tục; do phải đi từng cơ quan đã cấp giấy tờ đó để
đính chính tên từ Phúc thành Phú.
- Gây phiền hà, mất nhiều thời gian của công dân.
- Nếu công dân đi tuyên truyền cách làm trên sẽ ảnh hưởng không nhỏ

đến việc thực hiện đăng ký và quản lý hộ tịch của Nhà nước.
Phương án 2:
Theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 27 Bộ luật Dân sự về “Quyền


thay đổi họ, tên:
1. Cá nhân có quyền yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền công nhận
việc thay đổi họ, tên trong các trường hợp sau đây:
a) Theo yêu cầu của người có họ, tên mà việc sử dụng họ, tên đó gây
nhầm lẫn, ảnh hưởng đến tình cảm gia đình, đến danh dự, quyền, lợi ích hợp
pháp của người đó; ...”
Do ông bà nội và bố cháu đều có nguyện vọng thay đổi tên cho cháu để
không bị trùng tên với người đã mất, tránh gây mâu thuẫn, ảnh hưởng đến tình
cảm gia đình vì vậy áp dụng thủ tục thay đổi hộ tịch đổi tên con anh Long từ
Trần Minh Phú thành một tên khác không phải Phúc (Ví dụ: Trần Minh Thắng
hay Trần Minh Anh ....)
* Ưu điểm:
- Không trùng tên với người trong dòng họ (kể cả trùng các chữ cái đầu),

giải quyết được lý do gây mâu thuẫn, ảnh hưởng đến tình cảm gia đình.
- Cháu Phú sẽ có một cái tên khác do ông bà nội, bố, mẹ cháu lựa chọn


lại để thay đổi tên.
* Nhược điểm
- Phải tiến hành nhiều thủ tục hành chính liên tiếp: thủ tục thay đổi tên,

đính chính tên thành tên mới của cháu Phú tại các cơ quan có thẩm quyền đã cấp
các giấy tờ đó; gây mất thời gian của công dân.
- Thời gian hoàn thành phương án phụ thuộc thực hiện các thủ tục hành

chính nêu trên: 03 ngày để làm thủ tục thay đổi tên khi cán bộ tiếp nhận và trả
kết quả hồ sơ hành chính tiếp nhận hồ sơ đầy đủ của anh Long; thời gian anh
Long đính chính tên của cháu Phú tại các cơ quan đã cấp giấy tờ của cháu.
- Nếu công dân đi tuyên truyền cách làm trên sẽ ảnh hưởng không nhỏ

đến việc thực hiện đăng ký và quản lý hộ tịch của Nhà nước.
Phương án 3:
Theo nguyện vọng của anh Long trình bày với cán bộ tiếp nhận hộ tịch là
muốn được đổi tên con mình từ Trần Minh Phú thành Trần Minh Phúc. Lý do
anh Long tự sửa tên con trai từ Phú thành Phúc là do cha mẹ anh (tức ông bà nội


của cháu Phú) không muốn cháu đích tôn của mình mang tên đó. Việc cháu Phú
không được đổi tên có thể dẫn đến mâu thuẫn, ảnh hưởng đến tình cảm gia đình
Theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 27 Bộ luật Dân sự về “Quyền
thay đổi họ, tên:
1. Cá nhân có quyền yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền công nhận
việc thay đổi họ, tên trong các trường hợp sau đây:
a) Theo yêu cầu của người có họ, tên mà việc sử dụng họ, tên đó gây
nhầm lẫn, ảnh hưởng đến tình cảm gia đình, đến danh dự, quyền, lợi ích hợp
pháp của người đó; ...”

Từ khi cháu đi học đã sử dụng tên Phúc, các giấy tờ đều mang tên Phúc;
vì thế thay đổi tên từ Phú thành Phúc sẽ tạo điều kiện thuận lợi hơn cho cháu.
Theo quy định tại điểm a, khoản 1 Điều 27 Bộ luật Dân sự thì chủ thể có
quyền yêu cầu thay đổi tên là người có họ, tên đó (trong trường hợp này là cháu
Phú). Vì cháu mới 14 tuổi nên cha mẹ với tư cách người đại diện theo pháp luật
có thể đứng ra thực hiện việc yêu cầu đổi tên vì lợi ích của cháu Phú theo hướng
dẫn tại đoạn 3 khoản 1 Điều 38 Nghị định số 158/2005/NĐ-CP: “Việc thay đổi,
cải chính hộ tịch ... cho người chưa thành niên hoặc người mất năng lực hành vi
dân sự được thực hiện theo yêu cầu của cha, mẹ hoặc người giám hộ”. Tuy nhiên
vì cháu Phú đủ 14 tuổi nên việc đổi tên phải có sự đồng ý của cháu, thể hiện
trong Tờ khai và được thực hiện ở Phòng công chứng số 1 - UBND cấp thành
phố có thẩm quyền thay đổi hộ tịch cho người từ đủ 14 tu ổi trở lên.
*Ưu điểm:
- Tạo sự đồng thuận ông bà nội, bố mẹ trong việc bảo vệ quyền, lợi ích

hợp pháp cho cháu Phú. Giải quyết dứt điểm những sai sót do anh Long tự ý sửa
tên cháu Phú trong bản sao Giấy khai sinh; nâng cao hiểu biết của người dân về
những quy định liên quan đến thay đổi hộ tịch.
- Tiết kiệm được thời gian, cắt giảm được nhiều khâu thủ tục khác nhau.
- Công dân được thực hiện quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Không

phải đính chính các giấy tờ khác, chỉ cần 01 thủ tục là thay đổi hộ tịch.
- Góp phần tuyên truyền cho những người xung quanh để thực hiện quy


định về đăng ký hộ tịch.
- Giúp tạo ra nguồn dữ liệu cho việc thống kê dân cư của Nhà nước để

thực hiện việc theo dõi thực trạng và sự biến động về hộ tịch, nhằm bảo vệ
quyền, lợi ích hợp pháp cho công dân.

* Nhược điểm:
KỂ T LUẬN:
Trong 03 phương án trên, tôi xin chọn phương án thứ 3 để giải quyết cho
tình huống này Vì:
- Phương án này khắc phục được việc tự ý sửa tên con trong bản sao

Giấy khai sinh của anh Long, chỉ cần làm 01 thủ tục là thay đổi tên trong bản
chính Giấy khai sinh của cháu Phú .
- Phương án đã đảm bảo được quyền và nghĩa vụ cho công dân.
- Không làm ảnh hưởng đến quyền lợi của người được thay đổi, không

gây mất thời gian đính chính các giấy tờ khác đã được cấp khi đi học.
- Giúp cho chính quyền thấy được tầm quan trọng của công tác Tư pháp -

hộ tịch, từ đó thực hiện nhanh chóng trong việc quản lý và theo dõi chặt chẽ mọi
người thuộc thẩm quyền quản lý của mình.
- Tạo ra nguồn dữ liệu cho việc thống kê dân cư của Nhà nước để thực

hiện việc theo dõi thực trạng và sự biến động về hộ tịch, nhằm bảo vệ quyền, lợi
ích hợp pháp cho công dân.
- Cuối cùng, phương án trên có tính khả thi cao nhất, không phải thực

hiện nhiều thủ tục vì thế việc giải quyết sẽ không mất nhiều thời gian, đảm bảo
được quyền lợi của cháu Phú.
2.5. Lập kế hoạch và tổ chức thực hiện phương án đã lựa chọn
1. Mục đích của phương án:
- Không nằm ngoài việc thực hiện đầy đủ các quyền lợi của công dân,

mang lại sự thuận tiện cho công dân.
- Tạo lập niềm tin của nhân dân vào cơ quan Nhà nước.

2. Thời gian thực hiện:
-

Sau 03 ngày làm việc kể từ ngày Bộ phận tiếp nhận và trả hồ sơ hành chính


Thành phố Hà Tĩnh nhận đủ hồ sơ hợp lệ.
-

Trường hợp cần xác minh thì thời hạn trên được kéo dài không quá 05 ngày.
3. Người thực hiện
- Cán bộ một cửa là cơ quan chuyên môn nhận hồ sơ.
- Cán bộ Hộ tịch của Phòng tư pháp cấp thành phố là cơ quan thẩm định

hồ sơ và thực hiện hoàn thiện hồ sơ.
- Chủ tịch UBND thành phố kiểm tra và ký vào Quyết định thay đổi hộ

tịch.
4. Tổ chức thực hiện:

Căn cứ điều 36, Điều 37, Điều 38 của Nghị định 158/2005/NĐ-CP ngày
27/12/2005 về đăng ký và quản lý hộ tịch về thủ tục thay đổi hộ tịch
1. Người yêu cầu thay đổi hộ tịch phải nộp Tờ khai (theo mẫu quy định),

xuất trình bản chính Giấy khai sinh của người cần thay đổi và các giấy tờ liên
quan để làm căn cứ cho việc thay đổi hộ tịch.
Việc thay đổi hộ tịch cho cháu Phúc, cháu 14 tuổi là người chưa thành
niên sẽ được thực hiện theo yêu cầu của cha, mẹ hoặc người giám hộ.
Đối với việc thay đổi họ, tên cho người từ đủ 9 tuổi trở lên thì phải có sự
đồng ý của người đó ở đây là cháu Phú, được thể hiện trong Tờ khai.

2. Trong thời hạn 3 ngày, kể từ ngày nhận đủ giấy tờ hợp lệ, nếu việc

thay đổi hộ tịch có đủ điều kiện theo quy định của pháp luật, thì cán bộ Tư pháp
của Phòng Tư pháp ghi vào Sổ đăng ký thay đổi hộ tịch và Quyết định cho phép
thay đổi hộ tịch. Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố ký và cấp cho đương sự
một bản chính Quyết định cho phép thay đổi hộ tịch. Bản sao Quyết định được
cấp theo yêu cầu của đương sự. Trường hợp cần phải xác minh, thì thời hạn nói
trên được kéo dài thêm không quá 5 ngày.
PHẦN III. ĐỀ XUẤT, KIÉ N NGHỊ
Nhằm phát huy những kết quả đã đạt được, đồng thời khắc phục những
vấn đề còn tồn tại trong công tác hộ tịch; trong thời gian tới cần tập trung vào
những giải pháp sau đây:
1. Về các văn bản quy phạm pháp luật hộ tịch:

Các văn bản quy phạm luật hộ tịch còn phân tán trong nhiều văn bản khác
nhau và văn bản điều chỉnh trực tiếp trong lĩnh vực hộ tịch chỉ là Nghị định và


Thông tư. Chính vì vậy, việc xây dựng một đạo Luật về hộ tịch làm cơ sở pháp
lý đồng bộ, thống nhất về đăng ký và quản lý hộ tịch trong toàn quốc là yêu cầu
cấp thiết đặt ra trong giai đoạn hiện nay.
2. Tiếp tục phân cấp thẩm quyền đăng ký hộ tịch:
2.1. Lập Sổ bộ hộ tịch và cấp Sổ hộ tịch cá nhân:

Để khắc phục tình trạng dữ liệu hộ tịch của cá nhân bị phân tán, không
kết nối được với nhau thì cần cải tiến sổ hộ tịch và phương thức đăng ký, quản
lý hộ tịch. Theo đó, cần lập Sổ bộ hộ tịch (do cơ quan nhà nước quản lý) và cấp
Sổ hộ tịch cá nhân (do cá nhân công dân giữ để sử dụng khi cần chứng minh tình
trạng hộ tịch của mình). Sổ bộ hộ tịch được lập và Sổ hộ tịch cá nhân được cấp
khi công dân đăng ký khai sinh và các sự kiện hộ tịch phát sinh sau khi đăng ký

khai sinh như: kết hôn, ly hôn, nuôi con nuôi, giám hộ, thay đổi, cải chính hộ
tịch... cũng sẽ phải được ghi vào Sổ bộ hộ tịch và Sổ hộ tịch cá nhân.
2.2. Cấp số định danh công dân

Hiện nay, khi các cơ quan nhà nước, các tổ chức cấp các loại giấy tờ liên
quan đến nhân thân của mỗi cá nhân để sử dụng thường dùng nhiều số khác
nhau (Số chứng minh nhân dân, Số Hộ chiếu, Mã số thuế...) nên không có sự
thống nhất, kết nối với nhau dẫn đến khó khăn cho công tác quản lý xã hội. Dự
thảo Luật cần quy định việc cấp số định danh công dân cho công dân Việt Nam
và số này sẽ được ghi vào Sổ bộ hộ tịch, Sổ hộ tịch cá nhân; theo đó, các số
Chứng minh nhân dân, mã số thuế... của cá nhân cũng sẽ lấy theo số này; từ đó,
mỗi cá nhân chỉ cần có một số duy nhất trong đời để thực hiện các giao dịch liên
quan.
2.3. Xây dựng cơ sở dữ liệu hộ tịch điện tử:

Cần xác định, xây dựng cơ sở dữ liệu hộ tịch điện tử là một yêu cầu bức
thiết hiện nay. Cơ sở dữ liệu hộ tịch điện tử sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho công
tác quản lý hộ tịch, đặc biệt là trong thống kê, báo cáo số liệu đăng ký hộ tịch để
phục vụ chính xác, kịp thời cho việc xây dựng, hoạch định chính sách kinh tế, xã
hội, quốc phòng, an ninh và trong tra cứu thông tin biến động hộ tịch theo yêu
cầu của người dân.
2.4. Tăng cường công tác tuyên truyền:

Cần coi công tác tuyên truyền là nhiệm vụ không thể thiếu của chính


quyền các cấp; nâng cao nhận thức về pháp luật cho người dân, đặc biệt là bà
con thuộc khu vực miền núi, vùng sâu vùng xa là đòi hỏi cấp bách, cần được
thực hiện thường xuyên. Để thu hút sự tham gia của bà con, cần có những tài
liệu chuẩn phục vụ công tác tuyên truyền, trong đó lưu ý trình độ của bà con

theo từng vùng (tránh việc đọc văn bản), bên cạnh đó cũng cần đầu tư những
khoản kinh phí cần thiết phục vụ cho công tác tuyên truyền, để bảo đảm hiệu
quả của công tác tuyên truyền.
2.5. Tăng cường bảo đảm các điều kiện về phương tiện, cơ sở vật chất

cho các cơ quan tư pháp
Các cấp chính quyền địa phương cần xác định rõ ý nghĩa và tầm quan
trọng của công tác hộ tịch trong việc góp phần xây dựng các chính sách về kinh
tế, xã hội, an ninh quốc phòng và dân số, kế hoạch hóa gia đình để quan tâm,
đầu tư hơn cho công tác này. Cần dành kinh phí nhất định cho việc mở các lớp
tập huấn, các đợt tuyên truyền để người dân hiểu được quyền và nghĩa vụ đăng
ký hộ tịch của mình. Tại các xã, phường, thị trấn cần trang bị đầy đủ phương
tiện làm việc (máy tính), tủ lưu hồ sơ, sổ hộ tịch, bố trí địa điểm tiếp dân...
2.6. Tiếp tục thực hiện cải cách hành chính, tạo điều kiện thuận lợi

tối đa cho người dân khi có yêu cầu đăng ký hộ tịch
Thực hiện yêu cầu cải cách hành chính theo hướng đơn giản hóa quy
trình, rút ngắn thời gian giải quyết, giảm bớt chi phí và phiền hà cho công dân
khi có yêu cầu đăng ký hộ tịch đã được thể hiện tại Nghị định số 158/2005/NĐCP; tuy nhiên, để người dân thực sự được hưởng lợi từ yêu cầu cải cách thủ tục
hành chính, đòi hỏi trước hết là các công chức trực tiếp giải quyết yêu cầu đăng
ký hộ tịch của công dân phải là những người có đạo đức, có tâm với nghề; thực
hiện đúng chức trách của cán bộ công chức nói chung và cán bộ làm công tác hộ
tịch nói riêng đã được quy định cụ thể trong pháp luật.

KỂ T LUẬN
Ngày 29 tháng 12 năm 2005 Chính phủ đã ban hành Nghị định số
158/2005/NĐ-CP về đăng ký và quản lý hộ tịch, thay thế Nghị định số


83/1998/NĐ-CP. Giữ nguyên quy định về đăng ký sổ kép tại Nghị định số

83/1998/NĐ-CP, Nghị định số 158/2005/NĐ-CP quy định việc lưu sổ ở hai cấp
là Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn và Ủy ban nhân dân huyện, quận, thị xã,
thành phố thuộc tỉnh. Nghị định số 158/2005/NĐ-CP cũng đã quy định rõ: Cán
bộ Tư pháp hộ tịch là công chức cấp xã, giúp UBND cấp xã thực hiện các nhiệm
vụ, quyền hạn trong đăng ký và quản lý hộ tịch; đối với những xã, phường, thị
trấn có đông dân cư, số lượng công việc hộ tịch nhiều, thì phải có cán bộ chuyên
trách làm công tác hộ tịch, không kiêm nhiệm các công tác tư pháp khác.
Ở thời điểm hiện tại, ngoài những quy định có tính nguyên tắc liên quan
đến hộ tịch và đăng ký hộ tịch tại Bộ luật Dân sự năm 2005 (quy định về quyền
nhân thân), Luật Bảo vệ Chăm sóc và Giáo dục trẻ em năm 2004 (quy định về
quyền được đăng ký khai sinh và có quốc tịch), Luật Hôn nhân và gia đình năm
2000 (quy định về kết hôn; nhận cha, mẹ, con), Luật Nuôi con nuôi năm 2010
(quy định về nuôi con nuôi trong nước và nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài),
còn có tới 06 Nghị định, 01 Thông tư liên tịch và 05 Thông tư điều chỉnh trực
tiếp trong lĩnh vực hộ tịch .
Cho đến nay, mặc dù Nhà nước ta chưa có một đạo luật riêng về hộ tịch
nhưng hệ thống pháp luật điều chỉnh trong lĩnh vực hộ tịch (kể cả văn bản pháp
luật điều chỉnh lĩnh vực hộ tịch trong nước và hộ tịch có yếu tố nước ngoài) đã
ngày càng được tăng cường và đã phát huy hiệu quả, góp phần tích cực cho công
tác đăng ký và quản lý hộ tịch, cụ thể là:
- Tạo hành lang pháp lý bảo đảm cho sự quản lý của Nhà nước về công

tác hộ tịch;
- Bảo đảm sự thống nhất trong toàn quốc và các Cơ quan đại diện trong

việc thực hiện các văn bản pháp luật về hộ tịch;
- Bảo đảm công khai, minh bạch về thẩm quyền, trình tự, thủ tục, thời

gian giải quyết các yêu cầu đăng ký hộ tịch;
- Tạo điều kiện thuận lợi cho công dân khi có yêu cầu đăng ký hộ tịch;

- Định hướng lành mạnh hóa quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố

nước ngoài, phù hợp với thuần phong mỹ tục tốt đẹp của dân tộc Việt Nam; góp


phần vào hội nhập quốc tế.
Do các cấp ủy, chính quyền địa phương đã nhận thức được tầm quan
trọng của công tác hộ tịch, nên đã quan tâm, đầu tư hơn cho công tác tuyên
truyền, qua đó, người dân đã nhận thức được việc đăng ký hộ tịch vừa là quyền,
vừa là nghĩa vụ của mình nên đã tự giác đi đăng ký, qua đó tỷ lệ đăng ký hộ tịch
đã được tăng lên. Quy định về đăng ký hộ tịch lưu động ở khu vực miền núi,
vùng sâu, vùng xa cũng đã được triển khai ở một số địa phương, qua mỗi đợt
đăng ký lưu động, đa số các sự kiện hộ tịch phát sinh trên địa bàn tại thời điểm
đó đã được đăng ký.
Đánh giá lại tình huống:
Để hoàn thiện thủ tục thay đổi hộ tịch (đổi tên cho con anh Long). Ngày
03/11/2016 sau khi đã hỏi và được nghe hướng dẫn của cán bộ tiếp nhận và trả
hồ sơ hành chính Sở tư pháp Hà Tĩnh, anh Long đã đến Bộ phận tiếp nhận và trả
kết quả hồ sơ hành chính UBND thành phố làm thủ tục thay đổi hộ tịch và xuất
trình các giấy tờ sau:
1. Tờ khai đăng ký việc thay đổi, cải chính, bổ sung hộ tịch, xác định lại

dân tộc, xác định lại giới tính trong Giấy khai sinh (theo mẫu).
2. Bản chính Giấy khai sinh của người cần thay đổi (để thực hiện ghi chú

nội dung thay đổi).
3. Bản photo CMND/Hộ chiếu và Sổ hộ khẩu của người yêu cầu.
4. Các giấy tờ liên quan để làm căn cứ cho việc thay đổi hộ tịch (ví dụ:

gia phả dòng họ, quyết định nhận cha, mẹ con, Quyết định việc nuôi con nuôi,

Quyết định xác định giới tính....).
(nộp bản photo hoặc bản sao chứng thực).
Giấy tờ phải xuất trình:
1. Chứng minh nhân dân hoặc hộ chiếu của người có yêu cầu (người được

ủy quyền - nếu có).
2. Sổ hộ khẩu, sổ đăng ký tạm trú (đối với công dân Việt Nam ở trong

nước) để xác định thẩm quyền đăng ký.
3. Giấy tờ làm căn cứ cho việc thay đổi.


Sau khi xem xét hồ sơ, cán bộ tiếp nhận hồ sơ chuyển giao cho Trưởng bộ
phận phụ trách một cửa thành phố, ký phiếu chuyển giao hồ sơ lên Phòng Tư
pháp. Phòng Tư pháp kiểm tra và thụ lý hồ sơ, tham mưu UBND thành phố ký
Quyết định thay đổi hộ tịch cho cháu Trần Minh Phú thành Trần Minh Phúc. Và
sau 03 ngày làm việc anh Long đã được nhận Quyết định thay đổi tên của con
trai mình.


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Luật dân sự 2005;
2. Tài liệu chương trình quản lý nhà nước nghạch chuyên viên;
3. Nghị định 158/2005/NĐ-CP ngày 27 tháng 12 năm 2005 của Chính Phủ

về đăng ký và quản lý hộ tịch;
4. Nghị định số 06/2012/NĐ-CP ngày 02 tháng 02 năm 2013 của Chính

Phủ sửa đổi một số điều của các Nghị định về hộ tịch, hôn nhân gia đình và
chứng thực;

5. Thông tư số 01/2008/TT- BTP ngày 02/8/2008 của Bộ Tư pháp hướng

dẫn thực hiện một số quy định của Nghị định số 158/2005/NĐ-CP;



×