Tải bản đầy đủ (.docx) (89 trang)

Giám sát, phản biện của hội liên hiệp phụ nữ việt nam từ thực tiễn huyện nông sơn, tỉnh quảng nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (399.22 KB, 89 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

PHAN THỊ NGỌC DUNG

GIÁM SÁT, PHẢN BIỆN CỦA HỘI LIÊN HIỆP PHỤ
NỮ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN HUYỆN NÔNG SƠN,
TỈNH QUẢNG NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI, năm 2019


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

PHAN THỊ NGỌC DUNG

GIÁM SÁT, PHẢN BIỆN CỦA HỘI LIÊN HIỆP PHỤ
NỮ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN HUYỆN NÔNG SƠN,
TỈNH QUẢNG NAM

Chuyên ngành : Luật Hiến pháp và Luật Hành chính
Mã số

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. NGUYỄN THỊ VIỆT HƯƠNG

HÀ NỘI, năm 2019



LỜI CẢM ƠN
Sau gần 2 năm học tập và nghiên cứu tại Học viện Khoa học Xã hội
thuộc Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam, được sự quan tâm giúp đỡ của
các thầy, cô giáo, đặc biệt là sự chỉ bảo tận tình của PGS. TS Nguyễn Thị Việt
Hương đã giúp đỡ, hướng dẫn tôi mọi mặt để hoàn thành luận văn này.
Xin chân thành cảm ơn sự quan tâm của lãnh đạo Hội Liên hiệp phụ nữ
huyện Nông Sơn, tỉnh Quảng Nam hỗ trợ tài liệu liên quan và các đồng nghiệp
đã động viên, khích lệ, tạo điều kiện về thời gian, tài liệu. Cảm ơn những người
thân, bạn bè, anh chị em học viên cùng khóa, cùng lớp đã giúp đỡ, chia sẽ,
động viên tôi những lúc khó khăn để hoàn thành luận văn.
Đến nay tôi đã hoàn thành luận văn thạc sỹ Luật học chuyên ngành Luật
Hiến pháp và Hành chính, với đề tài “Giám sát, phản biện của Hội Liên hiệp
phụ nữ Việt Nam từ thực tiễn huyện Nông Sơn, tỉnh Quảng Nam”.
Xin trân trọng cảm ơn!
Tác giả

Phan Thị Ngọc Dung


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của bản thân.
Các số liệu được nêu ra trong Luận văn này là trung thực, khách quan.
Những quan điểm, giải pháp, đề xuất, kiến nghị là xuất phát từ sự nghiên cứu
thực tế của bản thân trong quá trình học tập, nghiên cứu và thực tiễn công tác
của mình.
Tác giả luận văn

Phan Thị Ngọc Dung



MỤC LỤC
MỞ ĐẦU................................................................................................................. 1
CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ GIÁM SÁT
PHẢN BIỆN XÃ HỘI CỦA HỘI LIÊN HIỆP PHỤ NỮ VIỆT NAM...............8
1.1. Khái quát về Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam...................................................8
1.2. Lý luận và pháp luật về giám sát của Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam...........11
1.3. Lý luận và pháp luật về phản biện xã hội của Hội LHPN Việt Nam...............21
1.4. Mối quan hệ giữa giám sát, phản biện xã hội của Hội LHPN Việt Nam.........27
1.5. Các yếu tố ảnh hưởng tới giám sát, phản biện xã hội của Hội Liên hiệp phụ nữ
Việt Nam................................................................................................................ 29
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG THỰC HIỆN CÔNG TÁC GIÁM SÁT, PHẢN
BIỆN XÃ HỘI CỦA HỘI LIÊN HIỆP PHỤ NỮ VIỆT NAM TẠI HUYỆN
NÔNG SƠN, TỈNH QUẢNG NAM....................................................................34
2.1. Các yếu tố đặc thù của huyện Nông Sơn, tỉnh Quảng Nam có ảnh hưởng tới
hoạt động giám sát, phản biện xã hội của Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam...........34
2.2. Thực trạng giám sát của Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam tại huyện Nông Sơn,
tỉnh Quảng Nam..................................................................................................... 43
2.3. Thực trạng phản biện xã hội của Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam tại huyện
Nông Sơn, tỉnh Quảng Nam...................................................................................48
2.4. Đánh giá chung về thực trạng giám sát, phản biện xã hội của Hội Liên hiệp
phụ nữ tại huyện Nông Sơn, tỉnh Quảng Nam.......................................................52
CHƯƠNG 3. QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG GIÁM SÁT,
PHẢN BIỆN XÃ HỘI CỦA HỘI LIÊN HIỆP PHỤ NỮ VIỆT NAM TỪ THỰC

TIỄN HUYỆN NÔNG SƠN, TỈNH QUẢNG NAM..........................................62
3.1. Quan điểm tăng cường giám sát, phản biện xã hội của Hội Liên hiệp phụ nữ
Việt Nam từ thực tiễn huyện Nông Sơn, tỉnh Quảng Nam.....................................62
3.2. Giải pháp tăng cường giám sát, phản biện xã hội của Hội Liên hiệp phụ nữ
huyện Nông Sơn, tỉnh Quảng Nam........................................................................64

KẾT LUẬN........................................................................................................... 77
TÀI LIỆU THAM KHẢO


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
CNH, HĐH

: Công nghiệp hóa, hiện đại hóa

ĐBQH

: Đại biểu Quốc hội

HĐND

: Hội đồng nhân dân

Hội LHPN Việt Nam

: Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam

HVPN

: Hội viên phụ nữ

QH

: Quốc hội

UBND


: Ủy ban nhân dân

UBMTTQVN

: Ủy ban Mặt trận Tổ Quốc Việt Nam

UBMT

: Ủy ban Mặt trận

XHCN

: Xã hội chủ nghĩa


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam được thành lập từ ngày 20 tháng 10 năm
1930. Lịch sử của phong trào phụ nữ Việt Nam, của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt
Nam gắn liền với lịch sử phát triển của đất nước. Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt
Nam được Đảng tổ chức, lãnh đạo để làm cách mạng và chăm lo quyền lợi cho
phụ nữ Việt Nam, thực hiện nam nữ bình đẳng. Từ nghị quyết đầu tiên về công
tác vận động phụ nữ (tháng 10/1939) đến các nghị quyết của Đảng nói về công
tác phụ nữ, các bài viết của chủ tịch Hồ Chí Minh và các đồng chí lãnh đạo của
Đảng và Nhà nước ta đều gắn liền với sự nghiệp giải phóng phụ nữ với sự
nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội, giải phóng
loài người. Phụ nữ được coi là một tổ chức quần chúng của Đảng. Trải qua
nhều giai đoạn lịch sử, Hội Liên hiệp phụ nữ cũng thay đổi với nhiều tên gọi
khác nhau, Hội Liên hiệp phụ nữ ngày càng trưởng thành và phát triển vững

mạnh, xứng đáng là tổ chức giữ nòng cốt trong phong trào cách mạng, đại diện,
chăm lo, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp chính đáng của phụ nữ Việt Nam,
đóng góp quan trọng vào các lĩnh vực trong đời sống xã hội và đóng góp tích
cực vào sự nghiệp vì sự bình đẳng, tiến bộ và phát triển của phụ nữ. Qua giai
đoạn cách mạng, phụ nữ Việt Nam luôn luôn xứng đáng với lời khen ngợi của
Chủ tịch Hồ Chí Minh “Anh hùng, bất khuất, trung hậu, đảm đang”.
Với chức năng, nhiệm vụ và hình thức hoạt động của từng cơ quan, tổ
chức được cấu thành từ bộ máy hoạt động trong hệ thống chính trị của Việt
Nam quy định không giống nhau, nhưng từ tổ chức cơ sở Đảng đến mặt trận
quốc và các đoàn thể, trong đó có Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam, có chức
năng vận động phụ nữ thực hiện đường lối chủ trương của Đảng, chính sách
pháp luật của Nhà nước, đại diện chăm lo, bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp và
chính đáng của các tầng lớp phụ nữ, sâu sát phong trào tại cơ sở nhằm mục
1


đích xây dựng người phụ nữ Việt Nam đáp ứng thời kỳ công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước.
Trước thời kỳ đất nước ta bước vào đổi mới, do nhiều nguyên nhân khác
nhau nên chức năng giám sát và phản biện xã hội của Hội Liên hiệp phụ nữ đối
với Đảng và Nhà nước chưa được chú trọng đúng mức trên cả bình diện nhận
thức lý luận cũng như chủ trương, chính sách.
Nước ta bước vào thời kỳ đổi mới, xây dựng Nhà nước pháp quyền và
chuyển dần sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; dân chủ
hoá đời sống xã hội được mở rộng và là một đòi hỏi tất yếu thì nhìn chung, vai
trò của Hội Liên hiệp phụ nữ ngày càng được khẳng định. Vì vậy, đòi hỏi Hội
Liên hiệp phụ nữ Việt Nam cần phải thực hiện tốt chức năng giám sát, phản
biện xã hội của mình theo quy định của pháp luật, được quy định tại Hiến pháp
năm 2013; Quy chế giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam và các đoàn thể chính trị - xã hội của Bộ Chính trị (ban hành kèm theo

Quyết định 217- QĐ/TW ngày 12 tháng 12 năm 2013) và Quy định về Mặt trận
Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể chính trị xã hội và nhân dân tham gia góp ý
xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền của Bộ Chính trị (ban hành kèm theo
Quyết định số 218- QĐ/TW ngày 12 tháng 12 năm 2013), Điều lệ Hội Liên
hiệp phụ nữ Việt Nam khóa XII năm 2017.
Thực tế những năm qua, việc triển khai thực hiện hoạt động giám sát và
phản biện của Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam nói chung và Hội Liên hiệp phụ
nữ huyện Nông Sơn, tỉnh Quảng Nam nói riêng nhìn chung đã mang lại một số
kết quả đáng kể, cán bộ, hội viên phụ nữ và nhân dân đã có sự chuyển biến sâu
sắc về nhận thức và hành động. Việc lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện Quyết
định số 217-QĐ/TW và Quyết định số 218-QĐ/TW ngày càng hiệu quả, được
các cấp, các ngành, cán bộ, đảng viên, hội viên đồng thuận cao. Vì vậy, tôi
chọn vấn đề “Giám sát, phản biện của Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam từ thực
tiễn huyện Nông Sơn, tỉnh Quảng Nam” để làm đề tài luận văn Thạc sĩ Luật
2


học. Thực hiện đề tài này không chỉ mong muốn tốt nghiệp khóa học mà còn hy
vọng đóng góp thiết thực vào việc phát huy hiệu quả hoạt động giám sát, phản
biện xã hội của Hội Liên hiệp phụ nữ trên địa bàn huyện Nông Sơn, tỉnh Quảng
Nam.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Giám sát và phản biện xã hội của Hội Liên hiệp phụ nữ là một đề tài
được nhiều nhà nghiên cứu thuộc các chuyên ngành chính sách công, chính trị
học, luật học, triết học và các nhà chính trị, các nhà quản lý tiếp cận dưới nhiều
góc độ khác nhau.
-

Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb CTQG, 1995 , tr. 239.


-

Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ

XII, Hà Nội, 2016, tr.178.
-

Trần Thái Dương (2006), “Góp phần nhận thức về phản biện xã hội ở

nước ta hiện nay”, Tạp chí Luật học, tr.15.
-

Hiến pháp Nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Nxb Tư pháp Hà

Nội-2012, tr.9.
-

Lê Văn Đính (2007), "Phản biện xã hội - một trong những phương

hướng đặc trưng của thực thi dân chủ ở nước ta hiện nay" .
-

Đảng bộ huyện Nông Sơn, Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng bộ huyện

Nông Sơn, tr.106.
-

Cuốn kỷ yếu tập họp 3 bài viết tiêu biểu: "Quan niệm về giám sát và

phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội" của

tác giả Ngô Bích Ngọc, Nguyễn Xuân Thủy; "Những nhân tố tác động và
những yêu cầu đặt ra trong giám sát và phản biện xã hội của MTTQ và các
đoàn thể chính trị - xã hội" của tác giả Tô Duy Nghĩa; "Những giải pháp chủ
yếu nhằm phát huy vai trò giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc
và các đoàn thể nhân dân" của tác giả Ngô Bích Ngọc, Nguyễn Xuân Thủy.
-

"Vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đối với việc thực hiện quyền
3


làm chủ của nhân dân ở nước ta hiện nay" tác giả Nguyễn Thị Hiền Oanh đã
nhấn mạnh vai trò làm chủ của nhân dân thông qua Mặt trận Tổ quốc và các tổ
chức chính trị - xã hội. Tuy không đi sâu nghiên cứu chức năng phản biện xã
hội nhưng đã bước đầu đề cập đến vấn đề này như một yếu tố cấu thành
phương thức thực thi quyền làm chủ của nhân dân thông qua Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam.
-

"Thực hiện chức năng phản biện xã hội của Mặt trận Tổ Quốc Việt Nam"

của tác giả Lê Thị Mộng Diễm đã đề cập tương đối toàn diện về hoạt động
phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam nhưng chưa có tính khái quát
cao, chỉ dừng lại ở việc chỉ ra những nội dung cơ bản của việc thực hiện chức
năng phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc.
Trên cơ sở kế thừa kết quả nghiên cứu của các công trình đi trước, luận văn tiếp
tục hướng nghiên cứu làm rõ chức năng, nhiệm vụ, đặc điểm, tính chất của hoạt động
giám sát, phản biện xã hội của Hội Liên hiệp phụ nữ. Từ đó, kiến nghị các giải pháp
nhằm nâng cao hiệu quả của hoạt động giám sát, phản biện xã hội nhằm góp thiết
thực vào việc phát huy hiệu quả hoạt động giám sát, phản biện xã hội của Hội Liên

hiệp phụ nữ trên địa bàn huyện Nông Sơn trong giai đoạn hiện nay.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Từ các kết quả khảo sát thực tế, vận dụng cơ sở khoa học phân tích, đánh
giá thực trạng công tác giám sát, phản biện xã hội của các cấp Hội Liên hiệp
phụ nữ trên địa bàn huyện Nông Sơn, tỉnh Quảng Nam để thấy được những ưu
điểm và những hạn chế để từ đó kiến nghị những giải pháp nhằm phát huy hiệu
quả hoạt động giám sát, phản biện xã hội của Hội Liên hiệp phụ nữ huyện
trong giai đoạn hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
-

Hệ thống hoá và làm rõ thêm cơ sở lý luận về hoạt động giám sát và

phản biện xã hội của Hội Liên hiệp phụ nữ nói chung và của huyện Nông Sơn
4


nói riêng.
- Phân tích thực trạng và khảo sát thực tế làm sáng tỏ những kết quả đạt được,

những tồn tại hạn chế cần khắc phục và một số vấn đề đặt ra về thực hiện chính sách
giám sát và phản biện xã hội của Hội Liên hiệp phụ nữ huyện Nông Sơn.
-

Đề xuất phương hướng cơ bản và một số giải pháp chủ yếu nâng cao

hiệu quả hoạt động giám sát và phản biện xã hội của Hội Liên hiệp phụ nữ
huyện Nông Sơn.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
-

Các chủ trương, chính sách, pháp luật về giám sát, phản biện xã hội của

Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam;
-

Thực tiễn hoạt động giám sát, phản biện xã hội của Hội Liên hiệp phụ

nữ huyện Nông Sơn, tỉnh Quảng Nam;
4.2. Phạm vi nghiên cứu
-

Phạm vi không gian: Luận văn nghiên cứu hoạt động giám sát, phản

biện xã hội của Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam tại huyện Nông Sơn, tỉnh
Quảng Nam trên cơ sở Hiến pháp 2013, Quyết định số 217, 218 của Bộ Chính
trị, Điều lệ Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam.
-

Phạm vi thời gian: Việc thực hiện chức năng giám sát và phản biện xã

hội của Hội Liên hiệp phụ nữ huyện từ năm 2014 đến năm 2018.
5.

Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

5.1. Phương pháp luận

Luận văn nghiên cứu hệ thống các quy định của Đảng, nhà nước, Mặt trận tổ
quốc và các đoàn thể, Điều lệ, Nghị quyết của Hội LHPN Việt Nam về giám sát,
phản biện xã hội, tham gia xây dựng đảng, chính quyền trong sạch, vững mạnh...

5.2. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp phân tích và phương pháp tổng hợp, kết hợp phân tích định
lượng và định tính để giải thích số liệu, liên hệ với các nguyên nhân từ thực
5


tiễn, đối chiếu các quy định hiện hành về thực hiện chính sách giám sát và phản
biện xã hội của Hội Liên hiệp phụ nữ với thực tế thực hiện ở địa phương để làm
rõ những kết quả đạt được, những tồn tại hạn chế cần khắc phục trong thực hiện
chức năng giám sát và phản biện xã hội của Hội Liên hiệp phụ nữ huyện Nông
Sơn, tỉnh Quảng Nam.
Điều tra, khảo sát, thống kê, so sánh những yếu tố ảnh hưởng đến hoạt
động giám sát và phản biện xã hội của Hội Liên hiệp phụ nữ huyện Nông Sơn.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Việc thực hiện tốt chức năng giám sát và phản biện xã hội là để Hội Liên
hiệp phụ nữ làm tốt hơn chức năng đại diện và bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp, chính đáng của các tầng lớp hội viên của tổ chức mình; là phương thức
để mở rộng dân chủ, phát huy quyền làm chủ của hội viên, phụ nữ. Chính vì
vậy, việc nâng cao chất lượng hoạt động giám sát và phản biện xã hội có một ý
nghĩa hết sức quan trọng góp phần thực hiện mục tiêu bình đẳng giới và nâng
cao vai trò, trách nhiệm của Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam trong tham gia
quản lý nhà nước.
Bên cạnh đó, Hội Liên hiệp phụ nữ là cầu nối giữa các tầng lớp phụ nữ
với Đảng và chính quyền, do vậy thực hiện tốt chức năng giám sát và phản
biện xã hội là để phụ nữ có điều kiện góp phần xây dựng các chủ trương đường

lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước, đảm bảo được tính đúng đắn,
sát với thực tiễn khi các chủ trương của Đảng, chính sách của Nhà nước được
thực thi sao cho hợp lòng dân và khả thi.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Luận văn được thực hiện góp phần phát huy vai trò và nâng cao chất
lượng, hiệu quả giám sát, phản biện xã hội của Hội Liên hiệp phụ nữ huyện
Nông Sơn, tỉnh Quảng Nam.

6


7.

Kết cấu của luận văn

Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận văn được chia thành 3 chương gồm:
Chương 1: Những vấn đề lý luận và pháp luật về giám sát, phản biện xã
hội của Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam.
Chương 2: Thực trạng thực hiện công tác giám sát, phản biện xã hội của
Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam tại huyện Nông Sơn, tỉnh Quảng Nam.
Chương 3: Quan điểm và giải pháp tăng cường giám sát, phản biện xã
hội của Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam từ thực tiễn huyện Nông Sơn, tỉnh
Quảng Nam

7


CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ GIÁM SÁT, PHẢN

BIỆN XÃ HỘI CỦA HỘI LIÊN HIỆP PHỤ NỮ VIỆT NAM
1.1. Khái quát về Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam
Hội LHPN Việt Nam là một trong 5 tổ chức chính trị - xã hội (5 tổ chức
chính trị - xã hội hiện nay của nước ta gồm: Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, Đoàn
Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh,Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, Hội
Nông dân Việt Nam, Hội Cựu chiến binh Việt Nam), là bộ phận của hệ thống
chính trị. Hội LHPN Việt Nam là thành viên của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.

Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam là một tổ chức có tư cách pháp nhân.
Tập hợp, phát huy sức mạnh đại đoàn kết dân tộc, thực hiện dân chủ, tăng
cường đồng thuận xã hội; giám sát, phản biện xã hội; tham gia xây dựng Đảng,
Nhà nước, hoạt động đối ngoại nhân dân góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc. Đây là một tổ chức phụ nữ cấp quốc gia có quy mô lớn so với trên thế
giới. Đại diện cho quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của các tầng lớp phụ
nữ Việt Nam, phấn đấu vì sự phát triển của phụ nữ và bình đẳng giới.
Là tổ chức chính trị - xã hội được thành lập trên cơ sở tự nguyện, đại
diện và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của hội viên; cùng các tổ
chức thành viên khác của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam phối hợp và thống nhất
hành động trong Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.
Hiện nay, Hội LHPN Việt Nam có mối quan hệ hữu nghị, hợp tác với
trên 300 tổ chức tại hơn 60 quốc gia và vùng lãnh thổ, bao gồm: Quan hệ với
Hội Phụ nữ, các tổ chức phụ nữ và các tổ chức hoạt động về phát triển, bình
đẳng giới và phụ nữ ở các nước láng giềng (Lào, Campuchia, Trung Quốc); các
nước bạn bè truyền thống với Việt Nam (Cuba, Triều Tiên, Nga…); các nước
thành viên Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN);
Vì vậy, mà tuỳ từng giai đoạn lịch sử cụ thể, Hội LHPN Việt Nam đề ra
8


chức năng, nhiệm vụ phù hợp với yêu cầu của Cách mạng Việt Nam, nhưng

xuyên suốt là đại diện chăm lo, bảo vệ quyền lợi cho phụ nữ và tuyên truyền,
vận động phụ nữ tham gia xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
1.1.1. Vị trí, vai trò của Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam
Để thực hiện tốt chức năng là tổ chức đại diện cho các tầng lớp phụ nữ.
Tại Điều 9 Hiến pháp năm 2013 ghi nhận: Là tổ chức chính trị - xã hội được
Hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật. Được Nhà nước tạo điều
kiện hoạt động. Tập hợp, phát huy sức mạnh đại đoàn kết dân tộc, thực hiện
dân chủ, tăng cường đồng thuận xã hội; giám sát, phản biện xã hội; tham gia
xây dựng Đảng, Nhà nước, hoạt động đối ngoại nhân dân góp phần xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc.
1.1.2. Chức năng, nhiệm vụ của Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam
Điều 1, Chương I, Điều lệ Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam xác định chức
năng của Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam là “Đại diện chăm lo, bảo vệ quyền,
lợi ích hợp pháp, chính đáng của các tầng lớp phụ nữ, tham gia xây dựng Đảng,
tham gia quản lý Nhà nước; Đoàn kết, vận động, phụ nữ thực hiện đường lối,
chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, vận động xã hội
thực hiện bình đẳng giới”.
Điều 2, Chương I, Điều lệ Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam xác định
nhiệm vụ của Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam là Tuyên truyền, giáo dục chính
trị, tư tưởng, lý tưởng cách mạng, phẩm chất đạo đức, lối sống; đường lối, chủ
trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; tham gia xây dựng chính
sách, pháp luật về bình đẳng giới trong chính trị, kinh tế, giáo dục - đào tạo, tư
pháp, hôn nhân gia đình, phòng chống TNXH...; Tuyên truyền phổ biến giáo
dục pháp luật; giải quyết đơn thư, khiếu nại tố cáo có liên quan đến phụ nữ và
trẻ em, tư vấn pháp luật, trợ giúp pháp lý; phối hợp giám sát việc thực hiện Bộ
luật Lao động, luật Hôn nhân và Gia đình, các chính sách an sinh xã hội, chính
sách đối với gia đình thương binh, liệt sĩ, gia đình có công với nước; thu hút
9



hội viên phụ nữ tham gia vào tổ chức Hội; hỗ trợ phụ nữ phát triển kinh tế, tạo
việc làm, tăng thu nhập, bảo vệ môi trường; Tham gia xây dựng, phản biện xã
hội và giám sát; thực hiện công tác đền ơn đáp nghĩa, nhân đạo từ thiện, hậu
phương quân đội; công tác đối ngoại nhân dân...
1.1.3. Cơ cấu tổ chức và các mối quan hệ phối hợp hoạt động của Hội
Liên hiệp phụ nữ Việt Nam
Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tự
nguyện, dân chủ, liên hiệp, thống nhất hành động. Cơ quan lãnh đạo Hội LHPN
các cấp do bầu cử lập ra, thực hiện nguyên tắc tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ
trách; thiểu số phục tùng đa số, cấp dưới phục tùng cấp trên, cá nhân phục tùng
tổ chức. Đại hội các cấp được tổ chức năm năm một lần. Trường hợp đặc biệt
do Hội cấp trên trực tiếp xem xét, quyết định theo quy định. Thành phần, số
lượng đại biểu đại hội cấp nào do Ban Chấp hành cấp đó quyết định và triệu
tập. Đại hội chỉ hợp lệ khi có ít nhất 2/3 số đại biểu được triệu tập tham dự. Đại
hội nhằm đánh giá phong trào phụ nữ; kiểm điểm việc thực hiện Nghị quyết đại
hội; Thảo luận dự thảo văn kiện Đại hội đại biểu Phụ nữ cấp trên trực tiếp và
dự thảo văn kiện Đại hội đại biểu Phụ nữ toàn quốc; quyết định phương hướng
nhiệm vụ nhiệm kỳ tới. Quyết định số lượng, cơ cấu, nhân sự và bầu Ban Chấp
hành đảm bảo tiêu chuẩn, điều kiện theo quy định. Bầu đại biểu dự đại hội cấp
trên trực tiếp.
Cơ quan lãnh đạo các cấp Hội được quyết định các vấn đề thuộc nhiệm
vụ, quyền hạn của mình, song không được trái với đường lối, chủ trương của
Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước và Nghị quyết của Hội cấp trên.
Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam là tổ chức thống nhất trong cả nước với
hệ thống tổ chức chặt chẽ ở 4 cấp: Cấp Trung ương; Cấp tỉnh (bao gồm Hội
Liên hiệp Phụ nữ các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và tương đương);
Cấp huyện (bao gồm Hội Liên hiệp Phụ nữ các quận, huyện, thị xã, thành phố
thuộc tỉnh và tương đương); Cấp cơ sở (bao gồm Hội Liên hiệp Phụ nữ các xã,
10



phường, thị trấn và tương đương). Bên cạnh đó, ở thôn, bản, làng, ấp, buôn,
sóc, phum, tổ dân phố, khu phố…có chi hội phụ nữ do Hội Liên hiệp phụ nữ
xã, phường, thị trấn thành lập, trong chi hội được chia ra nhiều tổ hội.
Cơ quan chuyên trách các cấp Hội: Trung ương Hội; Hội Liên hiệp Phụ
nữ các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương; Hội Liên hiệp Phụ nữ các quận,
huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh là cơ quan tham mưu, giúp việc cho Ban
Chấp hành, Đoàn Chủ tịch hoặc Ban Thường vụ cùng cấp.
Vậy, nhiệm vụ giám sát và phản biện xã hội, đây là một nhiệm vụ trọng
tâm của Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam để Hội thực hiện chức năng, nhiệm vụ
của tổ chức mình. Bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng, phù hợp với Hiến pháp,
pháp luật, Điều lệ Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam quy định.
1.2. Lý luận và pháp luật về giám sát của Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam

1.2.1. Khái niệm, đặc điểm, vai trò giám sát của Hội Liên hiệp phụ nữ
Việt Nam
1.2.1.1. Khái niệm giám sát của Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam
Theo từ điển Tiếng Việt do Hoàng Phê chủ biên thì thuật ngữ “giám sát”
được ghi là: “Theo dõi và kiểm tra xem có thực hiện đúng những điều quy định
không” hoặc: “Là chức quan thời xưa trông nom, coi sóc một loại công việc
nhất định”.
Hiện nay, thuật ngữ giám sát cũng được sử dụng khá phổ biến trong hầu
hết văn bản pháp luật của nước ta hiện nay. Cụ thể một số văn bản sau đây:
-

Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013:

“Đảng Cộng sản Việt Nam gắn bó mật thiết với Nhân dân, phục vụ Nhân dân,
chịu sự giám sát của Nhân dân, chịu trách nhiệm trước Nhân dân về những
quyết định của mình”;

-

Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015: “Chính quyền địa

phương tạo điều kiện để Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức
chính trị - xã hội động viên Nhân dân tham gia xây dựng và củng cố chính
11


quyền nhân dân, tổ chức thực hiện chính sách, pháp luật của Nhà nước, giám
sát, phản biện xã hội đối với hoạt động của chính quyền địa phương”;
-

Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân năm 2015:

“Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tổ chức hiệp thương lựa chọn, giới thiệu người ứng
cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp; tham gia giám sát
việc bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp”

Hoạt động giám sát của các chủ thể bên ngoài vào hệ thống nhà nước
được gọi là giám sát chính trị - xã hội. Giám sát chính trị - xã hội phân biệt với
giám sát nhà nước ở chỗ: chủ thể giám sát chính trị - xã hội là nhân dân (nhân
dân trực tiếp giám sát hoặc thông qua các tổ chức do mình uỷ nhiệm). Đối
tượng giám sát chính trị - xã hội là các cơ quan quyền lực nhà nước. Giám sát
chính trị - xã hội không mang tính quyền lực nhà nước.
Như vậy, giám sát có nhiều cách nhìn nhận, cách thể hiện cách diễn đạt
khác nhau nhưng chúng ta có thể đưa ra một định nghĩa khái quát về giám sát
như sau: Giám sát là một phạm trù dùng để chỉ các hoạt động theo dõi, xem
xét, kiểm tra và nhận định về một việc làm nào đấy, xem việc làm đó đã được
thực hiện đúng hoặc sai những điều đã quy định.

Căn cứ vào Quyết định số 217-QĐ/TW của Bộ Chính trị ghi nhận là “Giám
sát xã hội”, đây là hoạt động thực hiện chức năng giám sát nhân dân, không phải
là giám sát trong hệ thống tổ chức các cơ sở Đảng, trong hệ thống các cơ quan
quản lý nhà nước. Tức là giám sát với mục đích nhận xét, đánh giá, đề xuất, kiến
nghị, bổ sung cho phù hợp với đời sống của xã hội, phù hợp với điều kiện hiện
nay. Đối với việc giải quyết các đề xuất, kiến nghị đó hay không thì tùy thuộc vào
các cơ quan, đơn vị được giám sát theo quy định của pháp luật.

Với hệ thống các văn bản trên thì giám sát của Hội Liên hiệp phụ nữ Việt
Nam mang tính chất giám sát xã hội, chỉ là việc “theo dõi, phát hiện, kiến
nghị” và có biện pháp tác động để cơ quan nhà nước xử lý.

12


1.2.1.2. Đặc điểm giám sát của Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam
Theo Quyết định số 217-QĐ/TW của Bộ Chính trị tại khoản 2, Điều 5
quy định giám sát: “Việc thực hiện các chủ trương, đường lối của Đảng, chính
sách, pháp luật của Nhà nước (trừ những vấn đề thuộc bí mật quốc gia) của cơ
quan, tổ chức và cá nhân”.
Hoạt động giám sát của Hội LHPN Việt Nam nhằm góp phần xây dựng
và thực hiện đúng các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật
của Nhà nước, các chương trình kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh, quốc phòng
và đối ngoại; kịp thời phát hiện những sai sót, khuyết điểm, yếu kém và kiến
nghị bổ sung, sửa đổi các chính sách cho phù hợp với các tầng lớp nhân dân và
hội viên phụ nữ.
Chủ thể, giám sát của Hội LHPN Việt Nam rất rộng đó tổ chức Hội ở các
cấp từ Trung ương đến cơ sở và toàn thể cán bộ, hội viên, phụ nữ. Giám sát là
quyền, trách nhiệm của tổ chức Hội LHPN các cấp, toàn thể cán bộ Hội và hội
viên phụ nữ.

Đối tượng giám sát của Hội LHPN Việt Nam được xác định: Các cơ
quan, tổ chức từ Trung ương đến cơ sở. Về cá nhân: giám sát đối với cán bộ,
công chức, viên chức, đảng viên, đại biểu hội đồng nhân dân do cử tri, do dân
bầu ra theo nhiệm kỳ. Nội dung giám sát là các lĩnh vực của đời sống xã hội
liên quan trực tiếp đến quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của tổ chức Hội
và cán bộ, hội viên, phụ nữ, góp phần thực hiện mục tiêu bình đẳng giới và
nâng cao vai trò, trách nhiệm của Hội LHPN Việt Nam trong việc tham gia
quản lý nhà nước.
Giám sát của Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam là giám sát chủ yếu bên ngoài
bộ máy nhà nước. Việc giám sát chỉ dừng lại ở mức theo dõi, phát hiện, xem xét,
các tổ chức, cá nhân thực hiện có đảm bảo quy trình, quy định của pháp luật hay
không. Từ đó đánh giá, kiến nghị các cơ quan có thẩm quyền giải quyết.

13


1.2.1.3. Vai trò giám sát của Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam
Hoạt động giám sát của Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam góp phần tạo điều
kiện cho hội viên phụ nữ phát huy quyền làm chủ theo dõi, phát hiện sai sót trong
thực thi chính sách, giúp cấp ủy, chính quyền các cấp kịp thời bổ sung, sửa đổi,
điều chỉnh những vấn đề thực tiễn đặt ra đối với phụ nữ, trẻ em và bình đẳng giới
đã được các cấp Hội kiến nghị lồng ghép vào các văn bản quy phạm pháp luật,
các chương trình, đề án, kế hoạch của nhà nước và địa phương.

Hội Liên hiệp phụ nữ là tổ chức đại diện chăm lo, bảo vệ quyền, lợi ích
hợp pháp, chính đáng của các tầng lớp phụ nữ, tham gia xây dựng Đảng, tham
gia quản lý Nhà nước. Hoạt động giám sát là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu các
cấp Hội nhằm tạo điều kiện cho các tầng lớp phụ nữ được nêu lên tâm tư
nguyện vọng, ý kiến của mình với lãnh đạo Đảng, Nhà nước trong công tác
điều hành hệ thống chính trị nâng cao chất lượng, hiệu quả ngày càng tốt hơn.

Giám sát của Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam góp phần bảo đảm hiệu lực
hiệu quả của hoạt động quản lý nhà nước. Giám sát là phương tiện hữu hiệu để
nhân dân kiểm soát việc thực hiện quyền lực nhằm góp phần xây dựng và thực
hiện đúng các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà
nước; kịp thời phát hiện những khuyết điểm, sai sót, yếu kém và kiến nghị, đề
xuất, bổ sung, sửa đổi cho phù hợp.
Giám sát của Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam giúp khắc phục tình trạng
quan liêu, tham nhũng, lãng phí, lạm quyền....góp phần trong sạch hóa bộ máy
công quyền. Giám sát của Hội tuy không mang tính quyền lực pháp lý nhưng có
tính phòng ngừa, giáo dục góp phần ngăn chặn có hiệu quả việc vi phạm pháp luật
góp phần khắc phục tình trạng nhũng nhiễu, quan liêu, lạm quyền của cán bộ được
giao thực thi công vụ và góp phần trong sạch hóa các cơ quan nhà nước.

Với nhiệm vụ là tổ “chức chính trị - xã hội” tập hợp rộng rãi các tầng lớp
phụ nữ. Nên hoạt động giám sát của Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam góp phần
nâng cao vị thế của Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam, là công việc khó khăn,
14


phức tạp, là môi trường rèn luyện, nâng cao năng lực tham gia và bản lĩnh
chính trị của cán bộ, hội viên phụ nữ. Để tổ chức thực hiện tốt công tác giám
sát, tổ chức Hội và cán bộ, hội viên phụ nữ phải tự mình tìm tòi học hỏi, có
kiến thức chuyên môn, có quyết tâm cao và hiểu biết về pháp luật nhất định,
nhất là tìm hiểu sâu về các chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà
nước mới tham gia giám sát có hiệu quả, chất lượng cao. Thực hiện công tác
giám sát đảm bảo chất lượng mang lại hiệu quả cao sẽ góp phần nâng cao vai
trò, vị thế của tổ chức Hội trong hệ thống chính trị cũng như đem lại niềm tin,
thu hút đông đảo hội viên phụ nữ tham gia vào tổ chức Hội.
Thông qua các hoạt động giám sát của hội viên phụ nữ và của tổ chức
Hội nhằm xem xét, đánh giá những việc làm, phát hiện những hành vi, dấu hiệu

vi phạm; những vướng mắc, kẽ hở trong thực thi chính sách, pháp luật của Nhà
nước; kiến nghị với các cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền, xem xét xử
lý vi phạm; để kịp thời có những biện pháp xử lý, điều chỉnh, sửa đổi, bổ sung
chính sách, pháp luật cho phù hợp mang lại hiệu quả.
Sự giám sát của Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam góp phần làm hạn chế
những kẻ hở sai sót trong xây dựng và ban hành pháp luật, tăng cường tính khả
thi, hiệu lực, hiệu quả.
1.2.2. Chủ thể, đối tượng, nội dung, hình thức và trình tự giám sát của
Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam
1.2.2.1. Chủ thể giám sát
Chủ thể giám sát của Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam ở các cấp được cấu
thành như sau:
-

Tổ chức Hội ở các cấp từ Trung ương đến cơ sở (bao gồm Ban Chấp

hành, Ban Thường vụ Hội Liên hiệp phụ nữ các cấp). Đối với Trung ương Hội:
bao gồm các cơ quan giúp việc Ban Chấp hành, Ban Thường vụ Trung ương
Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam như: Văn phòng, các ban chuyên môn, Trường
cán bộ Hội phụ nữ Việt Nam, Tạp chí phụ nữ. Đối với Hội Liên hiệp phụ nữ
15


các tỉnh, thành phố: bao gồm các cơ quan giúp việc Ban Chấp hành, Ban
Thường vụ Hội Liên hiệp phụ nữ tỉnh, thành phố: Văn phòng, Ban Tổ chức,
Ban hỗ trợ phụ nữ phát triển kinh tế, Ban Gia đình - Xã hội, Ban Tuyên giáo,
Ban chính sách – luật pháp.
-

Cán bộ, hội viên, phụ nữ


Như vậy, chủ thể giám sát là Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam bao gồm
cán bộ, hội viên, phụ nữ và tổ chức Hội Liên hiệp phụ nữ ở các cấp
1.2.2.2. Đối tượng giám sát
Căn cứ theo quy định thì đối tượng giám sát đối với tập thể là các cơ
quan, tổ chức; đối với cá nhân là cán bộ, công chức, viên chức, nhân viên, đảng
viên, đại biểu hội đồng nhân dân do cử tri, do nhân dân bầu ra theo nhiệm kỳ.
Các đối tượng này trong quá trình thực thi nhiệm vụ, công vụ được giao phải
chịu sự giám sát của tổ chức, cá nhân của Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam nhằm
phát hiện, để cảnh báo, răn đe, hạn chế những sai sót, phòng ngừa vi phạm;
nhắc nhở thực hiện theo đúng chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách,
pháp luật của Nhà nước, tăng cường trách nhiệm của từng cán bộ, đảng viên,
đại biểu dân cử, công chức, viên chức nhà nước nhằm nâng cao chất lượng,
hiệu quả trong thực thi công việc, nhiệm vụ được giao.
Đối với tập thể: Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam xây dựng kế hoạch giám
sát việc triển khai thực hiện các chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của
Nhà nước đến với các tầng lớp phụ nữ đến đâu, hiệu lực, hiệu quả thực thi như
thế nào. Đối với giám sát là cá nhân thì Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam sẽ xây
dựng kế hoạch giám sát việc thực hiện các chủ trương, đường lối của Đảng,
chính sách, pháp luật của Nhà nước; đạo đức công vụ, đạo đức nghề nghiệp,
trách nhiệm của người đứng đầu, mối quan hệ mật thiết của đảng viên, cán bộ,
đại biểu hội đồng nhân dân do cử tri, do nhân dân bầu cử theo nhiệm kỳ thể
hiện trách nhiệm trước cử tri, trước nhân dân tại nơi làm việc và sinh sống.

16


1.2.2.3. Nội dung giám sát
Theo Quyết định số 217-QĐ/TW của Bộ Chính trị tại khoản 2, Điều 5
quy định giám sát: “Việc thực hiện các chủ trương, đường lối của Đảng, chính

sách, pháp luật của Nhà nước (trừ những vấn đề thuộc bí mật quốc gia) của cơ
quan, tổ chức và cá nhân”.
Căn cứ Hướng dẫn số 23/HD-ĐCT ngày 04/5/2018 của Đoàn Chủ tịch
TW Hội LHPN Việt Nam về thực hiện giám sát và phản biện xã hội của Hội
Liên hiệp phụ nữ Việt Nam như sau:
Hội Liên hiệp phụ nữ các cấp chủ trì giám sát đối với cơ quan, tổ chức
việc tổ chức thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật
của Nhà nước có liên quan trực tiếp đến quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng
của hội viên phụ nữ, chức năng nhiệm vụ của tổ chức Hội Liên hiệp phụ nữ
được quy định trong các văn kiện, chỉ thị, Nghị quyết của Đảng, văn bản quy
phạm pháp luật (trừ những vấn đề thuộc bí mật quốc gia). Đó là giám sát việc
đầu tư phát triển hạ tầng nông thôn: thủy lợi, giao thông, điện, trường học, văn
hóa, y tế, công trình cấp nước sạch, nông thôn mới…; Giám sát về quản lý, sử
dụng đất đai, đền bù giải phóng mặt bằng, hỗ trợ tái định cư, khai thác, sử dụng
tài nguyên khoáng sản; các công trình xây dựng cơ bản; bảo vệ môi trường
nông thôn; xây dựng nông thôn mới; giám sát việc thu, chi các loại phí, lệ phí,
các khoản đóng góp của phụ nữ; giám sát việc tổ chức thực hiện các chính sách
hỗ trợ nhân dân, hội viên phụ nữ chuyển đổi cơ cấu cây trồng con vật nuôi,
phát triển sản xuất, kinh doanh: vốn, vật tư nông nghiệp, chuyển giao khoa học
kỹ thuật, đào tạo nghề, giới thiệu việc làm cho lao động nông thôn, tiêu thụ sản
phẩm…; giám sát việc tổ chức thực hiện các chủ trương, chính sách liên quan
đến chức năng, nhiệm vụ và hoạt động của Hội.
Đối với các cá nhân: Ngoài việc giám sát việc thực hiện các chủ trương,
đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước còn giám sát các biểu
hiện về suy thoái về đạo đức lối sống được xác định trong Nghị quyết Trung
17


ương 4 khóa XII về tăng cường xây dựng, chỉnh đón Đảng; Việc thực hiện các
chuẩn mực đạo đức công vụ, đạo đức nghề nghiệp, trách nhiệm nêu gương của

người đứng đầu, cán bộ chủ chốt, cán bộ đảng viên.
1.2.2.4. Hình thức và trình tự giám sát
Giám sát theo quy định của pháp luật, hoạt động giám sát của Hội Liên
hiệp phụ nữ Việt Nam quy định:
Thông qua việc quan sát, tìm hiểu, giao tiếp với người đứng đầu, cán bộ
chủ chốt và cán bộ đảng viên.
Thông qua tiếp nhận đơn thư, khiếu nại tố cáo, thông tin, phản ánh của tổ
chức, cá nhân, đoàn viên, hội viên, phụ nữ, phản ánh của người có uy tín trong
cộng đồng dân cư, dư luận xã hội, cơ quan truyền thông đại chúng.
Thông qua nghiên cứu, xem xét văn bản, tài liệu, báo cáo của các cơ
quan, tổ chức liên quan đến quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của hội viên
phụ nữ.
Thông qua việc thực hiện các quy định của pháp luật về dân chủ cơ sở,
tham gia hoạt động của Ban Thanh tra nhân dân, Ban giám sát đầu tư cộng đồng.

Tổ chức đoàn giám sát do Hội Liên hiệp phụ nữ các cấp chủ trì.
Xây dựng kế hoạch, tổ chức giám sát với điều kiện khi Ủy ban Mặt trận
Tổ quốc Việt Nam yêu cầu.
Tham gia các hoạt động giám sát với các cơ quan, tổ chức có thẩm quyền
(Quốc hội, Hội đồng nhân dân, bộ, ngành….).
Về trình tự giám sát:
Theo quy định của Hiến pháp 2013, Hướng dẫn số 23/HD-ĐCT ngày
04/5/2018 của Đoàn Chủ tịch TW Hội LHPN Việt Nam quy định thì hoạt động
giám sát của Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam được thực hiện chủ yếu thông qua
các hình thức, phương pháp cơ bản sau:
Thứ nhất, đối với giám sát các cơ quan, tổ chức: Trình tự giám sát được
thực hiện như sau:
18



-

Xây dựng chương trình, kế hoạch giám sát: Hằng năm, căn cứ thực tế

việc tổ chức thực hiện các chủ trương, nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp
luật của Nhà nước ở địa phương; kế hoạch giám sát của Hội Liên hiệp phụ nữ
cấp trên; sự chỉ đạo của cấp ủy cùng cấp; kế hoạch phối hợp giám sát với Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam cùng cấp để xác định nội dung, phạm vi, đối tượng,
hình thức giám sát cho phù hợp. Bên cạnh đó, cần phải có các nguồn lực hỗ trợ
như cán bộ làm công tác giám sát phải có chuyên môn sâu, am hiểu nhiều lĩnh
vực, tâm huyết với nhiệm vụ; kinh phí thực hiện, các phương tiện cần thiết
khác để triển khai thực hiện nội dung, nhiệm vụ giám sát đạt hiệu quả.
Đặt biệt, hàng năm khi xây dựng nội dung giám sát cần ưu tiên, lựa chọn
những vấn đề giám sát trực tiếp liên quan đến đời sống của các tầng lớp phụ
nữ, tùy vào điều kiện thực tế của địa phương mà triển khai thực hiện mang lại
chất lượng, đạt kết quả.
Để có cơ sở cho các cấp Hội tổ chức giám sát, thì nội dung giám sát phải
được xin ý kiến thống nhất bằng văn bản của cấp ủy cùng cấp trước khi tổ chức
giám sát.
Khi tổ chức thực hiện giám sát ở cơ sở, cần chú trọng việc tuyên truyền,
phổ biến mục đích, nội dung giám sát và vận động hội viên phụ nữ tích cực
hưởng ứng tham gia, theo dõi, phát hiện, phản ánh, kiến nghị nhất là trong sinh
hoạt chi, tổ Hội; việc giám sát phải bảo đảm tính khách quan, trung thực, có địa
chỉ và nội dung cụ thể rõ ràng, đúng thực tế, có tác động tốt đối với đời sống
của các tầng lớp phụ nữ; Hội Liên hiệp phụ nữ các cấp có quyền yêu cầu tổ
chức được giám sát cung cấp thông tin về các vấn đề có liên quan đến nội dung
giám sát.
Báo cáo kết quả giám sát: Báo cáo kết quả giám sát bằng văn bản, có chữ
ký của người có thẩm quyền (thay mặt Ban Thường vụ) và được đóng dấu của
tổ chức Hội.


19


×