VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYỄN VINH HUY
NHÂN THÂN NGƯỜI PHẠM TỘI XÂM PHẠM NHÂN PHẨM,
DANH DỰ CỦA CON NGƯỜI TỪ THỰC TIỄN CÁC
TỈNH MIỀN ĐÔNG NAM BỘ
Chuyên ngành: Tội phạm học và phòng ngừa tội phạm
Mã số: 9.38.01.05
LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. TRẦN HỮU TRÁNG
HÀ NỘI, 2019
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu và
tài liệu trong luận án là trung thực và chưa được công bố trong bất kỳ công trình
nghiên cứu nào. Tất cả những tham khảo và kế thừa đều được trích dẫn và tham
chiếu đầy đủ.
Nghiên cứu sinh
Nguyễn Vinh Huy
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU.................................................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU................................................. 8
1.1. Tình hình nghiên cứu ở nước ngoài .....................................................................8
1.2. Tình hình nghiên cứu trong nước .......................................................................11
1.3. Đánh giá tổng quan tình hình nghiên cứu và những vấn đề đặt ra cần tiếp tục
nghiên cứu trong luận án ...........................................................................................15
CHƯƠNG 2 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NHÂN THÂN NGƯỜI PHẠM TỘI 23
XÂM PHẠM NHÂN PHẨM, DANH DỰ CỦA CON NGƯỜI ...................................... 23
2.1. Khái niệm, phân loại, đặc điểm nhân thân người phạm tội xâm phạm nhân
phẩm, danh dự của con người ...................................................................................23
2.2. Các yếu tố tác động đến quá trình hình thành nhân thân tiêu cực ở người phạm
tội xâm phạm nhân phẩm, danh dự của con người ...................................................49
CHƯƠNG 3 THỰC TRẠNG NHÂN THÂN NGƯỜI PHẠM TỘI XÂM PHẠM
NHÂN PHẨM, DANH DỰ CỦA CON NGƯỜI TỪ THỰC TIỄN CÁC TỈNH MIỀN
ĐÔNG NAM BỘ .................................................................................................................... 64
3.1. Khái quát tình hình tội phạm xâm phạm nhân phẩm, danh dự trên địa bàn các
tỉnh miền Đông Nam Bộ ...........................................................................................64
3.2. Các đặc điểm nhân thân người phạm tội xâm phạm nhân phẩm, danh dự của
con người trên địa bàn các tỉnh miền Đông Nam Bộ ................................................67
3.3. Các yếu tố tác động đến sự hình thành các đặc điểm nhân thân người phạm tội
xâm phạm nhân phẩm, danh dự của con người trên địa bàn các tỉnh miền Đông Nam
Bộ ..............................................................................................................................85
CHƯƠNG 4 CÁC GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG PHÒNG NGỪA TÌNH HÌNH TỘI
XÂM PHẠM NHÂN PHẨM, DANH DỰ CỦA CON NGƯỜI TRÊN ĐỊA BÀN CÁC
TỈNH MIỀN ĐÔNG NAM BỘ TỪ GÓC ĐỘ NHÂN THÂN NGƯỜI PHẠM TỘI .. 118
4.1. Các biến động của các điều kiện khách quan có tác động đến sự hình thành các
đặc điểm nhân thân người phạm tội xâm phạm nhân phẩm, danh dự con người trên
địa bàn các tỉnh miền Đông Nam Bộ ......................................................................118
4.2. Tăng cường phòng ngừa tình hình tội xâm phạm nhân phẩm, danh dự con
người trên địa bàn các tỉnh miền Đông Nam Bộ từ góc độ nhân thân ....................126
KẾT LUẬN ........................................................................................................................... 147
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................... 150
PHỤ LỤC............................................................................................................................... 161
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
ANTT
: An ninh trật tự
BLHS
: Bộ luật hình sự
ĐKHK
: Đăng ký hộ khẩu
ĐNB
: Đông Nam Bộ
LHS
: Luật hình sự
NCS
: Nghiên cứu sinh
PCTP
: Phòng, chống tội phạm
PNTP
: Phòng ngừa tội phạm
TAND
: Tòa án nhân dân
THTP
: Tình hình tội phạm
TNHS
: Trách nhiệm hình sự
TP.HCM
: Thành phố Hồ Chí Minh
TPH
: Tội phạm học
VKSND
: Viện kiểm sát nhân dân
XPNPDD
: Xâm phạm nhân phẩm, danh dự
XPTD
: Xâm phạm tình dục
UBND
: Ủy ban nhân dân
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 1.1. Thống kê diện tích, dân số, mật độ dân số của các tỉnh miền Đông Nam
Bộ ............................................................................................................................161
Bảng 1.2. Tỷ suất nhập cư vào năm 2005 và năm 2010 .........................................161
Bảng 1.3. Thống kê số lượng Khu Công nghiệp các tỉnh miền Đông Nam Bộ năm
2017 .........................................................................................................................162
Bảng 1.4. Tình hình tội xâm phạm nhân phẩm, danh dự của con người theo tội danh
giai đoạn năm 2008 - năm 2017 ..............................................................................163
Bảng 1.5. Tình hình tội xâm phạm nhân phẩm, danh dự của con người tại các tỉnh
thuộc khu vực Đông Nam Bộ từ năm 2008 - năm 2017 .........................................165
Bảng 2.1. Tình hình tội xâm phạm nhân phẩm, danh dự của con người so với tội
phạm thuộc Chương XII BLHS 1999 .....................................................................166
Bảng 2.2. Tình hình tội xâm phạm nhân phẩm, danh dự của con người trên địa bàn
các tỉnh miền Đông Nam Bộ so với cả nước từ năm 2008 - năm 2017 ..................167
Bảng 3.1. Cơ cấu theo nhóm tội 800 bản án sơ thẩm và phúc thẩm tội XPNPDD con
người tại các tỉnh miền Đông Nam Bộ trong giai đoạn .........................................168
Bảng 3.2. Thành phần dân tộc của các bị cáo phạm tội XPNPDD của con người trên
địa bàn các tỉnh miền Đông Nam Bộ từ năm 2008 - năm 2017 ..............................168
Bảng 3.3. Thành phần giới tính của các bị cáo phạm tội XPNPDD của con người
trên địa bàn các tỉnh miền Đông Nam Bộ từ năm 2008 - năm 2017 ......................169
Bảng 3.4. Tình hình cơ cấu độ tuổi của các bị cáo phạm tội XPNPDD của con người
trên địa bàn các tỉnh miền Đông Nam Bộ từ năm 2008 - năm 2017 ......................169
Bảng 3.5. Tình hình cơ cấu nghề nghiệp của các bị cáo phạm tội XPNPDD của con
người trên địa bàn các tỉnh miền Đông Nam Bộ từ năm 2008 - năm 2017 ............170
Bảng 3.6. Hoàn cảnh gia đình của các bị cáo phạm tội XPNPDD của con người trên
địa bàn các tỉnh miền Đông Nam Bộ từ năm 2008 - năm 2017 ..............................170
Bảng 3.7. Đặc điểm tâm lý của các bị cáo phạm tội XPNPDD của con người trên
địa bàn các tỉnh miền Đông Nam Bộ từ năm 2008 - năm 2017 ..............................171
Bảng 3.8. Sở thích, thói quen của các bị cáo phạm tội XPNPDD của con người trên
địa bàn các tỉnh miền Đông Nam Bộ từ năm 2008 - năm 2017 ..............................171
Bảng 3.9. Số lượng người phạm tội XPNPDD của con người trên địa bàn các tỉnh
miền Đông Nam Bộ từ năm 2008 - năm 2017 ........................................................172
Bảng 3.10. Trình độ học vấn của người phạm tội XPNPDD của con người ..........172
Bảng 3.11. Nơi cư trú của người phạm tội XPNPDD của con người theo tội danh
.................................................................................................................................173
Bảng 4.1. Kết quả khảo sát, đánh giá mức độ hài lòng của các phạm nhân phạm tội
XPNPDD trên địa bàn các tỉnh miền Đông Nam Bộ về phương pháp giáo dục của
nhà trường, các giáo viên khi còn đi học ................................................................174
Bảng 4.2. Kết quả khảo sát, đánh giá mức độ hài lòng của các phạm nhân phạm tội
XPNPDD trên địa bàn các tỉnh miền Đông Nam Bộ về phương pháp giáo dục của
nhà trường, các giáo viên khi còn đi học ................................................................174
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Con người là vốn quý của xã hội, là đối tượng được pháp luật nói chung, luật
hình sự nói riêng bảo vệ đặc biệt. Bảo vệ con người trước hết là bảo vệ nhân phẩm, danh dự
và sự tự do của họ, vì đó là những vấn đề có ý nghĩa quan trọng đối với bất kỳ người nào. Ở
Việt Nam, con người được xác định vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ tổ quốc, mọi chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước đều
nhằm phấn đấu cho mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”,
tất cả là vì con người và cho con người. Quyền con người, các quyền tự do cơ bản của công
dân nói chung (trong đó có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, sức khỏe, nhân phẩm, danh
dự) được pháp luật ghi nhận, bảo vệ. Nhằm bảo đảm để các quyền con người, quyền cơ bản
của công dân được thực thi trên thực tế, Đảng và Nhà nước đã thực thi nhiều chính sách,
pháp luật, đồng thời tăng cường công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm nói chung và các
tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con người, coi đây là trách
nhiệm của Đảng, Nhà nước và của toàn xã hội. Quan điểm nhất quán này được khẳng định
trong các văn kiện của Đảng, chương trình quốc gia phòng, chống tội phạm và được thể chế
hóa đầy đủ, cụ thể trong các quy định của pháp luật hình sự, nhất là trong các văn bản pháp
luật hình sự mới được sửa đổi bổ sung những năm gần đây.
Hiến pháp năm 2013 của nước ta [73] đã khẳng định: “Ở nước Cộng hòa Xã hội Chủ
nghĩa Việt Nam, các quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa,
xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật” (Điều 14).
“Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về sức khoẻ,
danh dự và nhân phẩm; không bị tra tấn, bạo lực, truy bức, nhục hình hay bất kỳ hình thức
đối xử nào khác xâm phạm thân thể, sức khỏe, xúc phạm nhân phẩm, danh dự” (Điều 20).
Bộ Luật hình sự năm 2015 [72] cũng quy định cụ thể về tội xâm phạm nhân phẩm, danh dự
của con người tại Chương XIV.
Trong Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng một lần nữa khẳng
định: “…các quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội
được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật” [28].
1
Vùng Đông Nam Bộ bao gồm Thành phố Hồ Chí Minh và các tỉnh Bình Dương, Bình
Phước, Tây Ninh, Đồng Nai, Bà Rịa - Vũng Tàu, có tổng diện tích vào loại nhỏ so với các
vùng khác (23,6 nghìn km2), số dân vào loại trung bình (15 triệu người, năm 2014), nhưng
lại dẫn đầu cả nước về GDP, giá trị sản lượng công nghiệp và giá trị hàng xuất khẩu. Cùng
với sự phát triển kinh tế, mặt trái của kinh tế thị trường cũng mang đến cho các tỉnh miền
Đông Nam Bộ không ít những nguy cơ, thách thức, đặc biệt là trong công tác giữ gìn trật tự
xã hội trên địa bàn. Những năm qua, tình hình tội phạm nói chung và tình hình tội phạm xâm
phạm nhân phẩm, danh dự của con người trên địa bàn các tỉnh miền Đông Nam Bộ có diễn
biến phức tạp, mức độ phạm tội ngày càng tinh vi và phức tạp hơn. Theo thống kê, trong
vòng 10 năm (từ năm 2008 - năm 2017), trên địa bàn cả nước đã xét xử 45.862 vụ; khởi tố
54.482 bị cáo có liên quan đến tội xâm phạm nhân phẩm, danh dự của con người thì chỉ tính
riêng trên địa bàn các tỉnh miền Đông Nam Bộ đưa ra xét xử 10.412 vụ phạm tội xâm phạm
nhân phẩm, danh dự của con người (chiếm 22,7% số vụ); truy tố 11.157 bị cáo có liên quan
đến tội phạm xâm phạm nhân phẩm, danh dự của con người (chiếm 20,47%). Trong tổng số
56.596 vụ phạm tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của con người trên
địa bàn thì có tới 10.412 vụ có liên quan đến tội phạm xâm phạm nhân phẩm, danh dự của
con người (chiếm 18,4%); trong số 80.888 bị cáo bị xét xử về tội xâm phạm tính mạng, sức
khỏe, danh dự, nhân phẩm của con người trên địa bàn thì có tới 11.157 bị cáo liên quan đến
tội xâm phạm nhân phẩm, danh dự của con người (chiếm 13,8%). Các đối tượng phạm tội
sử dụng nhiều phương thức, thủ đoạn khác nhau để thực hiện hành vi phạm tội; người phạm
tội ngày càng manh động, liều lĩnh, công khai và trắng trợn hơn; các vụ phạm tội với tính
chất nghiêm trọng, rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng ngày càng tăng. Thực trạng trên
đã gây ra sự hoang mang, lo lắng, bất an trong nhân dân và gây mất an ninh trật tự trên địa
bàn.
Để đấu tranh phòng, chống tội phạm nói chung và tội phạm xâm phạm nhân phẩm,
danh dự nói riêng một cách có hiệu quả, một vấn đề rất quan trọng là cần nhận thức đúng
đắn về nhân thân người phạm tội, bởi nhân thân người phạm tội giữ vai trò quan trọng trong
cơ chế hành vi phạm tội. Nghiên cứu nhân thân người phạm tội trước hết giúp chúng ta định
tội, định khung và quyết định hình phạt chính xác. Một hình phạt chính xác sẽ không chỉ có
2
tác dụng phòng, ngừa riêng (ngăn ngừa tái phạm tội) mà còn có tác dụng phòng ngừa chung
đối với toàn xã hội. Bên cạnh đó, nghiên cứu nhân thân người phạm tội còn giúp xác định
đầy đủ, chính xác và toàn diện các nguyên nhân của tình hình tội phạm, giúp quá trình giáo
dục đào tạo người phạm tội đạt hiệu quả, qua đó đề xuất các giải pháp hữu hiệu trong phòng
ngừa tội phạm. Chính vai trò quan trọng đó mà hầu hết các công trình nghiên cứu chuyên
sâu về tội phạm học để giành một nội dung đáng kể để nghiên cứu làm rõ về nhân thân
người phạm tội [30, tr.5].
Xuất phát từ yêu cầu của hoạt động đấu tranh phòng, chống tội phạm nói chung và tội
phạm xâm phạm nhân phẩm, danh dự trên các tỉnh miền Đông Nam Bộ nói riêng, việc
nghiên cứu đề tài: “Nhân thân người phạm tội xâm phạm nhân phẩm, danh dự của con
người từ thực tiễn các tỉnh miền Đông Nam Bộ” mang tính cấp thiết và có ý nghĩa quan
trọng cả về lý luận và thực tiễn.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở làm rõ các đặc điểm nhân thân người phạm tội xâm phạm nhân phẩm, danh
dự của con người trên địa bàn các tỉnh miền Đông Nam Bộ, nghiên cứu phân tích các
nguyên nhân hình thành các đặc điểm nhân thân tiêu cực của những người phạm tội, luận án
hướng đến mục đích đề xuất những giải pháp tăng cường phòng ngừa tình hình tội xâm
phạm nhân phẩm, danh dự của con người trên địa bàn các tỉnh miền Đông Nam Bộ từ khía
cạnh nhân thân người phạm tội.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện mục đích trên, luận án tập trung thực hiện các nhiệm vụ sau đây:
Thứ nhất, tổng quan tình hình nghiên cứu trong nước và ngoài nước nghiên cứu các
vấn đề có liên quan đến nhân thân người phạm tội xâm phạm nhân phẩm, danh dự của con
người, từ đó chỉ ra những kết quả mà luận án có thể kế thừa, đồng thời xác định hướng
nghiên cứu của luận án;
Thứ hai, phân tích làm rõ những vấn đề lý luận về nhân thân người phạm tội xâm
phạm nhân phẩm, danh dự của con người để làm nền tảng cho việc nhận thức, phân tích làm
3
rõ thực tiễn nhân thân người phạm tội xâm phạm nhân phẩm, danh dự của con người trên
địa bàn các tỉnh miền Đông Nam Bộ;
Thứ ba, phân tích làm rõ thực tiễn nhân thân người phạm tội xâm phạm nhân phẩm,
danh dự của con người trên địa bàn các tỉnh miền Đông Nam Bộ giai đoạn từ năm 2008 năm 2017;
Thứ tư, kiến nghị các giải pháp nhằm tăng cường phòng ngừa tình hình tội xâm phạm
nhân phẩm, danh dự của con người trên địa bàn các tỉnh miền Đông Nam Bộ từ góc độ nhân
thân người phạm tội.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của Luận án là nghiên cứu các vấn đề lý luận và thực tiễn nhân
thân người phạm tội xâm phạm nhân phẩm, danh dự của con người cũng như các yếu tố tác
động đến sự hình thành các đặc điểm nhân thân người phạm tội xâm phạm nhân phẩm, danh
dự của con người trên địa bàn các tỉnh miền Đông Nam Bộ và các giải pháp tăng cường
phòng ngừa tình hình tội phạm xâm phạm nhân phẩm, danh dự của con người trên địa bàn
các tỉnh miền Đông Nam Bộ từ góc độ nhân thân người phạm tội.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài luận án “Nhân thân người phạm tội xâm phạm nhân phẩm, danh dự của con
người từ thực tiễn các tỉnh miền Đông Nam Bộ” được nghiên cứu dưới góc độ tội phạm học
và phòng ngừa tội phạm.
Phạm vi về nội dung nghiên cứu
Luận án chủ yếu đi sâu nghiên cứu các đặc điểm nhân thân người phạm tội xâm phạm
nhân phẩm, danh dự của con người trên địa bàn các tỉnh miền Đông Nam Bộ giai đoạn năm
2008 - năm 2017 và các yếu tố tác động đến sự hình thành các đặc điểm nhân thân tiêu cực
của những người phạm tội này, từ đó đề xuất những biện pháp tăng cường phòng ngừa các
tội phạm này từ góc độ nhân thân người phạm tội.
Luận án nghiên cứu trong bối cảnh Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm
2017) đã có hiệu lực pháp luật từ ngày 01/01/2018. Tuy nhiên, giai đoạn năm 2008 - năm
2017 là giai đoạn luận án nghiên cứu thực trạng nhân thân người phạm tội xâm phạm nhân
4
phẩm, danh dự của con người trên địa bàn Đông Nam Bộ thì Bộ luật hình sự năm 1999 (sửa
đổi, bổ sung năm 2009) vẫn có hiệu lực pháp luật và các hành vi phạm tội xâm phạm nhân
phẩm, danh dự của con người trên địa bàn Đông Nam Bộ xảy ra trong giai đoạn này vẫn
được giải quyết theo quy định của Bộ luật hình sự năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009).
Vì vậy, khi nghiên cứu về các dấu hiệu của tội xâm phạm nhân phẩm, danh dự của con
người, luận án vẫn chủ yếu nghiên cứu theo quy định của Bộ luật hình sự năm 1999 (sửa
đổi, bổ sung năm 2009) có so sánh với những điểm mới trong quy định của BLHS năm
2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).
Phạm vi về không gian và thời gian
Luận án nghiên cứu về các hành vi phạm tội xâm phạm nhân phẩm, danh dự của con
người được xét xử tại các Tòa án trên địa bàn các tỉnh miền Đông Nam Bộ, trong giai đoạn
10 năm (năm 2008 - năm 2017).
4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
4.1. Phương pháp luận
Luận án được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận của Chủ nghĩa Mác - Lênin về
phép duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp
luật, các quan điểm, đường lối của Đảng cộng sản Việt Nam và Nhà nước Cộng hòa Xã hội
Chủ nghĩa Việt Nam về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và cải cách tư
pháp, về hoàn thiện hệ thống pháp luật, tăng cường và nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng,
chống tội phạm nói chung và tội xâm phạm nhân phẩm, danh dự của con người nói riêng để
giải quyết các nhiệm vụ nghiên cứu đã được đề ra.
4.2. Phương pháp nghiên cứu cụ thể
Để nghiên cứu đề tài trên đây, luận án đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau:
- Phương pháp thống kê: thu nhập, thống kê và xử lý số liệu từ thống kê của Tòa án
nhân dân các cấp trên địa bàn các tỉnh miền Đông Nam Bộ và các bản án đã xét xử về tội
xâm phạm nhân phẩm, danh dự trên địa bàn miền Đông Nam Bộ giai đoạn năm 2008 - năm
2017 để phân tích làm rõ các đặc điểm của nhân thân người phạm tội xâm phạm nhân phẩm,
danh dự của con người.
5
- Phương pháp nghiên cứu điển hình: Nghiên cứu sinh sử dụng phương pháp này để
nghiên cứu, đánh giá 800 bản án, trong đó có sử dụng một số vụ án điển hình về tội xâm
phạm nhân phẩm, danh dự đã xét xử nhằm phân tích làm rõ những đặc điểm cơ bản về nhân
thân người phạm tội xâm phạm nhân phẩm, danh dự của con người trên địa bàn miền Đông
Nam Bộ.
- Phương pháp điều tra xã hội học: Phương pháp này được tiến hành thông qua các
phiếu điều tra xã hội học để thu thập ý kiến của một số phạm nhân phạm tội xâm phạm nhân
phẩm, danh dự của con người, phụ huynh các gia đình, thầy cô, học sinh... trên địa bàn miền
Đông Nam Bộ để đánh giá về thực tiễn phòng ngừa tội xâm phạm nhân phẩm, danh dự của
con người từ góc độ nhân thân người phạm tội.
Ngoài ra luận án cũng sử dụng các phương pháp nghiên cứu truyền thống của khoa
học xã hội như phân tích, bình luận, suy luận logic, quy nạp, diễn dịch... trong quá trình
nghiên cứu để xây dựng các luận chứng, luận cứ và lập luận trong các nội dung của luận án.
5. Những đóng góp mới của luận án
Có thể nói, đây là một công trình nghiên cứu khoa học còn rất mới tại Việt Nam ở cấp
độ luận án Tiến sĩ nghiên cứu về nhân thân người phạm tội xâm phạm nhân phẩm, danh dự
của con người từ thực tiễn các tỉnh miền Đông Nam Bộ. Công trình có những đóng góp mới
như sau:
- Luận án đã tổng quan các công trình nghiên cứu trong nước và nước ngoài nghiên
cứu các vấn đề có liên quan đến nhân thân người phạm tội, từ đó khái quát những kết quả đạt
được của các công trình nghiên cứu có liên quan đến nhân thân người phạm tội xâm phạm
nhân phẩm, danh dự của con người.
- Luận án đã làm rõ được những vấn đề lý luận về nhân thân người phạm tội xâm
phạm nhân phẩm, danh dự của con người như: khái niệm, đặc điểm và phân loại nhân thân
người phạm tội; quá trình hình thành nhân thân người phạm tội; ý nghĩa của việc nghiên cứu
nhân thân người phạm tội xâm phạm nhân phẩm, danh dự của con người....
- Luận án phân tích làm rõ những đặc điểm nhân thân người phạm tội xâm phạm nhân
phẩm, danh dự của con người trên địa bàn các tỉnh miền Đông Nam Bộ giai đoạn năm 2008
- năm 2017, các yếu tố tác động đến quá trình hình thành các đặc điểm nhân thân tiêu cực
6
của người phạm tội xâm phạm nhân phẩm, danh dự của con người trên địa bàn các tỉnh miền
Đông Nam Bộ giai đoạn năm 2008 - năm 2017.
- Luận án kiến nghị các giải pháp nhằm tăng cường phòng ngừa tội xâm phạm nhân
phẩm, danh dự của con người trên địa bàn các tỉnh miền Đông Nam Bộ từ khía cạnh nhân
thân người phạm tội.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của việc nghiên cứu luận án
6.1. Ý nghĩa về mặt lý luận
Những kết quả nghiên cứu của luận án góp phần làm phong phú thêm lý luận của tội
phạm học nói chung, lý luận về nhân thân người phạm tội nói riêng, đặc biệt là nhân thân
người phạm tội xâm phạm nhân phẩm, danh dự của con người.
6.2. Ý nghĩa về mặt thực tiễn
Những kết quả nghiên cứu của luận án có thể được dùng làm tài liệu phục vụ cho quá
trình nghiên cứu, tham khảo, giảng dạy và học tập các môn học tội phạm học trong hệ thống
các trường đào tạo.
Kết quả nghiên cứu của luận án cũng có thể dùng làm tài liệu tham khảo hữu ích cho
các cơ quan bảo vệ pháp luật ở các tỉnh miền Đông Nam Bộ trong quá trình đấu tranh
phòng, chống tội phạm nói chung và phòng, chống tội xâm phạm nhân phẩm, danh dự của
con người nói riêng.
7. Cấu trúc của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục luận án được kết
cấu như sau:
Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu
Chương 2: Những vấn đề lý luận về nhân thân người phạm tội xâm phạm nhân phẩm,
danh dự của con người
Chương 3: Thực trạng nhân thân người phạm tội xâm phạm nhân phẩm, danh dự của
con người từ thực tiễn các tỉnh miền Đông Nam Bộ
Chương 4: Các giải pháp tăng cường phòng ngừa tình hình tội xâm phạm nhân phẩm,
danh dự của con người trên địa bàn các tỉnh miền Đông Nam Bộ từ góc độ nhân thân người
phạm tội
7
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
1.1. Tình hình nghiên cứu ở nước ngoài
Trong thời gian qua, đã có nhiều công trình nước ngoài nghiên cứu các vấn đề có liên
quan đến đề tài. Có thể chia các công trình đó thành các nhóm sau đây:
1.1.1. Nhóm công trình nghiên cứu các vấn đề cơ bản của Tội phạm học
* “An introduction to Crime and Criminology” (tạm dịch: Giới thiệu về tội phạm và
tội phạm học) của Hennessy Hayes và Tim Prenzler [139]: Đây là công trình chuyên khảo
nghiên cứu về tình hình tội phạm (THTP) và nhân thân người phạm tội, trong đó các tác giả
đã chỉ ra nguyên nhân và điều kiện của tội phạm chịu ảnh hưởng lớn bởi các yếu tố tiêu cực
(từ phía người bị hại, môi trường xã hội, chính sách pháp luật, môi trường giáo dục...) đồng
thời đưa ra chiến lược và các phương pháp đấu tranh phòng, chống một số loại tội phạm cụ
thể....
Nghiên cứu tài liệu này giúp Nghiên cứu sinh (NCS) có những nhận thức đầy đủ hơn
về lý luận phòng ngừa tội phạm (PNTP), các yếu tố tác động đến quá trình hình thành các
đặc điểm nhân thân tiêu cực ở người phạm tội.
* “Crime prevention - Theory and Practice” (tạm dịch: Phòng ngừa tội phạm - Lý
luận và thực tiễn) của Stephen R. Schneider [153]: Trong tác phẩm tác giả nhấn mạnh các
vấn đề lý luận về PNTP, các tình huống phòng, chống tội phạm (PCTP) thông qua thiết kế
môi trường... dựa trên nguyên tắc loại trừ các yếu tố tiêu cực từ môi trường là nguyên nhân
tác động hình thành các đặc điểm nhân thân tiêu cực ở người phạm tội.
Nghiên cứu tài liệu này giúp NCS có những nhận thức đầy đủ hơn về lý luận PNTP,
vai trò của việc nghiên cứu nhân thân người phạm tội trong quá trình PNTP. Đặc biệt là đưa
ra các giải pháp nhằm hạn chế các tác động của các yếu tố tiêu cực đến quá trình hình thành
nhân thân xấu ở người phạm tội.
* Sách “Cơ sở lý luận của việc phòng ngừa tội phạm” của G.M. Mikovskij (bản dịch
của Viện thông tin Khoa học xã hội - 1982) [138] là một công trình nghiên cứu chuyên sâu
về lý luận PNTP, trong đó tác giả đưa ra hệ thống các biện pháp phòng ngừa chung và riêng
8
áp dụng đối với các đối tượng phạm tội cụ thể... Các giải pháp được xây dựng trên nguyên
tắc loại trừ các yếu tố tiêu cực tác động đến sự hình thành các đặc điểm nhân thân tiêu cực
cũng như động cơ, mục đích của người phạm tội.
* “Crime and criminology in Japan” (tạm dịch: Tội phạm và tội phạm học ở Nhật
Bản) của Can Ueda [133]: Trong tác phẩm này Giáo sư, Tiến sĩ luật học Nhật Bản Can Ueda
đưa ra quan điểm cho rằng tội phạm học (TPH) là khoa học nghiên cứu tội phạm và đề ra
các biện pháp đấu tranh, phòng chống. Đồng thời, tác giả đã chỉ ra các nguyên nhân, điều
kiện của THTP, các điều kiện cá nhân, xã hội của tội phạm (trong đó nhấn mạnh những đặc
điểm nhân thân người phạm tội, như giới tính, lứa tuổi,...) và cả những hạn chế của quá trình
đô thị hóa, sự phát triển kinh tế, văn hóa - xã hội cùng những xáo trộn trong xã hội do sự tập
trung dân cư, đô thị hóa ... Tuy không nghiên cứu chuyên sâu về nhân thân người phạm tội,
nhưng công trình này đã đề cập đến những đặc điểm nhân thân tiêu biểu của người phạm tội
và tác động của những điều kiện kinh tế, văn hóa - xã hội đến sự hình thành các đặc điểm
nhân thân người phạm tội cũng như ảnh hưởng của chúng đến sự phát sinh hành vi phạm tội.
* “The Liverpool underworld: crime in the city, 1750 - 1900” (tạm dịch: Thế giới
ngầm ở Liverpool: Tội phạm trong thành phố giai đoạn 1750 - 1900) của Macilwee [146]:
Trong công trình nghiên cứu này tác giả đề cập về thực trạng THTP ở Liverpool trong Thế
kỷ 19 và phân tích những nguyên nhân, điều kiện, hoàn cảnh và các sự kiện tác động đến
từng cá nhân để hình thành các đặc điểm, thói quen, sở thích tiêu cực dễ dẫn đến phát sinh
tội phạm ở thành phố này, đồng thời đề xuất các biện pháp nhằm loại trừ các nguyên nhân và
điều kiện dẫn đến tội phạm... Nghiên cứu tài liệu giúp NCS hiểu rõ hơn về các đặc điểm về
tâm lý trong nhân thân người phạm tội cũng như một số yếu tố tác động đến quá trình hình
thành nhân thân tiêu cực ở người phạm tội.
1.1.2. Nhóm công trình nghiên cứu các vấn đề chuyên sâu của Tội phạm học
* “Youth crime and youth culture in the inner city” (tạm dịch: Tội phạm thanh, thiếu
niên và văn hóa giới trẻ trong khu vực nội thành) của Sanders, Bill [151]: Trong công trình
này tác giả đã phân tích bức tranh toàn cảnh về xu hướng gia tăng THTP do thanh, thiếu niên
thực hiện ở thành phố của xã hội hiện đại, làm rõ một số đặc điểm nhân thân người phạm tội,
như động cơ, thái độ của người phạm tội và tác động của môi trường kinh tế - xã hội đối với
9
sự hình thành các đặc điểm về nhân thân người phạm tội... Qua nghiên cứu tài liệu, NCS có
những nhận thức về đặc điểm nhân thân người phạm tội như: độ tuổi, địa bàn cư trú, hoàn
cảnh gia đình ở một số loại tội phạm cụ thể.
* “Vì sao họ phạm tội? Tình trạng thanh, thiếu niên phạm tội ở các nước tư bản chủ
nghĩa” của Melinikova E.B [135]: Trong tác phẩm này nhà TPH người Nga đã chỉ ra những
nguyên nhân chủ yếu của THTP trong xã hội tư bản chủ nghĩa và cho rằng hoàn cảnh vật
chất và sự chênh lệch lớn giữa giàu và nghèo là những yếu tố ảnh hưởng rất lớn đến việc
hình thành những đặc điểm nhân thân người phạm tội, như cách xử sự, lối sống của người
phạm tội, đặc biệt là đối với người chưa thành niên phạm tội. Tuy nhiên, tác giả mới chỉ
phân tích về nguyên nhân phạm tội cũng như nguyên nhân hình thành một số đặc điểm nhân
thân của một nhóm người trong xã hội là người chưa thành niên... Mặt khác, kết quả nghiên
cứu này được rút ra từ thập niên 70 của Thế kỷ trước nên những kết quả nghiên cứu đã
không còn phù hợp với tình hình kinh tế - xã hội, khoa học, công nghệ hiện nay. Mặc dù
vậy, công trình cũng phần nào nói lên tác động của điều kiện sống đến sự hình thành các đặc
điểm nhân thân như động cơ, mục đích phạm tội của nhóm người chưa thành niên phạm tội.
Nghiên cứu tài liệu này có ý nghĩa rất quan trọng trong việc kế thừa các kiến thức lý
luận về nhân thân người phạm tội cũng như phương pháp nghiên cứu các yếu tố tác động
đến sự hình thành các đặc điểm nhân thân người phạm tội nói chung, nhân thân người phạm
tội xâm phạm nhân phẩm, danh dự (XPNPDD) của con người nói riêng.
* “Predators: Pedophiles, Rapists, And Other Sex Offenders” (tạm dịch: Tội phạm
tình dục: Ấu dâm, hiếp dâm và những người phạm tội tình dục khác - 2004) của Anna Salter
[128]: Trong cuốn sách này tác giả phân tích làm sáng tỏ một số đặc điểm nhân thân người
phạm tội, như động cơ, mục đích và một số đặc điểm tâm sinh lý đã thúc đẩy một số người
phạm tội tình dục và những thủ đoạn, kỹ thuật lừa đảo tinh vi mà họ sử dụng để tránh bị phát
hiện... đồng thời đề xuất những biện pháp cần thiết giúp chúng ta để bảo vệ gia đình và bản
thân....
Thông qua việc nghiên cứu tài liệu, NCS có nhận thức về cơ chế tâm lý của người
phạm tội nói chung và người phạm tội xâm phạm tình dục (XPTD), đồng thời giúp NCS
phân biệt được những điểm khác biệt khi nghiên cứu về nhân thân người phạm tội dưới góc
10
độ điều tra hình sự và TPH, đây là một trong những cơ sở để NCS hoàn thiện nội dung lý
luận ở Chương 2 của luận án.
* Đánh giá chung: Qua nghiên cứu các công trình ở ngoài nước nêu trên, thấy rằng
các công trình này (ở mức độ khác nhau) đều đề cập đến vấn đề TPH và PNTP, đây là
những lý luận nền tảng giúp NCS có những hiểu biết khái quát nhất về vấn đề TPH, THTP
cũng như các vấn đề có liên quan đến nội dung luận án.
Đặc biệt, một số tài liệu chuyên sâu nghiên cứu về một số tội phạm cụ thể trên một địa
bàn cụ thể đã có những nghiên cứu sâu về nhân thân người phạm tội, coi đó như một yếu tố
đóng vai trò là nguyên nhân làm phát sinh hành vi phạm tội, làm sáng tỏ cơ chế của hành vi
phạm tội, nghiên cứu một số yếu tố có tác động đến sự hình thành các đặc điểm nhân thân
người phạm tội. Trên cơ sở đó các tác giả đề xuất các giải pháp khác nhau nhằm phòng,
chống có hiệu quả đối với THTP nói chung và các nhóm tội phạm cụ thể nói riêng. NCS sẽ
kế thừa có chọn lọc các kết quả nghiên cứu của các công trình này trong việc xây dựng cơ sở
lý luận và phương pháp luận làm nền tảng cho việc nghiên cứu đề tài luận án của mình. Bên
cạnh đó, kết quả nghiên cứu của các công trình này cũng còn bỏ ngỏ nhiều vấn đề như: Cơ
sở lý luận và thực tiễn nghiên cứu về nhân thân người phạm tội XPNPDD của con người,
phòng ngừa tội XPNPDD của con người từ góc độ nhân thân người phạm tội... Đây là
những vấn đề mà luận án sẽ đi sâu nghiên cứu.
1.2. Tình hình nghiên cứu trong nước
1.2.1. Nhóm công trình nghiên cứu các vấn đề cơ bản của Tội phạm học
* Giáo trình TPH: Giáo trình TPH của các cơ sở đào tạo luật ở Việt Nam (như Đại
học Luật Hà Nội; Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh; Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội;
Học viện Cảnh sát, Học viện An ninh nhân dân, Đại học Huế...) là các công trình nghiên cứu
mang tính hệ thống và bao quát nhất các vấn đề lý luận về THTP, nguyên nhân và điều kiện
của THTP, nhân thân người phạm tội và các biện pháp PCTP... Tất cả các giáo trình đều đề
cập đến nhân thân người phạm tội vì nhân thân người phạm tội là một nội dung quan trọng
trong TPH. Ví dụ: Trong“Giáo trình tội phạm học” của Đại học Huế, GS.TS.Võ Khánh
Vinh cho rằng “Việc phân tích các nguyên nhân và điều kiện của tội phạm cụ thể chỉ ra
rằng không thể nhận thức, hiểu biết được các nguyên nhân và điều kiện đó nếu thiếu việc
11
cân nhắc nhân thân người phạm tội, bản chất, các đặc điểm và quá trình hình thành
nó”[117, tr.127]. Nhận định này cho thấy vai trò rất quan trọng của việc nghiên cứu nhân
thân người phạm tội. Sở dĩ như vậy là vì nghiên cứu nhân thân người phạm tội sẽ giúp người
nghiên cứu nhận thức rõ hơn nguyên nhân và điều kiện của THTP, từ đó sẽ có căn cứ để đề
ra các giải pháp phòng ngừa hữu hiệu THTP. GS.TS. Võ Khánh Vinh cũng khẳng định:
“Nhân thân người phạm tội là một bộ phận cấu thành tất yếu và rất quan trọng của cơ chế
hành vi phạm tội, còn các hoàn cảnh của sự hình thành các đặc điểm tâm lý - xã hội tiêu cực
của cá nhân xuất hiện trước các đặc điểm của cá nhân nằm trong mối quan hệ nhân quả với
tình hình tội phạm” [117, tr.127]. Khẳng định này cho thấy, muốn làm rõ cơ chế hành vi
phạm tội không thể không nghiên cứu nhân thân người phạm tội. Muốn làm rõ nguyên nhân
của việc hình thành các đặc điểm nhân thân người phạm tội thì chắc chắn phải làm rõ môi
trường sống, nơi chứa đựng các hoàn cảnh của sự hình thành các đặc điểm nhân thân người
phạm tội. Giáo trình Tội phạm học của Trường đại học Luật Hà Nội [106] viết “Nhân thân
người phạm tội với tổng thể các đặc điểm có tác động chi phối hành vi phạm tội và cũng
chính là kết quả của sự tác động qua lại giữa người phạm tội và môi trường xã hội của
người phạm tội” [106, tr.146]. Cách tiếp cận này cũng cho thấy rõ vai trò của việc nghiên
cứu nhân thân người phạm tội trong việc làm rõ nguyên nhân và điều kiện của THTP. Có
thể thấy, nhân thân người phạm tội là một nội dung quan trọng trong tất cả các giáo trình
TPH.
* Các sách chuyên khảo: Đây cũng là những công trình đi sâu nghiên cứu các vấn đề
lý luận về THTP, nguyên nhân và điều kiện của THTP, nhân thân người phạm tội và các
biện pháp PNTP... Tuy nhiên, khác với giáo trình luôn nghiên cứu tất cả các vấn đề lý luận
thì các công trình chuyên khảo chỉ đi sâu nghiên cứu một hoặc một số vấn đề lý luận. Xin
nêu một công trình tiêu biểu là: “Tội phạm học Việt Nam - Một số vấn đề lý luận và thực
tiễn” (2000) của Viện nghiên cứu Nhà nước và Pháp luật. Trong công trình này (Phần II.
Đối tượng nghiên cứu của Tội phạm học Việt Nam), tác giả TS. Nguyễn Mạnh Kháng đã
phân tích làm rõ nhân thân người phạm tội là một trong các đối tượng nghiên cứu của TPH:
“Tội phạm là ngành khoa học chuyên nghiên cứu về tội phạm có nhiệm vụ phát hiện quy
luật phát sinh, tồn tại và vận động của tội phạm, do đó, nó không thể không nghiên cứu về
12
người phạm tội. Hơn thế nữa, bất cứ đối tượng nghiên cứu nào của tội phạm học cũng có
quan hệ chặt chẽ với người phạm tội”.[113, tr.94]. Khẳng định này cho thấy nghiên cứu về
TPH không thể không nghiên cứu nhân thân người phạm tội. Người phạm tội với các đặc
điểm nhân thân của mình giữ vai trò quan trọng trong cơ chế hành vi phạm tội bởi một lẽ
đơn giản, không có người phạm tội thì chắc chắn không có hành vi phạm tội. Hành vi phạm
tội luôn xuất phát từ con người và nghiên cứu nhân thân người phạm tội sẽ cho thấy rõ cơ
chế hành vi phạm tội.
1.2.2. Nhóm công trình nghiên cứu các vấn đề về nhân thân người phạm tội
* Các luận án và luận văn thạc sĩ nghiên cứu theo chuyên ngành TPH: Hầu hết các
luận án tiến sỹ, luận văn thạc sĩ nghiên cứu theo chuyên ngành TPH đều ít nhiều nghiên cứu
về nhân thân người phạm tội. Các luận án, luận văn cao học nghiên cứu về đề tài tình hình,
nguyên nhân, điều kiện và PNTP nói chung hay một loại tội phạm cụ thể hoặc đề tài PNTP
đều có nghiên cứu về nhân thân người phạm tội với mục đích làm rõ nguyên nhân của
THTP, từ đó có căn cứ PNTP. Các công trình thuộc nhóm này có rất nhiều nên NCS không
nêu cụ thể. Trong phạm vi nhóm này, NCS chỉ nêu một số công trình chuyên nghiên cứu về
nhân thân người phạm tội ở một địa bàn nhất định hoặc nhân thân người phạm một tội, một
nhóm tội ở một địa bàn nhất định. Cụ thể kể ra một số công trình tiêu biểu sau đây:
- Luận văn “Đặc điểm nhân thân người phạm tội hiếp dâm trẻ em trên địa bàn tỉnh
Đồng Nai dưới góc độ tội phạm học” (2015) của Ngô Minh Hải [36]. Luận văn đã nghiên
cứu làm rõ một số vấn đề lý luận về nhân người phạm tội nói chung và nhân thân người
phạm tội hiếp dâm trẻ em; phân tích làm rõ thực trạng nhân thân người phạm tội Hiếp dâm
trẻ em trên địa bàn tỉnh Đồng Nai giai đoạn năm 2010 -năm 2015; và nguyên nhân hình
thành những đặc điểm nhân thân tiêu cực của người phạm tội Hiếp dâm trẻ em trên địa bàn
tỉnh Đồng Nai. Trong đó, tác giả luận văn nhấn mạnh đến các yếu tố nhân thân người phạm
tội Hiếp dâm trẻ em trên địa bàn tỉnh Đồng Nai như trình độ học vấn thấp, thất nghiệp hoặc
có nghề nghiệp không ổn định, giới tính là nam giới, hoàn cảnh gia đình khó khăn hay có
cấu trúc không hoàn hảo, tái phạm, tái phạm nguy hiểm,... làm cho họ bị sai lệch trong nhân
cách, nhất là sai lệch về ý thức pháp luật, sai lệch về động cơ hóa hành vi phạm tội và sai
lệch trong quá trình thực hiện hành vi phạm tội. Luận văn cũng đề xuất các giải pháp tăng
13
cường phòng ngừa tình hình tội Hiếp dâm trẻ em trên địa bàn tỉnh Đồng Nai từ góc độ nhân
thân người phạm tội.
- Luận văn Thạc sĩ luật học: Nhân thân người phạm tội hiếp dâm trẻ em trên địa bàn
tỉnh Bình Phước của Nguyễn Thanh Tuấn (2017), Học viện khoa học xã hội. Luận văn đã
nghiên cứu làm rõ một số vấn đề lý luận về nhân người phạm tội nói chung và nhân thân
người phạm tội Hiếp dâm trẻ em; Phân tích làm rõ thực trạng nhân thân người phạm tội
Hiếp dâm trẻ em trên địa bàn tỉnh Bình Phước giai đoạn năm 2012 - năm 2017; và nguyên
nhân hình thành những đặc điểm nhân thân tiêu cực của người phạm tội Hiếp dâm trẻ em
trên địa bàn tỉnh Bình Phước. Từ đó, tác giả đã đề ra các giải pháp góp phần PNTP hiếp dâm
trẻ em trên địa bàn tỉnh Bình Phước từ góc độ nhân thân người phạm tội.
- Luận văn Thạc sĩ luật học: Nhân thân người thực hiện các tội xâm phạm tình dục
trên địa bàn tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu của Bùi Ai Giôn (2017), Học viện khoa học xã hội.
Trong luận văn của mình, tác giả đã phân tích, làm rõ lý luận về nhân thân người phạm tội,
các đặc điểm của nhân thân người phạm tội XPTD trên địa bàn tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, các
yếu tố tác động đến quá tình hình thành những đặc điểm nhân thân tiêu cực ở người thực
hiện các hành vi phạm tội này. Từ đó, tác giả đưa ra các giải pháp góp phần PNTP XPTD
trên địa bàn tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu từ góc độ nhân thân người phạm tội.
Ngoài ra, còn có rất nhiều Luận văn thạc sĩ luật học khác cũng nghiên cứu các vấn đề
về nhân thân người phạm tội nói chung và nhân thân người phạm một số tội cụ thể trong
phạm vi một địa phương nhất định như: Luận văn thạc sĩ luật học “Các tình tiết giảm nhẹ
trách nhiệm hình sự thuộc về nhân thân người phạm tội” (2015) của Chu Thanh Hà [35];
Luận văn Thạc sĩ luật học: Nhân thân người phạm tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm
đoạt trên địa bàn tỉnh Quảng Nam của Nguyễn Bá Ngọc (2018), Học viện Khoa học xã hội;
Luận văn Thạc sĩ luật học: Nhân thân người phạm tội về ma túy trên địa bàn thành phố Đà
Nẵng của Trần Thanh Tịnh (2018), Học viện Khoa học xã hội; Luận văn Thạc sĩ luật học:
Nhân thân người phạm tội cướp giật tài sản trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh của Lê
Ngô Phương Thanh (2017), Học viện khoa học xã hội; Luận văn Thạc sĩ Luật học: Nhân
thân người phạm tội xâm phạm sở hữu trên địa bàn tỉnh Bình Dương của Phạm Thị Triều
Mến (2016), Học viện khoa học xã hội; ......
14
* Các bài viết ở góc độ TPH: Có rất nhiều bài viết của các tác giả đăng trên các tạp chí
chuyên ngành đề cập về các vấn đề khác nhau của TPH, nhân thân người phạm tội, các biện
pháp đấu tranh PCTP nói chung và các tội phạm cụ thể nói riêng như: Bài “Nhân thân người
phạm tội - Một số vấn đề lý luận cơ bản” của PGS.TSKH. Lê Cảm [8]; Bài “Một số vấn đề
về nhân thân người phạm tội” (2013) của Nguyễn Quang Hạnh [37]; Bài “Một số vấn đề về
nhân thân người phạm tội” (2001) của Nguyễn Thị Thanh Thuỷ [82]; Bài “Đặc điểm nhân
thân người phạm tội và phương thức thực hiện tội trộm cắp tài sản trên địa bàn tỉnh Gia
Lai” (2015) của Lê Văn Định [30]; Bài “Một số đặc điểm nhân thân người phạm tội trong
lĩnh vực ngân hàng trên địa bàn các tỉnh, thành phố phía nam Việt Nam” của Phạm Văn
Trung, đăng trên Tạp chí Khoa học Viện Đại học Mở Hà Nội, số 40, tháng 2/2018, tr.11-16;
Bài “Đặc trưng nhân thân người phạm tội cướp trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh” của
Nguyễn Thị Phương Ngọc, đăng trên Tạp chí Khoa học Viện Đại học Mở Hà Nội, số 41,
tháng 3/2018, tr.61-76; Bài “Những đặc điểm nhân thân điển hình của người phạm tội về ma
túy trên địa bàn tỉnh Nam Định” của Phạm Tuấn Tài, đăng trên Tạp chí Khoa học Viện Đại
học Mở Hà Nội, số 41, tháng 3/2018, tr.77-84….
1.3. Đánh giá tổng quan tình hình nghiên cứu và những vấn đề đặt ra cần tiếp tục
nghiên cứu trong luận án
1.3.1. Những vấn đề đã thống nhất
Dưới góc độ TPH, các công trình nghiên cứu trên về cơ bản đã đạt được sự thống nhất
về các vấn đề sau đây:
Một là, các quan điểm mà các tác giả nêu ra đều thống nhất về mặt nội hàm của khái
niệm nhân thân người phạm tội, khi cho rằng nhân thân người phạm tội là tổng hợp các yếu
tố, đặc điểm riêng biệt ở người phạm tội. Những đặc điểm này kết hợp, tác động cùng với
những tình huống, hoàn cảnh khách quan cụ thể khác làm phát sinh hành vi xử sự của một
người nào đó mang tính nguy hiểm cao cho xã hội mà pháp luật hình sự (LHS) quy định là
phạm tội. Điển hình như các học giả hàng đầu: Nhóm tác giả Hennessy Hayes và Tim
Prenzler; GS. Võ Khánh Vinh; GS.TS. Phạm Văn Cảnh, PGS.TS. Phạm Văn Tỉnh; TS.
Nguyễn Mạnh Kháng;....
15
Hai là, về các đặc điểm về nhân thân người phạm tội. Các học giả nghiên cứu chuyên
sâu trong lĩnh vực TPH và PNTP, như GS. Võ Khánh Vinh; GS.TS. Phạm Văn Cảnh,
PGS.TS. Phạm Văn Tỉnh... trong các công trình của mình đều cho rằng, các đặc trưng nhân
thân người phạm tội nói chung, người phạm tội XPNPDD của con người gồm các nhóm:
Đặc điểm nhân chủng học xã hội; đặc điểm về tâm lý - xã hội; đặc điểm pháp lý hình sự.
Đồng thời các tác giả cũng đã phân tích các yếu tố tác động đến quá trình hình thành những
đặc điểm nhân thân tiêu cực của người phạm tội.
Ba là, các công trình nghiên cứu vấn đề nhân thân người phạm tội (của các tác tác giả
trong nước và nước ngoài) đều đã đưa ra quan điểm cho rằng những đặc điểm nhân thân tiêu
cực ở người phạm tội đều được hình thành thông qua sự tác động qua lại của nhiều yếu tố, cả
những yếu tố khách quan (môi trường xã hội, kinh tế) và các yếu tố chủ quan (tâm lý, tuổi...).
Bốn là, các công trình nghiên cứu cũng đã đưa ra các biện pháp PNTP nói chung và
phòng ngừa tội XPNPDD của con người nói riêng từ góc độ nhân thân bao gồm các biện
pháp pháp lý; các biện pháp kinh tế; các biện pháp văn hóa - xã hội; các biện pháp về tổ chức
- quản lý,....
1.3.2. Một số vấn đề còn tranh luận
* Ở góc độ LHS, các quan điểm không thống nhất tập trung vào một số nội dung sau:
1) Quan điểm khác nhau về khái niệm “nhân phẩm, danh dự” (khách thể bị xâm hại)
dẫn đến các ý kiến khác nhau về phạm vi tội XPNPDD của con người được quy định trong
Bộ Luật Hình sự (BLHS):
- Ý kiến thứ nhất cho rằng tội XPNPDD của con người bao gồm 10 tội được quy định
tại các Điều 111 - 122 của BLHS năm 1999, trừ tội lây truyền HIV cho người khác (Điều
117) và tội cố ý truyền HIV cho người khác (Điều 118), tương ứng với 12 tội được quy định
trong BLHS năm 2015 (do tội mua bán, đánh tráo hoặc chiếm đoạt trẻ em được tách thành
03 tội) gồm: Tội Hiếp dâm - Điều 141, tội Hiếp dâm người dưới 16 tuổi - Điều 142, tội
Cưỡng dâm - Điều 143, tội Cưỡng dâm người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi - Điều 144, tội
Giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16
tuổi - Điều 145, tội Dâm ô đối với người dưới 16 tuổi - Điều 146, tội Mua bán người - Điều
150, tội Mua bán người dưới 16 tuổi - Điều 151, tội Đánh tráo người dưới 01 tuổi - Điều
16
152, tội Chiếm đoạt người dưới 16 tuổi - Điều 153, tội Làm nhục người khác - Điều 155 và
tội vu khống - Điều 156) [67].
- NCS đồng tình với ý kiến thứ hai cho rằng tội XPNPDD của con người còn bao gồm
cả tội sử dụng người dưới 16 tuổi vào mục đích khiêu dâm - mới được bổ sung quy định tại
Điều 147 BLHS năm 2015 [72]. Sở dĩ NCS đồng ý với quan điểm này xuất phát từ việc
hành vi sử dụng người dưới 16 tuổi vào mục đích khiêu dâm đã xâm hại đến sự phát triển
bình thường của người dưới 16 tuổi thông qua việc sử dụng họ vào các hoạt động khiêu
dâm, mặc dù hành vi này không trực tiếp xâm phạm tự do tình dục nhưng XPNPDD và
thậm chí là sức khỏe của nạn nhân.
2) Nhận thức khác nhau về các hành vi XPTD bị coi là tội phạm: Nguyên nhân là do
trong BLHS năm 1999 cũng như BLHS năm 2015 không mô tả (định nghĩa) rõ về hành vi
khách quan của các tội phạm này (nội hàm của hành vi giao cấu, dâm ô). Tại Bản tổng kết số
329-HS2 về tổng kết và hướng dẫn đường lối xét xử tội Hiếp dâm và một số tội phạm khác
về mặt tình dục ngày 11/05/1967 của TANDTC có đưa ra định nghĩa về hành vi giao cấu là
“sự cọ xát trực tiếp dương vật vào bộ phận sinh dục của người phụ nữ (bộ phận từ môi lớn
trở vào) với ý thức ấn sâu vào trong không kể sự xâm nhập của dương vật là sâu hay cạn,
không kể có xuất tinh hay không”. Hướng dẫn này được áp dụng trong thực tiễn điều tra, truy
tố và xét xử các vụ án XPTD ở Việt Nam trong gần 50 năm qua và cho đến nay chưa có văn
bản nào khác thay thế.
Thực tiễn cho thấy ngoài hành vi giao cấu, thì hành vi XPTD (hiếp dâm, dâm ô) còn
được thực hiện dưới các hình thức rất đa dạng khác (như thông qua đường hậu môn, đường
miệng, hành vi trực tiếp hoặc dùng công cụ xâm hại bộ phận sinh dục của cả nam giới và nữ
giới). Mặt khác, theo quy định của BLHS năm 2015 (các Điều 141 - 146), ngoài hành vi
giao cấu, dâm ô thông thường, thì các hành vi quan hệ tình dục, dâm ô khác trái ý muốn của
nạn nhân đều bị coi là tội phạm. Điều đó có nghĩa là BLHS năm 2015 đã mở rộng phạm vi
các hành vi khách quan bị coi là tội phạm (Chương 2 của Luận án sẽ làm rõ về các hành vi
khách quan của nhóm tội phạm này).
3) Nhận thức không thống nhất về chủ thể và đối tượng bị xâm hại (nạn nhân) trong tội
XPNPDD của con người:
17
- Quan điểm thứ nhất bảo lưu quan niệm truyền thống của khoa học LHS XHCN (Xô
Viết) trước đây cho rằng tội XPTD là nhóm tội có chủ thể đặc biệt: Người thực hành chỉ có
thể là nam giới, còn nữ giới chỉ có thể là đồng phạm (với vai trò chủ mưu, xúi dục, giúp sức)
của tội này. Đối tượng bị xâm hại trong tội XPTD cũng chỉ có thể là nữ giới [126, tr.343365]. Ở Việt Nam, quan điểm về chủ thể của tội XPTD chỉ có thể là nam giới và nạn nhân
(đối tượng bị xâm hại) trong các vụ án XPTD (hiếp dâm, dâm ô) chỉ có thể là nữ giới được
mặc nhiên thừa nhận theo hướng dẫn tại Bản tổng kết số 329/HS2 nêu trên và trong nhận
thức của các chủ thể tiến hành tố tụng ở nước ta thì hành vi giao cấu được hiểu là “hành vi
đưa bộ phận sinh dục nam vào trong bộ phận sinh dục nữ” [99] nên trong thực tiễn các cơ
quan pháp luật chỉ xử lý về hình sự đối với các hành vi của nam giới XPTD đối với nữ giới
hoặc trẻ em gái (ví dụ: Theo báo mạng và ngày
11/10/2013, thì Công an quận Ninh Kiều (Cần Thơ) đã ra quyết định không khởi tố hình sự
đối với nghi can là nữ vừa chuyển giới thành nam và mang “của quý” giả khi giao cấu với
nạn nhân là nữ chưa đủ 16 tuổi).
- Quan điểm khác cho rằng dù là nam hay nữ thì con người nói chung cũng đều có
nhân phẩm, danh dự và phải được pháp luật bảo hộ. Nếu vẫn giữ tư duy theo lối mòn “chủ
thể của các tội xâm phạm tình dục chỉ có thể là nam giới, còn nạn nhân của các tội phạm
này chỉ là nữ giới” thì vô hình chung Nhà nước không bảo vệ được nhân phẩm, danh dự cho
nam giới, hay nói cách khác Nhà nước không công nhận nam giới có nhân phẩm, danh dự.
Mặt khác, pháp luật của nhiều nước trên coi cả nữ giới và nam giới đều có thể là chủ thể
hoặc là nạn nhân của tội XPTD. Một vấn đề bất cập khác ở Việt Nam hiện nay là pháp luật
không công nhận chuyển đổi giới tính, nhưng thực tế vẫn xảy ra sự chuyển đổi giới tính (từ
nam sang nữ hay ngược lại). Như vậy, sự không công nhận chuyển đổi giới tính chỉ ở góc độ
pháp lý còn trên thực tiễn thì giới tính đã thay đổi (và nhu cầu sinh lý của người đó cũng thay
đổi) và sẽ xảy ra trường hợp nam hiếp dâm nam ở góc độ pháp lý, còn trên thực tế là nam
hiếp dâm nữ (nạn nhân đã chuyển giới thành nữ - thay đổi kết cấu sinh học nhưng nhà nước
không công nhận). Trong trường hợp này tuy hành vi chuyển đổi giới tính là không được
thừa nhận nhưng không thể vì thế mà pháp luật tước đoạt ở người chuyển giới quyền được
bảo hộ về nhân phẩm và danh dự. NCS không đồng tình với quan điểm này và cho rằng cần
18