Tải bản đầy đủ (.pdf) (27 trang)

Nhân thân người phạm tội xâm phạm nhân phẩm, danh dự của con người từ thực tiễn các tỉnh miền đông nam bộ tt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (446.63 KB, 27 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN VINH HUY

NHÂN THÂN CỦA NGƯỜI PHẠM TÔI XÂM PHẠM NHÂN
PHẨM, DANH DỰ CỦA CON NGƯỜI TỪ THỰC TIỄN CÁC
TỈNH ĐÔNG NAM BỘ

Ngành: Tội phạm học và phòng ngừa tội phạm
Mã số: 9.38.01.05

TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI, 2019


Công trình được hoàn thành tại:
Học viện Khoa học xã hội
Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam

Người hướng dẫn khoa học:
GS.TS Trần Hữu Tráng
Phản biện 1: GS. Trần Hữu Luyến
Phản biện 2: PGS. Nguyễn Kế Hào
Phản biện 3: PGS. Đình Hùng Tuấn

Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án cấp Học viện,
tại: Học viện Khoa học xã hội, 477 Nguyễn Trãi, Thanh Xuân, Hà Nội
Vào hồi



giờ

ngày

tháng

năm 2019

Có thể tìm hiểu luận án tại: - Thư viện Quốc gia
- Thư viện Học viện


DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CÁC BÀI BÁO ĐÃ CÔNG BỐ
1 . Nguyễn Vinh Huy, Đặc điểm về nhân thân người phạm tội xâm
phạm nhân phẩm, danh dự của con người và ý nghĩa của việc nghiên
cứu - Tạp chí nhân lực khoa học xã hội, số 1 (56) 2018
2. Nguyễn Vinh Huy, Các yếu tố tác động đến sự hình thành nhân
thân người phạm các tội xâm phạm nhân phẩm, danh dự con người Tạp chí công thương, số 2 tháng 2/2018
3. Nguyễn Vinh Huy, Các yếu tố tác động đến sự hình thành nhân
thân người phạm các tội xâm phạm nhân phẩm, danh dự con người
trên địa bàn các tỉnh miền Đông Nam Bộ - Tạp chí công thương, số 3
tháng 3/2018
4. Nguyễn Vinh Huy, Chương XII và chương XIV trong bình luận
khoa học bộ luật hình sự ( hiện hành) ( Sửa đổi bổ sung năm 2017).
Nhà xuất bản chính trị quốc gia sự thật.
5. Chương IV, IX, XXVIII, XXIX và chương XXXIV trong Bình
luận khoa học Bộ Luật Tố tụng hình sự (hiện hành). Nxb. Chính trị
Quốc gia Sự thật.
6. The significance of studying the characteristics of the offender’s

identity (tạm dịch: Tầm quan trọng của việc nghiên cứu các đặc điểm
nhân thân người phạm tội) - The People’s Police, No.3 (13)/2018.


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Vùng Đông Nam Bộ (ĐNB) bao gồm Thành phố Hồ Chí Minh
(TP.HCM) và các tỉnh Bình Dương, Bình Phước, Tây Ninh, Đồng
Nai, Bà Rịa - Vũng Tàu, có tổng diện tích vào loại nhỏ so với các
vùng khác (23,6 nghìn km2), số dân vào loại trung bình (15 triệu
người, năm 2014), nhưng lại dẫn đầu cả nước về GDP, giá trị sản
lượng công nghiệp và giá trị hàng xuất khẩu. Cùng với sự phát triển
kinh tế, mặt trái của kinh tế thị trường cũng mang đến cho các tỉnh
miền ĐNB không ít những nguy cơ, thách thức, đặc biệt là trong
công tác giữ gìn trật tự xã hội trên địa bàn. Những năm qua, tình hình
tội phạm (THTP) nói chung và THTP xâm phạm nhân phẩm, danh dự
(XPNPDD) của con người trên địa bàn các tỉnh miền ĐNB có diễn
biến phức tạp, mức độ phạm tội ngày càng tinh vi và phức tạp hơn.
Theo thống kê, trong vòng 10 năm (từ năm 2008 - năm 2017), trên
địa bàn cả nước đã xét xử 45.862 vụ; khởi tố 54.482 bị cáo có liên
quan đến tội XPNPDD của con người thì chỉ tính riêng trên địa bàn
các tỉnh miền ĐNB đưa ra xét xử 10.412 vụ phạm tội XPNPDD của
con người (chiếm 22,7% số vụ); truy tố 11.157 bị cáo có liên quan
đến tội phạm XPNPDD của con người (chiếm 20,47%). Trong tổng
số 56.596 vụ phạm tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân
phẩm của con người trên địa bàn thì có tới 10.412 vụ có liên quan
đến tội phạm XPNPDD của con người (chiếm 18,4%); trong số
80.888 bị cáo bị xét xử về tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh
dự, nhân phẩm của con người trên địa bàn thì có tới 11.157 bị cáo
liên quan đến tội XPNPDD của con người (chiếm 13,8%). Các đối

tượng phạm tội sử dụng nhiều phương thức, thủ đoạn khác nhau để
thực hiện hành vi phạm tội; người phạm tội ngày càng manh động,
liều lĩnh, công khai và trắng trợn hơn; các vụ phạm tội với tính chất
nghiêm trọng, rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng ngày càng
tăng. Thực trạng trên đã gây ra sự hoang mang, lo lắng, bất an trong
nhân dân và gây mất an ninh trật tự trên địa bàn.
Để đấu tranh phòng, chống tội phạm (PCTP) nói chung và tội
phạm XPNPDD nói riêng một cách có hiệu quả, một vấn đề rất quan

1


trọng là cần nhận thức đúng đắn về nhân thân người phạm tội, bởi
nhân thân người phạm tội giữ vai trò quan trọng trong cơ chế hành vi
phạm tội. Nghiên cứu nhân thân người phạm tội trước hết giúp chúng
ta định tội, định khung và quyết định hình phạt chính xác. Một hình
phạt chính xác sẽ không chỉ có tác dụng phòng, ngừa riêng (ngăn
ngừa tái phạm tội) mà còn có tác dụng phòng ngừa chung đối với
toàn xã hội. Bên cạnh đó, nghiên cứu nhân thân người phạm tội còn
giúp xác định đầy đủ, chính xác và toàn diện các nguyên nhân của
THTP, giúp quá trình giáo dục đào tạo người phạm tội đạt hiệu quả,
qua đó đề xuất các giải pháp hữu hiệu trong phòng ngừa tội phạm
(PNTP). Chính vai trò quan trọng đó mà hầu hết các công trình
nghiên cứu chuyên sâu về tội phạm học (TPH) để giành một nội dung
đáng kể để nghiên cứu làm rõ về nhân thân người phạm tội.
Xuất phát từ yêu cầu của hoạt động đấu tranh PCTP nói chung
và tội phạm XPNPDD trên các tỉnh miền ĐNB nói riêng, việc nghiên
cứu đề tài: “Nhân thân người phạm tội xâm phạm nhân phẩm,
danh dự của con người từ thực tiễn các tỉnh miền Đông Nam Bộ”
mang tính cấp thiết và có ý nghĩa quan trọng cả về lý luận và thực

tiễn.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở làm rõ các đặc điểm nhân thân người phạm tội
XPNPDD của con người trên địa bàn các tỉnh miền ĐNB, nghiên cứu
phân tích các nguyên nhân hình thành các đặc điểm nhân thân tiêu
cực của những người phạm tội, luận án hướng đến mục đích đề xuất
những giải pháp tăng cường phòng ngừa tình hình tội XPNPDD của
con người trên địa bàn các tỉnh miền ĐNB từ khía cạnh nhân thân
người phạm tội.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện mục đích trên, luận án tập trung thực hiện các nhiệm
vụ sau đây:
Thứ nhất, tổng quan tình hình nghiên cứu trong nước và ngoài
nước nghiên cứu các vấn đề có liên quan đến nhân thân người phạm

2


tội XPNPDD của con người, từ đó chỉ ra những kết quả mà luận án
có thể kế thừa, đồng thời xác định hướng nghiên cứu của luận án;
Thứ hai, phân tích làm rõ những vấn đề lý luận về nhân thân
người phạm tội XPNPDD của con người để làm nền tảng cho việc
nhận thức, phân tích làm rõ thực tiễn nhân thân người phạm tội
XPNPDD của con người trên địa bàn các tỉnh miền ĐNB;
Thứ ba, phân tích làm rõ thực tiễn nhân thân người phạm tội
XPNPDD của con người trên địa bàn các tỉnh miền ĐNB giai đoạn từ
năm 2008 - năm 2017;
Thứ tư, kiến nghị các giải pháp nhằm tăng cường phòng ngừa
tình hình tội XPNPDD của con người trên địa bàn các tỉnh miền

ĐNB từ góc độ nhân thân người phạm tội.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của Luận án là nghiên cứu các vấn đề lý
luận và thực tiễn nhân thân người phạm tội XPNPDD của con người
cũng như các yếu tố tác động đến sự hình thành các đặc điểm nhân
thân người phạm tội XPNPDD của con người trên địa bàn các tỉnh
miền ĐNB và các giải pháp tăng cường phòng ngừa THTP XPNPDD
của con người trên địa bàn các tỉnh miền ĐNB từ góc độ nhân thân
người phạm tội.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài luận án “Nhân thân người phạm tội xâm phạm nhân
phẩm, danh dự của con người từ thực tiễn các tỉnh miền Đông Nam
Bộ” được nghiên cứu dưới góc độ TPH và PNTP.
 Phạm vi về nội dung nghiên cứu
Luận án chủ yếu đi sâu nghiên cứu các đặc điểm nhân thân
người phạm tội XPNPDD của con người trên địa bàn các tỉnh miền
ĐNB giai đoạn năm 2008 - năm 2017 và các yếu tố tác động đến sự
hình thành các đặc điểm nhân thân tiêu cực của những người phạm
tội này, từ đó đề xuất những biện pháp tăng cường phòng ngừa các
tội phạm này từ góc độ nhân thân người phạm tội.
Luận án nghiên cứu trong bối cảnh Bộ luật hình sự (BLHS) năm
2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) đã có hiệu lực pháp luật từ ngày

3


01/01/2018. Tuy nhiên, giai đoạn năm 2008 - năm 2017 là giai đoạn
luận án nghiên cứu thực trạng nhân thân người phạm tội XPNPDD
của con người trên địa bàn ĐNB thì BLHS năm 1999 (sửa đổi, bổ

sung năm 2009) vẫn có hiệu lực pháp luật và các hành vi phạm tội
XPNPDD của con người trên địa bàn ĐNB xảy ra trong giai đoạn
này vẫn được giải quyết theo quy định của BLHS năm 1999. Vì vậy,
khi nghiên cứu về các dấu hiệu của tội XPNPDD của con người, luận
án vẫn chủ yếu nghiên cứu theo quy định của BLHS năm 1999 có so
sánh với những điểm mới trong quy định của BLHS năm 2015.
 Phạm vi về không gian và thời gian
Luận án nghiên cứu về các hành vi phạm tội XPNPDD của con
người được xét xử tại các Tòa án trên địa bàn các tỉnh miền ĐNB,
trong giai đoạn 10 năm (năm 2008 - năm 2017).
4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
4.1. Phương pháp luận
Luận án được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận của Chủ
nghĩa Mác - Lênin về phép duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, Tư
tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật, các quan điểm, đường
lối của Đảng cộng sản Việt Nam và Nhà nước Cộng hòa Xã hội Chủ
nghĩa Việt Nam về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
và cải cách tư pháp, về hoàn thiện hệ thống pháp luật, tăng cường và
nâng cao hiệu quả đấu tranh PCTP nói chung và tội XPNPDD của
con người nói riêng để giải quyết các nhiệm vụ nghiên cứu đã được
đề ra.
4.2. Phương pháp nghiên cứu cụ thể
Để nghiên cứu đề tài trên đây, luận án đã sử dụng các phương
pháp nghiên cứu sau:
- Phương pháp thống kê: Thu nhập, thống kê và xử lý số liệu từ
thống kê của Tòa án nhân dân các cấp trên địa bàn các tỉnh miền ĐNB
và các bản án đã xét xử về tội XPNPDD trên địa bàn miền ĐNB giai
đoạn năm 2008 - năm 2017 để phân tích làm rõ các đặc điểm của nhân
thân người phạm tội XPNPDD của con người.
- Phương pháp nghiên cứu điển hình: Nghiên cứu sinh (NCS) sử

dụng phương pháp này để nghiên cứu, đánh giá 800 bản án, trong đó

4


có sử dụng một số vụ án điển hình về tội XPNPDD đã xét xử nhằm
phân tích làm rõ những đặc điểm cơ bản về nhân thân người phạm tội
XPNPDD của con người trên địa bàn miền ĐNB.
- Phương pháp điều tra xã hội học: Phương pháp này được tiến
hành thông qua các phiếu điều tra xã hội học để thu thập ý kiến của
một số phạm nhân phạm tội XPNPDD của con người, phụ huynh các
gia đình, thầy cô, học sinh... trên địa bàn miền ĐNB để đánh giá về
thực tiễn phòng ngừa tội XPNPDD của con người từ góc độ nhân
thân người phạm tội.
Ngoài ra, luận án cũng sử dụng các phương pháp nghiên cứu
truyền thống của khoa học xã hội như phân tích, bình luận, suy luận
logic, quy nạp, diễn dịch... trong quá trình nghiên cứu để xây dựng
các luận chứng, luận cứ và lập luận trong các nội dung của luận án.
5. Những đóng góp mới của luận án
Có thể nói, đây là một công trình nghiên cứu khoa học còn rất
mới tại Việt Nam ở cấp độ luận án Tiến sĩ nghiên cứu về nhân thân
người phạm tội XPNPDD của con người từ thực tiễn các tỉnh miền
ĐNB. Công trình có những đóng góp mới như sau:
- Luận án đã tổng quan các công trình nghiên cứu trong nước và
nước ngoài nghiên cứu các vấn đề có liên quan đến nhân thân người
phạm tội, từ đó khái quát những kết quả đạt được của các công trình
nghiên cứu có liên quan đến nhân thân người phạm tội XPNPDD của
con người.
- Luận án đã làm rõ được những vấn đề lý luận về nhân thân
người phạm tội XPNPDD của con người như: khái niệm, đặc điểm và

phân loại nhân thân người phạm tội; quá trình hình thành nhân thân
người phạm tội; ý nghĩa của việc nghiên cứu nhân thân người phạm
tội XPNPDD của con người....
- Luận án phân tích làm rõ những đặc điểm nhân thân người
phạm tội XPNPDD của con người trên địa bàn các tỉnh miền ĐNB
giai đoạn năm 2008 - năm 2017, các yếu tố tác động đến quá trình
hình thành các đặc điểm nhân thân tiêu cực của người phạm tội
XPNPDD của con người trên địa bàn các tỉnh miền ĐNB giai đoạn
năm 2008 - năm 2017.

5


- Luận án kiến nghị các giải pháp nhằm tăng cường phòng ngừa
tội XPNPDD của con người trên địa bàn các tỉnh miền ĐNB từ khía
cạnh nhân thân người phạm tội.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của việc nghiên cứu luận án
6.1. Ý nghĩa về mặt lý luận
Những kết quả nghiên cứu của luận án góp phần làm phong phú
thêm lý luận của TPH nói chung, lý luận về nhân thân người phạm
tội nói riêng, đặc biệt là nhân thân người phạm tội XPNPDD của con
người.
6.2. Ý nghĩa về mặt thực tiễn
Những kết quả nghiên cứu của luận án có thể được dùng làm tài
liệu phục vụ cho quá trình nghiên cứu, tham khảo, giảng dạy và học
tập các môn học TPH trong hệ thống các trường đào tạo.
Kết quả nghiên cứu của luận án cũng có thể dùng làm tài liệu
tham khảo hữu ích cho các cơ quan bảo vệ pháp luật ở các tỉnh miền
ĐNB trong quá trình đấu tranh PCTP nói chung và phòng, chống tội
XPNPDD của con người nói riêng.

7. Cấu trúc của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và
phụ lục luận án được kết cấu như sau:
Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu
Chương 2: Những vấn đề lý luận về nhân thân người phạm tội
xâm phạm nhân phẩm, danh dự của con người
Chương 3: Thực trạng nhân thân người phạm tội xâm phạm
nhân phẩm, danh dự của con người từ thực tiễn các tỉnh miền Đông
Nam Bộ
Chương 4: Các giải pháp tăng cường phòng ngừa tình hình tội
xâm phạm nhân phẩm, danh dự của con người trên địa bàn các tỉnh
miền Đông Nam Bộ từ góc độ nhân thân người phạm tội
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
1.1. Tình hình nghiên cứu ở nước ngoài
Trong thời gian qua, đã có nhiều công trình nước ngoài
nghiên cứu các vấn đề có liên quan đến đề tài. Có thể chia các công

6


trình đó thành các nhóm: Nhóm công trình nghiên cứu các vấn đề cơ
bản của TPH; nhóm công trình nghiên cứu các vấn đề chuyên sâu của
TPH.
1.2. Tình hình nghiên cứu trong nước
Thứ nhất, nhóm công trình nghiên cứu các vấn đề cơ bản của
TPH, bao gồm: Giáo trình TPH và các sách chuyên khảo.
Thứ hai, nhóm công trình nghiên cứu các vấn đề về nhân thân
người phạm tội, bao gồm: Các luận án và luận văn thạc sĩ nghiên cứu
theo chuyên ngành TPH; các bài viết ở góc độ TPH.

1.3. Đánh giá tổng quan tình hình nghiên cứu và những vấn
đề đặt ra cần tiếp tục nghiên cứu trong luận án
1.3.1. Những vấn đề đã thống nhất
1.3.2. Một số vấn đề còn tranh luận
* Ở góc độ LHS: Các quan điểm không thống nhất tập trung vào
một số nội dung sau: Khái niệm “nhân phẩm, danh dự” (khách thể bị
xâm hại) dẫn đến các ý kiến khác nhau về phạm vi tội XPNPDD của
con người được quy định trong BLHS; các hành vi xâm phạm tình
dục (XPTD) bị coi là tội phạm; chủ thể và đối tượng bị xâm hại (nạn
nhân) trong tội XPNPDD của con người.
* Ở góc độ TPH: 1) Một số vấn đề sau đây chưa được nghiên
cứu hoặc đã được đề cập nhưng ở phạm vi hạn chế hoặc chưa đầy đủ,
cụ thể là: Các công trình chủ yếu nghiên cứu về các đặc điểm nhân
thân của một số tội hoặc nhóm tội và thường trong phạm vi hẹp; 2)
Cho đến nay chưa có công trình nào nghiên cứu chuyên sâu và toàn
diện về nhân thân người phạm tội XPNPDD của con người trên cơ sở
thực tiễn đấu tranh phòng, chống các tội phạm này trong giai đoạn
năm 2008 - năm 2017 trên địa bàn các tỉnh thuộc miền ĐNB; 3) Đã
có nhiều công trình nghiên cứu đề cập đến vấn đề dự báo tình hình
tội XPNPDD của con người ở một số địa phương khác nhau (như
Hưng Yên, Hà Nội, Đồng Nai, TP.HCM...), nhưng chưa có công
trình nào đưa ra dự báo về các biến động của môi trường sống và ảnh
hưởng của nó đến nhân thân người phạm tội XPNPDD của con người
trên địa bàn miền ĐNB; 4) Thời gian qua cũng đã có nhiều công trình
nghiên cứu kiến nghị các giải pháp phòng ngừa tội XPNPDD của con

7


người ở một số địa phương, nhưng chưa có một công trình nghiên

cứu nào kiến nghị các giải pháp tăng cường phòng ngừa tội
XPNPDD của con người trên địa bàn miền ĐNB từ khía cạnh nhân
thân người phạm tội.
1.3.3. Những vấn đề đặt ra cần tiếp tục nghiên cứu trong luận
án
1) Nghiên cứu nhằm làm rõ hơn một số vấn đề lý luận về nhân
thân người phạm tội XPNPDD của con người tiếp cận từ lý luận về
nhân thân người phạm tội trong các công trình TPH, luận án sẽ cố
gắng làm rõ những vấn đề lý luận về nhân thân người phạm tội
XPNPDD của con người.
2) Phân tích làm sáng tỏ các đặc điểm về nhân thân người phạm
tội XPNPDD của con người ở các tỉnh miền ĐNB giai đoạn năm
2008 - năm 2017 cũng như phân tích làm rõ thực tiễn những yếu tố
có tác động đến sự hình thành các đặc điểm nhân thân người phạm
tội XPNPDD của con người ở các tỉnh miền ĐNB giai đoạn năm
2008 - năm 2017.
3) Kiến nghị các giải pháp nhằm tăng cường phòng ngừa tội
XPNPDD của con người ở miền ĐNB từ góc độ nhân thân người
phạm tội.
CHƯƠNG 2
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NHÂN THÂN NGƯỜI
PHẠM TỘI XÂM PHẠM NHÂN PHẨM, DANH DỰ CỦA CON
NGƯỜI
2.1. Khái niệm, phân loại, đặc điểm nhân thân người phạm
tội xâm phạm nhân phẩm, danh dự của con người
2.1.1. Khái niệm
2.1.1.1. Khái niệm nhân thân con người và nhân thân người
phạm tội
- Nhân thân con người là tổng hợp các đặc điểm, dấu hiệu riêng
biệt của con người, mà trong những điều kiện, hoàn cảnh nhất định

thể hiện bản chất xã hội của con người đó.
- Nhân thân người phạm tội là tổng hợp những đặc điểm nhân
chủng học xã hội, tâm lý xã hội, pháp lý hình sự của người phạm tội

8


trong sự kết hợp với các điều kiện, hoàn cảnh khách quan bên ngoài
dẫn đến người đó thực hiện hành vi phạm tội.
2.1.1.2. Khái niệm nhân thân người phạm tội xâm phạm nhân
phẩm, danh dự của con người
Nhân thân người phạm tội XPNPDD của con người là toàn bộ
các đặc điểm nhân chủng học xã hội, tâm lý và xã hội, pháp lý hình
sự của người phạm tội XPDDNP của con người, mà trong sự kết hợp
với các điều kiện bên ngoài đã ảnh hưởng đến việc thực hiện hành vi
phạm tội XPNPDD của con người.
2.1.2. Phân loại nhân thân người phạm tội xâm phạm nhân
phẩm, danh dự của con người
- Căn cứ vào mức độ sai phạm của ý thức cá nhân và khuynh
hướng giá trị cá nhân:
+ Nhóm nhân thân của những người phạm tội XPNPDD mang
tính ngẫu nhiên;
+ Nhóm đặc điểm nhân thân của những người phạm tội tình thế;
+ Nhóm những người phạm tội từ xu hướng vi phạm pháp luật;
+ Nhân thân người phạm tội liên tục, tái phạm, tái phạm nguy
hiểm.
- Căn cứ vào nhóm các hành vi phạm tội:
+ Nhân thân người thực hiện nhóm hành vi XPTD;
+ Nhân thân người thực hiện nhóm hành vi mua bán người;
+ Nhân thân người thực hiện hành vi làm nhục người khác, vu

khống.
2.1.3. Đặc điểm nhân thân người phạm tội xâm phạm nhân
phẩm, danh dự của con người
Đặc điểm nhân thân người phạm tội XPNPDD của con người được
xác định bao gồm: Đặc điểm nhân chủng học xã hội (giới tính, độ
tuổi, nghề nghiệp, trình độ học vấn, hoàn cảnh gia đình, địa bàn cư
trú); đặc điểm về tâm lý xã hội; đặc điểm pháp lý hình sự (tiền án, tiền
sự, tái phạm, tái phạm nguy hiểm; động cơ, mục đích phạm tội).
Các đặc điểm nhân thân người phạm tội XPNPDD của con người
được phân tích theo ba nhóm: người phạm tội XPTD, người phạm tội
mua bán người, nhóm tội hành hạ, làm nhục người khác, vu khống.

9


2.1.4. Ý nghĩa của việc nghiên cứu nhân thân người phạm tội
xâm phạm nhân phẩm, danh dự của con người
Một là, nghiên cứu nhân thân người phạm tội dưới góc độ TPH
góp phần xác định nguyên nhân và điều kiện phạm tội XPNPDD của
con người;
Hai là, nghiên cứu nhân thân người phạm tội dưới góc độ TPH góp
phần xây dựng các biện pháp phòng ngừa tội XPNPDD của con
người;
Ba là, nghiên cứu nhân thân người phạm tội cho việc xây dựng
biện pháp giáo dục, cải tạo người phạm tội.
2.2. Các yếu tố tác động đến quá trình hình thành nhân thân
tiêu cực ở người phạm tội xâm phạm nhân phẩm, danh dự của
con người
2.2.1. Các yếu tố ảnh hưởng đến sự hình thành nhân cách
xấu ở người phạm tội

Tâm lý học tội phạm cho rằng, hành vi phạm tội của một người
là do sự chi phối của các yếu tố bên trong và bên ngoài khác nhau.
Trước hết hành vi phạm tội của họ là do những yếu tố tâm lý tiêu cực
bên trong với tư cách là động cơ chi phối thúc đẩy. Nói cách khác
chính những phẩm chất tâm lý tiêu cực đã hình thành ở cá nhân là cơ
sở cho việc nảy sinh động cơ, mục đích phạm tội và trong những điều
kiện nhất định sẽ dẫn cá nhân đến thực hiện hành động phạm tội. Các
yếu tố tâm lý tiêu cực nảy sinh do tác động của những quan hệ xã hội
không phù hợp, là hậu quả của quá trình tham gia vào các hoạt động
tiêu cực cũng như những thiếu sót trong quá trình xã hội hóa con
người.
Như vậy, các yếu tố xã hội là cơ sở của việc hình thành các
yếu tố tâm lý. Các yếu tố tâm lý là cơ sở để hình thành mục đích,
động cơ phạm tội. Và nhân tố hoàn cảnh, tình huống là điều kiện để
cá nhân thực hiện hành động phạm tội.
2.2.2. Các yếu tố khách quan
2.2.2.1. Những yếu tố tiêu cực, hạn chế trong môi trường gia
đình
Các yếu tố tiêu cực từ môi trường gia đình dễ tác động đến việc

10


hình thành nhân thân người phạm tội XPNPDD gồm: Gia đình
khuyết thiếu, cuộc sống gia đình không hạnh phúc; gia đình có hoàn
cảnh khó khăn; gia đình thiếu sự quan tâm chăm sóc, giáo dục con
cái, gia đình quá nuông chiều con.
2.2.2.2. Những hạn chế, yếu kém trong môi trường giáo dục hiện
nay
Một số hạn chế bất cập trong môi trường giáo dục có thể kể đến

như sau: Nhà trường chưa chú trọng giáo dục đạo đức, nhân cách,
hiểu biết pháp luật và các kỹ năng sống; nhà trường chưa có sự phối
hợp chặt chẽ với gia đình và xã hội trong quản lý học sinh.
2.2.2.3. Các yếu tố tiêu cực thuộc về kinh tế - xã hội
- Các yếu tố về môi trường kinh tế: Những hạn chế, bất cập trong
quản lý kinh tế cũng là một trong những yếu tố ảnh hưởng đến quá
trình hình thành nhân thân xấu ở người phạm tội nói chung và người
phạm tội XPNPDD của con người nói riêng;
- Các yếu tố về môi trường xã hội: Tình trạng phân hóa giàu nghèo
đang ngày một gia tăng. Chính sự đói nghèo, trình độ dân trí thấp đã
thúc đẩy người phạm tội thực hiện hành vi phạm tội, nhất là với các tội
phạm XPTD, mua bán người; những chính sách phúc lợi xã hội chưa
thực sự hợp lý .
2.2.2.4. Những tồn tại, hạn chế về quản lý nhà nước về văn hoá
Quản lý nhà nước trên lĩnh vực văn hoá cũng bộc lộ những hạn
chế. Sự phát triển mạnh về công nghệ thông tin, internet làm phát
sinh mặt trái tiêu cực là trên các trang mạng xã hội xuất hiện các sản
phẩm văn hoá có nội dung đồi truỵ, bạo lực, truyện ngôn tình mang
tính kích dục… chưa được các cơ quan chức năng có thẩm quyền
quản lý, kiểm duyệt chặt chẽ.
2.2.2.5. Tác động của yếu tố địa lý, dân cư
Yếu tố tự nhiên - địa lý (địa nhân thân) cũng có những ảnh
hưởng nhất định đến quá trình hình thành đặc điểm nhân thân nói
chung và đặc điểm nhân thân tiêu cực của một con người sống trên
địa bàn đó. Địa nhân thân là việc nghiên cứu về tác động của các yếu
tố địa lý tự nhiên tới quá trình hình thành những đặc điểm nhân thân

11



của một người, cụ thể ở đây là quá trình hình thành những đặc điểm
nhân thân tiêu cực ở người phạm tội.
2.2.2.6. Các yếu tố tác động từ khía cạnh nạn nhân
Nghiên cứu vấn đề nhân thân người phạm tội nói chung và nhân
thân người phạm tội XPNPDD của con người nói riêng có thể thấy,
từ góc độ nạn nhân mặc dù không có sự ảnh hưởng, tác động nhiều
đến quá trình hình thành những đặc điểm nhân thân tiêu cực ở người
phạm tội. Tuy nhiên, yếu tố nạn nhân lại có những tác động nhất định
đến quá trình hiện thực hóa hành vi phạm tội XPNPDD của con
người ở người có các đặc điểm nhân thân tiêu cực.
2.2.3. Các yếu tố chủ quan
Các yếu tố thuộc về chủ quan người phạm các tội XPDDNP con
người gồm những yếu tố sau:
2.2.3.1. Sai lệch về đạo đức, nhân cách
Nền kinh tế thị trường dẫn đến sự coi nhẹ đạo đức, nhân cách, từ
đó một bộ phận cũng có những nhận thức tiêu cực. Một số người
không chịu học tập nâng cao tri thức, tiếp thu cái tốt và ngược lại,
thiếu học vấn cùng thói quen kiêu căng, ngạo mạn dễ thúc đẩy họ vào
con đường phạm tội. Họ bất chấp tất cả để thực hiện tham vọng, dục
vọng của mình, họ chỉ biết đến việc thõa mãn nhu cầu sinh lý, hoặc
nhu cầu ăn chơi đua đòi của mình chứ không nghĩ đến hậu quả mà họ
mang lại.
2.2.3.2. Sai lệch về sở thích, thói quen, nhu cầu và cách thỏa
mãn nhu cầu
Mỗi con người luôn có những nhu cầu đòi hỏi trong cuộc sống
hàng ngày. Trong điều kiện hoàn cảnh cụ thể, nếu nhu cầu của chủ
thể bị sai lệch, vượt quá khả năng cuộc sống với cách thức thoã mãn
nhu cầu cũng sai lệch thì tất yếu dẫn đến hành vi phạm tội.
2.2.3.3. Tâm lý trả thù, đố kỵ, ganh ghét
Các tội về làm nhục người khác và tội vu khống thường xuất

phát từ tâm sinh lý của người phạm tội (tâm lý muốn trả thù, đố kỵ
với người đó hay ghanh ghét họ). Khi bị ức chế về mặt tinh thần như
bị phản bội, bị trù dập hoặc thấy người khác hơn mình nhiều mặt (tài

12


năng hơn, giàu có hơn mình, xinh đẹp hơn hay được nhiều người coi
trọng hơn,…), con người dễ phát sinh tâm lý tiêu cực là ghen tị,
muốn hạ thấp uy tín, phẩm giá của người đó để thỏa mãn bản thân.
2.2.3.4. Hạn chế hiểu biết về pháp luật, xem thường và chống đối
pháp luật
Những sai lệch trong nhận thức pháp luật của cá nhân cũng là
một trong các yếu tố tác động trong cơ chế làm phát sinh tội phạm,
biểu hiện sai lệch trong nhận thức pháp luật của cá nhân ở các hình
thức sau: Xem thường các nghĩa vụ - xem thường pháp luật, chống
đối pháp luật.
CHƯƠNG 3
THỰC TRẠNG NHÂN THÂN NGƯỜI PHẠM TỘI XÂM
PHẠM NHÂN PHẨM, DANH DỰ CỦA CON NGƯỜI TỪ
THỰC TIỄN CÁC TỈNH MIỀN ĐÔNG NAM BỘ
3.1. Khái quát tình hình tội phạm xâm phạm nhân phẩm,
danh dự trên địa bàn các tỉnh miền Đông Nam Bộ
3.1.1. Thực trạng (mức độ) của tình hình tội phạm xâm phạm
nhân phẩm, danh dự trên địa bàn các tỉnh miền Đông Nam Bộ
Tội phạm XPNPDD của con người trên địa bàn các tỉnh miền
ĐNB còn chiếm tỷ lệ khá lớn trong tổng số các vụ XPNPDD trên
phạm vi cả nước (chiếm 22,7% số vụ; chiếm 20,47% số bị cáo) cũng
như so với các tội phạm nói chung trên địa bàn. Đồng thời chiếm tỷ lệ
lớn trong tổng số các vụ xâm hại nhóm khách thể là tính mạng, sức

khỏe, danh dự, nhân phẩm của con người theo quy định của BLHS.
3.1.2. Diễn biến của tình hình tội phạm xâm phạm nhân phẩm,
danh dự trên địa bàn các tỉnh miền Đông Nam Bộ
THTP XPNPDD của con người trên địa bàn các tỉnh miền ĐNB
có diễn biến phức tạp, tăng giảm không theo quy luật, tuy nhiên xu
hướng chung là tăng theo thời gian.
3.1.3. Cơ cấu tình hình tội xâm phạm nhân phẩm, danh dự
của con người trên địa bàn các tỉnh miền Đông Nam Bộ
Cơ cấu tội phạm xét theo đặc trưng nhóm hành vi của người
phạm tội, nếu căn cứ vào các nhóm hành vi, có thể thấy trong tội

13


XPNPDD của con người xảy ra trên địa bàn các tỉnh miền ĐNB thì
đa phần là tội phạm XPTD (chiếm 96,2% trong tổng số vụ; chiếm
91,9% trong tổng số bị cáo phạm tội XPNPDD của con người). Các
nhóm hành vi tội phạm mua bán người, làm nhục người khác, vu
khống chiếm tỷ lệ ít hơn.
Cơ cấu tội phạm theo các hành vi phạm tội cụ thể, các vụ án về tội
giao cấu với trẻ em - Điều 115 BLHS năm 1999 (4241 vụ/4039 bị
cáo) chiếm tỷ lệ cao nhất (40,73% số vụ và 36,2% số bị cáo) trong
tổng số các vụ án XPNPDD của con người ở các địa phương này.
Cơ cấu tội phạm theo đơn vị hành chính, qua số liệu thống kê tội
phạm XPNPDD theo từng tỉnh miền ĐNB cho thấy TP.HCM là nơi có
tỷ lệ số vụ/số bị cáo phạm tội XPNPDD nhiều nhất, tiếp đến lần lượt là
tỉnh Đồng Nai, Tây Ninh, Bình Dương, Bình Phước, thấp nhất là tỉnh Bà
Rịa - Vũng Tàu.
3.2. Các đặc điểm nhân thân người phạm tội xâm phạm
nhân phẩm, danh dự của con người trên địa bàn các tỉnh miền

Đông Nam Bộ
NCS đã phân tích số liệu từ 800 bản án sơ thẩm và phúc thẩm tại
Tòa án nhân dân các tỉnh miền ĐNB trong giai đoạn năm 2008 - năm
2017 với 1061 bị cáo về các nhóm hành vi tội phạm này. Trong đó,
có 621 bản án với 757 bị cáo phạm các tội XPTD; 103 bản án với
228 bị cáo phạm các tội mua bán người và 76 bản án với 76 bị can
phạm các tội làm nhục người khác.
3.2.1. Đặc điểm nhân thân người phạm tội xâm phạm tình dục
3.2.1.1. Các đặc điểm nhân chủng học xã hội
- Về giới tính: Bị cáo phạm tội là nam giới (chiếm 98,15%); nữ giới
(chiếm 1,85%) .
- Về độ tuổi: Dưới 18 tuổi chiếm 8,2%; từ 18 đến 30 tuổi chiếm
69,1%; từ trên 30 tuổi đến 45 tuổi chiếm 18,8%; trên 45 tuổi chiếm
3,9%. Như vậy, có thể thấy, các bị cáo phạm tội XPTD trên địa bàn các
tỉnh miền ĐNB chủ yếu tập trung ở độ tuổi từ 18 đến 45 tuổi (chiếm
87,9%).
- Về thành phần nghề nghiệp: Không có nghề nghiệp chiếm 89,1%,
có nghề nghiệp nhưng không ổn định, thu nhập thấp chiếm 8,6%; có

14


nghề nghiệp ổn định chiếm 2,3%. Như vậy có thể thấy, phần lớn các bị
cáo phạm tội XPTD là những đối tượng không có nghề nghiệp ổn
định, trong đó có những đối tượng lưu manh chuyên nghiệp, có tiền
án, tiền sự.
- Về trình độ học vấn: Trình độ tốt nghiệp trung học phổ thông trở
lên chiếm 13%, chủ yếu mới học hết cấp tiểu học, trung học hoặc không
biết chữ (chiếm 87%).
- Về hoàn cảnh gia đình: Khoảng 2/3 bị cáo phạm tội XPNPDD

của con người đều đang ở tình trạng độc thân, chỉ có 23% bị cáo đã kết
hôn, ngoài ra có 27% đã ly hôn hoặc ly thân. Bị cáo có hoàn cảnh kinh tế
khó khăn chiếm 56,7%; có gia đình không hạnh phúc, xảy ra bạo lực
trong cuộc sống gia đình 16,6%; có gia đình khiếm khuyết chiếm 31,4%;
151 bị cáo trong gia đình nuông chiều con cái quá mức chiếm 19,9%.
- Về địa bàn cư trú: Có 453 bị cáo cư trú ở vùng địa bàn nông
thôn, miền núi (chiếm 59,8%); có 304 bị cáo cư trú ở khu vực thành
thị. Như vậy, có thể thấy, tội phạm XPTD xảy ra ở nhiều địa bàn
khác nhau cả ở thành thị và nông thôn.
3.2.1.2. Các đặc điểm về tâm lý xã hội
- Các đối tượng phạm tội XPTD có sự kém hiểu biết về xã hội,
về pháp luật và chuẩn mực đạo đức lối sống, có lối sống buông thả;
- Tâm lý xem thường nhân phẩm, danh dự;
- Tâm lý lệch lạc trong sở thích, thói quen, nhu cầu và cách thức
thỏa mãn nhu cầu;
- Tâm lý lười lao động, lười học tập, tu dưỡng rèn luyện.
3.2.1.3. Các đặc điểm về pháp lý hình sự
- Tiền án, tiền sự, tái phạm, tái phạm nguy hiểm: 135 bị cáo có
tiền án, tiền sự ở các tội khác nhau (chiếm 17,83%) và 622 bị cáo
không có tiền án, tiền sự (chiếm 82,17%). Điều đáng chú ý là trong
số bị cáo có tiền án ở các tội khác nhau vẫn tiếp tục tái phạm, tái
phạm nguy hiểm tội XPTD chiếm 2,3%.
- Đặc điểm về động cơ, mục đích phạm tội: Động cơ phạm tội của
các tội này đều xuất phát từ động cơ cá nhân của bản thân kẻ phạm tội.
Đó là sự ham muốn, sự mong muốn thỏa mãn nhu cầu sinh lý của bản

15


thân một cách lệch chuẩn. Động cơ này xuất phát từ trong bản chất con

người của mỗi cá nhân và từ đó thúc đẩy cá nhân đến hành vi phạm tội.
3.2.2. Đặc điểm nhân thân người phạm tội mua bán người
3.2.2.1. Các đặc điểm nhân chủng học xã hội
- Về giới tính: Có 93 bị cáo là nữ giới (chiếm 40,8%); có 135 bị cáo
phạm tội là nam giới, chiếm tỉ lệ 59,2%.
- Về độ tuổi: 100% số bị cáo đều trên 18 tuổi, trong đó chiếm tỷ
lệ cao nhất là các bị cáo trong độ tuổi từ 30 đến 45 tuổi (chiếm
83,3%); còn lại 7,1% số bị cáo có độ tuổi trên 45 tuổi; 9,6% bị cáo có
độ tuổi từ 18 đến 30 tuổi.
- Về trình độ học vấn: Có 96 bị cáo đã học trung học phổ thông
(chiếm 41,9%), thậm chí trong số các bị cáo này còn có những bị cáo đã
từng học cao đẳng, đại học (chiếm 1,6%).
- Về nghề nghiệp: Có 118 bị cáo không có nghề nghiệp (chiếm
51,7%); số bị cáo có nghề nghiệp nhưng không ổn định là 93 người
(chiếm 40,6%). Số bị cáo có nghề nghiệp chỉ chiếm 7,7%.
- Về hoàn cảnh gia đình: Có 144 bị cáo có gia đình có kinh tế khó
khăn (chiếm 63,1%); 118 bị cáo có gia đình không hạnh phúc, bạo lực
(chiếm 51,7%); 53 bị cáo gia đình thiếu sự quan tâm, chăm sóc con cái
(chiếm 23,1%); 75 bị cáo gia đình có sự nuông chiều con cái quá mức
(chiếm 32,7%); 86 bị cáo có gia đình khiếm khuyết (chiếm 37,7%)....
- Về địa bàn cư trú: Những bị cáo thực hiện tội phạm mua bán
người thường là những người sinh sống hoặc cư trú ở các vùng nông
thôn, vùng kinh tế chưa phát triển. Trong số 228 bị cáo bị xét xử về
tội mua bán người, có 188 bị cáo sống ở khu vực nông thôn, miền núi
(chiếm 82,5%); có 40 bị cáo (chiếm 17,5%) sống ở các khu vực
thành thị.
3.2.2.2. Các dấu hiệu về tâm lý xã hội
- Tâm lý thích hưởng thụ, lười lao động, muốn kiếm tiền bằng
mọi giá;
- Tâm lý xem thường pháp luật;

- Tâm lý xem thường nhân phẩm, danh dự.
3.2.2.3. Các đặc điểm về pháp lý hình sự

16


- Tiền án, tiền sự, tái phạm, tái phạm nguy hiểm: 34 bị cáo có
tiền án, tiền sự ở các tội khác nhau (chiếm 14,91%) và 194 bị cáo
không có tiền án, tiền sự (chiếm 85,09%). Điều đáng chú ý là trong
số bị cáo có tiền án ở các tội khác nhau vẫn tiếp tục tái phạm, tái
phạm nguy hiểm tội mua bán người chiếm 0,8%.
- Động cơ, mục đích phạm tội: 99,12% số bị cáo thực hiện hành vi
vì mục đích lợi nhuận, kiếm lời; chỉ có 02 bị cáo thực hiện hành vi vì
mục đích cá nhân khác (chiếm 0,88%).
3.2.3. Đặc điểm nhân thân người phạm tội làm nhục người khác,
vu khống
3.2.3.1. Các đặc điểm nhân chủng học xã hội
- Về giới tính: 51 bị cáo là nam giới (chiếm 67,1%); 25 bị cáo thực
hiện các hành vi này là nữ giới (chiếm 32,9%).
- Về độ tuổi: Thường có độ tuổi trên 30 tuổi, trong đó độ tuổi từ 30
đến 45 chiếm số lượng lớn nhất với 52 người (chiếm 68,4%); số người
từ 18 đến 30 tuổi có 12 bị cáo (chiếm 15,8%) và có 12 bị cáo trên 45 tuổi
(chiếm 15,8%) thực hiện các hành vi này.
- Về địa bàn cư trú: Có tới 54 vụ (chiếm 71,05%) xảy ra ở địa
bàn vùng nông thôn, miền núi; có 22 bị cáo cư trú ở khu vực thành
thị (chiếm 28,95%).Thường số vụ làm nhục người khác, vu khống
xảy ra ở các vùng nông thôn, vùng kinh tế chưa phát triển. Tuy nhiên,
tội phạm làm nhục người khác, vu khống vẫn xảy ra ở khu vực thành
thị chủ yếu là do sự ganh ghét, đố kỵ trong công việc, trong làm ăn....
- Về trình độ học vấn: Có 71 bị cáo có trình độ học vấn thấp, mới

chỉ học hết tiểu học (chiếm 93,4%); chỉ có 05 người ở mức học vấn
trung học phổ thông (chiếm 6,6%).
- Về nghề nghiệp: Tỷ lệ các bị cáo có việc làm chiếm 11,8% tổng
số bị cáo; các bị cáo có việc làm không ổn định chiếm 25% và các bị
cáo không có nghề nghiệp chiếm 63,2%
- Về hoàn cảnh gia đình: Có 31 bị cáo có gia đình không có hạnh
phúc, bạo lực (chiếm 40,8%); 26 bị cáo thiếu sự quan tâm đến con
cái hoặc nuông chiều con cái quá mức (chiếm 34,2%); 41 bị cáo có
gia đình khiếm khuyết (chiếm 53,9%); 07 bị cáo có hoàn cảnh kinh tế
khó khăn (chiếm 9,2%)...

17


3.2.3.2. Các đặc điểm về tâm lý xã hội
- Biểu hiện suy thoái về đạo đức, nhân cách;
- Tâm lý tư thù, ganh ghét người khác;
- Tâm lý hạn chế hiểu biết về pháp luật, xem thường pháp luật.
3.2.3.3. Các đặc điểm về pháp lý hình sự
- Tiền án, tiền sự, tái phạm, tái phạm nguy hiểm: 06 bị cáo có tiền
án, tiền sự ở các tội khác nhau (chiếm 7,9%) và 70 bị cáo không có
tiền án, tiền sự (chiếm 92,1%). Trong số bị cáo có tiền án ở các tội
khác nhau không có đối tượng tái phạm, tái phạm nguy hiểm tội làm
nhục, hành hạ, vu khống người khác.
- Động cơ, mục đích phạm tội: Động cơ phạm tội của các bị cáo
phạm tội làm nhục người khác, vu khống rất đa dạng, tùy vào từng
trường hợp cụ thể.
3.3. Các yếu tố tác động đến sự hình thành các đặc điểm
nhân thân người phạm tội xâm phạm nhân phẩm, danh dự của
con người trên địa bàn các tỉnh miền Đông Nam Bộ

3.3.1. Tác động của các yếu tố khách quan
3.3.1.1. Các yếu tố tiêu cực từ môi trường gia đình
- Gia đình thiếu sự quan tâm, chăm sóc đến con cái thể hiện qua sự
thờ ơ, vô trách nhiệm của cha mẹ đối với con cái: có 695 bị cáo (chiếm
tỷ lệ 65,55%) sống trong những gia đình thiếu sự quan tâm giáo dục
hoặc giáo dục không đúng cách của bố mẹ.
- Gia đình có kinh tế khó khăn: Có 580/1061 bị cáo phạm tội
XPNPDD của con người có hoàn cảnh gia đình kinh tế khó khăn (chiếm
tỉ lệ 54,7% trên tổng số các bị cáo bị xét xử về tội này.
- Gia đình có khiếm khuyết: Có 324/1061 bị cáo phạm tội
XPNPDD của con người (chiếm tỉ lệ 30.5% trên tổng số các bị cáo bị
xét xử về tội này).
- Gia đình quá nuông chiều con cái: Có 250/1061 số bị cáo có gia
đình quá nuông chiều con cái (chiếm tỉ lệ 23,6% trên tổng số các bị cáo
bị xét xử về tội này).
- Gia đình không hạnh phúc, thường xuyên bạo lực: Có 275 bị cáo
(chiếm 25,9%) xuất thân từ gia đình không hạnh phúc, thường xuyên
mâu thuẫn, cãi, chửi, đánh nhau.

18


3.3.1.2. Các yếu tố tiêu cực từ môi trường giáo dục
- Nhà trường chưa chú trọng giáo dục, tuyên truyền hiểu biết
pháp luật và các kỹ năng sống cho học sinh;
- Nhà trường chưa có biện pháp quản lý chặt chẽ học sinh, chưa
có sự phối hợp giữa nhà trường, gia đình và xã hội;
- Bạo lực học đường, quấy rối tình dục trong nhà trường.
3.3.1.3. Các yếu tố tiêu cực từ môi trường kinh tế - xã hội
3.3.1.4. Tác động từ yếu tố địa lý, dân cư

3.3.1.5. Các yếu tố tác động từ khía cạnh nạn nhân
3.3.2. Các yếu tố chủ quan
Bên cạnh các nguyên nhân từ môi trường khách quan, quá trình
hình thành các đặc điểm nhân thân xấu còn phụ thuộc vào nhận thức
chủ quan cũng như đặc điểm tâm lý của từng cá nhân cụ thể. Có thể
khái quát những yếu tố chủ quan tiêu cực tác động đến quá trình hình
thành các đặc điểm nhân thân xấu như sai lệch về sở thích, thói quen; sai
lệch về nhu cầu và cách thức thỏa mãn nhu cầu; suy thoái về đạo đức,
nhân cách; tâm lý trả thù, đố kỵ; hạn chế hiểu biết về pháp luật; tâm
lý quá đề cao giá trị đồng tiền.
CHƯƠNG 4
CÁC GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG PHÒNG NGỪA TÌNH
HÌNH TỘI XÂM PHẠM NHÂN PHẨM, DANH DỰ CỦA CON
NGƯỜI TRÊN ĐỊA BÀN CÁC TỈNH MIỀN ĐÔNG NAM BỘ
TỪ GÓC ĐỘ NHÂN THÂN NGƯỜI PHẠM TỘI
4.1. Các biến động của các điều kiện khách quan có tác động
đến sự hình thành các đặc điểm nhân thân người phạm tội xâm
phạm nhân phẩm, danh dự con người trên địa bàn các tỉnh miền
Đông Nam Bộ
4.1.1. Sự biến động của môi trường gia đình
NCS đưa ra dự báo sự biến động của môi trường gia đình; sự biến
động của môi trường giáo dục; sự biến động của môi trường kinh tế - xã
hội tại địa bàn các tỉnh miền ĐNB.
4.1.2. Sự biến động của môi trường giáo dục
4.1.3. Sự biến động của môi trường kinh tế - xã hội

19


4.2. Tăng cường phòng ngừa tình hình tội xâm phạm nhân

phẩm, danh dự con người trên địa bàn các tỉnh miền Đông Nam
Bộ từ góc độ nhân thân
4.2.1. Nhóm giải pháp hạn chế hay loại trừ các tác động từ
môi trường sống đến sự hình thành đặc điểm nhân thân xấu của
con người
Bao gồm các giải pháp hạn chế các tác động tiêu cực từ môi trường
gia đình; hạn chế các tác động tiêu cực từ mặt trái kinh tế thị trường; hạn
chế các tác động tiêu cực từ môi trường xã hội; hạn chế các tác động tiêu
cực từ môi trường văn hóa; hạn chế các tác động tiêu cực từ môi trường
giáo dục; tăng cường tuyên truyền giáo dục nâng cao nhận thức, hiểu
biết pháp luật cho người dân.
4.2.1.1. Hạn chế các tác động tiêu cực từ môi trường gia đình
Thứ nhất, tổ chức tốt công tác tuyên truyền, giáo dục cho các
thành viên trong gia đình hiểu về vai trò của nhân tố gia đình trong
PNTP nói chung và tội phạm XPNPDD của con người nói riêng;
Thứ hai, nâng cao đời sống vật chất, văn hóa tinh thần cho các
hộ gia đình trên địa bàn, đảm bảo về thu nhập, nghề nghiệp cũng như
các chính sách an sinh xã hội cho các thành viên, từ đó hình thành
nên những đặc điểm nhân thân tích cực ở mỗi người dân;
Thứ ba, có cơ chế xử lý phù hợp với các đối tượng có tiền án
tiền sự, có biểu hiện bạo lực gia đình, đảm bảo tính răn đe, đồng thời
kịp thời ngăn chặn nguyên nhân, điều kiện làm nảy sinh tội phạm.
4.2.1.2. Hạn chế các tác động tiêu cực từ mặt trái kinh tế thị
trường
Một là, việc phát triển kinh tế phải bền vững, luôn giữ vững vai
trò đầu tàu trong sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hóa, tiếp tục
trở thành trung tâm tài chính, kinh tế, thương mại lớn của khu vực và
của cả nước;
Hai là, giải quyết tốt mối quan hệ giữa phát triển các khu công
nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao với phát triển cơ sở hạ tầng

giao thông đô thị, môi trường; đảm bảo nơi ở, nơi làm việc, học hành,
khám chữa bệnh, vui chơi giải trí cho người dân;

20


Ba là, phát triển ngành nghề theo hướng phát triển nhanh, đi đôi
với giải quyết việc làm cho người lao động;
Bốn là, các tỉnh thành ĐNB cần xây dựng hệ thống đào tạo
nguồn nhân lực lao động có trình độ chuyên môn đạt tầm khu vực và
quốc tế.
4.2.1.3. Hạn chế các tác động tiêu cực từ môi trường xã hội
Một là, cần đảm bảo thực hiện tốt, có hiệu quả các chính sách an
sinh xã hội và giải quyết việc làm trên địa bàn tỉnh;
Hai là, các cấp ủy Đảng và chính quyền các tỉnh ĐNB cần tăng
cường chỉ đạo việc tăng cường phát triển kinh tế gia đình;
Ba là, cần có những biện pháp cụ thể quản lý, kiểm tra chặt chẽ
đối với các loại hình kinh doanh có điều kiện;
Bốn là, tăng cường vai trò của nhân dân, của các cơ quan, tổ
chức, đoàn thể trong cải thiện tình hình an ninh, trật tự, an toàn xã
hội.
4.2.1.4. Hạn chế các tác động tiêu cực từ môi trường văn hóa
Thứ nhất, các cấp ủy Đảng, chính quyền địa phương các tỉnh
miền ĐNB cần tăng cường ban hành kế hoạch, văn bản chỉ đạo,
hướng dẫn cụ thể công tác tuyên truyền, quản lý các loại hình dịch vụ
văn hóa, văn hóa phẩm, ấn phẩm, xuất bản phẩm một cách chặt chẽ
hơn;
Thứ hai, cơ quan văn hóa thường xuyên kiểm tra, rà soát các cơ
sở buôn bán băng đĩa, sách báo, phim ảnh mang tính chất nhạy cảm
trên địa bàn tỉnh và phối hợp với cơ quan chức năng tiến hành tiếp

nhận, kiểm tra, xử lý văn hóa phẩm độc hại;
Thứ ba, tuyên truyền, vận động mọi tầng lớp nhân dân tham gia
đấu tranh, phòng chống, bài trừ sản phẩm văn hóa độc hại;
Thứ tư, tăng cường vai trò của cơ quan truyền thông đại chúng
như tích cực tuyên truyền về tác động xấu của sản phẩm văn hóa độc
hại; phát hiện, biểu dương những điển hình tiên tiến trong công tác
phòng, chống du nhập, lai căng văn hóa tiêu cực.
4.2.1.5. Hạn chế các tác động tiêu cực từ môi trường giáo dục
Một là, tăng cường việc phổ cập giáo dục trong toàn miền;
Hai là, tiếp tục nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, giáo viên;

21


Ba là, tăng cường giáo dục đạo đức, nhân cách và kỹ năng sống,
trách nhiệm công dân cho học sinh ngay từ bậc tiểu học;
Bốn là, tăng cường mối quan hệ phối hợp giữa gia đình, nhà
trường và xã hội;
Năm là, tăng cường quản lý học sinh, chống lại bạo lực học
đường;
Sáu là, nhà trường cần chú trọng đến việc giáo dục giới tính cho
học sinh.
4.2.1.6. Tăng cường tuyên truyền giáo dục nâng cao nhận thức,
hiểu biết pháp luật cho người dân
Một là, đổi mới và đa dạng hóa các hình thức tuyên truyền giáo
dục và phổ biến pháp luật về PCTP XPNPDD của con người;
Hai là, chú trọng công tác đào tạo đội ngũ cán bộ tuyên truyền;
Ba là, tăng cường phối hợp lực lượng trong công tác tuyên
truyền, giáo dục.
4.2.1.7. Hạn chế các tác động tiêu cực từ góc độ nạn nhân của

tội phạm
Một là, nâng cao nhận thức cho những đối tượng có nguy cơ là
nạn nhân của tội phạm XPNPDD của con người;
Hai là, trang bị kỹ năng cần thiết cho những đối tượng có nguy
cơ là nạn nhân của tội phạm XPNPDD của con người;
Ba là, chú trọng hoạt động tu dưỡng, rèn luyện đạo đức, lối sống
cho giới trẻ.
4.2.2. Nhóm giải pháp tăng cường phòng ngừa tái phạm tội
4.2.2.1. Nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền, giáo dục pháp
luật đối với phạm nhân trong quá trình thi hành án
4.2.2.2. Thực hiện tốt công tác tái hòa nhập cho người chấp hành
xong hình phạt
KẾT LUẬN
Tội phạm là một hiện tượng xã hội thể hiện qua cách cư xử
chống đối xã hội của con người. Tuy nhiên, không phải ai sinh ra
cũng phạm tội, mà hành vi phạm tội phát sinh trong một quá trình,
khi môi trường tiêu cực tác động đến những yếu tố chủ quan để hình
thành trong con người những đặc điểm nhân thân xấu dễ làm phát

22


×