Tải bản đầy đủ (.docx) (25 trang)

đặc điểm, đặc trưng tâm lý cơ bản của học sinh dân tộc tiểu số

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (137.16 KB, 25 trang )

1
1. Đặt vấn đề
Thể chất (Physical fitness) là khái niệm phản ảnh chất lượng cơ thể
bao gồm: cấu trúc hình thể, tố chất vận động (sức nhanh, sức mạnh, sức
bền, mềm dẻo, khéo léo), chức năng sinh lý, tâm lý; khả năng thích ứng với
môi trường, xã hội. Để phát triển thể chất (thể lực, tầm vóc) cần nhiều biện
pháp đồng bộ nhằm tác động vào cơ thể con người, làm cho cơ thể phát
triển cân đối hài hoà cả về các tố chất thể lực và chiều cao thân thể [8],[14],
[23].
Ý thức được tầm quan trọng của con người vừa là mục tiêu, vừa là
động lực của sự phát triển xã hội. Đầu tư cho con người chính là tạo cơ sở
vững chắc cho sự phát triển bền vững của mỗi quốc gia. Do vậy, từ nhiều
năm nay, một số quốc gia châu Á, đặc biệt là Nhật Bản đã rất chú trọng
phát triển thể lực, tầm vóc con người, nhằm mục tiêu phát triển nguồn nhân
lực để thu hẹp khoảng cách so với các quốc gia ở châu Mỹ, châu Âu [2].
Ở Việt Nam, Đảng và Nhà nước luôn quan tâm đến yếu tố con người.
Xem con người vừa là chủ thể sáng tạo, vừa là mục tiêu phấn đấu. Ngay từ
năm 1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ “Dân cường thì nước thịnh”. Vì
thế, trong các Văn kiện Đại hội Đảng, đặc biệt Đại hội lần thứ X đã nêu
nhiệm vụ: “Xây dựng chiến lược quốc gia về phát triển sức khoẻ, tầm vóc
con người Việt Nam, tăng tuổi thọ và cải thiện chất lượng giống nòi. Tăng
cường thể lực của thanh niên”. Đó chính là một trong những nội dung quan
trọng để nâng cao chất lượng nguồn lực phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá
hiện đại hoá đất nước trong thời kỳ Đổi mới - Hội nhập - Phát triển [26].
Mục tiêu giáo dục được cụ thể hóa thành các nhiệm vụ dạy học. Các
nhiệm vụ dạy học trong nhà trường phổ thông bao gồm: (1) Tổ chức, điều
khiển cho học sinh nắm vững hệ thống kiến thức. (2) Phát triển trí tuệ, các
kỹ năng vận động, kỹ năng sống cho học sinh. (3) Bồi dưỡng cho học sinh
thế giới quan, nhân sinh quan khoa học và những phẩm chất, năng lực cần
thiết của con người mới. Trong đó có hoàn thiện, phát triển khả năng vận
động cho học sinh (tố chất, thể lực, tố chất mềm dẻo, tố chất thăng bằng...)


[16],[17],[18],[21],[22].


Tóm lại, mục đích tối ưu của hệ thống GDTC là góp phần hoàn thiện, phát
triển hài hoà yếu tố học đường và yếu tố xã hội của học sinh, lấy phương tiện
chính là hoạt động TDTT. TDTT vừa là phương tiện, vừa là yếu tố cấu thành
quan trọng của hệ thống GDTC, đó là tổ hợp bài tập vận động ở trường cũng
như ở nhà, phản ánh một trong những nhiệm vụ chính của công tác GDTC. Nói
cách khác, hình thành, hoàn thiện, phát triển chức năng và thói quen vận động
ở học sinh là một nhiệm vụ quan trọng không thể thiếu được của GDTC học
đường [2],[9],[16].
Đặc điểm tâm sinh lý lứa tuổi học sinh là một trong những mặt quan trọng
trong quá trình GDTC. Qua đó, chuyên đề tìm hiểu cái đặc thù trong cái phổ
biến, cái riêng trong quan hệ với cái chung, quan điểm bình đẳng, đoàn kết
giữa các dân tộc, đồng thời đảm bảo nguyên tắc cơ bản của phép biện chứng
duy vật khi nghiên cứu và giải thích hiện tượng tâm lý người. Ngoài các đặc
điểm chung của tâm lý lứa tuổi học sinh THPT, chuyên đề đề cập tới một số
đặc điểm, đặc trưng tâm lý cơ bản của học sinh dân tộc tiểu số, làm cơ sở đề
xuất phương pháp phát triển thể chất phù hợp, góp phần chuẩn bị nguồn nhân
lực cho nhân dân các dân tộc, đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục sau năm
2015 [1],[2],[8],[12].
2. Giải quyết vấn đề
2.1. Đặc điểm sinh lí lứa tuổi học sinh trung học phổ thông
Quá trình phát triển của cơ thể con người diễn ra qua các giai đoạn là
không đồng đều, có thời kì phát triển nhanh, có thời kì phát triển chậm và ổn
định; Sự phát triển của các cơ quan cũng không đồng thời, có cơ quan phát
triển nhanh, có cơ quan phát triển chậm. Ví dụ: Não phát triển về kích thước
đến 10 – 12 tuổi là khá hoàn chỉnh, cơ của trẻ phát triển nhanh ở lứa tuổi 14 –
15 đến 17 – 18 tuổi…Dựa vào các đặc điểm hình thái chức năng và sự phát
triển của cơ thể để chia thành các lứa tuổi khác nhau [3]. Đối với tuổi học

THPT gồm các đặc điểm sau:
- Hệ thần kinh


Hệ thần kinh tiếp tục được phát triển đi đến hoàn thiện, khả năng tư duy,
khả năng phân tích, tổng hợp và trừu tượng hóa được phát triển tạo điều kiện
cho việc hình thành nhanh chóng phản xạ có điều kiện. Đây là đặc điểm thuận
lợi để các em nhanh chóng tiếp thu và hoàn thiện kĩ thuật động tác, tuy nhiên
đối với một số bài tập mang tính chất đơn điệu, không hấp dẫn cũng làm cho
các em chóng mệt mỏi. Cần thay đổi nhiều hình thức tập luyện một cách phong
phú đặc biệt là tăng cường các hoạt động thi đấu, trò chơi để gây hứng thú và
tạo điều kiện hoàn thành tốt các bài tập chính. Ngoài ra, do sự hoạt động mạnh
của tuyến giáp, tuyến yên, tuyến sinh dục làm cho tính hưng phấn của hệ thần
kinh chiếm ưu thế, giữa hưng phấn và ức chế không cân bằng đã ảnh hưởng
đến hoạt động thể lực, đặc biệt là ở các em nữ, tính nhịp điệu giảm sút nhanh
chóng, khả năng chịu đựng lượng vận động yếu [3],[11],[17].
- Hệ Vận động
+ Hệ xương: Bắt đầu giảm tốc độ phát triển, mỗi năm nữ cao thêm 0,5 –
1cm, nam cao thêm 1 – 3cm. Tập luyện TDTT một cách thường xuyên liên tục
làm cho bộ xương khỏe mạnh hơn. Ở lứa luổi học sinh THPT, các xương nhỏ
như xương cổ tay, bàn tay hầu như đã hoàn thiện nên các em có thể tập luyện
một số động tác treo, chống, mang vác nặng mà không làm tổn hại hoặc không
tạo sự phát triển lệch lạc của cơ thể. Cột sống đã ổn định về hình dáng nhưng
vẫn chưa được hoàn thiện, vẫn có thể bị cong vẹo, nên việc tiếp tục bồi dưỡng
tư thế chính xác thông qua hệ thống bài tập như: Đi, chạy, nhảy, thể dục nhịp
điệu, thể dục cơ bản… cho các em là rất cần thiết [3],[11],[17].
Riêng đối với các em nữ, xương xốp hơn các em nam, ống tủy rộng hơn,
chiều dài ngắn hơn, bắp thịt nhỏ hơn và yếu hơn, nên xương của nữ không
khỏe bằng nam. Đặc biệt là xương chậu của nữ to và yếu hơn nam. Vì vậy
trong quá trình GDTC không thể sử dụng bài tập có khối lượng và cường độ

vận động như nam mà phải có sự phù hợp với đặc điểm giới tính [3],[11],[17].
+ Hệ cơ: Các tổ chức cơ phát triển muộn hơn xương nên sức co cơ vẫn
còn tương đối yếu, các bắp cơ lớn phát triển tương đối nhanh (cơ đùi, cơ cánh
tay), các cơ nhỏ phát triển chậm hơn (cơ bàn tay, ngón tay), các cơ co phát


triển hơn các cơ duỗi, các cơ duỗi của nữ lại càng yếu. Đặc biệt vào tuổi 16 các
tổ chức mỡ dưới da của nữ phát triển mạnh ảnh hưởng đến phát triển sức mạnh
của cơ thể.
Do vậy cần tập những tài tập phát triển sức mạnh để góp phần phát triển
sức mạnh các nhóm cơ. Nhưng bài tập không chỉ đơn thuần là treo hoặc chống
mà phải là những bài tập kết hợp giữa treo và chống cùng với những bài tập
khắc phục lực đối kháng khác nữa. Các bài tập phải đảm bảo nguyên tắc vừa
sức và đảm bảo cho tất cả các cơ đều được phát triển. Nhưng cần có yêu cầu
riêng đối với các em nữ, tính chất động tác của nữ cần toàn diện, mang tính
mềm dẻo, nhịp điệu và khéo léo [3],[11],[17].
- Hệ tuần hoàn
Hệ tuần hoàn của học sinh THPT đang phát triển và đi đến hoàn thiện,
buồng tim phát triển tương đối hoàn chỉnh, mạnh đập của nam vào khoảng 70 –
80l/p, của nữ 75 – 85l/p. Hệ thống điều hòa vận mạch phát triển tương đối hoàn
chỉnh. Phản ứng của hệ tuần hoàn trong vận động tương đối rõ rệt, nhưng sau
vận động mạch đập và huyết áp hồi phục tương đối nhanh. Cho nên lứa tuổi
này cơ thể tập những bài tập chạy dai sức và những bài tập có khối lượng và
cường độ vận động tương đối lớn hơn học sinh trung học cơ sở [3],[17].
- Hệ hô hấp
Đã phát triển và tương đối hoàn thiện, vòng ngực trung bình của nam 67 –
72cm, nữ 69 – 74cm. Diện tích tiếp xúc của phổi khoảng 100 – 120cm 2 gần
bằng tuổi trưởng thành. Dung lượng phổi tăng lên nhanh chóng từ lúc 15 tuổi
là 2 – 2,5 lít đến 16 – 18 tuổi khoảng 3 – 4 lít, tần số hô hấp gần giống người
lớn 16 – 20l/p.

Tuy nhiên các cơ hô hấp vẫn còn yếu nên sự co giãn của lồng ngực nhỏ,
chủ yếu là co giãn cơ hoành. Trong tập luyện cần thở sâu và tập trung chú ý thở
bằng ngực, các bài tập bơi, chạy cự li trung bình, việt dã có tác dụng tốt đến sự
phát triển của hệ hô hấp [3],[17].


2.2. Đặc điểm tâm lý lứa tuổi học sinh trung học phổ thông
Độ tuổi thanh niên (học sinh THPT) là thời kì bắt đầu đạt được sự trưởng
thành về mặt thể lực, nhưng sự phát triển cơ thể vẫn còn kém so với sự phát
triển của cơ thể người trưởng thành. Tuổi thanh niên bắt đầu thời kì phát triển
tương đối êm ả về mặt sinh lí [16],[27].
Thanh niên mới lớn có hình dáng người lớn, có những nét của người lớn,
nhưng chưa phải là người lớn, thanh niên học sinh còn phụ thuộc vào người
lớn, người lớn quyết định nội dung và xu hướng chính của hoạt động của họ.
Các em vẫn đến trường học tập dưới sự lãnh đạo của người lớn, vẫn phụ thuộc
vào cha mẹ về vật chất. Vị trí của thanh niên có tính chất không xác định (ở
mặt này họ được coi là người lớn, mặt khác lại không). Tính chất đó và những
yêu cầu đề ra cho thanh niên được phản ánh một cách độc đáo vào tâm lí thanh
niên. Người lớn phải tìm cách tạo điều kiện cho việc xây dựng một phương
thức sống mới phù hợp với mức độ phát triển chung của thanh niên, bằng cách
khuyến khích hành động có ý thức trách nhiệm riêng của thanh niên và khuyến
khích sự giáo dục lẫn nhau trong tập thể thanh niên mới lớn [16],[27].
Về mặt tâm lí, các em thích chứng tỏ mình là người lớn, muốn để cho mọi
người tôn trọng mình, đã có trình độ hiểu biết nhất định, có khả năng phân tích
tổng hợp, muốn hiểu biết nhiều, có nhiều hoài bão, nhưng còn nhiều nhược
điểm và thiếu kinh nghiệm trong cuộc sống. Tuổi này là tuổi chủ yếu hình
thành thế giới quan, tự ý thức, hình thành tính cách và hướng về tương lai. Đó
cũng là tuổi của lãng mạn, mơ ước độc đáo và mong cho cuộc sống tốt đẹp
hơn. Đó là tuổi đầy nhu cầu sáng tạo, nảy nở tình cảm mới trong đó có mối tình
đầu thường để lại dấu vết trong suốt cuộc đời [16],[27].

- Hứng thú: Các em có thái độ tự giác tích cực trong học tập xuất phát từ
động cơ học tập đúng đắn và hướng tới việc lựa chọn nghề sau khi đã học xong
THPT. Song hứng thú học tập cũng còn do nhiều động cơ khác nhau: Giữ lời
hứa với bạn, đôi khi do tự ái, hiếu danh. Cho nên giáo viên cần định hướng cho
các em có được hứng thú bền vững trong học tập và trong cuộc sống [16],[27]


- Tình cảm: Học sinh THPT biểu lộ rõ rệt hơn tình cảm gắn bó và yêu quý
mái trường mà các em sắp từ giã, đặc biệt đối với những giáo viên giảng dạy
các em (yêu ghét rõ ràng). Việc giáo viên gây được thiện cảm và sự tôn trọng
là một trong những thành công, điều đó giúp giáo viên thuận lợi hơn trong
công việc giảng dạy, nó thúc đẩy các em tích cực, tự giác trong học tập và ham
thích môn học hơn…[16],[27].
- Trí nhớ: Ở lứa tuổi này hầu như không còn tồn tại việc ghi nhớ máy móc
do các em đã biết cách ghi nhớ có hệ thống, đảm bảo tính logic, tư duy chặt chẽ
hơn và lĩnh hội được bản chất của vấn đề cần học tập.
- Các phẩm chất ý chí đã rõ ràng hơn và mạnh mẽ hơn so với các lứa tuổi
trước đó. Tuy nhiên hiện nay do học sinh THPT đạt tới mức tư duy đặc trưng
cho lứa tuổi này còn chưa nhiều, nhiều khi các em chưa phát huy hết năng lực
độc lập suy nghĩ của bản thân, còn kết luận vội vàng theo cảm tính [16],[27].
2.3. Đặc điểm tâm lý và phong tục tập quán lứa tuổi học sinh trung
học phổ thông các dân tộc thiểu số
Đặc trưng tâm lý dân tộc là một hình thái đặc biệt của tâm lý xã hội, có
tính chất bền vững. Đặc trưng tâm lý dân tộc là những sắc thái dân tộc độc đáo
của tình cảm và xúc cảm, là cách nghĩ và hành động, là những nét tâm lý bền
vững của thói quen, là truyền thống được hình thành dưới ảnh hưởng những
điều kiện của đời sống vật chất, những đặc điểm của con đường phát triển lịch
sử của một dân tộc nhất định và được biểu hiện trong đặc trưng văn hóa và sinh
hoạt của dân tộc đó. Trong đặc điểm tâm lý dân tộc nên chia làm hai mặt, mặt
tương đối bền vững được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác, được phong

phú thêm trong mỗi giai đoạn lịch sử mới và mặt tương đối “động” hơn, như
tác động của hoàn cảnh sống, điều kiện kinh tế - xã hội [24],[27].
Cấu trúc tâm lý biểu hiện trong cộng đồng văn hóa là một đặc trưng quan
trọng để hình thành dân tộc, nội dung khái niệm “tôi người” theo nghĩa hẹp là
một cộng đồng người được hình thành trong quá trình lịch sử có những đặc
điểm văn hóa tương đối ổn định và một số đặc điểm tâm lý tương ứng. Điều
này có ý nghĩa là mỗi dân tộc có một đặc điểm tâm lý riêng, mang tính chất xã


hội - lịch sử. Nghiên cứu tìm hiểu đặc điểm tâm lý học sinh dân tộc là một
nhiệm vụ quan trọng của công tác giáo dục, dạy học ở miền núi. Tuy nhiên đây
cũng là một công việc khó khăn đòi hỏi phải có quá trình nghiên cứu công phu
với các cách nghiên cứu đặc trưng [24],[27].
Ngoài các đặc điểm chung của tâm lý lứa tuổi học sinh THPT, còn một số
đặc điểm, đặc trưng tâm lý cơ bản của học dân tộc tiểu số:
- Thừa hưởng và kế thừa truyền thống văn hoá, phong tục tập quán của
đồng bào dân tộc thiểu số đã được tích luỹ lâu đời, trở thành nếp sinh hoạt ổn
định. Đồng bào các dân tộc thiểu số có rất nhiều truyền thống tốt đẹp như
truyền thống đấu tranh cách mạng, đoàn kết, lòng thương người, đức tính cần
cù, thật thà, chất phác, tinh thần dũng cảm... Đặc biệt tinh thần quý trọng người
đem “cái chữ”, ánh sáng văn minh cho mình, sống tình nghĩa, quý sự chân
thành, tuân thủ người đứng đầu...là những giá trị quý báu vẫn tồn tại vững chắc
trong tâm lý đồng bào miền núi [24],[27].
- Thừa hưởng và kế thừa một nền văn hoá Việt Nam thống nhất trong đa
dạng. Mỗi dân tộc anh em có những giá trị và sắc thái văn hoá riêng. Đặc biệt
các dân tộc thiểu số có kho tàng văn hoá dân gian, bao gồm các làn điệu múa,
các bản trường ca vô cùng phong phú có giá trị nghệ thuật, ví dụ truyền thuyết
“Sóng trụ xôn xao”, múa xoè của người Thái; múa ô của người Mông... [24],
[27].
- Ảnh hưởng của phong tục tập quán nên việc quản lý trong sinh hoạt,

giáo dục về nhận thức, xây dựng nhân sinh quan cách mạng, nhất là việc hình
thành tư tưởng con người mới gặp khó khăn [24],[27].
- Học sinh ngoan nhưng thụ động, việc học tập mang tính khuôn mẫu từ
chương, ít trường hợp tự lực trong học tập. Việc học mang nặng hình thức ghi
nhận, máy móc, thiếu sự sáng tạo, chủ động, vì vậy ảnh hưởng không ít đến
quá trình dạy và học [24],[27].
- Việc tự học còn mang tính đối phó. Rất ít học sinh có khả năng tự xây
dựng phương pháp học có hiệu quả hoặc tự mày mò, tìm hiểu thêm để nâng cao
chất lượng học tập. Trí nhớ của đa số học sinh không bền vững, học tuần trước


thì tuần sau đã quên, hoặc nhớ mơ hồ thiếu chính xác dẫn đến nhiều nhầm lẫn
trong quá trình vận dụng kiến thức [24],[27].
- Có quan niệm bó khung, mức độ giao tiếp còn hạn hẹp. Tuy vậy do sống
từ nhỏ trong không gian rộng, tiếp xúc nhiều với thiên nhiên nên nhận thức
cảm tính của học sinh dân tộc thiểu số khá tốt. Về phía phụ huynh ở vùng sâu,
vùng xa, mối quan hệ với nhà trường chưa nhiều; chủ yếu dựa vào Nhà nước
bao cấp lo cho học sinh; mức độ xã hội hoá giáo dục chưa phổ biến [24],[27].
- Vốn là con em những người lao động, được nuôi dạy trong môi trường
xa quê hương làng bản nhiều năm, không gắn bó thường xuyên với sinh hoạt
cộng đồng, với các hoạt động lao động sản xuất ở địa phương, các em ít có cơ
hội được rèn luyện trong môi trường lao động sản xuất, môi trường sinh hoạt
văn hoá cộng đồng. Nếu không được giáo dục thường xuyên, sau khi ra trường
các em có nguy cơ không còn giữ được những thói quen tốt, ngại lao động
chân tay, ít sử dụng tiếng mẹ đẻ, không còn thành thạo kỹ năng lao động thủ
công truyền thống [24],[27].
- Do vốn gắn bó thường xuyên với môi trường gia đình, môi trường cộng
đồng dân tộc và làng bản trước khi đi học chịu ảnh hưởng của tâm lý cộng
đồng, các em không tránh khỏi tâm lý mặc cảm, khép kín. Phần lớn, học sinh
dân tộc thiểu số do được Nhà nước ưu đãi trong nuôi dạy nên dễ nảy sinh trong

một bộ phận học sinh tâm lý ỷ lại, trông chờ mà không thực sự phấn đấu vươn
lên. Vì thế, khả năng tự thân vận động của học sinh bị hạn chế [24],[27].
Những mặt tiêu cực ở học sinh thể hiện thường không rõ. Nếu nhận thức được
những biểu hiện này, các nhà quản lý, nhà sư phạm hoàn toàn có thể chế ngự,
phòng ngừa, hạn chế được nó thông qua các nội dung và hình thức giáo dục.
Hoàn cảnh sống tác động không nhỏ tới quá trình học tập và trưởng thành
của học sinh, do đó đa số học sinh tiếp thu nhanh chóng nền văn minh của giáo
dục; môi trường, điều kiện mới tạo ra sinh khí mới tốt đẹp trong lối sống, tự
lực tự cường, phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc mình.
Tóm lại học sinh dân tộc thiểu số ngoài những đặc điểm chung giống như
trẻ em cùng lứa tuổi, còn có những đặc điểm tâm lý riêng. Những người làm


công tác giáo dục ở vùng dân tộc, với học sinh dân tộc không thể không tính
tới những đặc điểm đó [4],[8],[11],[24].
2.4. Phương pháp phát thể chất học sinh trung học phổ thông
2.4.1. Cơ sở lý luận tiếp cận
Theo Từ điển Tiếng Việt: Giải pháp là phương pháp giải quyết một vấn
đề. Ở đây giải pháp được hiểu là cách thức, là một công cụ người ta dùng để
giải quyết những vấn đề đặt ra trong thực tiễn (như giải pháp kỹ thuật, giải
pháp kinh tế…). Trong cách hiểu này, đôi khi người ta cũng dùng thuật ngữ
“biện pháp” để thay thế. Cũng theo Từ điển Tiếng Việt: biện pháp là cách làm,
cách giải quyết một vấn đề cụ thể. Tuy hai khái niệm này có thể được dùng
thay thế cho nhau trong thực tế, nhưng về bản chất, khái niệm “giải pháp” có ý
nghĩa và nội dung rộng lớn hơn, có tính chất vĩ mô hơn so với “biện pháp”
thường để chỉ cách thức giải quyết một công việc cụ thể nào đó. Theo nghĩa
này, người ta còn xem biện pháp là cách thức, công cụ thực hiện giải pháp, như
trong mỗi giải pháp thường đặt ra nhiều biện pháp để thực hiện giải pháp đó
[25].
Trong quản lý, giải pháp dùng để giải quyết một vấn đề thường được đặt

ra trên nền tảng của việc phân tích các điểm mạnh (thành tựu), điểm yếu (hạn
chế) của một tổ chức, những cơ hội và thách thức đối với tổ chức đó trong bối
cảnh chung của xã hội ở phạm vi quốc gia và quốc tế. Giải pháp thực hiện đồng
thời cũng được dựa trên các quan điểm, mục tiêu tổng quát và mục tiêu chung
của vấn đề được đặt ra và giải quyết ở tầm vĩ mô [4],[12].
Trong công tác giáo dục, mọi vấn đề quan hệ về giáo dục đều có tính quy
luật. Giải pháp giáo dục là một hệ thống những quy luật, nhiệm vụ của các nhà
khoa học, các nhà quản lý là phải nghiên cứu tìm ra những quy luật đảm bảo
cho những thành công của công tác giáo dục. Điều này đòi hỏi các nhà nghiên
cứu phải phân tích được thực tiễn giáo dục của Việt Nam nói riêng và các nền
giáo dục tiên tiến của thế giới, từ đó khái quát, hệ thống thành giải pháp cơ
bản, đúng đắn, phù hợp cho nền giáo dục trong nước [10],[19].


Giải pháp thường được gắn liền với từ “đột phá” hoặc “then chốt” nhằm
nhấn mạnh tầm quan trọng của giải pháp đó. Có thể hiểu “giải pháp đột phá” là
giải pháp mở đường cho các giải pháp khác, còn “giải pháp then chốt” là giải
pháp quan trọng, có tác dụng quyết định đối với toàn bộ các vấn đề liên quan
[25].
Mục tiêu dạy học được xác định căn cứ vào mục tiêu giáo dục phổ thông.
Đề đạt được mục tiêu này, quá trình dạy học cần tác động lên 3 mặt đời sống
tâm lý học sinh, về mặt nhận thức, mặt xúc cảm - tình cảm và mặt hành động;
được sắp xếp theo thứ tự: Những kiến thức học sinh cần biết; Những kỹ năng,
kỹ xảo học sinh cần tập luyện, rèn luyện; Những thái độ ứng xử (giá trị) thích
hợp học sinh cần được bồi dưỡng [20].
Việc tổ chức, điều khiển học sinh nhằm nắm vững kiến thức; thực hiện
thành thạo những kỹ năng, kỹ xảo vận động cần thiết; những kinh nghiệm về
thái độ sống cần được sắp xếp một cách khoa học, hợp lý [18].
GDTC là một thành phần quan trọng trong nhà trường, nhằm cung cấp
kiến thức, kỹ năng vận động cơ bản cho người học, góp phần thực hiện mục

tiêu giáo dục toàn diện là giúp học sinh có sự tăng tiến về sức khỏe, thể lực; đạt
tiêu chuẩn sức khỏe theo lứa tuổi và giới tính; có những kiến thức, kỹ năng cơ
bản về TDTT và phương pháp tập luyện; các kỹ năng vận động cần thiết trong
đời sống và hình thành thói quen tập luyện TDTT thường xuyên và nếp sống
lành mạnh, tác phong nhanh nhẹn, kỷ luật, tinh thần tập thể và các phẩm chất
đạo đức ý chí. Biết vận dụng những kiến thức, kỹ năng đã học vào các hoạt
động thực tiễn [9],[13].
Như vậy, GDTC là một thành tố quan trọng trong hệ thống giáo dục, cung
cấp kiến thức, kỹ năng vận động cơ bản cho người học. Môn học thể dục được
xác định là một môn học bắt buộc, là hoạt động chủ yếu nhằm trang bị cho họ
sinh kiến thức và kỹ năng cơ bản để rèn luyện sức khỏe, nâng cao thể lực, giúp
học sinh giải tỏa những căng thẳng do thiếu vận động [15].


2.4.2. Những nguyên tắc chung phát triển thể chất học sinh THPT
Trong quá trình giáo dục thể chất cho học sinh THPT cần tuân theo
những yêu cầu cụ thể đối với những nguyên tắc chung, phù hợp với đặc điểm
người tập và điều kiện tiến hành:
a) Nguyên tắc phát triển con người cân đối và toàn diện: Để giải quyết
xác nhiệm vụ trng giai đoạn này cần xuất phát từ tầm quan trọng của việc
chuẩn bị thể lực chung một cách rộng rãi so với chuyên môn hoặc chuẩn bị thể
lực chung cho học sinh đó là phát triển thể chất, trang bị các kỹ năng – kỹ xảo
vận động và bồi dưỡng thể lực một cách toàn diện và cân đối. Đó cũng là tiền
đề quan trọng để chuyên môn hóa có hiệu quả tốt trong một lĩnh vực hoạt động
nào đó như sản xuất, thể thao…[12],[23].
Trong những bước đầu, tập luyện TDTT bao gồm các bài tập đa dạng,
phong phú dần dần được chuyên môn hóa tùy thuộc vào khả năng của cá nhân
để xác định môn thể thao sẽ được hoàn thiện sâu. Nhưng ở tuổi học sinh, ngay
cả khi bắt đầu chuyên môn hóa thể thao thì khuynh hướng giáo dục toàn diện
các phẩm chất thể lực và thường xuyên mở rộng vốn kỹ năng – kỹ xảo vận

động vẫn còn chiếm ưu thế [12],[23].
b) Gắn chặt việc GDTC với giáo dục trí tuệ: Nhiều công trình nghiên cứu
đã chỉ ra: Những học sinh đạt kết quả tốt về môn TDTT thường tiếp thu tốt các
môn học văn hóa và ngược lại, trẻ em yếu duối, ít hoạt động thường phát triển
chậm về tinh thần, tâm lý. Đương nhiên không làm cho học sinh đam mê các
môn thể thao mà ảnh hưởng không tốt đến hứng thú học tập và có hại cho sức
khỏe; Sử dụng thường xuyên, đầy đủ các phương tiện GDTC trong hệ thống
giáo dục phổ thông, tạo điều kiện thuận lợi hình thành cơ sở đạo đức cần thiết
cho học sinh. Qua GDTC giáo dục học sinh khắc phục những khó khăn ngày
càng tăng, rèn luyện tính kiên trì, chủ động, quyết tâm, dũng cảm… và những
phẩm chất ý chí khác [12],[23].
c) Nguyên tắc kết hợp GDTC với thực tiễn lao động và quốc phòng: Đó là
việc đảm bảo hiệu quả thực dụng càng lớn càng tốt của toàn bộ các phương
tiện GDTC trong trường phổ thông. Ý nghĩa thực dụng trước tiên là đạt trình


độ chuẩn bị thể lực toàn diện, tức là chuẩn bị cho mọi hình thức hoạt động đa
dạng; Đảm bảo mối quan hệ hữu cơ giữa GDTC với giáo dục lao động. GDTC
bằng mọi cách tác động đến giáo dục lao động; GDTC giúp cho học sinh nhanh
chóng bắt vào tốc độ và nhịp điệu cần thiết trong lao động; Thường xuyên rèn
luyện cho học sinh thói quen sử dụng có ý thức các phương tiện GDTC và bồi
dưỡng năng lực tổ chức, thói quen chủ động sử dụng phương tiện và những
hình thức phong phú của GDTC trong lao động và sinh hoạt được hình thành
trong thời gian đi học sẽ trở thành nhu cầu thường xuyên trong đời sống hàng
ngày [12],[23].
d) Nguyên tắc nâng cao sức khỏe: Do tính chất dễ biến đổi của cơ thể, do
sự phát triển tự nhiên chưa hoàn thiện, việc GDTC cho học sinh cần phải tuân
thủ triệt để nguyên tắc nâng cao sức khỏe; Nghiêm khắc đảm bảo nội dung,
khối lượng và cường độ vận động của học sinh phù hợp với yêu cầu của những
giai đoạn lứa tuổi phát triển khác nhau, cũng như những đặc điểm về giới tính;

Nâng cao hiệu quả sức khỏe thông qua bài tập thể chất, bằng cách thường
xuyên sử dụng hợp lý giữa vận động và nghỉ ngơi, sử dụng những biện pháp vệ
sinh, chế độ dinh dưỡng và những yếu tố tự nhiên để rèn luyện cơ thể cho học
sinh ; Đảm bảo kiểm tra sư phạm và kiểm tra y học thường xuyên (về trình độ
chuẩn bị thể lực; trạng thái sức khỏe; diễn biến các chỉ số phát triển thân thể…
của học sinh) [22].
2.4.3. Các phương pháp chủ yếu nhằm phát triển thể chất cho học sinh
THPT
Tập luyện TDTT thường xuyên và hợp lý giúp cho con người phát triển
toàn diện, cải thiện cơ quan chức năng cơ thể, tăng cường trao đổi chất, kích
thích sự phát triển hệ xương, phát triển hài hoà tố chất thể lực. Ngoài ra TDTT
còn làm khơi dậy và phát huy tối đa mọi tiềm năng di truyền trong cơ thể, trong
đó bao gồm chiều cao thân thể. Ngoài ra thiếu vận động hợp lý, tác dụng của
dinh dưỡng bị hạn chế rất nhiều đối với sự phát triển bình thường của con
người, thậm chí sinh ra các bệnh tật. Theo các chuyên gia Nga thì sức khoẻ
toàn diện là điều kiện quan trọng số một cho sự tăng trưởng chiều cao, cần có


sự kết hợp đầy đủ các yếu tố, tổ chức tập luyện thể thao có hệ thống và khoa
học mới có thể làm chiều cao của học sinh tăng trưởng mạnh. Có tác giả cho
rằng: Các bài tập thể dục làm tăng chiều cao cho học sinh được phân thành 2
nhóm: nhóm hoạt động thể lực làm phát triển chiều cao và nhóm phát triển hệ
cơ [14],[17],[23].
Theo quy luật chung, nếu tổ chức cho các em tham gia tập luyện một cách
khoa học thì bất kỳ một môn thể thao nào cũng có ích cho sự phát triển thể
chất. Tuy vậy, căn cứ vào sự phân tích kết cấu của mô xương và các quy lật
của sự trưởng thành, có 3 nhóm môn sau đây kích thích sự phát triển của
xương, tăng trưởng về thể chất:
- Nhóm thứ nhất: Các môn vận động chi dưới gồm đi, chạy, nhảy. Cơ sở
của sự lựa chọn các bài tập này, nhằm nâng cao chức năng của chi dưới trong

việc chống đỡ và chịu trọng lượng, kích thích mô sụn đầu xương gây tác dụng
tạo xương, tăng trưởng về chiều dài và bề ngang của xương [14],[17],[23].
- Nhóm thứ 2: Các bài tập vươn, duỗi, kéo dãn. Cơ sở của các bài tập này
là làm cho khớp mềm dẻo, dây chằng và cơ toàn thân đạt mức đàn hồi cao có
lợi cho phát triển chiều cao [14],[17],[23].
- Nhóm thứ 3: Các môn bóng, thể dục, điền kinh, bơi, võ, các điệu nhảy...
Cơ sở của các bài tập này là làm tất cả các bộ phận cơ thể tham gia hoạt động,
giúp cho trao đổi chất và chuyển hoá năng lượng trong cơ thể tăng mạnh, cải
thiện cung cấp dinh dưỡng cho xương [14],[17],[23].
Các phương pháp tập luyện nâng cao tầm vóc gồm 7 nội dung:
- Chạy chậm và vận động với các nội dung mềm mại, chạy chậm từ 5 đến
7 phút sau đó tập các động tác mềm dẻo.
- Đu trên xà đơn hay trên thang gióng, đu trên xà đơn mỗi lần duy trì 20
giây tập từ 3 đến 4 lần chú ý thả lỏng có thể kết hợp đu có trọng lượng bên
ngoài từ 5 đến 10 kg tuỳ sức người tập.
- Bài tập bật nhảy với tay lên cao, nhảy 2 đợt mỗi đợt 10 lần, thời gian
nghỉ giữa các đợt từ 3 đến 5 phút.


- Leo lên xuống đồi cao từ 20 đến 30m, thời gian tập khi nào mệt thì
dừng.
- Bài tập kéo dãn bằng động lực, từ 3 đến 5 đợt mỗi đợt 20 lần, thực hiện
trong 20 giây, thời gian nghỉ giữa các đợt không quy định.
- Bài tập kéo dãn bằng tĩnh lực, mỗi tuần thực hiện 3 lần, nhưng tốt nhất
tiến hành xen kẽ các ngày.
- Bài tập bơi từ 2- 3 lần trong tuần chủ yếu tập bơi ếch.
Các môn thể thao có tác dụng làm tăng chiều cao là bơi lội, thể dục, chạy
ngắn, các môn bóng, cầu lông... Nhưng khi tập luyện các môn này nhằm mục
đích tăng chiều cao thì phải sắp xếp lượng vận động thích hợp; chỉ có lượng
vận động thích hợp thì mới có khả năng thúc đẩy chiều cao tăng trưởng. Cường

độ vận động nhằm tăng trưởng chiều cao nhỏ hơn nhiều so với cường độ làm
phát triển hệ cơ (sức mạnh, tốc độ), nhưng thời gian vận động cần phải đủ dài
mới có tác dụng tăng chiều cao [23].
Khi biên soạn các bài tập thể dục phát triển chiều cao cần lựa chọn các bài
tập hợp lý và đảm bảo theo các đặc tính sau:
- Bài tập thể dục cũng phải có tiết tấu rõ rệt thể hiện tính nhịp điệu phù
hợp với quy luật tự nhiên [14],[23].
- Bài tập phải đạt được mục đích phát triển toàn diện các chức năng cơ
thể, chứ không nhằm vào một cơ quan, tổ chức riêng biệt nào [14],[23].
- Bài tập phát triển chiều cao không chỉ gồm những động tác một chiều
mà phải kết hợp khéo léo chiều thuận và chiều nghịch thay thế lẫn nhau [14],
[23].
- Tập luyện thể thao phải chuyên tâm chú ý vào bài tập, làm đúng yếu lĩnh
động tác của người hướng dẫn thông qua tinh thần tự giác, hình thành hứng thú
tập luyện thì mới đạt hiệu quả, khơi dậy tiềm năng sinh trưởng, phát dục [14],
[23].
- Các bài tập có nội dung và hình thức tập luyện cần lựa chọn những động
tác có tính thẩm mỹ cao, biến đổi sinh động và luôn cải tiến nhằm nâng cao
tính hứng thú tập luyện cho học sinh [14],[23].


- Tập luyện thường xuyên và có hệ thống thì mới có hiệu quả mong muốn;
luyện tập thể dục phát triển chiều cao cũng phải thường xuyên liên tục và có hệ
thống [14],[23].
- Các bài tập cho phát triển chiều cao phải thông dụng, đơn giản và dễ tập
phù hợp với mọi đối tượng, giúp cho người tập dễ dàng tập luyện thường
xuyên, liên tục mỗi ngày 2 lần vào buổi sáng và chiều. Thời gian tập luyện mỗi
lần khoảng từ 7 đến 8 phút, người khoẻ có thể tăng lên cho phù hợp [14],[23].
Ngoài ra cần có sự kết hợp nâng cao chất lượng giấc ngủ, chế độ dinh
dưỡng hợp lý và tránh sử dụng các chất kích thích như thuốc lá, rượu bia. Có

như vậy mới đảm bảo nâng cao tầm vóc và thể lực cho học sinh [1],[4],[8].
2.4.4. Phương pháp giảng dạy động tác đối với học sinh THPT
Đối với học sinh THPT, khả năng vận động được phát triển nhanh, nhưng
theo đặc điểm tâm sinh lý lứa tuổi, đây là giai đoạn học sinh đã đạt được sự
trưởng thành về hình thái cơ thể, tâm lý các em có những điểm giống với người
lớn. Vì vậy trong quá trình GDTC cho các em gồm có các phương pháp sau:
a) Phương pháp phân chia-hợp nhất: là phương pháp chia động tác ra
nhiều phần rồi tiến hành theo một trình tự nhất định, sau đó hợp nhất chúng lại.
Nếu động tác hoặc tổ hợp các động tác cần học có thể chia ra thành các yếu
lĩnh (thành phần động tác) tương đối độc lập mà không ảnh hưởng tới cấu trúc
của động tác và không làm giảm sút đáng kể tính chất của chúng thì mới tiến
hành theo cách này [14].
Ưu điểm của phương pháp này là học sinh dễ tiếp thu đượcc kỹ thuật
động tác. Tuy nhiên, nếu lạm dụng phương pháp này thì học sinh khó tiếp thu
được hệ thống của động tác hoặc xây dựng định hình của động tác không chính
xác và tốn nhiều thời gian hơn phương pháp tậ luyện hoàn chỉnh (toàn vẹn).
Phương pháp này thường dùng khi giảng dạy kỹ thuật động tác khó, các động
tác có cấu trúc gồm nhiều giai đoạn như: các môn chạy, nhảy, bơi, ném…Vì
vậy, khi sử dụng phương pháp này cần lưu ý:


+ Thận trọng trong việc phân chia động tác, khi phân chia cần đảm bảo
mối quan hệ giữa các bộ phận của bài tập, để không bị phá vỡ cấu trúc kỹ thuật
động tác khi thực hiện hợp nhất [14].
+ Phân chia cho học sinh biết được vị trí của từng bộ phận động tác và
mối quan hệ của chúng trong toàn bộ cấu trúc động tác [14].
+ Không nên để cho học sinh thực hiện quá thuần thục các bộ phận của kỹ
thuật động tác rồi mới tiến hành tập luyện hợp nhất, có nghĩa là phải xác định
thời gian thích hợp để thực hiện hoàn chỉnh kỹ thuật động tác [14],[23].
b) Phương pháp tập luyện nguyên vẹn: là phương pháp thực hiện toàn bộ

động tác trọn vẹn từ đầu đến cuối. Không phân chia động tác thành đoạn hoặc
các bộ phận động tác. Giảng dạy theo phương pháp này tạo cho học sinh nắm
vững động tác một cách liên tục, không tách rời mối quan hệ chặt chẽ giữa các
bộ phận của động tác. Phương pháp này phù hợp với những động tác đơn giản
hoặc các động tác khó nhưng không thể tiến hành phân chia được, nếu phân
chia sẽ ảnh hưởng tới cấu trúc động tác. Thực tế cho thấy, trong quá trình giảng
dạy có những động tác khó vẫn phải sử dụng phương pháp tập luyện nguyên
vẹn. Nếu sử dụng phương pháp này để tập các động tác khó cần chú ý nhấn
mạnh vào những phần chủ yếu của kỹ thuật động tác, hạ thấp yêu cầu như:
giảm bớt khối lượng, hạ thấp độ cao, rút ngắn cự ly… để học sinh có thể hoàn
thành được động tác. Sau đó, nâng cao yêu cầu và độ khó của động tác [14],
[23].
Ngoài ra, quá trình giảng dạy còn có sự kết hợp với các bài tập bổ trợ
hoặc bài tập dẫn dắt để tạo điều kiện cho học sinh nắm vững kỹ thuật động tác
mọt cách nhanh chóng. Trong quá trình giảng dạy kỹ thuật động tác đối với
học sinh THPT cần kết hợp phương pháp giảng giải và trực quan (đặc biệt là
làm mẫu). Vì đó là phương pháp cơ bản để xây dựng những khái niệm ban đầu
về động tác cho học sinh [14],[23].
c) Phương pháp giảng giải, là phương pháp mà giáo viên dùng lời nói
phân tích mục đích, yêu cầu, các yếu lĩnh kỹ thuật động tác, điểm khó, trọng
tâm… của động tác. Có nghĩa là phân tích mối liên hệ bên trong của động tác,


+
)
+.
0
$

K 6 †: ‚


+,

' 9

A

&

'

O# @#" W, 0#

K * ' *

j'

R

&

=W

P

$?

_

@

+

}#

+
8

A

?

K

=>

%

&

}# +%

$

_

V

_ J#

L


#* +,

' A)

[;

)* +,
:

.'

J#

$k J#

$K

)

$

&

8 H

+

.


#

A

N +7
%

' +!

+,

3

-)

#

' +V +

$g $

:

@

_

+

? -


m

[ 3

? = ^8

K
*
+ #= ‡

, ( +V +

"†

V
- ' _

#* +,

=

*
' €

Q

V

€ 0N

7

_

V +

+d = >V +
9

L

+j )

f 3

)* 0N

@

K ' + /#

J# +d

#

)* +,

*

=‡


L

K

Q J#<

,

#

:

C FE=

# L +,

*

5

* ) 0N

( @

V

.' ?

' $K


#

V

.

K

Q

z

e

"

%) +

)N' , 0#

[

%
0.

#)

6


%4

J# +d

f

=W

K

: 3

' +A

, +,

L

V .

$

.

&
-

)

#;; 0 +,


+

#

/# @

:

}#

+
V

) +V

$g $

'

K

$k

- *

&

)/ )d $7'


,

o

_ +j 6
' &

C FE=

C FE=

5
*

&

P - #j

, $
+,

?

K

-)

7

-


[

0x

$?

3

@ +,
)8

K

; '

J#

_

#+

€ 0N

_

+,

#


K *

K

@
)

7

V M

$ '
+%

: K +.
+( )8

+Y )

, +,
S'

% +o

+

5 6Tx

_


'

}# ' € 0N

% 4"
N

8

+,
' #( t

; 6 $&

' A $K

)* ' K

:
J#

K ' $g $

+

$#

7

A $


%
*

N *
)
L

#

)

(


triển thể lực cho học sinh. Trong quá trình tập luyện, giáo viên cần căn cứ vào
tình tình nắm vững động tác của học sinh mầ thây đổi yêu cầu, tăng độ khó, để
nâng cao dần chất lượng thực hiện động tác [14].
Trong điều kiện nào đó, giáo viên có thể thay đổi số lần lặp lại, cự ly,
quãng nghỉ, cường độ vận động và yêu cầu tập luyện để giảm nhẹ hoặc tăng
thêm sức chịu đựng của học sinh, nhằm làm cho học sinh có thể nắm vững và
hoàn thiện động tác một cách nhanh chóng hoặc phát triển thể chất. Phương
pháp tập luyện thay đổi phải có mục đích, nhiệm vụ rõ ràng và thay đổi một
cách thích hợp để động viên học sinh tích cực học tập, Tránh hiện tượng thay
đổi quá nhiều làm cho việc tổ chức phức tạp, tốn nhiều thời gian không cần
thiết [14].
g) Phương pháp trò chơi: Sử dụng phương pháp này để tập luyện trong
giờ thể dục sẽ tạo hứng thú trong học tập cho học sinh. Mặt khác, còn động
viên được tinh thần tự giác – tích cực của học sinh. Tùy theo nhiệm vụ, tính
chất bài học mà chọn nội dung của trò chơi cho thích hợp, tránh tình trạng

dùng trò chơi để mua vui cho học sinh [14],[23].
h) Phương pháp thi đấu: Thi đấu là phương pháp tập luyện sinh động và
phức tạp. Trong giờ giảng dạy kỹ thuật, có thể tổ chức thi đấu dưới dạng (hình
thức) đơn giản, ngắn gọn. Có nhiều hình thức thi đấu: Có thể tổ chức giữa các
lớp, giữa các tổ, thi đấu giữa các học sinh cá biệt (khá hoặc kém). Do điều kiện
thi đấu có sự ganh đua căng thẳng và phức tạp, nên nếu việc tổ chức không hợp
lý thì kỹ thuật động tác mầ học sinh tiếp thu được dễ bị phá vỡ khi định hình
động tác chưa vững chắc. Do đó, nên tổ chức thi đấu sau khi các em đã nắm
vững kiến thức và kỹ thuật động tác. Những điều kiện khó khăn mà các em
vượt qua khi thi đấu có ý nghĩa giáo dục tư tưởng, ý chí, tình cảm, tinh thần
đoàn kết và đặc biệt có tác dụng tốt cho sự phát triển các phẩm chất thể lực và
hoàn thiện kỹ thuật động tác [14],[23].
Một trong những vấn đề cần được đặc biệt quan tâm trong quá trình
GDTC cho học sinh THPT là giáo dục tư tưởng trong giảng dạy TDTT. Việc
giáo dục tư tưởng cho học sinh được tiến hành thông qua nội dung, chương


trình giảng dạy, thông qua việc quan sát, phát hiện và xử lý kịp thời mọi biểu
hiện trên lớp và thông qua lời nói. Yếu tố quan trọng là cần phải giáo dục cả
bằng hành động thực tế của bản thân giáo viên. Bởi vì, mỗi hành động, cử chỉ
của giáo viên đều ảnh hưởng lớn đến tư tưởng học sinh ở lứa tuổi này. Ở thời
kỳ này các em đang hăng say đi tìm cái mới, thích bắt chước những hoạt động
của những người mà các em yêu thích. Vì vậy, bản thân giáo viên phải hết sức
gương mẫu, phải chý ý từng hành động, lời nói để học sinh noi theo và giáo
viên phải là tấm gương mẫu mực để các em học tập [5],[7],[14].
Để giáo dục chính trị, tư tưởng cho học sinh tốt, giáo viên phải giáo dục
ngay chính bản thân mình, luôn luôn rèn luyện, trau dồi kiến thức chuyên môn,
nâng cao trình độ chính trị tư tưởng, đạo đức tác phong để trở thành người giáo
viên giỏi về chính trị, vững vàng về chuyên môn. Trong khi lên lớp, phải biết
quan sát để phát hiện và giải quyết kịp thời mọi biểu hiện của học sinh, phải

phân tích, đánh giá kỹ lưỡng, thận trọng, sát đối tượng, đúng bản chất. Tránh
tình trạng qua loa đại khái, chỉ xem xét bề ngoài, giải quyết đồng loạt hoặc
thành kiến với học sinh. Giáo viên phải nhẫn nại, thương yêu học sinh. Đối với
các học sinh mắc khuyết điểm, một mặt cần nghiêm khắc, nhưng mặt khác cần
phải kiên trì phân tích cho các em hiểu rõ. Đồng thời, nhẹ nhàng khuyên nhủ,
động viên để các em phấn khởi, tự nguyện tự giác sửa chữa những sai lầm.
Không được cưỡng ép, hắt hủi, mắng nhiếc, trừng phạt học sinh [6],[9],[14].
Đối với ưu điểm, cần kịp thời biểu dương, phát huy, lấy đó là điển hình để động
viên tập thể noi theo, bồi dưỡng và phát triển những suy nghĩ và hành động tốt
đẹp của học sinh. Giáo viên TDTT cần liên hệ chặt chẽ với gia đình, Đoàn
Thanh niên, Giáo viên chủ nhiệm và các giáo viên văn hóa khác để cùng phối
hợp cùng tranh thủ mọi cơ hội tiến hành giáo dục tư tưởng cho học sinh [14],
[18].


3. Kết luận
Qua kết quả nghiên cứu rút ra một số kết luận sau:
1. Độ tuổi thanh niên (học sinh THPT) là thời kì bắt đầu đạt được sự
trưởng thành về mặt thể chất, nhưng sự phát triển cơ thể vẫn còn kém so
với sự phát triển của cơ thể người trưởng thành. Tuổi thanh niên bắt đầu
thời kì phát triển tương đối êm ả về mặt sinh lí. Thanh niên mới lớn có hình
dáng người lớn, có những nét của người lớn, nhưng chưa phải là người lớn,
thanh niên học sinh còn phụ thuộc vào người lớn, người lớn quyết định nội
dung và xu hướng chính của hoạt động của họ. Các em vẫn đến trường học
tập dưới sự lãnh đạo của người lớn, vẫn phụ thuộc vào cha mẹ về vật chất.
Vị trí của thanh niên có tính chất không xác định (ở mặt này họ được coi là
người lớn, mặt khác lại không). Tính chất đó và những yêu cầu đề ra cho
thanh niên được phản ánh một cách độc đáo vào tâm lí thanh niên. Người
lớn phải tìm cách tạo điều kiện cho việc xây dựng một phương thức sống
mới phù hợp với mức độ phát triển chung của thanh niên, bằng cách

khuyến khích hành động có ý thức trách nhiệm riêng của thanh niên và
khuyến khích sự giáo dục lẫn nhau trong tập thể thanh niên mới lớn. Học
sinh dân tộc thiểu số nói riêng, ngoài những đặc điểm chung giống như trẻ
em cùng lứa tuổi, còn có những đặc điểm tâm lý riêng như: có đức tính thật
thà, chất phát, dũng cảm, cần cù, chịu khó. Khả năng tư duy và tiếp thu bài
học chậm hơn so với học sinh cùng trang lứa, ngại giao tiếp...Vì vậy, những
người làm công tác giáo dục ở vùng dân tộc, với học sinh dân tộc không thể
không tính tới những đặc điểm đó.
2. GDTC là một thành phần quan trọng trong nhà trường cung cấp
kiến thức, kỹ năng vận động cơ bản cho người học, góp phần thực hiện mục
tiêu giáo dục toàn diện là giúp học sinh có sự tăng tiến về sức khỏe, thể lực;
đạt tiêu chuẩn sức khỏe theo lứa tuổi và giới tính; có những kiến thức, kỹ
năng cơ bản về TDTT và phương pháp tập luyện; các kỹ năng vận động cần
thiết trong đời sống. Hình thành thói quen tập luyện TDTT thường xuyên
và nếp sống lành mạnh, tác phong nhanh nhẹn, kỷ luật, tinh thần tập thể
và các phẩm chất đạo


đức ý chí. Biết vận dụng những kiến thức, kỹ năng đã học vào các hoạt động
thực tiễn.
Mục tiêu giáo dục được cụ thể hóa thành các nhiệm vụ dạy học. Các
nhiệm vụ dạy học trong nhà trường phổ thông bao gồm: (1) Tổ chức, điều
khiển cho học sinh nắm vững hệ thống kiến thức. (2) Phát triển trí tuệ, các kỹ
năng vận động, kỹ năng sống cho học sinh. (3) Bồi dưỡng cho học sinh thế giới
quan, nhân sinh quan khoa học và những phẩm chất, năng lực cần thiết của con
người mới; trong đó có hoàn thiện, phát triển thể chất học sinh.


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.


Nguyễn Kỳ Anh, Vũ Đức Thu (1993), "Chương trình đồng bộ có mục
tiêu về cải tiến công tác GDTC trong nhà trường các cấp đến năm
2000", Tuyển tập nghiên cứu khoa học giáo dục sức khoẻ, thể chất
trong nhà trường các cấp, Nxb TDTT, Hà Nội.

2.

Đặng Quốc Bảo, Nguyễn Đắc Hưng (2004), Giáo dục Việt Nam hướng
tới tương lai vấn đề và giải pháp, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

3.

Vũ Thanh Bình, Đồng Khắc Hưng, Phạm Thị Thiệu (2004), Giáo
trình sinh lý học TDTT, NXB TDTT, Hà Nội

4.

Bộ GD & ĐT (2001) Quy chế về công tác GDTC và y tế trường học.

5.

Bộ GD & ĐT (2001), Hướng dẫn số 10227/THPT, ngày 11 tháng 9
năm 2001, v/v đánh giá và xếp loại giờ dạy ở bậc trung học, Hà nội.

6.

Bộ GD & ĐT (2004), Phân phối chương trình môn thể dục THPT,
Hà Nội.


7.

Bộ GD & ĐT (2005), Quyết định số 04/2005/QĐ-BGD&ĐT, ngày
16 tháng 2 năm 2005 của Bộ trưởng Bộ GD&ĐT về việc ban hành
Quy chế đánh giá, xếp loại học sinh THPT, Hà Nội.

8.

Nguyễn Ngọc Cừ, Dương Nghiệp Chí (2002), Chuyên đề nâng cao
tầm vóc cơ thể người, Khoa học thể thao, tài liệu chuyên đề số 1+2,
Viện Khoa học TDTT, Hà Nội.

9.

Nguyễn Quốc Cừ (2000), Quản lý chất lượng sản phẩm theo TQM
và ISO.9000, Nxb Khoa học và kỹ thuật, Hà Nội.

10.

Nguyễn Đình Cường (1998), "Khảo sát chất lượng giáo viên thể dục
được đào tạo ở Trường Cao đẳng Sư phạm Nghệ An", Tuyển tập
nghiên cứu khoa học GDTC, sức khoẻ trong trường học các cấp,
Nxb TDTT, Hà Nội.

11.

Hoàng Công Dân (2005), Nghiên cứu thực trạng và xây dựng biện
pháp phát triển thể chất học sinh các trường PTDTNT khu vực miền
núi phía Bắc, luận án tiến sĩ, Hà Nội.



12.

Nguyễn Anh Dũng (2005), “Bước đầu đánh giá chất lượng giáo dục
phổ thông trong quá trình đổi mới chương trình giáo dục phổ thông”,
Báo cáo hội thảo đánh giá chất lượng giáo dục: lý luận và thực tiễn,
Bộ GD & ĐT – UNESCO, Hà nội.

13.

Nguyễn Văn Đản (2005), “Cơ sở khoa học để xác định chất lượng
giáo dục phổ thông”, Báo cáo hội thảo đánh giá chất lượng giáo
dục: Lý luận và thực tiễn, Bộ GD & ĐT – UNESCO, Hà Nội.

14.

Hoàng Thị Đông (2004), Giáo trình Lý luận và phương pháp Giáo
dục thể chất trường học, NXB TDTT, Hà Nội.

15.

16. Trần Bá Hoành (2001), "Chất lượng giáo viên", Tạp chí Giáo
dục, (16), Hà Nội.

16.

Lê Văn Hồng - Lê Ngọc Lan – Nguyễn Văn Thàng (2001), Tâm lý
học lứa tuổi và tâm lý học sư phạm, Nxb ĐH Quốc gia, Hà Nội.

17.


R.Hedoman (2000), Sinh lý thể thao cho mọi người, Nxb TDTT, Hà
Nội

18.

Trần Kiều (1999), “Một vài suy nghĩ về đổi mới phương pháp dạy
học trong trường phổ thông ở nước ta”, Nghiên cứu Giáo dục, (5),
Hà Nội.

19.

Trần Đồng Lâm (2001), “Đổi mới phương pháp dạy thể dục”, Tuyển
tập nghiên cứu khoa học GDTC, sức khỏe trong trường học các cấp,
Nxb TDTT, Hà Nội.

20.

Quốc hội nước Cộng hoà XHCN Việt Nam (1998), Luật Giáo dục,
Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

21.

Quốc hội nước Cộng hoà XHCN Việt Nam (2004), Hiến pháp nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992(sửa đổi), Nxb Chính
trị Quốc gia, Hà Nội.

22.

Quốc hội nước Cộng hoà XHCN Việt Nam (2007), Luật Thể dục,

thể thao, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

23.

Nguyễn Toán – Phạm Danh tốn (2006), Lý luận và phương pháp
TDTT, Nxb TDTT, Hà Nội.


24.

Lê Anh Thơ (2008), Phát triển TDTT vùng đồng bào dân tộc thiểu số
và miền núi, Nxb TDTT, Hà Nội.

25.

Văn Kiện Đại hội Đảng lần thứ X của Đảng, 2006.

26.

Phạm Ngọc Viễn (2007), Giáo trình tâm lý học TDTT, Nxb TDTT,
Hà Nội


Mục lục
Trang
1. Đặt vấn đề

1

2. Giải quyết vấn đề


2

2.1. Đặc điểm sinh lí lứa tuổi học sinh trung học phổ thông

2

2.2. Đặc điểm tâm lý lứa tuổi học sinh trung học phổ thông

5

2.3. Đặc điểm tâm lý và phong tục tập quán lứa tuổi học sinh

6

trung học phổ thông các dân tộc thiểu số
2.4. Phương pháp phát thể chất học sinh trung học phổ thông

9

2.4.1. Cơ sở lý luận tiếp cận

9

2.4.2. Những nguyên tắc chung phát triển thể chất học

11

sinh THPT
2.43. Các phương pháp chủ yếu nhằm phát triển thể chất


12

cho học sinh
2.4.4. Phương pháp giảng dạy động tác đối với học sinh

15

THPT
3. Kết luận
TÀI LIỆU THAM KHẢO

20
22


×