Tải bản đầy đủ (.pdf) (81 trang)

Ưu đãi về thuế thu nhập doanh nghiệp đối với hoạt động đầu tư trực tiếp trước ngoài từ thực tiễn thành phố hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (881.34 KB, 81 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN VINH HẠNH

ƯU ĐÃI VỀ THUẾ THU NHẬP DOANH NGHIỆP ĐỐI VỚI
HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI
TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HÀ NỘI

Ngành: Luật Kinh tế
Mã số: 8.38.01.07

UẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT KINH TẾ
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
TS. NGUYỄN THỊ THƯƠNG HUYỀN

Hà Nội, 2019


LỜI CAM ĐOAN
Luận văn này là cơng trình nghiên cứu của cá nhân tôi, được thực hiện dưới sự
hướng dẫn khoa học của PTS. Nguyễn Thị Thương Huyền. Các số liệu, những kết luận
nghiên cứu được trình bày trong luận văn này hồn tồn trung thực. Tơi xin hồn tồn
chịu trách nhiệm về lời cam đoan này.
Học viên

Nguyễn Vinh Hạnh


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .........................................................................................................................1


Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THUẾ THU NHẬP DOANH
NGHIỆP VÀ ƯU ĐÃI THUẾ THU NHẬP DOANH NGHIỆP ĐỐI VỚI HOẠT
ĐỘNG ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI ..........................................................8
1.1. Khái niệm, đặc điểm thuế thu nhập doanh nghiệp và ưu đãi thuế thu nhập doanh
nghiệp ..............................................................................................................................8
1.2. Ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp đối với hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài18
1.3. Ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp đối với đầu tư trực tiếp nước ngoài theo pháp
luật của một số nước trên thế giới và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam .................. 23
Chương 2: THỰC TRẠNG ÁP DỤNG PHÁP LUẬT ƯU ĐÃI THUẾ THU NHẬP
DOANH NGHIỆP ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC
NGOÀI TỪ THỰC TIỄN TP. HÀ NỘI ................................................................... 28
2.1. Quá trình hình thành và phát triển pháp luật ưu đãi về thuế thu nhập doanh nghiệp
đối với hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam.......................................... 28
2.2. Thực tiễn áp dụng pháp luật ưu đãi về thuế thu nhập doanh nghiệp đối với hoạt động
đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Thành phố Hà Nội ....................................................... 41
2.3. Đánh giá quy định về ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp đối với doanh nghiệp có
vốn đầu tư nước ngoài qua thực tiễn thành phố Hà Nội............................................... 56
Chương 3: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT ƯU
ĐÃI VỀ THUẾ THU NHẬP DOANH NGHIỆP ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƯ
TRỰC TIẾP NƯỚC NGỒI..................................................................................... 64
3.1. Phương hướng hồn thiện pháp luật thuế thu nhập doanh nghiệp và ưu đãi thuế thu
nhập doang nghiệp đối với hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài .............................. 64
3.2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật thuế thu nhập doanh nghiệp và ưu đãi thuế thu nhập
doanh nghiệp đối với hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài……………………… 66
3.3. Một số giải pháp đảm bảo thực hiện các quy định ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp
đối với hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài từ thực tiễn thành phố Hà Nội ............ 71
KẾT LUẬN ................................................................................................................. 76
TÀI LIỆU THAM KHẢO.......................................................................................... 77



MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Thuế ra đời, tồn tại và phát triển cùng với sự ra đời, tồn tại và phát triển của Nhà
nước. Thuế là một cơng cụ tài chính để tạo lập nguồn thu nhằm duy trì hoạt động của bộ
máy hành chính Nhà nước và điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Từ lâu, Đảng và Nhà nước đã rất
chú trọng đến cải cách hệ thống thuế. Trong đó, ưu đãi thuế là một trong những yếu tố
khơng thể thiếu trong chính sách về thuế nhằm kích thích đầu tư, góp phần vào tăng trưởng
đồng thời là công cụ để nhà nước quản lý, điều tiết vĩ mô nền kinh tế - xã hội.
Trong từng giai đoạn phát triển, Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp đã góp phần
tạo mơi trường pháp lý cơng bằng, bình đẳng giữa các đối tượng, phù hợp với thơng lệ
quốc tế nhằm nâng cao hiệu quả, khuyến khích và thu hút vốn đầu tư trong và ngoài
nước, phát huy tốt vai trị định hướng thu hút đầu tư, góp phần quan trọng chuyển dịch
cơ cấu kinh tế theo hướng cơng nghiệp hố hiện đại hố, thúc đẩy phát triển sản xuất
kinh doanh và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tạo cơ sở vững chắc cho nền kinh tế phát
triển bền vững. Sau nhiều năm thực hiện, bên cạnh cải cách các chính sách ưu đãi thuế
thu nhập doanh nghiệp, việc Quốc hội Việt Nam nhiều lần điều chỉnh sắc thuế này đã
giúp môi trường đầu tư của Việt Nam ngày càng trở nên cạnh tranh hơn so với các nước
trong khu vực và trên thế giới.
Ngày 17/6/2003, Quốc hội đã ban hành Luật thuế thu nhập doanh nghiệp số
09/2003/QH11 là một trong những văn bản luật đầu tiên thiết lập chế độ đối xử bình
đẳng giữa các thành phần kinh tế, đặc biệt xoá bỏ sự phân biệt đối xử giữa đầu tư nước
ngoài và đầu tư trong nước, góp phần tạo lập cơ sở pháp lý đáp ứng điều kiện gia nhập
Tổ chức thương mại quốc tế (WTO), tạo bước tiến mới về cải cách hành chính trong
lĩnh vực thuế, thúc đẩy cạnh tranh lành mạnh, tạo lập mơi trường đầu tư bình đẳng, thuận
lợi và hấp dẫn hơn. Ngày 13/6/2008 Quốc hội ban hành Luật Thuế thu nhập doanh
nghiệp số 14/2008/QH12 và các văn bản hướng dẫn thực hiện từ 01/01/2009 trong đó
các ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế suất phổ thông được thống nhất áp dụng
cho cả đầu tư trong nước và FDI; quy định về ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp được
đơn giản hơn và minh bạch hơn.


1


Những quy định về ưu đãi thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp đã có những tác
động tích cực cả về mặt kinh tế, về thu ngân sách nhà nước, về thúc đẩy đổi mới và sắp
xếp lại doanh nghiệp...Tuy nhiên, trong quá trình thi hành Luật thuế thu nhập doanh
nghiệp đã bộc lộ những vướng mắc, bất cập. Ngày 19/6/2013, Luật số 32/2013/ sửa đổi,
bổ sung một số điều của Luật thuế thu nhập doanh nghiệp có hiệu lực từ ngày 01/01/2014
đã phần nào tháo gỡ được những khó khăn trong thực tiễn. Tuy nhiên, luật thuế thu nhập
doanh nghiệp 2014 và các văn bản hướng dẫn thi hành về ưu đãi thuế thu nhập doanh
nghiệp vẫn chưa thực sự đáp ứng được sự kỳ vọng của giới doanh nhân.
Hà Nội là trung tâm chính trị, văn hóa, khoa học và kinh tế lớn của cả nước. Với
vị trí đặc biệt quan trọng này, việc thu hút hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài trên địa
bàn là rất cần thiết. Do vậy, để doanh nghiệp yên tâm, ổn định sản xuất, kinh doanh,
Nhà nước hơn lúc nào hết cần đặc biệt quan tâm đến các chính sách ưu đãi về thuế thu
nhập doanh nghiệp đối với hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài trên địa bàn Hà Nội.
Mặt khác, kể từ sau năm 2012 khi giai đoạn quá độ điều chỉnh chính sách theo
quy tắc của WTO được kết thúc, các ưu đãi đầu tư khơng cịn sự khác biệt giữa nhà đầu
tư trong nước và nhà đầu tư nước ngoài nhưng sự phối kết hợp giữa chính sách đầu tư
và chính sách thuế vẫn rất cần thiết. Do đó để tận dụng tốt các cơ hội, việc thu hút vốn
đầu tư của các nhà đầu tư trong và ngoài nước vào những lĩnh vực, những vùng cần
khuyến khích của thủ đơ là một vấn đề quan trọng. Một trong những chính sách khuyến
khích được nhiều nhà đầu tư quan tâm đến đó là ưu đãi về thuế, đặc biệt là ưu đãi thuế
thuế thu nhập doanh nghiệp.Qua thực tiễn thi hành các chính sách liên quan đến ưu đãi
đối với các hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài trên địa bàn Hà Nội cho thấy bên cạnh
những ưu điểm thì vẫn cịn những hạn chế nhất định. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến
thực trạng trên như về thể chế, chính sách; về nguồn lực thực thi các chính sách ưu đãi.
Trên phương diện khoa học pháp lý cũng đã có một số cơng trình khoa học nghiên
cứu về lĩnh vực này. Tuy nhiên, những công trình này phần lớn tiếp cận ở góc độ chung
trên bình diện quốc gia. Những nghiên cứu về ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp nói

chung, ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp đối với hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngồi
từ thực tiễn thành phố Hà Nội nói riêng vẫn còn rất hạn chế.

2


Từ những luận giải trên, tác giả đã chọn đề tài “Ưu đãi về thuế thu nhập doanh
nghiệp đối với hoạt động đầu tư trực tiếp trước ngoài từ thực tiễn thành phố Hà
Nội” để làm đề tài nghiên cứu luận văn thạc sỹ luật tại Học viên Khoa học Xã hội.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Trong thời gian qua, các cơng trình nghiên cứu về thuế và thuế thu nhập doanh
nghiệp ở Việt Nam khá đa dạng. Tuy nhiên, những cơng trình nghiên cứu chun biệt
về ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp nói chung, về pháp luật ưu đãi thuế thu nhập
doanh nghiệp trong hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài trên địa bàn Hà Nội nói riêng
cịn khiêm tốn.
Xung quanh vấn đề này có các cơng trình khoa học đáng chú ý sau:
“Chính sách ưu đãi thuế Thu nhập doanh nghiệp ở Việt Nam” (2007) của tác
giả Cao Thu Thủy là một đề tài nghiên cứu khá đầy đủ các vấn đề pháp lý cũng như thực
trạng pháp luật ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp ở Việt Nam, đồng thời, đề tài cũng
đưa ra các giải pháp mang tính đột phá, phù hợp với tình hình thực tiễn của Việt Nam.
“Pháp luật thuế thu nhập doanh nghiệp và giải pháp chống chuyển giá ở Việt
Nam” (2010) của tác giả Lê Văn Hải. Cơng trình này đã nghiên cứu cơ bản quy định
pháp luật về thuế thu nhập doanh nghiệp. Qua đó chỉ ra những hạn chế trong quy định
pháp luật dẫn đến tình trạng chuyển giá ở các doanh nghiệp. Đồng thời tác giả cũng đã
đưa ra một số giải pháp nhằm chống tình trạng chuyển giá này.
“Pháp luật ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp ở Việt Nam – Thực trạng cà giải
pháp” của tác giả Đinh Hải Yến đã trình bày cơ bản các vấn đề lý luận và thực trạng áp
dụng định pháp luật về ưu đãi thuế thu nhập ở Việt Nam theo luật thuế thu nhập doanh
nghiệp năm 2008.
“Pháp luật về ưu đãi thuế Thu nhập doanh nghiệp tại Việt Nam” (2012) của tác

giả Lưu Thị Tuyết đã đề cập một cách căn bản các quy định pháp luật Việt Nam về ưu
đãi về thuế thu nhập doanh nghiệp, ưu điểm, hạn chế. Từ đó tác giả đề ra một số giải
pháp hoàn thiện sắc thuế thu nhập doanh nghiệp.
“Ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp theo pháp luật Việt Nam và thực tiễn áp
dụng tại thành phố Hải Dương” (2015) của tác giả Vũ Thị Thùy Linh đã phân tích được

3


quy định pháp luật thực định và thực tiễn áp dụng ưu đãi về thuế thu nhập doanh nghiệp,
đề ra các kiến nghị và giải pháp trên địa bàn thành phố Hải Dương.
“Hoàn thiện thuế thu nhập doanh nghiệp nhằm thúc đẩy tái cơ cấu nền kinh tế”,
Luận án tiến sĩ kinh tế của tác giả Dương Ngọc Quang đã nghiên cứu thấu đáo về hoàn
thiện thuế thu nhập doanh nghiệp gắn liền với tái cấu trúc nền kinh tế.
“Ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp ở Việt Nam hiện nay”, Đề tài nghiên cứu
khoa học cấp Học viện, Lý Phương Duyên (Chủ nhiệm), Học viện Tài chính, Hà Nội,
năm 2014.
Một số giáo trình thuế Việt Nam dành cho hệ đào tạo Cử nhân Luật; Cử nhân
Kinh tế của một số cơ sở đào tạo đại học Việt Nam cũng giới thiệu mang tính tổng quan
về thuế thu nhập nói chung, thuế thu nhập doanh nghiệp nói riêng.
Cùng với những ấn phẩm khoa học được đề cập trên đây, ở từng khía cạnh khác
nhau của thuế thu nhập doanh nghiệp, ưu đãi về thuế thu nhập doanh nghiệp cũng được
nghiên cứu và đăng tải trên các cơng trình khoa học chuyên ngành luật, chuyên ngành
kinh tế, kinh tế đối ngoại.
Từ tổng quan tình hình nghiên cứu đã đề cập cho thấy, các cơng trình nghiên cứu
của các tác giả đã rất thành công trong việc nghiên cứu và làm sáng tỏ những vấn đề lý
luận và pháp luật cơ bản về ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp, ưu đãi thuế thu nhập
doanh nghiệp đối với các hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngồi. Kết quả của các cơng
trình nghiên cứu này đóng góp rất to lớn trong việc xây dựng, phát triển và hoàn thiện
các quy định về ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp.

Tuy nhiên, các công trình khoa học trên đây vẫn thiếu các nghiên cứu cụ thể
nhằm tổng kết, đánh giá toàn diện thực trạng pháp luật và thực tiễn thực hiện các quy
định về ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp đối với các hoạt động đầu tư trực tiếp nước
ngoài trên địa bàn Hà Nội.
Chính vì vậy, tiếp tục nghiên cứu có hệ thống và toàn diện ưu đãi thuế thu nhập
doanh nghiệp đối với các hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài từ thực tiễn thành phố
Hà Nội vẫn rất cần thiết trong lĩnh vực khoa học pháp lý có ý nghĩa lý luận và thực tiễn
rất lớn trong giai đoạn hiện nay.

4


3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích
Mục đích của luận văn là làm rõ các vấn đề cơ bản về ưu đãi thuế và ưu đãi thuế
thu nhập doanh nghiệp đối với hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngồi;
Phân tích các quy định pháp luật về ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp đối với
hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài; Thực tiễn thi hành các ưu đãi thuế thu nhập doanh
nghiệp đối với hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài trên địa bàn thành phố Hà Nội từ
đó đưa ra phương hướng và giải pháp nhằm hoàn thiện quy định pháp luật về thuế thu
nhập doanh nghiệp và ưu đãi về thuế thu nhập doanh nghiệp trong thời gian tới.
* Nhiệm vụ
Luận văn có các nhiệm vụ cơ bản sau đây:
- Phân tích làm rõ quy định pháp luật về thuế thu nhập doanh nghiệp và ưu đãi
về thuế thu nhập doanh nghiệp đối với hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài từ thực
tiễn thành phố Hà Nội;
- Phân tích thực trạng thực thi pháp luật về ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp
đối với hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài trên địa bàn Hà Nội;
- Đánh giá, chỉ ra những ưu điểm, hạn chế về quy định và thực trạng pháp luật về
ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp đối với hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài từ thực

tiễn thành phố Hà Nội;
- Đề ra các kiến nghị và giải pháp hoàn thiện pháp luật về ưu đãi thuế thu nhập
doanh nghiệp đối với hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn tập trung vào các vấn đề về ưu
đãi thuế thu nhập doanh nghiệp đối với hoạt động đầu tư nước ngoài.
Phạm vi nghiên cứu: giới hạn phạm vi nghiên cứu của luận văn về ưu đãi thuế
thu nhập doanh nghiệp đối với hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài từ thực tiễn thành
phố Hà Nội từ năm 2014 đến 2018
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Về cơ sở lý luận: Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của Chủ
nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật; quan điểm, đường
5


lối, chính sách của Đảng, Nhà nước ta về ưu đãi thuế cho các hoạt động đầu tư trực tiếp
nước ngoài.
Về phương pháp nghiên cứu: Để giải quyết các nhiệm vụ nghiên cứu như đã đề
cập ở trên, luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể như: Phương pháp phân
tích pháp lý; phương pháp so sánh, phương pháp thống kê, phương pháp diễn dịch, quy
nạp... Trong đó, các phương pháp được sử dụng cụ thể như sau:
Phương pháp phân tích pháp lý: phương pháp này sẽ áp để phân tích, luận giải
hệ thống hóa các qui định của pháp luật về thuế thu nhập doanh nghiệp và ưu đãi về thuế
thu nhập doanh nghiệp đối với các hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài nhằm cung cấp
một cái nhìn tổng thể và tồn diện về các quy định pháp luật liên quan đến vấn đề nghiên
cứu của luận văn.
Phương pháp so sánh: Phương pháp này sẽ được sử dụng nhằm làm rõ những
điểm giống và khác nhau giữa các quy định pháp luật về ưu đãi thuế thu nhập doanh
nghiệp đối với hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài trong pháp luật Việt Nam trước
đây và hiện nay.

Phương pháp thống kê: phương pháp này sử dụng để thống kê về các ưu đãi thuế
thu nhập doanh nghiệp đối với các hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài trên địa bàn
Hà Nội từ năm 2008 đến nay.
Phương pháp diễn dịch quy nạp: phương pháp này được sử dụng để phân tích các quy
định pháp luật về ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp, thực tiễn thực hiện các quy định này từ đó
có sự tổng hợp nội dung nghiên cứu.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
Luận văn sẽ có một số đóng góp mới như sau:
Luận văn đã làm rõ những vấn đề cơ bản về ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp; những
vấn đề cơ bản về hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngồi như khái niệm, đặc điểm, vai trị, ý nghĩa
của thuế thu nhập doanh nghiệp và ưu đãi về thuế thu nhập doanh nghiệp đối với các hoạt động
đầu tư trực tiếp nước ngoài;
Luận văn đã đánh giá một cách toàn diện và sâu sắc thực tiễn thi hành pháp luật về ưu đãi
thuế thu nhập doanh đối với hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài từ thực tiễn thành phố Hà Nội;

6


chỉ ra những hạn chế, bất cập trong việc thi hành pháp luật từ đó tìm ra và phân tích các nguyên
nhân của những hạn chế, bất cập đó.
Luận văn đã chỉ ra được phương hướng và đề xuất một số giải pháp hoàn thiện bảo đảm
thực hiện các quy định pháp luật đối với hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài trên địa bàn Hà
Nội trong thời gian tới.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, luận văn bao gồm 3 chương
Chương 1. Những vấn đề lý luận về thuế thu nhập doanh nghiệp và ưu đãi thuế thu nhập
doanh nghiệp đối với hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài
Chương 2. Thực trạng áp dụng pháp luật về ưu đãi về thuế thu nhập doanh nghiệp đối với
hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài trên địa bàn Hà Nội
Chương 3. Phương hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật ưu đãi về thuế thu nhập

doanh nghiệp đối với hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài

7


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THUẾ THU NHẬP DOANH NGHIỆP VÀ ƯU
ĐÃI THUẾ THU NHẬP DOANH NGHIỆP ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƯ
TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI
1.1. Khái niệm, đặc điểm thuế thu nhập doanh nghiệp và ưu đãi thuế thu
nhập doanh nghiệp
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm thuế thu nhập doanh nghiệp1
Theo các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác đã chỉ rõ: "Để duy trì quyền lực cơng
cộng đó, cần phải có những sự đóng góp của những người cơng dân cùa Nhà nước,
đó là thuế má...2"
Khái niệm về thuế sau này ngày càng đườc bổ sung và hoàn thiện hơn. Trong
cuốn từ điển kinh tế của hai tác giả người Anh, Chrisopher Pass và Bryan Lowes cho
rằng: "Thuế là một biện pháp của Chính phủ đánh trên thu nhập của cải và vốn nhận
đườc của các cá nhân hay doanh nghiệp (thuế trục thu), trên việc chi tiêu về hàng hoa
và dịch vụ (thuế gián thu) và trên tài sản".
Nhìn chung, thuế được định nghĩa là một khoản thu của Chính phủ khơng vì một
lời ích cụ thể nào và không đườc áp dụng dưới dạng tiền phạt (ví dụ như phạt vì khơng
tn thủ luật), ngoại trừ trường hờp phạm pháp về thuế. Định nghĩa cùa Tổ chức Hợp
tác và Phát triển kinh tế (OECD) về thuế là "khoản thanh tốn bắt buộc cho Chính phủ
mà khơng được đền bù". Khơng được đền bù ở đây có nghĩa là lợi ích người nộp thuế
được Chính phủ cung cấp thường khơng tỷ lệ với khoản thuế đóng góp.
Thuế thu nhập doanh nghiệp dùng để chỉ những sắc thuế lấy thu nhập trong hoạt động
sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp làm đối tượng tính thuế. Trong hệ thống thuế ở các quốc
gia, thuế thu nhập là loại thuế áp dụng có tính phổ biến và rất được coi trọng, đặc biệt là ở các
nước có nền kinh tế thị trường phát triển.


Học viện Tài chính, Dương Ngọc Quang, Hoàn thiện thuế thu nhập doanh nghiệp nhằm thúc đẩy tái cơ cấu nền
kinh tế, Luận án tiến sĩ kinh tế, 2015.
1

8


Theo giáo trình Thuế của Trường đại học Kinh tế TP. HCM: thuế thu nhập doanh
nghiệp là loại thuế trực thu đánh vào phần thu nhập sau khi đã trừ các chi phí liên quan đến
thu nhập của cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ.
Theo giáo trình Thuế của Học viện Tài chính: Thuế thu nhập doanh nghiệp là thuế
tính trên thu nhập chịu thuế của các doanh nghiệp trong kỳ tính thuế.
Theo quy định của Luật thuế thu nhập doanh nghiệp khơng phải tồn bộ thu nhập
của các cơ sở sản xuất kinh doanh đều là đối tượng điều chỉnh của thuế thu nhập doanh
nghiệp. Thuế thu nhập doanh nghiệp chỉ điều chỉnh phần thu nhập chịu thuế. Vì việc
đánh thuế vào loại thu nhập nào, đánh cao hay thấp vào từng loại thu nhập là tuỳ thuộc
vào quan điểm của mỗi Nhà nước về điều tiết thu nhập qua thuế thu nhập, phụ thuộc vào
nhu cầu chi tiêu của Chính phủ, khả năng quản lý thuế, chi phí quản lý thuế cũng như
mục tiêu của thuế thu nhập phải đạt được để góp phần thực hiện các chính sách về kinh
tế, chính trị, xã hội của mỗi quốc gia trong từng thời kỳ nhất định
Sự ra đời của thuế thu nhập nói chung, thuế thu nhập doanh nghiệp nói riêng
xuất phát từ những lý do khác nhau. Một cách tổng quan, sự ra đời này xuất phát từ các
lý do căn bản sau đây:
Thứ nhất, xuất phát từ yêu cầu thực hiện chức năng tái phân phối thu nhập đảm
bảo công bằng xã hội.
Thứ hai, sự ra đời của thuế thu nhập còn bắt nguồn từ nhu cầu tài chính của nhà
nước, nhà nước nào cũng cần có nguồn tài chính để đáp ứng nhu cầu chi tiêu, cùng với
xu thế phát triển kinh tế xã hội, khả năng mang lại thu nhập cho mỗi người ngày càng
cao, nhà nước tìm thấy khả năng huy động nguồn tài chính to lớn cho mình thơng qua

thuế thu nhập.
Thứ ba, thuế thu nhập là công cụ để nhà nước quản lý và điều tiết các hoạt động
kinh tế -xã hội.Trong hệ thống luật thực định về thuế ở các nước, thuế thu nhập được
phân chia thành hai loại là thuế thu nhập công ty (thuế thu nhập doanh nghiệp) và thuế
thu nhập cá nhân.Việc phân chia thuế thu nhập thành hai loại thuế nêu trên là căn cứ vào
đối tượng nộp thuế thu nhập.Thuế thu nhập công ty (thuế thu nhập doanh nghiệp ) là
loại thuế trực thu đánh vào thu nhập của cơ sở kinh doanh trong kỳ tính thuế. Tuy nhiên,
luật các nước khơng có sự đồng nhất trong việc xác định phạm vi đối tượng nộp thuế.
9


Trong khi đó pháp luật thuế thu nhập doanh nghiệp của Việt Nam lại quy định đối tượng
nộp thuế thu nhập doanh nghiệp là các tổ chức, cá nhân kinh doanh có thu nhập. Như
vậy, ở Việt Nam cá nhân kinh doanh, hộ gia đình có thu nhập từ kinh doanh cũng là đối
tượng nộp thuế thu nhập doanh nghiệp3.
1.1.2. Khái niệm ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp
Một trong những mục tiêu cơ bản mà hệ thống chính sách thuế của các nước bắt
buộc phải hướng tới đó là đảm bảo tính cạnh tranh của hệ thống thuế trong nền kinh tế
toàn cầu. Cạnh tranh về thuế là một q trình mà ở đó, các nước cố gắng để thu hút vốn
cũng như lợi nhuận chịu thuế bằng cách giảm việc đánh thuế vào vốn. Mặc dù các yếu
tố quyết định đến đầu tư của nước ngoài bao gồm rất nhiều yếu tố như độ lớn của thị
trường, trình độ lao động, mức thu nhập, sự ổn định về kinh tế vĩ mơ hay chi phí tài
chính…nhưng cũng khơng phủ nhận rằng, ưu đãi thuế cũng có một mức độ ảnh hưởng
nhất định đến quyết định đầu tư của các nhà đầu tư … Theo Tax Incentives for
Investment- A global Perspective: experiences in MENA and non- MENA countries OECD, 2007 thì thuế suất và các ưu đãi thuế chiếm 2/3 yếu tố liên quan đến quyết định
của nhà đầu tư. Như vậy, Ưu đãi thuế là biện pháp được sử dụng một cách phổ biến ở
các quốc gia, đặc biệt là các quốc gia đang phát triển và các quốc gia có nền kinh tế
chuyển đổi. Mục tiêu cơ bản của việc áp dụng các hình thức ưu đãi thuế là nhằm thu hút
vốn đầu tư nước ngoài; ưu tiên phát triển một số ngành, vùng, lĩnh vực; khuyến khích
xuất khẩu; hoặc có thể nhằm giải quyết những khó khăn tạm thời, cấp bách trước mắt

về vốn cho doanh nghiệp… 4
Thuế khơng chỉ gắn liền mà chúng cịn có một ảnh hưởng rất lớn đối với thu nhập
cũng như những chính sách, chiến lược phát triển riêng của các doanh nghiệp trong từng
giai đoạn khác nhau. Ưu đãi thuế là một trong những yếu tố không thể thiếu trong tất cả
các sắc thuế. Vì chính sách ưu đãi thuế không những thể hiện sự quan tâm của nhà nước
đối với các đối tượng nộp thuế khi họ gặp các rủi ro khách quan dẫn đến tổn thất tài sản
hoặc thu nhập, thể hiện sự cân bằng giữa quyền lợi và nghĩa vụ của người nộp thuế mà

3

Học viện Tài chính (2010), Giáo trình thuế thu nhập, Nhà xuất bản Tài chính., trang 195.
Lý Phương Duyên (Chủ nhiệm) (2014), Ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp ở Việt Nam hiện nay, Đề tài nghiên
cứu khoa học cấp Học viện, Học viện Tài chính, Hà Nội, trang 4,5.
4

10


quan trọng hơn nữa chính sách ưu đãi thuế là công cụ để nhà nước quản lý, điều tiết vĩ
mô nền kinh tế -xã hội. Gần đây, do tác động của q trình tồn cầu hóa, cạnh tranh giữa
các quốc gia ngày càng gay gắt hơn nên nhiều nước trên thế giới và trong khu vực đã sử
dụng thuế thu nhập doanh nghiệp, đặc biệt là nội dung ưu đãi thuế thu nhập doanh
nghiệp, như là một công cụ quan trọng để tăng sức hấp dẫn thu hút đầu tư. Hiện nay,
các quốc gia thường sử dụng chính sách ưu đãi, miễn giảm thuế thu nhập doanh nghiệp
để thực hiện mục tiêu điều tiết nền kinh tế xã hội của mình. Thơng thường các nước áp
dụng chế độ ưu đãi miễn, giảm thuế thu nhập doanh nghiệp cho các lĩnh vực quan trọng,
các ngành mũi nhọn hoặc có lợi thế phát triển và các ngành tạo ra sản phẩm có sức cạnh
tranh của từng nước.
Tuy nhiên, trong chế độ ưu đãi, miễn, giảm thuế thu nhập doanh nghiệp có sự
khác biệt lớn giữa các nước, điều này được lý giải bởi lý do:

- Về mặt chủ quan, chế độ ưu đãi, miễn, giảm thuế thu nhập doanh nghiệp phụ
thuộc vào chủ trương, chính sách, chiến lược phát triển kinh tế xã hội của mỗi quốc gia.
Mỗi quốc gia theo đuổi một mục tiêu kinh tế cho riêng mình nhằm đưa đất nước phát
triển nhanh, vững chắc và sớm khắc phục được những khiếm khuyết nội tại trong chính
nền kinh tế của quốc gia đó.
- Về mặt khách quan, do trình độ phát triển kinh tế cũng như các điều kiện tự
nhiên, lịch sử truyền thống văn hoá, xã hội của từng nước có sự khác nhau. Nên chính
phủ của các quốc gia phải có những quy định về ưu đãi, miễn giảm thuế thu nhập doanh
nghiệp để có thể thích ứng được mong muốn chủ quan của mình. Theo báo cáo của Hội
nghị về thương mại và phát triển thuộc Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc (UNCTAD) 1996,
“ưu đãi đầu tư là những lợi thế kinh tế có thể lượng hóa được mà chính phủ của các quốc
gia dành cho những doanh nghiệp hoặc những nhóm doanh nghiệp nhất định nhằm
khuyến khích họ xử sự theo một cách thức nhất định”.
Theo UNCTAD, ưu đãi đầu tư được chia làm 3 loại: ưu đãi về thuế, ưu đãi về tài
chính và các ưu đãi khác. Trong đó, ưu đãi về thuế được hiểu là những quy định về biện
pháp nhằm giảm bớt gánh nặng về thuế cho các nhà đầu tư, phổ biến là thuế nhập khẩu
nguyên vật liệu đầu vào, máy móc thiết bị và các tài sản cố định khác liên quan đến quá
trình sản xuất; thuế xuất khẩu (ưu đãi thuế đối với các khoản thu nhập từ xuất khẩu,
11


hoàn thuế, khấu trừ thuế đối với thuế nhập khẩu nguyên vật liệu phục vụ cho việc sản
xuất hàng xuất khẩu); thuế thu nhập doanh nghiệp…
Ưu đãi tài chính là các quy định về biện pháp đặc biệt do nhà nước dành cho các
doanh nghiệp liên quan đến quá trình huy động vốn của các doanh nghiệp này, ví dụ
như cho vay với lãi suất ưu đãi; chính phủ hoặc cơ quan của chính phủ cấp tiền, tín dụng
một cách trực tiếp hoặc gián tiếp dưới hình thức góp cổ phần. Và cuối cùng, ưu đãi khác
được hiểu là nhà nước thực hiện các biện pháp nhằm tăng khả năng sinh lời của các dự
án đầu tư theo những cách gián tiếp.
Như vậy, ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp về mặt pháp lý được hiểu là những

quy định về những biện pháp, những lợi ích nhằm giảm bớt gánh nặng về thuế thu nhập
doanh nghiệp cho các nhà đầu tư, khuyến khích và thu hút đầu tư mà Nhà nước dành
cho những doanh nghiệp hoặc những nhóm doanh nghiệp nhất định (ưu đãi về thuế suất,
thời gian miễn, giảm thuế...) so với những đối tượng chịu thuế khác trong cùng điều kiện
nhất định5.
1.1.3. Các hình thức ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp
* Miễn toàn bộ hoặc một phần thuế thu nhập
Ở các nước đang phát triển thời kỳ ưu đãi thuế là hình thức ưu đãi thuế cho đầu
tư phổ biến nhất. Thời kỳ ưu đãi thuế cho phép được miễn toàn bộ (hoặc một phần) thuế
lợi tức (và đôi khi cả giảm các loại thuế khác) trong đó ưu đãi được áp dụng trong một
số năm cụ thể.
Nhìn chung, khi thực hiện hình thức ưu đãi thơng qua việc miễn toàn bộ hoặc
một phần thuế thu nhập trong một thời kỳ nhất định, cần cân nhắc ba yếu tố: thời gian
của kỳ ưu đãi thuế; thời điểm bắt đầu có hiệu lực; mối liên hệ giữa các quy định về kỳ
ưu đãi thuế với các quy định của hệ thống thuế thông thường.
Thời kỳ ưu đãi thuế ngắn thường có giá trị hạn chế hoặc khơng mấy thu hút đối
với các nhà đầu tư tiềm năng nhất, và ít khi đạt hiệu quả trong việc thu hút đầu tư hơn
các dự án ngắn hạn.

Vũ Thị Thùy Linh, Ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp theo pháp luật Việt Nam và thực tiễn áp dụng tại thành
phố Hải Dương” (2015), Luận văn thạc sỹ luật học, Khoa Luật, trang 8.
5

12


Thời kỳ ưu đãi thuế kéo dài có thể hấp dẫn hơn nhiều nhưng lại làm tăng chi phí
cho nước tiếp nhận đầu tư do thất thu thuế. Những phản đối khác là khơng thể tính trước
một cách chính xác được dù là nhỏ nhất chi phí của kỳ ưu đãi thuế cũng như chi phí gắn
với khoản đầu tư, hoặc gắn với lợi ích dự kiến khoản đầu tư sẽ tích góp cho nước tiếp

nhận đầu tư.
Thêm vào đó, các chi phí thường trả chậm tới cuối thời kỳ ưu đãi (để hưởng giảm
thuế tương ứng với các chi phí đó) vì vậy sự tồn tại của kỳ ưu đãi thuế thực tế có thể là
rào cản cho việc bổ sung thêm vốn đầu tư. Thay vì mở rộng các cơ sở hiện hữu, các nhà
đầu tư thường thành lập các công ty mới để được hưởng thêm kỳ ưu đãi thuế, và trong
một số trường hợp, các hoạt động kinh doanh được chuyển giao sang các công ty hữu
quan để các kỳ ưu đãi thuế mới. Như vậy, mặc dù rất phổ biến những có lẽ kỳ ưu đãi
thuế là kém hiệu quả nhất, và gần như là loại ưu đãi thuế kém hiệu quả nhất.
* Giảm thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp đối với một số hoạt động
Có thể áp dụng giảm thuế suất thuế TNDN vĩnh viễn hoặc tạm thời cho một số
hoạt động cụ thể. Hình thức này có tác dụng tốt đối với việc thu hút vốn đầu tư của các
nhà đầu tư, có ảnh hưởng tích cực đến việc khuyến khích phát triển một số lĩnh vực nhất
định, dễ dàng hơn trong quản lý và các chi phí về số thu minh bạch hơn. Tuy nhiên, hình
thức này có thể có những hạn chế nhất định.
* Khấu trừ đầu tư và khấu trừ thuế cho đầu tư: Khấu trừ đầu tư và khấu trừ thuế
cho đầu tư là hình thức bổ sung hoặc thay thế cho kỳ ưu đãi thuế mà chính phủ một số
nước áp dụng. Các ưu đãi này bổ sung cho các trợ cấp chi phí khấu hao thơng thường
và giúp nhà đầu tư có thể xố bỏ số chi phí vượt trội so với chi phí đầu tư. Trợ cấp đầu
tư thường làm giảm thu nhập chịu thuế trong khi chiết khấu thuế cho đầu tư lại căn cứ
vào số thuế phải nộp.
Có thể áp dụng giảm trừ hoặc chiết khấu đầu tư cho tất cả các hình thức đầu tư
vốn hoặc chỉ áp dụng giới hạn cho một số nhóm cụ thể như đầu tư vào máy móc hoặc
thiết bị có cơng nghệ tiên tiến, hoặc đầu tư vốn vào một số hoạt động như nghiên cứu
và phát triển. Đôi khi tiêu chuẩn này chỉ giới hạn cho phần vốn góp vào vốn điều lệ của
doanh nghiệp: điều này khuyến khích đầu tư bằng nguồn vốn chủ sở hữu.

13


Cần phân biệt giữa trợ cấp đầu tư với cái gọi là «trợ cấp ban đầu». Hình thức

giảm trừ ban đầu phổ biến cho phép giảm ví dụ như 40% chi phí của tài sản khấu hao
trong năm đầu tiên, và 60% chi phí cịn lại sẽ giảm trong một số năm tiếp theo. Hình
thức giảm trừ này khơng cho phép giảm 100% chi phí và vì vậy thực chất là một dạng
khấu hao nhanh.
Giảm trừ thuế cho đầu tư có thể là mức cố định hoặc tăng dần. Giảm trừ thuế cố
định cho đầu tư là tỷ lệ cố định được hưởng trên chi phí đầu tư phát sinh từ nguồn vốn
đủ tiêu chuẩn hưởng ưu đãi (vốn mục tiêu) trong một năm. Ngược lại, giảm trừ thuế
tăng dần cho đầu tư là tỷ lệ cố định được hưởng từ chi phí đầu tư vượt trội đủ tiêu chuẩn
hưởng ưu đãi trong năm. Chi phí này về đặc điểm là tính theo căn cứ trung bình và
thường dao động (ví dụ là chi phí đầu tư trung bình của đối tượng nộp thuế trong ba năm
trước đó). Mục đích của giảm trừ thuế tăng dần là cải thiện việc hướng các ưu đãi vào
các khoản chi phí tăng dần mà nếu khơng có ưu đãi thì khơng phát sinh các chi phí này.
Tuy nhiên hướng áp dụng ưu đãi này không được bảo đảm do các nhà đầu tư có thể đã
dự tính tăng chi phí đầu tư vượt quá các ngưỡng trong các năm trước, đồng thời cũng
mang lại lợi ích hạn chế hoặc thậm chí khơng có lợi cho các doanh nghiệp có mức đầu
tư giảm trước khi được hưởng ưu đãi (có thể do họ mới mở rộng vốn đầu tư với quy mô
lớn xong hoặc đang gặp khó khăn do thị trường suy thối). Tuy nhiên có thể đây lại là
thời điểm mà các nhà làm chính sách muốn bắt đầu các ưu đãi đầu tư.
Các khoản khấu trừ thuế chung và theo mục tiêu áp dụng đối với các dự án đủ
điều kiện theo một tỷ lệ nhất định sẽ trực tiếp làm giảm thiểu nghĩa vụ thuế doanh nghiệp
mà các nhà đầu tư phải nộp nếu như khơng có cơ chế này. Điểm khác biệt giữa cơ chế
này và cơ chế giảm thuế là việc áp dụng khấu trừ thuế đầu tư không phụ thuộc vào mức
thuế suất thuế thu nhập trong luật là bao nhiêu. Ngoài ra, khác với cơ chế giảm thuế thu
nhập doanh nghiệp, giá trị của cơ chế khấu trừ thuế đầu tư được xem như là một khoản
trợ cấp trả trước cho các nhà đầu tư đối với chi phí huy động nguồn vốn và chỉ áp dụng
đối với các hoạt động đầu tư mới.
Cơ chế này cho phép nhà đầu tư được hưởng mức giảm trừ về thuế suất thực tế
cao hơn và chi phí áp dụng cũng thấp hơn nếu như tính đến sự tác động của thuế đối với
chi phí cận biên và doanh thu cận biên. Cơ chế ưu đãi thông qua giảm mức thuế suất
14



được áp dụng đối với cả những khoản vốn mới cũng như những khoản vốn đã được đầu
tư trước đó.
Lý thuyết về ưu đãi đầu tư cũng đã chỉ ra rằng những khoản ưu đãi đầu tư có tính
chất trả trước như cơ chế khấu trừ thuế đối với hoạt động đầu tư, cơ chế khấu hao nhanh
áp dụng đối với một số loại hình đầu tư sẽ đem đến “tác động lớn nhất”. Bên cạnh đó,
những lập luận chính ủng hộ cho cơ chế có tính chất trợ cấp này, khác với cơ chế giảm
thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp, chính là những khoản trợ cấp này chỉ áp dụng đối
với những khoản đầu tư mới. Vì vậy, khi áp dụng cơ chế này, mức thuế suất áp dụng xét
theo giá trị thực tế tuy lơn hơn song sự giảm sút lớn về nguồn thu lại thấp hơn.
* Giảm lỗ
Bên cạnh mức thuế suất áp dụng theo quy định, một nội dung khác được nhiều
nhà đầu tư quan tâm khi xem xét đến hệ thống thuế thu nhập doanh nghiệp là việc xử lý
các khoản lỗ. Các doanh nghiệp thực hiện các dự án lớn vào một quốc gia có thể khơng
có lãi trong một số năm đầu. Các khoản đầu tư lớn vào ngành sản xuất chỉ có thể đem
lại lợi nhuận sau khoảng 5 năm hay hơn kể từ khi tiến hành đầu tư, song đây lại nhà
những khoản đầu tư mà nhiều quốc gia mong muốn thu hút. Đối với những doanh nghiệp
đầu tư vào các ngành này, việc cho phép chuyển những khoản lỗ ở những năm đầu sang
bù trừ vào nghĩa vụ thuế của những năm tiếp theo có một vai trị rất quan trọng.
* Khấu trừ nghĩa vụ thuế ở nước ngoài
Trong khuôn khổ các quy định về hợp nhất và về khấu trừ nghĩa vụ thuế ở nước
ngoài, các quốc gia nơi mà nhà đầu tư có trụ sở chính sẽ đánh thuế vào phần thu nhập ở
nước ngoài nếu như lợi nhuận được chuyển về nước. Song các quốc gia này đều cho
phép khấu trừ phần nghĩa vụ thuế đã đóng ở nước ngồi để tránh việc đánh thuế trùng
lên thu nhập.
Thuế khấu trừ tại nguồn được xem là những sắc thuế đánh vào thu nhập, mặc dù
sắc thuế này đánh dựa trên tổng thu nhập và vì thế số thuế đã nộp được phép khấu trừ.
Số thuế đóng ở nước ngồi tối đa có thể khấu trừ khi xác định nghĩa vụ thuế trong nước
thường được giới hạn là khơng vượt q phần thuế phải đóng trong nước đối với số thu

nhập gộp này.

15


* Ưu đãi đối với các khu kinh tế đặc biệt
Các khu kinh tế “đặc biệt” được thành lập với mục tiêu chủ yếu là để thu hút vốn
đầu tư, thực hiện theo một số hình thức nhất định, và phục vụ cho một số mục tiêu cụ
thể nào đó. Các khu này thường được gọi với nhiều tên khác nhau, trong đó những tên
thường gặp là khu phi thuế quan, khu thương mại nước ngoài, khu thương mại tự do,
cảng tự do, khu chế xuất (EPZ), khu thương mại quốc tế, khu kinh tế tự do và đặc khu
kinh tế.
Giữa các khu phi thuế quan và các đặc khu kinh tế có những điểm khác biệt rất
cơ bản. Đặc điểm đặc trưng nhất của các loại hình khu phi thuế quan là hàng hoá xuất
nhập khẩu từ các khu này được miễn thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu. Trong khi đó, đặc
trưng của các đặc khu kinh tế là các khu này áp dụng các cơ chế miễn hay giảm thuế đối
với các sắc thuế khác và việc miễn giảm này thường khơng được áp dụng bên ngồi khu.
Tuy nhiên, trên thực tế việc các doanh nghiệp đóng trên địa bàn các đặc khu kinh tế
đồng thời được miễn cả thuế nội địa và thuế hải quan cũng không phải là điều lạ. Và
thông thường việc cho miễn thuế xuất nhập khẩu thường được áp dụng trong các đặc
khu kinh tế. Vì thế, có một số loại hình khu kinh tế rất khó để phân loại là chúng thuộc
loại hình nào trong số hai loại hình khu này. Hơn nữa, trong một số trường hợp, khu phi
thuế quan có thể đóng trong đặc khu kinh tế.
1.1.4. Vai trị của ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp
Pháp luật về ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp cũng góp phần thực hiện các
chức năng của thuế. Vai trò của các quy định pháp luật về ưu đãi thuế thu nhập doanh
nghiệp được thể hiện trên các khía cạnh sau đây6:
1.1.4.1. Ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp có vai trị góp phần thúc đẩy sản
xuất, kinh doanh phát triển, khuyến khích đầu tư và thay đổi cơ cấu kinh tế
Thuế trong cơ chế thị trường khơng chỉ đóng vai trị là nguồn thu chủ yếu của

ngân sách nhà nước, mà còn là một cơng cụ làm địn bẩy để thúc đẩy sản xuất, kinh
doanh phát triển. Theo quan điểm công bằng, bất kỳ một tổ chức, cá nhân khi đã thực
hiện đầy đủ nghĩa vụ nộp thuế của mình với đất nước, họ được quyền thụ hưởng và cung
Vũ Thị Thùy Linh, Ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp theo pháp luật Việt Nam và thực tiễn áp dụng tại thành
phố Hải Dương” (2015), Luận văn thạc sỹ luật học, Khoa Luật, trang 10-12.
6

16


ứng những lợi ích cơng cộng nhất định và được tạo thuận lợi nhất cho hoạt động sản
xuất, kinh doanh của mình. Bên cạnh đó, phụ thuộc vào chủ trương kinh tế đất nước, mà
nhà nước có thể dùng các quy định pháp luật về ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp để
tác động, tạo thuận lợi hơn cho hoạt động hoạt động đầu tư ở một số ngành, vùng để khuyến
khích sản xuất, kinh doanh phát triển nhằm tạo ra một cơ cấu hợp lý hơn. Thông qua ưu đãi
về thuế suất và miễn giảm thuế cho các dự án đầu tư sẽ góp phần thu hút vốn đầu tư nước
ngoài, tạo động lực phát triển kinh tế, khuyến khích người dân bỏ vốn thành lập doanh
nghiệp mới, đầu tư xây dựng dây chuyền sản xuất mới, mở rộng quy mô, đổi mới công
nghệ, cải thiện môi trường sinh thái... Đồng thời, hệ thống pháp luật ưu đãi thuế thu nhập
doanh nghiệp cũng hướng các tổ chức, cá nhân đầu tư vào lĩnh vực ngành nghề, vùng kinh
tế theo đúng mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của Nhà nước. Với các nước đang phát
triển, cần phải xây dựng hệ thống pháp luật về ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp phù hợp
để thu hút được vốn đầu tư nước ngồi mà vẫn khuyến khích được đầu tư trong nước.
1.1.4.2. Ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp có vai trị góp phần điều tiết nền kinh tế
Ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp tức là hình thức cho người nộp thuế được
hưởng những điều kiện thuận lợi khi nộp thuế thu nhập doanh nghiệp. Thông qua thực
hiện các quy định pháp luật về ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp, Nhà nước đã điều
tiết nền kinh tế một cách linh hoạt, tuỳ thuộc vào điều kiện cụ thể của nền kinh tế để đạt
được những mục tiêu đã đặt ra. Tác dụng kích thích của các quy định pháp luật về ưu
đãi thuế thu nhập doanh nghiệp được xem như một hình thức Nhà nước cấp phát vốn

trực tiếp cho các doanh nghiệp và các tầng lớp dân cư. Tuỳ thuộc vào yêu cầu quản lý,
Nhà nước có thể tăng hoặc giảm quy mơ và mức độ của các ưu đãi thuế để kích thích
tăng tích luỹ và tích tụ vốn trong các doanh nghiệp và dân cư. Các quy định pháp luật
về ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp rất đa dạng: quy định mức thu nhập tối thiểu
không phải nộp thuế; cho phép loại trừ một số khoản chi phí trong thu nhập chịu thuế;
miễn hoặc giảm một phần hay toàn bộ số thuế phải nộp; cho hỗn nộp thuế; cấp tín dụng
thuế để tái đầu tư... Tuỳ theo phạm vi sử dụng, có thể phân chia các quy định pháp luật
về ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp thành hai nhóm khác nhau: ưu đãi thuế mang tính
chất ngành, vùng lãnh thổvà ưu đãi thuế mang tính chất cá biệt. Việc quy định ưu đãi
thuế thu nhập doanh nghiệp mang tính chất cá biệt được sử dụng nhằm giải quyết nhiệm
17


vụ điều chỉnh trong phạm vi hẹp, gắn liền với lợi ích của từng chủ thể kinh doanh. Tuy
có những ưu điểm nhất định, nhưng ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp mang tính cá
biệt cũng tạo ra sự khơng công bằng trong sản xuất kinh doanh giữa các chủ thể kinh tế,
gây hậu quả tâm lý xấu đối với người nộp thuế và tạo ra những tiền đề trốn thuế, làm
mất tính trung lập của thuế. Trong giai đoạn hội nhập, các quy định pháp luật về ưu đãi
thuế thu nhập doanh nghiệp có thể bị xem là một khoản trợ cấp. Tuỳ theo các lĩnh vực
được ưu đãi, đối tượng được ưu đãi và cách ưu đãi mà các ưu đãi thuế này có thể bị xem
là các khoản trợ cấp bị cấm hoặc các khoản trợ cấp đặc thù sẽ bị áp dụng biện pháp đối
kháng theo Hiệp định trợ cấp và các biện pháp đối kháng (SCM). Tuy nhiên, nếu áp
dụng biện pháp thơng qua hình thức dùng thuế suất áp dụng chung có thể sẽ tránh được
những phiền phức trong thực thi các cam kết.
1.1.4.3. Ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp có vai trị góp phần điều hồ thu
nhập, thực hiện cơng bằng xã hội
Một trong những khiếm khuyết của nền kinh tế thị trường là có sự chênh lệch lớn
về mức sống, về thu nhập giữa các tầng lớp dân cư trong xã hội. Kinh tế thị trường càng
phát triển thì khoảng cách giàu - nghèo giữa các tầng lớp dân cư ngày càng có xu hướng
gia tăng. Sự phát triển mọi mặt của một đất nước là thành quả của sự nỗ lực củacả cộng

đồng, mỗi thành viên trong xã hội đều có những đóng góp nhất định. Nếu khơng chia sẻ
thành quả phát triển kinh tế cho mọi thành viên sẽ thiếu công bằng và tạo nên sự đối lập
về quyền lợi và của cải giữa các tầng lớp dân cư và gây ra bất ổn xã hội. Chính vì vậy,
Nhà nước cần phải can thiệp vào quá trình phân phối thu nhập, của cải của xã hội. Thuế
là công cụ quan trọng mà Nhà nước sử dụng để tác động trực tiếp vào quá trình nàyvà
đặc biệt các quy định pháp luật vềưu đãi thuế ngân sách nhà nước cũng góp phần điều
hồ thu nhập, thực hiện cơng bằng xã hội.
1.2. Ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp đối với hoạt động đầu tư trực tiếp
nước ngoài
1.2.1. Hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài
1.2.1.1. Khái niệm
Đầu tư là việc sử dụng các nguồn lực hiện tại nhằm biến các lợi ích dự kiến thành
hiện thực trong tương lai. Tuy nhiên, tương lai chứa đầy những yếu tố bất định mà ta
18


khó biết trước được. Vì vậy, khi đề cập đến khía cạnh rủi ro, bất chắc trong việc đầu tư
thì các nhà kinh tế quan niệm rằng: đầu tư là đánh bạc với tương lai. Còn khi đề cập đến
yếu tố thời gian trong đầu tư thì các nhà kinh tế lại quan niệm rằng: Đầu tư là để dành
tiêu dùng hiện tại và kỳ vọng một tiêu dùng lớn hơn trong tương lai.
Vì vậy, một cách tổng quát ta có thể đưa ra khái niệm về lĩnh vực đầu tư như sau:
Đầu tư là một hình thức bỏ vốn vào hoạt động trong các lĩnh vực kinh tế, xã hội nhằm
thu được những lợi ích kỳ vọng trong tương lai.
Theo quy định của Luật Đầu Tư 2014, khơng cịn phân biệt những hình thức đầu
tư trực tiếp quốc tế và đầu tư gián tiếp. Luật đầu tư 2014 sử dụng khái niệm “Đầu tư
kinh doanh”. Theo đó, đầu tư kinh doanh là việc nhà đầu tư bỏ vốn đầu tư để thực hiện
hoạt động kinh doanh thông qua việc thành lập tổ chức kinh tế; đầu tư góp vốn, mua cổ
phần, phần vốn góp của tổ chức kinh tế; đầu tư theo hình thức hợp đồng hoặc thực hiện
dự án đầu tư.
Hiểu một cách chung nhất, đầu tư trực tiếp nước ngoài là việc những tổ chức, cá

nhân nước ngoài, nhà đầu tư chi tiêu quốc tế trực tiếp đưa vốn bằng tiền hoặc bất kỳ tài
sản nào để tiến hành các hoạt động đầu tư chi tiêu theo pháp luật của luật đầu tư chi tiêu
nước ngoài tại Việt Nam.
1.2.1.2. Đặc điểm cơ bản của hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài
Mục tiêu của đầu tư là lợi ích. Lợi ích do đầu tư mang lại được biểu hiện trên hai
mặt: lợi ích tài chính (biểu hiện qua lợi nhuận) và lợi ích kinh tế- xã hội (biểu hiện qua
chỉ tiêu kinh tế - xã hội). Ở những vị trí khác nhau, người ta cũng nhìn nhận vấn đề lợi
ích khơng giống nhau. Với các doanh nghiêp, thường thiên về lợi ích kinh tế, tối đa hố
lợi nhuận. Cịn đối với nhà nước lại muốn lợi ích kinh tế phải gắn liền với lợi ích xã hội,
trong nhiều trường hợp lợi ích xã hội được đặt lên hàng đầu.
Hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài phải mang các đặc điểm chung trên đây.
Đồng thời hoạt động này cịn có các đặc điểm cơ bản sau đây:
Thứ nhất, đầu tư trực tiếp gắn liền với việc dịch chuyển vốn đầu tư tiêu xài, nghĩa
là tiền và các loại tài sản khác giữa những nước nhà, hệ quả là làm tăng lượng tiền và
tài sản của nền kinh tế tài chính nước tiếp nhận đầu tư chi tiêu và làm giảm lượng tiền
và tài sản nước đi đầu tư.
19


Thứ hai, đầu tư trực tiếp được tiến hành trải qua việc bỏ vốn thành lập các doanh
nghiệp mới (liên doanh hoặc sở hữu 100% vốn), giao kèo hợp tác mua bán, mua lại các
chi nhánh hoặc doanh nghiệp hiện có, mua cổ phiếu ở mức khống chế hoặc tiến hành
những hoạt động hợp nhất và chuyển nhượng doanh nghiệp.
Thứ ba, nhà đầu tư nước ngoài là chủ chiếm hữu hoàn toàn vốn đầu tư hoặc cùng
sở hữu vốn đầu tư với phần trăm nhất định đủ mức tham gia quản trị trực tiếp hoạt động
của doanh nghiệp.
Thứ tư, là hoạt động đầu tư của tư nhân, chịu sự điều tiết của các quan hệ thị
trường trên mơ hình thế giới, ít bị liên can của các mối quan hệ chính trị giữa những
nước, những chính phủ và mục tiêu căn bản luôn là đạt được hiệu quả lý tưởng.
Thứ năm, nhà đầu tư chi tiêu trực tiếp điều hành và kiểm sốt q trình hoạt động

dịng vốn đầu tư.
Thứ sáu, đầu tư trực tiếp bao gồm hoạt động đầu tư từ nước ngoài vào trong nước
và đầu tư từ trong nước ra nước ngoài, do vậy bao gồm cả vốn dịch rời vào một nước và
dòng vốn dịch rời ra khỏi nền kinh tế của nước đó.
Thứ bảy, đầu tư trực tiếp nước ngoài chủ yếu là do những cơng ty quốc gia triển khai.
1.2.1.3. Các hình thức đầu tư trực tiếp nước ngồi
Luật đầu tư 2014 đã có những bổ sung thay đổi đang kể về hình thức đầu tư, theo
đó, Luật Đầu tư 2014 bao gồm các hình thức đầu tư như sau:
Một là, đầu tư thành lập tổ chức kinh tế: trước khi thành lập tổ chức kinh tế, nhà
đầu tư nước ngồi phải có dự án đầu tư, thực hiện thủ tục cấp Giấy chứng nhận đăng ký
đầu tư và phải đáp ứng các điều kiện về tỷ lệ sở hữu vốn điều lệ và các điều kiện theo
quy định của điều ước quốc tế mà quốc gia là thành viên.
Theo đó, về tỷ lệ sở hữu vốn điều lệ, nhà đầu tư nước ngoài được sở hữu vốn điều
lệ không hạn chế trong tổ chức kinh tế, trừ một số trường hợp hạn chế theo quy định của
pháp luật về chứng khoán, về cổ phần hóa và chuyển đổi doanh nghiệp nhà nước và các
điều ước quốc tế mà quốc gia là thành viên.
Hai là, đầu tư theo hình thức góp vốn, mua cổ phần, phần vốn góp vào tổ chức
kinh tế: Hình thức đầu tư này được hiểu là nhà đầu tư góp vốn, mua cổ phần, phần vốn
góp vào tổ chức kinh tế để thực hiện hoạt động đầu tư.
20


Nhà đầu tư nước ngồi đầu tư theo hình thức góp vốn, mua cổ phần, phần vốn
góp vào tổ chức kinh tế thực hiện theo quy định về: Hình thức và điều kiện góp vốn,
mua cổ phần, phần vốn góp vào tổ chức kinh tế và Thủ tục đầu tư theo hình thức góp
vốn, mua cổ phần, phần vốn góp.
Theo đó, nhà đầu tư nước ngồi được góp vốn vào tổ chức kinh tế theo các hình
thức sau đây: Mua cổ phần phát hành lần đầu hoặc cổ phần phát hành thêm của cơng ty
cổ phần; Góp vốn vào cơng ty trách nhiệm hữu hạn, cơng ty hợp danh; Góp vốn vào tổ
chức kinh tế khác.

Nhà đầu tư nước ngoài mua cổ phần, phần vốn góp của tổ chức kinh tế theo các
hình thức sau đây: Mua cổ phần của công ty cổ phần từ công ty hoặc cổ đông; Mua
phần vốn góp của các thành viên cơng ty trách nhiệm hữu hạn để trở thành thành viên
của công ty trách nhiệm hữu hạn; Mua phần vốn góp của thành viên góp vốn trong cơng
ty hợp danh để trở thành thành viên góp vốn của cơng ty hợp danh; Mua phần vốn góp
của thành viên tổ chức kinh tế khác;
Ba là, đầu tư theo hình thức hợp đồng PPP:
Hợp đồng đầu tư theo hình thức đối tác cơng tư (hợp đồng PPP) là hợp đồng được
ký kết giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền và nhà đầu tư, doanh nghiệp dự án để thực
hiện dự án đầu tư.
Bốn là, đầu tư theo hình thức hợp đồng BCC: Đây là hình thức đầu tư theo Hợp
đồng hợp tác kinh doanh giữa các nhà đầu tư nhằm hợp tác kinh doanh phân chia lợi
nhuận, phân chia sản phẩm mà không thành lập tổ chức kinh tế. Các bên tham gia hợp
đồng BCC thành lập ban điều phối để thực hiện hợp đồng BCC. Chức năng, nhiệm vụ,
quyền hạn của ban điều phối do các bên thỏa thuận. Hình thức đầu tư này đang ngày
càng được nhà đầu tư trong và ngoài nước lựa chọn khi thực hiện các hoạt động đầu tư
bởi chính ưu điểm như: do khơng thành lập pháp nhân nên nhà đầu tư thường chủ động,
linh hoạt hơn và ít phụ thuộc vào đối tác khi quyết định các vấn đề của dự án đầu tư.
Tuy nhiên hình thức này cũng có một số nhược điểm: do khơng thành lập pháp nhân nên
khơng có con dấu riêng… và các nhà đầu tư sẽ phải thỏa thuận lựa chọn một trong con
dấu của các nhà đầu tư để phục vụ cho các hoạt động của dự án đầu tư điều này có thể
sẽ gây rắc rối và tiềm ẩn nhiều rủi ro cho nhà đầu tư.
21


1.2.2. Ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp đối với hoạt động đầu tư trực tiếp
nước ngoài
Đầu tư trực tiếp nước ngồi là một hình thức di chuyển vốn trên thị trường tài
chính quốc tế, trong đó bên chủ sở hữu vốn (nhà đầu tư nước ngoài, mà thường là các
công ty đa quốc gia) tạo ra các doanh nghiệp, các chi nhánh ở nước khác; để đầu tư mở

rộng thị trường, thiết lập quyền sở hữu từng phần hoặc toàn bộ vốn đầu tư và giữ quyền
quản lý trực tiếp, ra các quyết định kinh doanh, cùng với các đối tác nước sở tại chịu rủi
ro và hưởng lợi nhuận.
Theo pháp luật Việt Nam, nhà đầu tư nước ngoài là cá nhân có quốc tịch nước
ngồi, tổ chức thành lập theo pháp luật nước ngoài thực hiện hoạt động đầu tư kinh
doanh tại Việt Nam. Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngồi có thể thành lập dưới các
hình thức như: doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên, công
ty trách nhiệm hữu hạn có từ hai thành viên trở lên, cơng ty cổ phần, công ty hợp doanh.
Nếu phân loại theo mức độ vốn góp của nhà đầu tư nước ngồi trong doanh
nghiệp thì có doanh nghiệp liên doanh và doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngồi.
Doanh nghiệp liên doanh được hình thành trên cở sở hợp đồng liên doanh hoặc hiệp
định ký giữa Chính phủ Việt Nam với Chính phủ nước ngoài. Doanh nghiệp liên doanh
được thành lập dưới nhiều loại hình khác nhau như: cơng ty hợp danh, cơng ty cổ phần
có vốn góp của một hay nhiều bên nước ngoài với một hay nhiều bên Việt Nam. Doanh
nghiệp liên doanh có tư cách pháp nhân theo pháp luật Việt Nam.
Như trên đã phân tích về khái niệm, các hình thức và vai trò của ưu đãi thuế thu
nhập doanh nghiệp thì ưu đãi thuế nhu nhập doanh nghiệp đối với hoạt động đầu tư trực
tiếp nước ngoài cũng sẽ có những nội dung tương tự. Điểm khác nhau căn bản ở đây là
đối tượng áp dụng bị giới hạn hơn so với ữu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp nói chung.
Vậy ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp đối với hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài
được hiểu là những quy định về những biện pháp, những lợi ích nhằm giảm bớt gánh
nặng về thuế thu nhập doanh nghiệp cho các nhà đầu tư, khuyến khích và thu hút đầu tư
mà Nhà nước dành cho những doanh doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngồi nhằm thực
hiện các hoạt động đầu tư trực tiếp của các nhà đầu tư nước ngoài so với những đối
tượng chịu thuế khác trong cùng điều kiện nhất định
22


×