Tải bản đầy đủ (.docx) (21 trang)

Một số cải tiến, nâng cao hiệu quả sử dụng thí nghiệm trong bài 13 phát hiện diệp lục và chiết rút carôtenôit sinh học 11

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (122.21 KB, 21 trang )


SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HÓA

TRƯỜNG THCS & THPT NGHI SƠN

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

TÊN ĐỀ TÀI
MỘT SỐ CẢI TIẾN, NÂNG CAO HIỆU QUẢ SỬ DỤNG
THÍ NGHIỆM TRONG BÀI 13. PHÁT HIỆN DIỆP LỤC
VÀ CHIẾT RÚT CARÔTENÔIT, SINH HỌC 11-CƠ BẢN.

Người thực hiện: Lê Thị Thuận
Chức vụ: Giáo viên
SKKN thuộc lĩnh vực (môn): Sinh

THANH HÓA, NĂM 2019

2


MỤC LỤC
Trang
1.Mở đầu
3
1.1. Lí do chọn đề tài ………………………………………………… 3
1.2. Mục đích nghiên cứu……………………………………………
4
1.3. Đối tượng nghiên cứu …………………………………………..
4
1.4. Phương pháp nghiên cứu ……………………………………….


4
1.5. Những điểm mới của sáng kiến kinh nghiệm …………………..
5
2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm ………………………………….
5
2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm ……………………….
5
2.1.1. Trực quan ……………………………………………………...
5
2.1.2. Phương tiện trực quan ………………………………………..
5
2.1.3. Thí nghiệm …………………………………………………….. 6
2.1.4. Thí nghiệm thực hành………………………………………….
6
2.1.4.1. Tầm quan trọng của việc sử dụng thí nghiệm trong dạy học
sinh học ………………………………………………………………. 6
2.1.4.2. Cơ sở khoa học của việc sử thí nghiệm trong quá trình dạy
học ……………………………………………………………………. 7
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm …..
10
2.2.1.Thuận lợi ...................................................................................... 10
2.2.2. Khó khăn ……………………………………………………… 11
2.3. Các sáng kiến kinh nghiệm hoặc các giải pháp đã sử dụng để
giải quyết vấn đề ……………………………………………………..
11
2.3.1. Vị trí ,đặc điểm,vai trò của thí nghiệm ……………………….
11
2.3.2 Cải tiến các thí nghiệm trong bài 13. Thực hành: Phát hiện diệp
lục và carôtenôit ………………………………………………............ 12
2.3.3 Những yêu cầu của công tác thực hành đối với giáo viên ……..

13
2.3.4. Quy trình cải tiến cách làm thí nghiệm ………………………..
13
2.3.4.5 Cải tiến thí nghiệm trong bài 13: thực hành phát hiện diệp lục
và carôtenôit-sinh học 11 ………………………………………...…..
15
2.3.4.5.1. Thí nghiệm chiết rút diệp lục……………………………… 15
2.3.4.5.2. Thí nghiệm chiết rút ……………………………………….. 16
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục
17
với bản thân, đồng nghiệp và nhà trường …………………………….
3. Kết luận, kiến nghị ……………………………………………….... 17
3.1. Kết luận ………………………………………………………….. 17
3.2. Kiến nghị…………………………………………………………. 18

1. Mở đầu
1.1. Lí do chọn đề tài
3


Nghị quyết trung ương 2 khóa VII. Đảng xác định ‘‘Đổi mới phương pháp dạy
học ở tất cả các cấp học, bậc học. Kết hợp tốt học đi đôi với hành, học tập gắn
liền với lao động sản xuất, thực nghiệm, nghiên cứu khoa học, gắn nhà trường
với xã hội. Áp dụng những phương pháp dạy học hiện đại để bồi dưỡng học sinh
năng lực tư duy sáng tạo’’ điều này cho thấy để nâng cao chất lượng giáo dục
toàn diện thì giáo dục phải đổi mới về nội dung, phương pháp, phương tiện và
thiết bị dạy học.
Luật giáo dục 2005 được Quốc hội nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
kì họp thứ 10 thông qua quy định nêu rõ‘‘Hoạt động giáo dục phải được thực
hiện theo nguyên lí học đi đôi với hành, giáo dục kết hợp với lao động sản xuất

lí luận gắn liền với thực tiễn…’’
Trong lí luận dạy học sự thống nhất giữa trực quan và tư duy trừu tượng là một
luận điểm có tính nguyên tắc nhằm đảm bảo cho quá trình dạy học đạt hiệu quả
cao. Phương tiện trực quan là nguồn thông tin phong phú và đa dạng giúp học
sinh lĩnh hội tri thức một cách cụ thể, chính xác, là con đường tốt nhất giúp học
sinh tiếp cận hiện thực khách quan, góp phần khắc sâu, mở rộng, củng cố tri
thức phát triển năng lực tư duy, khả năng tìm tòi, khám phá và vận dụng tri thức.
Thí nghiệm có vị trí quan trọng, đó là nguồn thông tin phong phú, đa dạng giúp
học sinh lĩnh hội tri thức một cách cụ thể, chính xác, là con đường tốt nhất để
tiếp cận với hiện thực khách quan.
Sinh học là môn khoa học thực nghiệm. Hầu hết các hiện tượng, khái niệm
quy luật, quá trình trong sinh học đều bắt nguồn từ thực tiễn. Biểu diễn thí
nghiệm là một trong những phương pháp quan trọng để tổ chức cho học sinh
nghiên cứu các hiện tượng sinh học.
Đối với học sinh thì thí nghiệm là mô hình đại diện cho hiện thực khách quan
là cầu nối giữa lí thuyết và thực tiễn. Do đó nó là phương tiện duy nhất giúp học
sinh hình thành kỹ năng, kỹ xảo thực hành và tư duy kĩ thuật, thí nghiệm giúp
học sinh đi sâu tìm hiểu bản chất của các hiện tượng và quá trình sinh học.
Thí nghiệm do giáo viên biểu diễn là mẫu mực về thao tác, việc tổ chức hoạt
động nhận thức của học sinh khi thí nghiệm theo hướng tích cực, sáng tạo và
mục tiêu quan trọng trong việc phát triển năng lực của học sinh đó là rèn luyện
phát triển kỹ năng quan sát thí nghiệm.
Trong sách giáo khoa sinh học 11 các thí nghiệm được sử dụng để học bài
mới, củng cố hoàn thiện kiến thức, kiểm tra, đánh giá kết quả. Thí nghiệm có thể
do giáo viên biểu diễn hoặc do học sinh tiến hành, thí nghiệm có thể được tiến
hành trên lớp trong phòng thí nghiệm, ngoài vườn, ngoài ruộng hoặc tại nhà, thí
nghiệm có thể được bố trí trong các bài lí thuyết hoặc bài thực hành với thời
gian khác nhau nhằm mục đích khác nhau.
Thực tế hiện nay việc sử dụng thí nghiệm trong dạy học sinh học ở các trường
THPT nói chung và tại đơn vị tôi công tác nói riêng còn rất hạn chế và chưa

thực sự đem lại hiệu quả trong dạy học. Do thiếu trang thiết bị hoặc trang thiết
bị không đảm bảo chất lượng, có những thí nghiệm phức tạp, tốn kém, mất
nhiều thời gian cùng với sự có mặt của thí nghiệm ít có trong nội dung thi cử
nên giáo viên không thường xuyên quan tâm đến việc tổ chức cho học sinh khai
4


thác giá trị dạy học của các thí nghiệm trong dạy học sinh học. Còn đối với học
sinh ít được tiến hành thí nghiệm nên những kiến thức mà học sinh lĩnh hội được
xa rời thực tiễn, học sinh khó hình thành được kĩ năng, kĩ xảo thực hành và tư
duy kĩ thuật đúng như câu tục ngữ ‘‘Trăm nghe không bằng một thấy, trăm thấy
không bằng một làm’’.
Do vậy để khai thác hết giá trị dạy học của thí nghiệm, phát huy được tính tích
cực, chủ động sáng tạo của học sinh, gắn lí thuyết với thực tiễn, giúp học sinh
hiểu rõ bản chất của sự vật, hiện tượng sinh học thì giáo viên thường xuyên sử
dụng và sử dụng có hiệu quả thí nghiệm trong dạy hoc sinh học. Việc nâng cao
hiệu quả sử dụng các thí nghiệm sẽ góp phần tích cực trong việc nâng cao chất
lượng dạy học.
Xuất phát từ những lí do trên tôi lựa chọn đề tài nghiên cứu ‘‘Một số cải tiến,
nâng cao hiệu quả sử dụng thí nghiệm trong bài 13. phát hiện diệp lục và
chiết rút carôtenôit - sinh học 11’’.
1.2. Mục đích nghiên cứu
- Đề xuất phương án cải tiến cách làm và cách sử dụng một số thí nghiệm trong
bài 13. phát hiện diệp lục và chiết rút carôtenôit- sinh học 11’’ để góp phần
nâng cao chất lượng dạy học sinh hoc 11.
1.3. Đối tượng nghiên cứu
- Nghiên cứu các tài liệu: các thí nghiệm trong bài 13. phát hiện diệp lục và
chiết rút carôtenôit sách giáo khoa sinh học 11, sách giáo viên sinh học11, sách
chuẩn kiến thức và kĩ năng sinh học 11, phương pháp dạy học, tài liệu tập huấn
cho giáo viên, thư viện violet.

- Khách thể nghiên cứu: Quá trình dạy học sinh học 11.
- Đối tượng tác động: Học sinh các lớp 11 A4,11A5.Trường THCS & THPT
Nghi Sơn.
1.4. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp nghiên cứu lí thuyết: Nghiên cứu các tài liệu có liên quan đến thí
nghiệm thực hành, kĩ thuật thực hiện các thí nghiệm và phương pháp nâng cao
hiệu quả sử dụng thí nghiệm trong quá trình dạy học, nội dung SGK, sách giáo
viên sinh học 11 sách chuẩn kiến thức kỹ năng, phương pháp dạy học, tài liệu
bồi dưỡng thường xuyên cho giáo viên, tài liệu tập huấn.
- Phương pháp quan sát và điều tra sư phạm: phát vấn, nêu vấn đề, thao giảng dự
giờ trao đổi ý kiến với đồng nghiệp trong quá trình dạy. xây dựng hệ thống các
câu hỏi, tìm hiểu đối tượng học sinh qua các lần kiểm tra, thống kê, so sánh đối
chiếu kết quả để có được thông tin phản hồi rồi đưa ra giải pháp phù hợp với
thực tế và hiệu quả hơn.
- Áp dụng kinh nghiệm trên lớp.
- Kiểm tra đánh giá kết quả học và làm bài của học sinh để từ đó có điều chỉnh
và bổ sung.
- Phương pháp tổng kết: Những gì làm được, chưa làm được cần cải tiến, điều
chỉnh, bổ sung cho phù hợp với từng đối tượng học sinh.
1.5. Những điểm mới của sáng kiến kinh nghiệm
- Trên cơ sở kế thừa và phát triển dạy học truyền thống thì tôi có một số cải tiến:
5


+ Xác định rõ mục đích của tiết thực hành về một nội dung cụ thể nào đó
(nghiên cứu một vấn đề mới hay củng cố kiến thức lí thuyết đã học).
+ Cần nghiên cứu kĩ nội dung và tiến hành trước công việc thực hành để đảm
bảo thành công khi hướng dẫn cho học sinh.
+ Cần lường trước những khó khăn, thất bại có thể có lúc học sinh thực hiện, tìm
hiểu nguyên nhân thất bại để không lúng túng, bị động khi giải đáp cho học sinh.

+Tiến hành tổ chức lớp phải chu đáo, theo kế hoạch tỉ mỉ để trong suốt quá trình
thực hành mọi học sinh luôn có việc làm. Nếu dụng cụ, vật liệu thực hành không
đủ cho tất cả cùng tiến hành một nội dung thì phân công luân phiên nhau giữa
các nhóm.
+ Phải có kế hoạch dành thời gian nhận xét, đánh giá kết quả thực hành và chú ý
đến cách tiến hành có ưu, nhược điểm gì? Ý thức tổ chức kỉ luật, trật tự, vệ sinh
an toàn của học sinh trong quá trình thí nghiệm.
+ Để động viên học sinh cần nêu một số nhóm, cá nhân làm tốt, những em tìm
tòi phát hiện ra cái mới, kể cả những thắc mắc.
+ Xây dựng hệ thống câu hỏi kiểm tra, đánh giá năng lực của học sinh sinh
thông qua hoạt động thí nghiệm.
2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm
2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm
* Một số khái niệm liên quan đến đề tài
2.1.1. Trực quan
Khái niệm ‘‘Trực quan’’ thường được sử dụng rộng rãi trong dạy học và theo
quan điểm triết học ‘‘Trực quan’’ là những đặc điểm, tính chất của nhận thức
loài người. Trực quan là đặc tính đối với nhận thức con người, trực quan phản
ánh trong thực tế, mà thực tế có thể biểu hiện ở dạng hình tượng cảm tính.
Theo từ điển sư phạm: ‘‘Trực quan trong dạy học đó là một nguyên tắc lí luận
dạy –học mà theo nguyên tắc này thì dạy- học phải dựa trên những hình ảnh cụ
thể, được học sinh trực tiếp tri giác’’còn theo từ điển tiếng việt của Hoàng Phê
(chủ biên) thì trực quan được định nghĩa như sau ‘‘Trực quan nghĩa là dùng
những vật dụng cụ thể hay ngôn ngữ, cử chỉ làm cho học sinh có được hình ảnh
cụ thể về những điều đã học’’.
Như vậy có thể kết luận: Trực quan là một khái niệm biểu thị tính chất của
hoạt động nhận thức, trong đó thông tin thu nhận được về các sự vật và hiện
tượng của thế giới bên ngoài được cảm nhận trực tiếp từ các cơ quan cảm giác
của con người.
2.1.2. Phương tiện trực quan

Khái niệm phương tiện trực quan trong dạy học được nhiều tác giả quan tâm
Các tác giả cho rằng : ‘‘Phương tiện trực quan là tất cả những cái gì có thể được
lĩnh hội (tri giác ) nhờ sự hỗ trợ của hệ thống tín hiệu thứ nhất và thứ hai của
con người. Tất cả các đối tượng nghiên cứu được tri giác trực tiếp nhờ các giác
quan đều là phương tiện trực quan ’’; ‘‘Phương tiện trực quan là tất cả các đối
tượng nghiên cứu được tri giác trực tiếp nhờ các giác quan’’; ‘‘Phương tiện trực
quan được hiểu là những vật (sự vật) hoặc sự biểu hiện của nó bằng hình tượng
(biểu tượng) với những mức độ quy ước khác nhau. Những sự vật và những biểu
6


hiện của sự vật trên được dùng để thiết lập (hình thành) ở học sinh những biểu
tượng động hoặc tĩnh về sự vật nghiên cứu’’.
Nhận thấy rằng, mặc dù cách diễn đạt có khác nhau, nhưng nói chung, các tác
giả đã có sự thống nhất về khái niệm phương tiện trực quan. Có thể kết luận:
Phương tiện trực quan là công cụ (phương tiện) mà người giáo viên và học sinh
sử dụng trong quá trình dạy – học nhằm xây dựng cho học sinh những biểu
tượng về sự vật, hiện tượng, hình thành khái niệm thông qua sự tri giác trực tiếp
bằng các giác quan của người học.
2.1.3. Thí nghiệm
Thí nghiệm được xem là một trong những phương tiện trực quan quan trọng
hàng đầu trong dạy học nói chung và dạy học sinh học nói riêng. Thí nghiệm
giúp học sinh trực tiếp quan sát các hiện tượng, quá trình, tính chất của các đối
tượng nghiên cứu. Thí nghiệm được hiểu là gây ra một hiện tượng, một sự biến
đổi nào đó trong điều kiện nhất định để tìm hiểu, nghiên cứu, kiểm tra hay
chứng minh.
Thí nghiệm có thể được tiến hành trên lớp, trong phòng thí nghiệm, vườn trường
ngoài ruộng và ở nhà. Thí nghiệm có thể do giáo viên biểu diễn hoặc học sinh
thực hiện. Hiện nay, trong thực tế dạy học thí nghiệm thường mới được sử dụng
để giải thích, minh họa, củng cố và khắc sâu kiến thức lí thuyết. Song giáo viên

có thể căn cứ vào nội dung bài học và điều kiện cụ thể mà có thể sử dụng các thí
nghiệm nhằm mục đích giúp học sinh lĩnh hội tri thức mới, rèn luyện cho các
em phẩm chất của một nhà nghiên cứu khoa học và làm cho học sinh thêm yêu
môn học. Căn cứ vào mục tiêu, nhiệm vụ đề tài chỉ đi sâu nghiên cứu thí nghiệm
thực hành trong bài 13. Phát hiện diệp lục và carotenoit sinh học cơ bản 11.
2.1.4. Thí nghiệm thực hành
Trước hết ta cần hiểu ‘‘Thực hành’’ là học sinh tự mình trực tiếp tiến hành quan
sát, tiến hành các thí nghiệm tập triển khai các quy trình, kĩ thuật. ‘‘Thí nghiệm
thực hành’’được hiểu là tiến hành các thí nghiệm trong các bài thực hành, được
học sinh thực hiện để hiểu rõ được mục đích thí nghiệm, điều kiện thí nghiệm.
Qua tiến hành và quan sát thí nghiệm tại phòng thực hành, học sinh xác định
được bản chất của hiện tượng, quá trình.
Trong dạy học nói chung và dạy học sinh học nói riêng, thí nghiệm thực hành
luôn đóng vai trò quan trọng, giúp học sinh có điều kiện tự mình tìm hiểu mối
quan hệ giữa cấu trúc và chức năng, giữa bản chất và hiện tượng, giữa nguyên
nhân và kết quả. Do đó học sinh nắm vững tri thức, phát huy tiềm năng tư duy
sáng tạo, tính tích cực, chủ động trong hoạt động học.
2.1.4.1. Tầm quan trọng của việc sử dụng thí nghiệm trong dạy học sinh học
Mục đích giáo dục ở nhà trường không những chỉ đào tạo ra những con người
nắm vững các kiến thức khoa học, mà còn cần giỏi thực hành, có bàn tay khéo
léo thể hiện được những điều mà bộ óc suy nghĩ. Nếu không có những điều đó
thì những hiểu biết của con người chỉ dừng lại ở mức độ nhận thức lí thuyết
chưa tác động vào thực tiễn để tái tạo lại thế giới và cải tạo nó. Nhận thức lí luận
và việc vận dụng lí luận vào thực tiễn là hai mặt của một quá trình nhận thức
7


nhưng giữa chúng có một khoảng cách rất xa mà chúng ta không thể vượt qua
được nếu không thông qua hoạt động thực hành.
Khi hoạt động với công cụ, học sinh có điều kiện đưa các vật vào nhiều hình

thức tác động tương hỗ. Điều đó làm rõ mối quan hệ nội tại giữa các vật, làm
xuất hiện bức tranh chân thực về thế giới. Trong quá trình thí nghiệm, thực hành,
các kiến thức lí thuyết mà học sinh tiếp thu được ở trên lớp thường ở dạng hỗ trợ
làm cho chúng trở nên sinh động, làm lộ rõ bản chất và khả năng của chúng.
Nhờ vậy học sinh thấy rõ vị trí, vai trò của mỗi kiến thức trong hoạt động thực
tiễn. Được tự mình tiến hành các thí nghiệm, suy nghĩ, tìm tòi bản chất của các
sự vật hiện tượng giúp cho học sinh có những hiểu biết đầy đủ, sâu sắc về các
vấn đề sinh học thực tiễn. Do những yêu cầu chặt chẽ khi tiến hành các thí
nghiệm đã giúp cho học sinh có những phẩm chất tốt đẹp của người lao động
hình thành và phát triển ở các em thao tác tư duy kĩ thuật.
Trong khoảng thời gian 45 phút của một tiết học, giáo viên rất khó có thể giải
thích hết cho học sinh những vấn đề phức tạp mang tính bản chất, cơ chế của các
sự vật, hiện tượng. Với tư cách là phương tiện giúp học sinh ôn tập, củng cố kiến
thức, các thí nghiệm thực hành sẽ giúp học sinh hiểu rõ được bản chất của các
vấn đề sinh học. Tự mình tiến hành các thí nghiệm, quan sát diễn biến và kết quả
thí nghiệm giúp cho học sinh có cơ sở thực tiễn để giải thích bản chất của các
hiện tượng đó.
Thí nghiệm do giáo viên biểu diễn phải là mẫu mực về thao tác để qua đó học
sinh học tập, bắt chước dần dần, khi học sinh tiến hành được thí nghiệm thì học
sinh sẽ hình thành được kĩ năng thực hành thí nghiệm.
Thí nghiệm có thể được sử dụng để tổ chức hoạt động nhận thức của học sinh
với các mức độ tích cực, tự lực và sáng tạo khác nhau.
Thí nghiệm có thể được sử dụng ở mức độ thông báo, tái hiện và ở mức độ cao
hơn là tìm tòi bộ phận, nghiên cứu. Ngoài ra, thí nghiệm còn giúp học sinh thêm
yêu môn học, có được những đức tính cần thiết của người lao động như: cần cù
kiên trì, ý thức tổ chức kĩ luật cao…
Như vậy, trong quá trình dạy học sinh học, thí nghiệm được sử dụng trong tất
cả các khâu của quá trình dạy học, thí nghiệm được tiến hành dưới nhiều hình
thức và mức độ khác nhau, thí nghiệm có thể được giáo viên biểu diễn hoặc học
sinh tự tiến hành, thí nghiệm có thể nhằm thông báo, tái hiện, tìm tòi bộ phận

hoặc cũng có thể nhằm mục đích nghiên cứu, thí nghiệm có thể được tiến hành ở
trên lớp hoặc trong phòng thí nghiệm, trong vườn, ruộng hoặc ở nhà.
2.1.4.2. Cơ sở khoa học của việc sử thí nghiệm trong quá trình dạy học
a. Cơ sở triết học
Theo triết học Mác- Lênin : ‘‘Nhận thức là quá trình phản ánh biện chứng tích
cực, tự giác và sáng tạo thế giới quan vào trong đầu óc của con người trên cơ sở
thực tiễn’’. Quá trình nhận thức bao gồm cả việc học tập và nghiên cứu. Ở cả hai
mức độ này các hình ảnh trực quan đều đóng vai trò đặc biệt quan trọng. Các
hình ảnh trực quan vừa thực hiện chức năng nhận thức (thông tin), vừa thực hiện
chức năng điều khiển hoạt động của con người. Vai trò của trực quan trong
8


nhận thức không chỉ là thuộc tính của sự phản ánh hiện thực khách quan trong
nhận thức cảm tính mà còn là sự tái tạo hình tượng các đối tượng hoặc các hiện
tượng nhờ các mô hình được kiến tạo từ các nhân tố của trực quan sinh động
trên cơ sở những tri thức đã tích lũy được về đối tượng hoặc hiện tượng ấy.
Hoạt động trí tuệ của con người được bắt đầu từ cảm giác, tri giác sau đó mới
đến tư duy. Nói cách khác, hoạt động nhận thức của con người khởi đầu là nhận
thức cảm tính (còn gọi là trực quan sinh động). Đó là giai đoạn mà con người sử
dụng các giác quan để tác động trực tiếp vào các sự vật nhằm nắm bắt các sự vật
ấy. Trong nhận thức cảm tính đã tồn tại cả cái bản chất lẫn không bản chất, cả
cái tất yếu và ngẫu nhiên, cả cái bên trong lẫn bên ngoài về sự vật. Nhưng ở đây,
con người chưa phân biệt được cái gì là bản chất và không bản chất; đâu là tất
yếu với ngẫu nhiên; đâu là cái bên trong với cái bên ngoài. Để phân biệt được
những điều nói trên, con người phải vượt lên một mức độ nhận thức cao hơn –
nhận thức lí tính (tư duy trừu tượng) đây là giai đoạn phản ánh gián tiếp, trừu
tượng và khái quát những thuộc tính, những đặc điểm bản chất của đối tượng,
giai đoạn này chính là giai đoạn nhận thức thực hiện chức năng quan trọng nhất
là tách ra và nắm lấy cái bản chất có quy luật của các sự vật hiện tượng. Vì vậy,

nó đạt đến trình độ phản ánh sâu sắc hơn, chính xác hơn và đầy đủ hơn cái bản
chất của đối tượng. Tuy vậy, sự phát triển của tư duy ở mức độ nào cũng luôn
chứa đựng mối liên hệ nhận thức cảm tính. Nhận thức cảm tính gắn liền với hoạt
động thực tiễn sự tác động của khách thể cảm tính là cơ sở cho nhận thức lí tính.
Nhận thức lí tính nhờ có tính khái quát cao, lại có thể hiểu được bản chất, quy
luật vận động và phát triển sinh động của sự vật giúp cho nhận thức cảm tính có
định hướng đúng và trở nên sâu sắc hơn.
Như vậy, hoạt động nhân thức bao gồm nhiều quá trình phản ánh hiện thực
khách quan với những mức độ phản ánh khác nhau và trãi qua hai giai đoạn: giai
đoạn nhận thức cảm tính và gia đoạn nhận thức lí tính. Hai giai đoạn này có mối
quan hệ chặt chẽ và tác động lẫn nhau. V.I. Lênin đã tổng kết mối quan hệ đó
thành quy luật của hoạt động nhận thức ‘‘Từ trực quan sinh động đến tư duy
trừu tượng và từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn – Đó là con đường biện chứng
của sự nhận thức chân lí, của sự nhận thức hiện thực khách quan’’.
b. Cơ sở lí luận dạy học
Quá trình dạy học bao gồm nhiều thành tố có mối quan hệ mật thiết với nhau
như mục đích, nội dung, phương pháp và phương tiện dạy học. phương tiện là
đối tượng vật chất giúp giáo viên và học sinh tổ chức có hiệu quả quá trình dạy
học nhằm đạt được mục đích dạy học. Nhờ phương tiện dạy học, giáo viên có
thể tiến hành tổ chức, điều khiển quá trình dạy học giúp học sinh tự tổ chức hoạt
động nhận thức của mình một cách hiệu quả.
Trong hoạt động dạy học, mục đích, nội dung, phương pháp và phương tiện
dạy học luôn có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Thông qua các chủ thể tương
ứng là xã hội (mục đích và nội dung dạy học; giáo viên- phương pháp dạy; học
sinh – phương pháp học; giáo viên, học sinh - phương tiện dạy học). Trong các
thành phần nêu trên, giáo viên giữ vai trò chủ đạo. Căn cứ vào nội dung dạy học
9


tình hình học sinh, phương tiện hiện có, giáo viên lựa chọn phương pháp tác

động vào học sinh nhằm đạt mục đích dạy học.
Thực tế dạy học đã chứng minh rằng, quá trình nhận thức của con người đều
xuất phát từ thực tiễn, từ những hình tượng trực quan mà ta tri giác được trong
cuộc sống. Trực quan đóng vai trò quan trọng trong giai đoạn đầu của quá trình
hình thành khái niệm. Nó là phượng tiện giúp cho sự phát triển tư duy lôgic của
học sinh. Vì thế, trong quá trình dạy học, việc vận dụng các phương pháp dạy
học không thể tách rời với việc sử dụng những phương tiện dạy học. Nó được sử
dụng nhằm mục đích khắc phục những khoảng cách giữa việc tiếp thu lí thuyết
và thực tiễn, làm cho hoạt động nhận thức của học sinh trở nên dễ dàng, sinh
động, cụ thể. Ngày nay với những thành tựu do khoa học, kĩ thuật – Công nghệ
mang lại, phương tiện dạy học càng có vị trí quan trọng trong việc nâng cao chất
lượng dạy học ở nhà trường, nó cho phép đưa vào bài học những nội dung diễn
cảm, hứng thú, làm thay đổi phương pháp và hình thức tổ chức dạy học tạo ra
cho quá trình dạy học một nhịp độ, phong cách và trạng thái tâm lí. Đây chính là
một trong những đặc điểm nổi bật của nhà trường hiện đại.
Học sinh nghiên cứu một môn học, ở mỗi em đã có sự tích lũy ban đầu về
những biểu tượng có liên quan đến đối tượng nghiên cứu nhưng những biểu
tượng này không đọng lại ở tất cả học sinh về mức độ chính xác và số lượng của
biểu tượng. Vì thế, người ta đã xây dựng các khái niệm từ sự quan sát trực tiếp
những đối tượng, hiện tượng có sẵn trong thực tiễn hoặc tái tạo chúng bằng
phương pháp nhận diện thông qua hình ảnh hoặc các mô hình, biểu mẫu…hay
như ta vẫn gọi là các phương tiện trực quan.
Có thể nói, các phương tiện dạy học là công cụ nhận thức thế giới của học
sinh. Mỗi loại phương tiện đều có thể phục vụ cho việc hoàn thành những tri
thức kinh nghiệm và những tri thức lí thuyết, những kĩ năng, kĩ xảo thực hành và
kĩ năng, kĩ xảo trí tuệ.
Một trong những phương tiện hỗ trợ đắc lực trong quá trình dạy học nói chung
và quá trình dạy học sinh học nói riêng đó là các thí nghiệm thực hành. Các thí
nghiệm thực hành nhằm tái tạo ra các hiện tượng tự nhiên, là nguồn kiến thức
phong phú, là cầu nối giữa các hiện tượng tự nhiên và khả năng nhận thức của

con người. Thí nghiệm thực hành có khả năng làm bộc lộ các mối liên hệ bên
trong phát sinh giữa các sự vật, hiện tượng. Hơn nữa, nhờ có các thí nghiệm
thực hành mà học sinh thêm yêu môn học, có khả năng vận dụng kiến thức lí
thuyết vào thực tiễn sản xuất, làm giàu cho gia đình và xã hội. Đồng thời cũng
giúp hình thành ở các em tư duy khoa học.
Tuy nhiên, cần phải luôn luôn thấy rằng, phương tiện dạy học dù có hiện đại tới
đâu, chúng vẫn đóng vai trò như là các công cụ trong sự điều khiển của giáo
viên, không bao giờ có thể thay thế được giáo viên trong quá trình dạy học. Hiệu
quả sử dụng các phương tiện dạy học phụ thuộc rất nhiều vào năng lực và
phương pháp sử dụng của người giáo viên.
Qua sự phân tích trên cho ta thấy: Thí nghiệm thực hành là một trong những
phương tiện trực quan quan trọng trong quá trình dạy học, nó là nguồn cung cấp
kiến thức, là cầu nối giữa lí thuyết và thực tiễn, là phương tiện để phát huy tiềm
10


năng tư duy, tính tích cực của học sinh. Tuy nhiên, không phải lúc nào và giáo
viên nào cũng có thể sử dụng thí nghiệm thực hành đạt hiệu quả cao trong quá
trình dạy học. Việc khai thác các thí nghiệm thực hành đòi hỏi người giáo viên
cần phải có kĩ năng, kĩ xảo và phương pháp phù hợp. Vì vậy việc cải tiến để
nâng cao hiệu quả sử dụng thí nghiệm thực hành trong quá trình dạy học nói
chung và trong dạy học sinh học nói riêng là hết sức cần thiết và vô cùng quan
trọng.
c. Cơ sở tâm lí
Lứa tuổi học sinh THPT thường dao động trong khoảng từ 14 đến 18 tuổi, là
giai đoạn đầu của lứa tuổi thanh niên. Ở THPT, người học sinh bước vào giai
đoạn cuối của quá trình chuẩn bị nền tảng cho sự tham gia vào hoạt động nghề
nghiệp và các dạng lao động xã hội khác. Có thể nói, học sinh THPT là một
nhóm người xã hội đặc biệt, được chuẩn bị để bước vào các lĩnh vực học tập
nghề nghiệp hoặc trực tiếp tham gia lao động xã hội. Đặc điểm nổi bật về sự

phát triển trí tuệ của học sinh THPT là: Tính chủ động, tính tích cực và tự giác
cao, được thể hiện ở tất cả các quá trình nhận thức. Cảm giác đã đạt tới mức độ
tinh và nhạy của người lớn. Tri giác không gian và tri giác thời gian không mắc
sai lầm như lứa tuổi trước, tri giác có chủ định phát triển, năng lực quan sát được
nâng cao, quan sát trở nên có hệ thống, có mục đích và toàn diện hơn. Tuy
nhiên, một số em còn quan sát kém, phiến diện dẫn đến nhiều khi kết luận thiếu
cơ sở thực tiễn. Trong dạy học, giáo viên cần dạy cho học sinh cách quan sát
quan sát có mục đích như lời khuyên của I.P.Pavlov ‘‘Không dừng lại ở bề mặt
của hiện tượng’’. Hơn nữa ở lứa tuổi này, năng lực tư duy trừu tượng cũng phát
triển mạnh, sự vận dụng các thao tác tư duy đã khá nhuần nhuyễn, các năng lực
phân tích, tổng hợp, phán đoán, suy luận, năng lực khái quát hóa và trừu tượng
hóa cũng phát triển mạnh. Bởi thế các em lĩnh hội một cách thuận lợi các khái
niệm khoa học trừu tượng.
Từ sự phân tích trên cho thấy, quá trình dạy học, giáo viên cần lựa chọn
phương pháp, phương tiện và hình thức tổ chức dạy học hợp lí nhằm khai thác
có hiệu quả năng lực quan sát cũng như năng lực tư duy ở học sinh, giúp các em
lĩnh hội tri thức một cách sâu sắc và đầy đủ. Do có sự hình thành và phát triển
mạnh mẽ về thế giới quan, tự ý thức…mà học sinh có niềm tin vào chính bản
thân, các em hiểu rằng cuộc sống, tương lai của mình gắn liền với việc lựa chọn
nghề nghiệp.
Qua đó cho ta thấy thí nghiệm, thực hành, vật dụng trực quan có tác dụng trực
tiếp, làm thay đổi nhận thức, khắc sâu sự ghi nhớ cho học sinh. Do đó trong dạy
học, giáo viên cần tích cực sử dụng các thí nghiệm thực hành để tạo hứng thú
tăng cường khả năng tư duy cho học sinh.
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
2.2.1. Thuận lợi :
-Trong trường các giờ thao giảng về đổi mới phương pháp dạy học được giáo
viên tích cực hưởng ứng, đánh giá, trao đổi, góp ý kiến và rút kinh nghiệm nên
có cơ hội trao đổi phương pháp giảng dạy, học tập, rút kinh nghiệm trong công
tác chuyên môn.

11


- Ban giám hiệu nhà trường đã trang bị máy tính, máy chiếu thuận lợi cho việc
ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học, góp phần thuận lợi cho việc đổi
mới phương pháp dạy và học .
- Bản thân luôn tích cực tìm kiếm những thông tin bổ ích có liên quan đến nội
dung bài dạy như tranh ảnh, tư liệu ...đều cố gắng thay đổi phương pháp giảng
dạy của mình theo hướng phát huy tính tích cực của học sinh thông qua các
phương pháp dạy học như trực quan, phương pháp nêu tình huống và giải quyêt
vấn đề...
- Học sinh có nhiều kênh để tìm hiểu tài liệu: Tham khảo sách, báo, truyền hình
mạng Internet...
- Học sinh thích được quan sát, thích được làm thí nghiệm.
2.2.2. Khó khăn:
- Đa số học sinh còn lười học, chưa say mê môn học. Nếu học thì các em chỉ
học đối phó còn sự say mê và hứng thú thật sự thì chưa có.
- Đa số các em còn chưa độc lập suy nghĩ trả lời câu hỏi mà phải lệ thuộc hoàn
toàn vào sách giáo khoa. Bởi vậy bản thân các em nên có một phương pháp học
tích cực để chiếm lĩnh kiến thức từ bài giảng của giáo viên.
- Cơ sở vật chất phục vụ cho công tác thực hành thí nghiệm của trường chưa
đảm bảo, sự thiếu hụt về chủng loại, suy giảm về chất lượng thiết bị dụng cụ đã
ảnh hưởng rất nhiều đến việc dạy thực hành thí nghiệm.
- Trong quá trình sử dụng các thí nghiệm của giáo viên còn gặp rất nhiều khó
khăn, việc áp dụng theo đúng quy trình thí nghiệm trong sách giáo khoa cũng đã
gây một số khó khăn về mặt thời gian cũng như kết quả thí nghiệm. Hơn nữa dù
nhận thức đúng đắn về tầm quan trọng của thí nghiêm nhưng sự hiện diện của
câu hỏi liên quan đến thí nghiệm thực hành trong thi cử là rất ít nên mức độ sử
dụng thí nghiệm trong dạy học là không thường xuyên.
- Giáo viên chưa tự giác trong việc khai thác, sử dụng thí nghiệm trong giảng

dạy nên hiệu quả sử dụng thí nghiệm trong dạy học chưa cao.
2.3. Các sáng kiến kinh nghiệm hoặc các giải pháp đã sử dụng để giải quyết
vấn đề
2.3.1. Vị trí, đặc điểm, vai trò của thí nghiệm
- Thí nghiệm có vai trò đặc biệt quan trọng trong dạy học nói chung và dạy học
sinh học nói riêng, thí nghiệm là cầu nối giữa lí thuyết và thực tiễn, là phương
tiện để giáo viên tổ chức các hoạt động học tập, tự học cho học sinh, nội dung
thí nghiệm phát hiện diệp lục và carôtenôit được bố trí ở cuối chương nhằm giúp
học sinh ôn tập, củng cố, khắc sâu kiến thức. Hầu hết giáo viên đều sử dụng thí
nghiệm trong khâu ôn tập, củng cố kiến thức giúp cho học sinh nắm kiến thức
sâu sắc, toàn diện hơn và liên hệ giữa lí thuyết và thực tiễn.
Theo phân phối chương trình được bố trí trong thời gian 45 phút của tiết học
thì việc chuẩn bị mẫu vật mất khoảng 5 phút, việc cắt bỏ cuống và gân chính, cắt
lát mất khoảng 10 phút, việc cân mẫu lá khoảng 5 phút, việc đong, rót cồn, rót
nước lọc vào cốc mất khoảng 5-7 phút, việc đặt cốc yên tĩnh mất khoảng 25- 30
phút. Do đó giáo viên rất khó để đạt được mục tiêu bài học.
12


2.3.2. Cải tiến các thí nghiệm trong bài 13. Thực hành: Phát hiện diệp lục
và carôtenôit
- Việc cải tiến, xây dựng các quy trình thí nghiệm dù được tiến hành dưới hình
thức phương pháp nào cũng phải đảm bảo các nội dung sau:
+ Đảm bảo mục tiêu của bài về kiến thức, kĩ năng, thái độ. Nhiệm vụ của cả quá
trình dạy học được cụ thể hóa thành mục tiêu bài học. Do đó giáo viên phải căn
cứ vào mục tiêu bài học, tình hình cụ thể để cải tiến, sử dụng các thí nghiệm sao
cho hợp lí, vẫn đảm bảo nội dung bài học mà chất lượng, hiệu quả của các bài
thực hành được nâng cao. Tùy nội dung bài học, giáo viên có thể lựa chọn
những nội dung then chốt, những nội dung khó của bài để giảng giải, khắc sâu
cho học sinh, còn những nội dung thí nghiệm tương tự hay những nội dung thí

nghiệm dễ, giáo viên có thể sử dụng để giao bài tập về nhà cho học sinh. Như
vậy mới phát huy được năng lực tự học, năng lực tư duy sáng tạo của học sinh
đồng thời cũng hoàn thành mục tiêu bài học.
+ Phát huy tính chủ động, tích cực, sáng tạo, bồi dưỡng hứng thú học tập, phát
triển năng lực nhận thức, rèn luyện kĩ năng, kĩ xảo thực hành, hình thành và phát
triển tư duy kĩ thuật phù hợp với đặc điểm tâm- sinh lí của học sinh.Với đặc
điểm tâm- sinh lí của học sinh lớp 11 hoạt động học tập của các em có khả năng
đạt 3 mức độ: bắt chước, tìm tòi và sáng tạo một cách có hiệu quả cao.
Các yếu tố tâm lí hứng thú, tự giác, tích cực, độc lập và sáng tạo luôn có tác
động thúc đẩy qua lại lẫn nhau. chúng vừa là nguyên nhân, lại vừa được kích
thích bởi các thành công mà học sinh đạt được trong quá trình học tập.
Trong dạy học sinh học, ngoài việc phối hợp các phương pháp, biện pháp theo
lí luận dạy học hiện đại, còn phải chú ý vận dụng các phương pháp đặc trưng
của sinh học như: Tổ chức các hoạt động quan sát tìm tòi, thực hành thí nghiệm,
tìm tòi nghiên cứu hoặc vận dụng phương pháp biểu diễn thí nghiệm nghiên cứu.
Qua các hoạt động này giúp các em thực hiện được những kĩ năng học tập cơ
bản đồng thời tạo được hứng thú, nhu cầu, động cơ học tập.
+ Đảm bảo sự thống nhất giữa phương pháp khoa học và phương pháp dạy học
bộ môn.
Theo Nguyễn Ngọc Quang, phương pháp khoa học là cái có trước, cái xuất phát
còn phương pháp dạy học tương ứng là cái có sau, cái dẫn xuất. Các phương
pháp dạy học đều có nguồn gốc từ phương pháp khoa học tương ứng. Mặc dù có
sự khác biệt nhưng ‘‘Bất cứ phương pháp khoa học nào cũng có thể chuyển hóa
thành phương pháp dạy học’’. Khi trình độ phát triển trí tuệ của học sinh – Chủ
thể sử dụng phương pháp mà tăng thì phương pháp dạy học càng gần gũi với
phương pháp khoa học tương ứng. Phương pháp dạy học của giáo viên ở trên
lớp có ảnh hưởng quyết định không chỉ phương pháp học tập của học sinh trên
lớp mà còn cả đối với phương pháp tự học khi không có mặt giáo viên. Phương
pháp dạy học có tính nghiên cứu sẽ kích thích phong trào tự giác, tích cực, tự lực
và sáng tạo.

Sinh học là môn khoa học thực nghiệm, tri thức được hình thành bằng các
phương pháp quan sát thí nghiệm, thực hành. Nên muốn học sinh tìm tòi phát
hiện kiến thức: Phát hiện diệp lục và carôtenôit thì tốt nhất là tổ chức cho học
13


sinh sử dụng các phương pháp đó, lặp lại một cách thu gọn con đường tìm tòi
của các nhà khoa học, các em sẽ hiểu sâu, nhớ lâu đồng thời nắm được cả
phương pháp nghiên cứu bộ môn.
Quá trình thực hành thí nghiệm phải được rút gọn nhưng diễn ra theo đúng
logic của thí nghiệm, đồng thời đảm bảo đủ lượng thông tin cần phải truyền đạt
tập trung vào các dấu hiệu bản chất qua đó học sinh có đủ tư liệu cho hoạt động
gia công trí tuệ, giải quyết được vấn đề học tập.
+ Đảm bảo tính khả thi của hoạt động thí nghiệm trong nhiều hoàn cảnh khác
nhau.
Nghề dạy học có cả hai khía cạnh là kĩ thuật và nghệ thuật. Với khía cạnh
nghệ thuật, nó được phát triển phụ thuộc vào năng khiếu riêng của từng giáo
viên không phải bất cứ ai có tay nghề thành thạo đều có thể đạt tới trình độ nghệ
thuật nhưng với tư cách là một loại hình hoạt động của con người thì dạy học
không thể thiếu phương tiện, phương pháp và cách tiến hành. Đó chính là khía
cạnh kĩ thuật của hoạt động dạy học. Muốn dạy tốt nhất định người giáo viên
phải làm chủ kĩ thuật ở mức độ thành thạo.
2.3.3. Những yêu cầu của công tác thực hành đối với giáo viên
Để tiến hành các hoạt động thí nghiệm, thực hành đạt hiệu quả cao, người giáo
viên phải thực hiện các yêu cầu sau:
- Phải xác định rõ mục đích của tiết thực hành về một nội cụ thể nào đó (Nghiên
cứu một vấn đề mới hay củng cố kiến thức lí thuyết đã học).
- Hướng dẫn trình tự các bước của công tác thực hành.
- Tiến hành tổ chức lớp như: phân chia nhóm, phân phối dụng cụ, mẫu vật
(Nhóm to hay nhỏ tùy thuộc vào khả năng chuẩn bị vật chất cũng như dụng cụ

mẫu vật…)việc tổ chức phải chu đáo, theo kế hoạch tỉ mỉ để trong suốt quá trình
thực hành mọi học sinh luôn có việc làm. Nếu dụng cụ, vật liệu thực hành không
đủ cho tất cả cùng tiến hành một nội dung thì phân công luân phiên nhau giữa
các nhóm.
- Cần nghiên cứu kĩ nội dung và tiến hành trước công việc thực hành để đảm bảo
thành công khi hướng dẫn cho học sinh. Cần lường trước những khó khăn, thất
bại có thể có lúc học sinh thực hiện, tìm hiểu nguyên nhân thất bại để không
lúng túng bị động khi giải đáp cho học sinh.
- Phải có kế hoạch dành thời gian nhận xét, đánh giá kết quả thực hành của học
sinh. Khi nhận xét, đánh giá kết quả thực hành của học sinh cần chú ý đến
những nội dung sau:
+ Kết quả của thí nghiệm và quan sát, cách tiến hành có ưu, nhược điểm gì?
+ Ý thức tổ chức, kỉ luật, trật tự, vệ sinh an toàn của học sinh trong quá trình tiến
hành thí nghiệm.
Để động viên học sinh cần nêu một số nhóm, cá nhân làm tốt, những em tìm
tòi phát hiện ra cái mới, kể cả những thắc mắc, chứng tỏ học sinh có sự đào sâu
suy nghĩ. Sau đó nhận xét về kết quả cụ thể đã đạt được qua quá trình tiến hành
công việc.
2.3.4. Quy trình cải tiến cách làm thí nghiệm
14


Bước 1: Xác định mục tiêu thí nghiệm
Bước 2: Phân tích nội dung thí nghiệm trong
SGK
Bước 3: phát hiện khó khăn, đề xuất phương
pháp khắc phục các thí nghiệm trong SGK
Bước 4: Thực hiện thí nghiệm theo phương án
đề xuất
Bước 5: Đánh giá hiệu quả phương án đề xuất

*Bước 1: Xác định mục tiêu thí nghiệm
Mục tiêu của thí nghiệm là những dự kiến về ‘‘sản phẩm’’ cần đạt được trong
thí nghiêm. Trong mục tiêu cần phân tích, chỉ rõ, kết quả thí nghiệm như thế
nào? Từ đó rút ra những nhận xét gì? Các thao tác kĩ thuật cần đạt được sau khi
tiến hành thí nghiệm là gì?
*Bước 2: Phân tích nội dung thí nghiệm trong SGK
Giáo viên tiến hành thí nghiệm trước theo đúng hướng dẫn trong SGK, tiến
hành lặp đi lặp lại một số lần (3 đến 5 lần). Sau đó căn cứ vào toàn bộ qui trình
thực hiện thí nghiệm để phân tích các yếu tố trong thí nghiệm: điều kiện
phương pháp, kết quả. Trong khâu này giáo viên cần phân tích tất cả các yếu tố
của thí nghiệm, từ khâu chuẩn bị (mẫu vật, dụng cụ, hóa chất); đến phân tích
thực hiện thí nghiệm và cuối cùng là phân tích kết quả thí nghiệm (có đúng với
mục tiêu đề ra không? Mức độ chính xác là bao nhiêu? Thời gian thực hiện thí
nghiệm là bao nhiêu?
*Bước 3: phát hiện khó khăn, đề xuất phương pháp khắc phục các thí
nghiệm trong SGK
Trên cơ sở phân tích thí nghiệm ở bước 2, giáo viên phát hiện ra những mâu
thuẫn khi thực hiện thí nghiệm, những khó khăn gặp phải khi thực hiện thí
nghiệm như: chuẩn bị mẫu vật, hóa chất, dụng cụ, các thao tác tiến hành, mức
độ khó thực hiện của thí nghiệm…từ đó đề ra phương án khắc phục, cải tiến các
yếu tố gây khó khăn trong thí nghiệm.
*Bước 4: Thực hiện thí nghiệm theo phương án đề xuất
Sau khi đã đề xuất phương án khắc phục, cải tiến các yếu tố gây khó khăn
trong các thí nghiệm theo hướng dẫn trong SGK, giáo viên tiến hành theo
phương án mình đề xuất lặp đi, lặp lại (3 đến 5 lần).
*Bước 5: Đánh giá hiệu quả phương án đề xuất
Mục đích của việc cải tiến cách làm thí nghiệm nhằm nâng cao hiệu quả sử
dụng các thí nghiệm, vì vậy sau khi đã tiến hành các thí nghiệm theo phương án
đề xuất đối chiếu với kết quả thí nghiệm theo đúng hướng dẫn trong SGK về
một số chỉ tiêu như: Mức độ chính xác của kết quả, thời gian thực hiện thí

nghiệm, khả năng thực hiện thí nghiệm …để đánh giá tính ưu việt của phương
án đề xuất.
15


2.3.4.5. Cải tiến thí nghiệm trong bài 13: Thực hành phát hiện diệp lục và
carôtenôit-sinh học 11
2.3.4.5.1. Thí nghiệm chiết rút diệp lục
*Bước 1: Mục tiêu thí nghiệm
Sau khi thực hành xong bài này học phải:
- Biết cách bố trí và tiến hành được thí nghiệm phát hiện diệp lục trong lá và
carôtenôit trong lá, quả, củ.
- Tự đánh giá, giải thích được tại sao với dung môi khác nhau thì màu sắc dịch
chiết lại không giống nhau.
- Rèn luyện được tư duy phân tích, tổng hợp, kỹ năng làm thí nghiệm, hợp tác
nhóm và làm việc độc lập của học sinh.
- Tự tiến tiến hành thí nghiệm theo quy trình đã cho trong SGK.
*Thực hiện theo SGK
Chuẩn bị
1. Dụng cụ:
- Cốc thủy tinh (hoặc nhựa hay sứ), tốt nhất là loại có mỏ. Nếu không có các
dụng cụ này, có thể dùng loại chén sứ uống nước chè với dung tích 20-50ml.
- Ống đong bằng nhựa hoặc bằng thủy tinh loại 20-50ml, có chia độ. Nếu không
có, có thể dùng ống không chia độ. Khi đó, giáo viên tự đánh dấu tại các vị trí
cần thiết trên ống ứng với các dung tích như nêu trên.
- Ống đong hoặc ống nghiệm bằng thủy tinh (hoặc nhựa) trong suốt, loại
10-15 ml. Nếu dùng ống nghiệm thì phải chuẩn bị thêm giá thí nghiệm phù hợp
với số lượng và kích thước ống nghiệm.
- Kéo học sinh.
2.Hóa chất

- Nước sạch (nước cất, nước máy, nước giếng). Nước phải trong suốt.
- Cồn 90-960(có thể dùng cồn đốt y tế loại đựng trong lọ nhựa 50ml bán tại các
quầy thuốc).
3.Mẫu vật
- Lá xanh tươi (chọn các loại lá mềm dễ cắt bằng kéo học sinh như lá rau muống
khoai lang, xà lách hay các loại cải, rau húng, sắn, khế…)
- Lá già có màu vàng.
- Các loại quả có màu vàng hay đỏ như quả gấc, xoài, quả trứng gà, quả hồng
cà chua, quả mâm xôi…
- Các loại củ có màu đỏ hay màu vàng như củ cà rốt, nghệ…
*Bước 2: Phân tích nội dung thí nghiệm trong SGK
- Giáo viên tiến hành thí nghiệm trước theo đúng hướng dẫn trong SGK, tiến
hành lặp đi lặp lại một số lần (3 đến 5 lần). Sau đó căn cứ vào toàn bộ qui trình
thực hiện thí nghiệm để phân tích các yếu tố trong thí nghiệm: điều kiện
phương pháp, kết quả. Trong khâu này giáo viên cần phân tích tất cả các yếu tố
của thí nghiệm từ khâu chuẩn bị (mẫu vật, dụng cụ, hóa chất); đến phân tích
thực hiện thí nghiệm và cuối cùng là phân tích kết quả thí nghiệm (có đúng với
mục tiêu đề ra không? Mức độ chính xác là bao nhiêu? Thời gian thực hiện thí
nghiệm là bao nhiêu?
16


*Bước 3: phát hiện khó khăn, đề xuất phương pháp khắc phục các thí
nghiệm trong SGK
- Cân lá ở bước 1, ở bước 2 để học sinh cắt được các lát thật mỏng và chờ cho
diệp lục tan ra trong cồn với thời gian 45 phút là rất khó đạt được mục tiêu của
tiết học. vì vậy để khắc phục khó khăn trên thì bước 1 nên chọn 2 lá cây xanh
còn tươi, bỏ gân chính và cuống lá, cắt mỏng ngang thành từng lát, bước 2:
nghiền nát mẫu vật, bước 4 lọc, chiết suất dung dịch.
*Bước 4 : Thực hiện thí nghiệm theo phương án đề xuất

Bước 1: Lấy 2 lá cây xanh còn tươi, bỏ gân chính và cuống lá, cắt mỏng ngang
thành từng lát.
Bước 2: nghiền nát mẫu vật.
Bước 3: rót 20ml cồn vào cốc thí nghiệm, rót 20ml nước vào cốc đối chứng.
Bước 4: lọc, chiết suất dung dịch.
Kết quả thí nghiệm: Quan sát màu sắc dịch chiết trong ống nghiệm
tương ứng của cốc đối chứng và thí nghiệm, rồi điền kết quả quan sát vào bảng
sau (nếu đúng màu ghi trên đầu cột dấu +; nếu không đúng màu ghi trên đầu cột
dấu -).
Màu sắc dịch chiết
Đối tượng
Dung môi chiết rút
Xanh lục
Đỏ, cam ,vàng
Xanh

Nước

Cồn
Vàng
Nước
Cồn
Cà chua
Nước
Cồn
Cà rốt
Nước
Cồn
2.3.4.5.2. Thí nghiệm chiết rút Carôtenôit (các thao tác tương tự thí nghiệm1)
về nhà làm và báo cáo lại kết quả.

* Hệ thống câu hỏi kiểm tra đánh giá
Câu 1: Hãy trình bày các thao tác tiến hành thí nghiệm chiết rút diệp lục?
Câu 2: Trong lá xanh có chứa sắc tố gì?
Câu 3: Trong lá vàng, cà chua, cà rốt có chứa sắc tố gì?
Câu 4: Khả năng hòa tan của các sắc tố trong cồn và trong nước như thế nào?
Câu 5: Vì sao phải chiết rút sắc tố bằng dung môi hữu cơ?
Câu 6: Tóm tắt vai trò của carôtenôit đối với sức khỏe của con người?
Câu 7: Có một thí nghiệm được tiến hành ngoài ánh sáng như sau:
Cho 2 cành rong tươi có kích thước tương tự nhau vào 2 ống nghiệm A và B đổ
đầy nước đã đun sôi để nguội. Trên mặt nước có phủ một lớp dầu thực vật.
Cho thêm vào ống A một ít Natri cacbonnat. Sau đó tiến hành quan sát 2 ống
nghiệm một thời gian dài.
a. Sẽ quan sát được hiện tượng gì?
17


b. Rút ra kết luận từ 2 thí nghiệm trên.
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục, với bản
thân, đồng nghiệp và nhà trường
Kết quả kiểm tra khảo sát trên những đề như nhau ở hai lớp như sau:
- Với cách thí nghiệm theo trình tự SGK và cách thí nghiệm có một số cải tiến
Thì kết quả đạt được:
Lớp
Giỏi
Khá
Trung bình
Yếu kém
Thực nghiệm (11A5)
14,10% 34,91%
43,59%

7,40%
(40 Học sinh)
Đối chứng (11 A4)
7,50%
25,50%
51,37%
15,63%
(41 học sinh)
3. Kết luận, kiến nghị
3.1. Kết luận :Từ thực tế giảng dạy tôi rút ra một số kết luận sau:
- Học sinh có khả năng tri giác không gian, tri giác thời gian, không mắc sai lầm
như lứa tuổi trước, tri giác có chủ định, quan sát có hệ thống, có mục đích và
toàn diện hơn, học sinh có khả năng phân tích, tổng hợp, phán đoán, suy luận
khái quát hóa, trừu tượng hóa, có khả năng bắt chước, tìm tòi và sáng tạo một
cách có hiệu quả cao.
- Học sinh tích cực tham gia thí nghiệm và hiểu bài.
-Việc cải tiến mang lại hiệu quả cao hơn phương thí nghiệm theo trình tự SGK.
Tuy nhiên việc áp dụng phương pháp này gặp những khó khăn sau :
+ Đòi hỏi học sinh phải dành nhiều thời gian chuẩn bị bài ở nhà.
+ Không phải mọi học sinh đều có sự tỉ mỉ, cẩn thận….
- Để góp phần đổi mới phương pháp dạy và học trong trường, khơi dậy lòng yêu
thích học tập, tinh thần tìm tòi, sáng tạo trong học tập của học sinh. Đòi hỏi
người thầy không ngừng rèn luyện về mọi mặt, trong đó nâng cao trình độ
chuyên môn là vấn đề rất quan trọng.
+ Để nâng cao trình độ chuyên môn, người thầy không ngừng tự học để hoàn
thiện mọi kĩ năng sư phạm. Trong tình hình hiện nay, với những thành tựu của
khoa học - công nghệ, đặt biệt CNTT được ứng dụng ngày càng rộng rãi trong
mọi lĩnh vực và ứng dụng CNTT để nâng cao chất lượng giáo dục là một vấn đề
thiết yếu.
Với giáo viên sinh học, việc kết hợp kĩ năng thực hành với ứng dụng CNTT

phục vụ cho giảng dạy, sẽ góp phần tích cực, đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục.
Thực hiện tốt, không những hoàn thiện những kĩ năng sư phạm, nâng cao được
trình độ chuyên môn của người thầy mà còn phát huy tính tích cực của học sinh
trong quá trình học bộ môn.
Qua kết quả giảng dạy đã đạt được, tôi sẽ tiếp tục nghiên cứu, bổ sung và áp
dụng đề tài vào quá trình giảng dạy để nâng cao chất lượng bộ môn và chất
lượng giáo dục trong trường học.
Trên đây là ý tưởng của tôi bằng kinh nghiệm thực tiễn, tôi đã giúp cho các em
học sinh có ý thức cao trong học tập, chịu khó tìm tòi, học hỏi để nắm được bài
một cách tốt nhất, khiến các em ngày càng yêu thích môn sinh học hơn
18


từ đó góp phần khơi dậy lòng yêu thích học tập, tinh thần tìm tòi, sáng tạo trong
học tập của học sinh, nâng cao chất lượng giáo dục.
Tuy nhiên với những hiểu biết và kinh nghiệm của bản thân, đề tài còn nhiều
hạn chế. Dù vậy, qua nội dung của vấn đề chắc chắn sẽ góp phần trong việc trao
đổi kinh nghiệm chuyên môn cùng đồng nghiệp với yêu cầu đổi mới phương
pháp dạy học hiện nay.
Rất mong sự đóng góp của hội đồng khoa học nhà trường và các đồng nghiệp
để sáng kiến kinh nghiệm này được hoàn chỉnh và mang lại giá trị thực tiễn.
3.2. Kiến nghị
Hiện nay việc ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học nói chung và dạy
học sinh học nói riêng đang ngày càng trở nên phổ biến ở các trường học phổ
thông. Việc ứng dụng đề tài này, đặc biệt là sử dụng thí nghiệm trong dạy học
sinh học, đòi hỏi các trường học phải đầu tư nhiều về trang thiết bị như đảm bảo
về chủng loại, chất lượng và số lượng thiết bị, dụng cụ để giáo viên sử dụng
thường xuyên nâng cao hiệu quả sử dụng thí nghiệm từ đó nâng cao chất lượng
dạy học sinh học.


19


Về phía giáo viên phải tự giác, tích cực sử dụng thí nghiệm, học hỏi nắm bắt
công nghệ thông tin, phải trang bị máy tính để chuẩn bị thí nghiệm ở nhà một
cách thành thạo. Hơn nữa với môn sinh học còn có một ưu thế nữa hơn các môn
học khác là môn khoa học thực nghiệm nên nhiều tranh ảnh, tài liệu, tư liệu gần
gũi liên quan đến nội dung bài học để minh họa cho bài giảng làm tăng tính trực
quan sinh động. Vì vậy người giáo viên phải luôn cập nhật thông tin, chắt lọc
thông tin để đưa vào bài giảng một cách hiệu quả nhất.
Trên đây là một số kinh nghiệm của cá nhân tôi, rất mong được sự góp ý của
đồng nghiệp. Xin chân thành cảm ơn.
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG Thanh Hóa, ngày 20 tháng 05 năm 2019
ĐƠN VỊ
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình
viết, không sao chép nội dung của người
khác.

Lê Thị Thuận

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ giáo dục và đào tạo - Sách giáo khoa sinh học 11- Nhà xuất bản Giáo dục.
2. Bộ giáo dục và đào tạo - Sách giáo viên sinh học 11- Nhà xuất bản Giáo dục.
3. Bộ giáo dục và đào tạo - Thực hiện chuẩn kiến thức, kỹ năng môn sinh học
lớp 11-Nhà xuất bản Giáo dục.
4. Nguyễn Thu Hòa - Nguyễn Diệu Linh - Đề kiểm tra theo chuẩn kiến thức, kĩ
năng sinh học 11.
5. Thư viện violet.
6. Trần Bá Hoành (2000), Phát triển các phương pháp học tập tích cực trong bộ
môn sinh học (Sách bồi dưỡng thường xuyên chu kỳ 1997-2000), Nhà xuất bản

Giáo dục, Hà Nội.
7. Trần Bá Hoành (2008), Đổi mới phương pháp dạy học, chương trình và sách
giáo khoa, Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội.
8. Trần Bá Hoành, Trịnh Nguyên Giao (2000), Phát triển các phương pháp dạy
học tích cực trong bộ môn Sinh học, nhà xuất bản giáo dục, Hà Nội.
9. Nguyễn Kỳ (1995), Phương pháp giáo dục tích cực lấy người học làm trung
tâm. Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội.


10. Phan Trọng Ngọ (2005), Dạy học và phương pháp dạy học trong nhà
trường. Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội.



×