Tải bản đầy đủ (.doc) (14 trang)

Giải pháp để hạn chế tình trạng tảo hôn ở một số nữ học sinh lớp 11d trường THCSTHPT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (115.54 KB, 14 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HOÁ

TRƯỜNG THCS&THPT QUAN HÓA

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

GIẢI PHÁP ĐỂ HẠN CHẾ TÌNH TRẠNG TẢO HÔN
Ở MỘT SỐ NỮ HỌC SINH LỚP 11D
TRƯỜNG THCS&THPT QUAN HÓA NĂM HỌC 2018 - 2019

Người thực hiện: Mai Hồng Kỳ
Chức vụ: Giáo viên
SKKN thuộc lĩnh vực: công tác chủ nhiệm lớp.

THANH HOÁ, NĂM 2019


Mục lục
Mục
1

2
2.1
2.2
2.3
2.4
3

Nội dung
Mở đầu
- Lí do chọn đề tài.


- Mục đích nghiên cứu.
- Đối tượng nghiên cứu.
- Phương pháp nghiên cứu.
Nội dung sáng kiến kinh nghiệm
Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm.
Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm.
Các sáng kiến kinh nghiệm hoặc các giải pháp đã sử dụng để giải
quyết vấn đề.
Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm.
Kết luận, kiến nghị.

Trang
1-2
2-2
2-2
2-3
3-3
3-5
6-10
10-11
11-12


1. Phần mở đầu :
1.1 Lý do chọn đề tài :
Xuất phát từ mục tiêu nâng cao chất lượng dạy và học ở trường THPT hiện
nay, bên cạnh việc các Nhà trường tổ chức tốt việc giảng dạy của giáo viên và học
tập của học sinh thì việc duy trì sĩ số học sinh có ảnh hưởng rất lớn đến sự tồn tại
và phát triển của các nhà trường.
Trước thực trạng chung hiện nay một số bộ phận nhỏ học sinh vì những lý do

khác nhau đã bỏ học như : năng lực học tập yếu kém, hoàn cảnh gia đình khó khăn
về kinh tế, bố mẹ không quan tâm con cái, bố mẹ ly hôn, bố mẹ đi làm ăn xa, học
sinh đua đòi, học hỏi, bắt chước thói hư tật xấu hay do ham vui mải chơi. Ngoài ra
còn một nguyên nhân khiến học sinh bỏ học nữa là tình trạng tảo hôn ở học sinh
trường THPT ở miền núi cao, nhất là học sinh nữ. Trong các nguyên nhân nêu trên,
tôi nhận thấy tình trạng tảo hôn khiến học sinh phải bỏ học là nguyên nhân mà tôi
quan tâm nhất. Bởi vì hàng năm số học sinh nữ của Nhà trường phải nghỉ học vì lý
do này là cao hơn cả. Mặt khác, tình trạng tảo hôn diễn ra ở lứa tổi học sinh đã để
lại những hậu quả nặng nề cho gia đình học sinh, cho Nhà trường và cho xã hội. Đó
là tảo hôn dẫn đến thất học, nghèo đói, ảnh hưởng xấu đến sức khỏe và các mối
quan hệ xã hội. Tảo hôn sinh con sớm làm tăng gấp hai lần tỉ lệ suy dinh dưỡng ở
trẻ em dưới 5 tuổi, biểu hiện ở thiếu cân và thấp còi, tăng tỉ lệ tử vong ở nhóm trẻ
em từ 1 - 5 tuổi, tăng tỉ lệ tử vong của các bà mẹ mang thai sớm ( cao gấp 5 lần) so
với những bà mẹ trên 20 tuổi. Nhiều trường hợp con em của các cặp vợ chồng tảo
hôn không được đi học, không được chăm sóc đầy đủ về dinh dưỡng, y tế, văn hóa,
tinh thần. Tảo hôn cũng khiến khả năng kiếm sống hoặc đóng góp về kinh tế cho
gia đình của mỗi thành viên trong gia đình là rất thấp, dẫn đến tỉ lệ nghèo đói ngày
càng tăng cao, là gánh nặng cho xã hội. Mặt khác, phần lớn các đôi vợ chồng tảo
hôn còn thiếu kiến thức xã hội, thường rơi vào cảnh nghèo túng, nhiều đôi đã tan
vỡ hạnh phúc gia đình, ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi của trẻ em. Đáng buồn
hơn có gia đình phải bán cả nhà để trả nợ cho lễ cưới rồi sau đó dắt díu nhau đi ra
bìa rừng dựng lều ở tạm …
Trong khi đó để tạo nên sự phát triển của trường THCS & THPT Quan Hóa
đòi hỏi các cấp ngành chức năng quan tâm đến nhiều nội dung trong đó khắc phục
tình trạng tảo hôn diễn ra ở một số học sinh nữ của Nhà trường nói chung và của
lớp 11D do tôi làm công tác chủ nhiệm của năm học 2018 -2019 là điều rất cần
thiết. Vì vậy tôi nhận thấy rằng cần phải có một số giải pháp nhằm hạn chế thực
trạng tảo hôn của một số nữ học sinh tại lớp 11D trường THCS&THPT Quan Hóa.
Hiện nay, có nhiều tài liệu bàn về tình hình tảo hôn trong phạm vi cả nước
nói chung, nhất là ở các vùng núi cao và có đưa ra nhiều giải pháp cho vấn đề này,

BGH Nhà trường cũng đã có nhiều giải pháp, cách thức khác nhau nhưng tình trạng
này vẫn diễn ra ở một số lớp. Trong đó năm học 2017 - 2018 lớp 10D do giáo viên
Hà Văn Thảo làm chủ nhiệm có sĩ số lớp là 35 học sinh, trong đó có20 học sinh
nam và 15 học sinh nữ thì đã có 4 học sinh nữ mang thai phải bỏ học để lấy chồng
1


Năm học 2018 – 2019, là giáo viên được điều động tăng cường làm nghĩa vụ hai
năm tại trường THCS&THPT Quan Hóa, tôi được BGH Nhà trường giao cho công
tác kiêm nhiệm là chủ nhiệm lớp 11D thay cho đồng chí Hà Văn Thảo chuyển công
tác khác. Điều mà tôi quan tâm khi tiếp nhận công tác chủ nhiệm tại lớp 11D là tiếp
tục có thêm 3 học sinh nữ trong số 11 học sinh nữ còn lại của lớp có ý định bỏ học
để lấy chồng. Nhìn các học sinh nữ, chủ nhân tương lai của đất nước khi đang ở độ
tuổi vị thành niên phải bỏ học vì mang thai và lấy chồng, tôi rất thương các em học
sinh nơi vùng núi cao của huyện Quan Hóa. Nếu tình trạng này tiếp tục diễn ra và
ngày càng nhiều thì tương lai của các em sẽ ra sao ?
Chính vì vậy, tôi nhận thức rằng việc đưa ra : « Giải pháp để hạn chế tình
trạng tảo hôn ở một số nữ học sinh lớp 11D trường THCS&THPT Quan Hóa năm
học 2018 - 2019 » là điều rất cần thiết để áp dụng nhằm khắc phục tình trạng này ở
lớp 11D nói riêng và giúp các đồng nghiệp tham khảo hoặc áp dụng ở các lớp khác
của Nhà trường nói chung, góp phần giúp cho Nhà trường ổn định và phát triển.
1.2 Mục đích nghiên cứu:
Việc nghiên cứu và đưa ra một số giải pháp để khắc phục tình trạng tảo hôn
trong học sinh, nhất là học sinh nữ của trường THCS&THPT Quan Hóa là điều cần
thiết. Bởi vì việc làm này nhằm mục đích:
- Đối phụ huynh: Giải pháp này giúp phụ huynh hạn chế tới mức thấp nhất và tiến
tới chấm dứt tình trạng tảo hôn của con em mình. Bởi có chấm dứt tình trạng tảo
hôn thì mới chấm dứt được những hậu quả nặng nề của nó đối với tương lai của thế
hệ trẻ vùng cao cũng như cuộc sống của nhân dân huyện Quan Hóa.
- Đối với giáo viên chủ nhiệm lớp: Giải pháp này giúp giáo viên duy trì tốt về sĩ số

học sinh mà ban giám hiệu giao cho từ đầu năm học bởi vì hiện nay việc duy trì sĩ
số của học sinh có ảnh hưởng đến công việc giảng dạy của giáo viên.
- Đối với Nhà trường: Học sinh là nguồn sống quan trọng nhất của Nhà trường, có
học sinh thì mới có Nhà trường cho nên duy trì sĩ số học sinh là để tạo nên sự tồn
tại và phát triển của Nhà trường.
- Đối với học sinh : Giúp các em học sinh vững tin và học tập tốt, chuẩn bị cho
mình hành trang cần thiết để sau khi tốt nghiệp THPT, các em thực hiện tốt những
ước mơ, hoài bão của mình, đóng góp sức lực nhỏ bé của mình trong việc xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc hiện nay.
1.3 Đối tượng nghiên cứu:
Trong đề tài này, tôi đưa ra một số kinh nghiệm của bản thân sau gần hai
mươi năm công tác giảng dạy và làm công tác chủ nhiệm lớp để thực hiện hạn chế,
khắc phục tình trạng tảo hôn ở một số nữ học sinh lớp 11D năm học 2018 - 2019
trường THCS&THPT Quan Hóa.
1.4 Phương pháp nghiên cứu:
- Phương pháp trực quan, thu thập thông tin:

2


Đây là phương pháp quan sát trực tiếp bằng các giác quan, nhờ đó mà giáo
viên chủ nhiệm thu thập được thông tin cần thiết và đáng tin cậy để đưa ra các giải
pháp hiệu quả giúp công tác chủ nhiệm của mình đạt hiệu quả cao.
- Phương pháp phân tích, tổng hợp:
Sau khi giáo viên quan sát và thu thập được thông tin sẽ tiến hành phân tích
tổng hợp để tìm ra nguyên nhân và có giải pháp phù hợp nhằm khắc phục những
hạn chế, tồn tại.
- Phương pháp thuyết phục:
Giáo viên chủ nhiệm lớp sẽ tiến hành gặp gỡ học sinh cũng như phụ huynh
học sinh, dùng kỹ năng sống, kiến thức, tư duy của mình để thuyết phục về tình

trạng tảo hôn diễn ra ở học sinh.
2. Nội dung:
2.1 Cơ sở lý luận của sáng kiến kinh nghiệm:
2.1.1 Khái quát chung về kết hôn và độ tuổi kết hôn:
- Kết hôn là sự kiện pháp lý được tiến hành tại cơ quan Nhà nước có thẩm
quyền nhằm xác lập quan hệ vợ chồng giữa nam và nữ khi hai bên nam nữ tuân thủ
quy định của pháp luật về điều kiện kết hôn và đăng ký kết hôn. Trên cơ sở đảm
bảo sự tồn tại bền vững của hôn nhân cùng với sự nghiên cứu quá trình phát triển
về tâm sinh lý của con người, vào khả năng nhận thức, khả năng chịu trách nhiệm
duy trì cuộc sống hôn nhân… mà pháp luật nước ta đã có quy định cụ thể về độ tuổi
kết hôn của nam và nữ theo luật hôn nhân và gia đình năm 2014 là nam đủ 20 tuổi
và nữ đủ 18 tuổi.
- Quy định độ tuổi kết hôn tối thiểu đảm bảo con cái được sinh ra khỏe mạnh
về thể lực và trí lực, được chăm sóc, giáo dục toàn diện để trở thành công dân có
ích cho xã hội và bảo vệ quyền lợi cho người vợ sau kết hôn.
2.1.2 Khái quát về tảo hôn:
- Tại khoản 8 điều 3 của luật hôn nhân và gia đình Việt Nam 2014: tảo hôn là
việc lấy vợ, lấy chồng khi một bên hoặc cả hai bên chưa đủ tuổi kết hôn.
- Tảo hôn là hành vi bị cấm theo quy định tại điểm b khoản 2 điều 5 của luật
hôn nhân và gia đình năm 2014.
2.2 Thực trạng tảo hôn diễn ra ở một số nữ học sinh lớp 10D năm

học 2017 – 2018 và lớp 11D năm học 2018 - 2019 trường THCS&
THPT Quan Hóa:
2.2.1. Đặc điểm:
Trường THCS&THPT Quan Hóa đóng trên địa bàn xã Thiên Phủ huyện Quan
Hóa tỉnh Thanh Hoá – một huyện miền núi cao của tỉnh Thanh Hoá. Trường được
thành lập ngày 14 tháng 6 năm 2013, cho đến nay thầy trò nhà trường đang tích cực
dạy học tốt để góp phần phát triển nhà trường và đồng thời thực nhiệm tốt nhiệm
vụ chính trị trung tâm là dạy học tốt. Trường là nơi hoc tập chủ yếu của con em

đồng bào các dân tộc của các xã: Nam Động, Nam Tiến, Thiên Phủ, Hiền Chung,
Hiền Kiệt và xã Trung Lý của huyện Mường Lát.
3


Trường THCS&THPT Quan Hóa được đóng trên địa bàn xã Thiên Phủ, gần
đường quốc lộ 15C, cách thị trấn Hồi Xuân huyện Quan Hóa 26km về phía tây với
địa hình đồi núi cao, hiểm trở, giao thông giữa các xã xung quanh nơi trường đóng
rất khó khăn do địa hình một bên là núi cao, một bên là vực sâu, sông suối …
2.2.2. Thực trạng:
Là một giáo viên giảng dạy môn Giáo dục công dân, tôi được Ban giám hiệu
Nhà trường giao nhiệm vụ giảng dạy môn Giáo dục công dân toàn trường và chủ
nhiệm lớp 11D. Đây là lớp ban đầu khi thành lập là lớp 10D năm học 2017-2018
có 35 học sinh, trong đó nam học sinh là 20 và nữ học sinh là 15 do giáo viên dạy
môn giáo dục công dân là đồng chí Hà Văn Thảo làm chủ nhiệm thì đến năm học
2018-2019 tôi được BGH bàn giao công tác chủ nhiệm, lớp 11D có sĩ số là 29 học
sinh, bỏ học 6 em so với năm học trước. Trong 6 em học sinh bỏ học có 4 học sinh
là nữ mang thai phải bỏ học để lấy chồng.
- Về phía học sinh:
Kiến thức về tình yêu, hôn nhân, sức khỏe sinh sản vị thành niên là điều
không mới nhưng đối với các em học sinh miền núi, đặc biệt là các em học sinh nữ
thì việc các em thiếu hiểu biết, hiểu biết chưa đúng về lĩnh vực này là một thực tế.
Thông qua tìm hiểu từ phía học sinh của nhà trường, phụ huynh, các thầy cô dạy
học lâu năm ở Miền núi Quan Hóa, tôi nhận thấy rằng các em học sinh nơi đây
thường yêu đương quá sớm ở độ tuổi vị thành niên. Trong khi đó, tình yêu và tình
dục là hai khái niệm gần sát nhau. Mặc dù có bố mẹ, thầy cô giáo và người lớn
nhưng các em vẫn thiếu hiểu biết về về tình yêu, hôn nhân, sức khỏe sinh sản vị
thành niên… nên không bảo vệ bản thân mình nên trong tình yêu, các em quan hệ
tình dục không an toàn, mang thai sớm, mang thai ngoài ý muốn dẫn đến tảo hôn.
Một thực tế là do hoàn cảnh gia đình các em ở xa nơi trường đóng như các xã Hiền

Chung, Hiền Kiệt, Nam Động, Nam Tiến thường là cách Nhà trường từ 10km trở
lên, đường núi xa xôi, hiểm trở và cách trở bởi sông suối, do thời tiết xấu mưa lũ,
các em không thể về trong ngày được nên nhiều em phải ở trọ lại các nhà dân
quanh trường hoặc ở lại khu bán trú của Nhà trường, việc ở trọ gây khó khăn cho
phụ huynh trong việc quản lý, quan tâm, theo dõi và giáo dục con em mình. Các em
tự lập cuộc sống sớm, không có sự quản lý chặt chẽ từ phía gia đình nên các em tự
do quyết định nhiều vấn đề, lâu ngày trở thành thói quen. Ở trọ và không ai quản lý
chặt chẽ dẫn đến các em thường có những tình cảm nam nữ đi vượt quá giới hạn
cho phép. Đối với các em học sinh trong độ tuổi vị thành niên việc tò mò mong
muốn khám phá về tình yêu, tình cảm nam nữ, tình dục trong khi chưa hiểu biết về
những vấn đề này là nguyên nhân dẫn đến tình trạng nêu trên. Trong khi vẫn có vai
trò của Nhà trường, của các thầy cô giáo nhưng cũng không được là bao nhiêu vì
tâm lý học sinh vùng cao ngại hỏi các vấn đề sức khỏe sinh sản đối với thầy cô khi
các em gặp vướng mắc cho đến khi mọi chuyện đã xảy ra thì đã muộn. Đối với bố
mẹ thì các em cũng không hỏi và đôi khi có phụ huynh cũng không biết để giáo dục
con em mình về sức khỏe sinh sản vị thành niên.
4


- Về phía các thầy cô giáo:
Đối với thầy cô giáo của Nhà trường thì việc tư vấn cho học sinh chưa thực
sự hiệu quả. Vì việc giáo dục sức khỏe sinh sản vị thành niên mới chỉ thực hiện
thông qua giáo viên bộ môn sinh học là chưa đủ. Nhiều thầy cô giáo bộ môn khác
trong Nhà trường chưa được tập huấn đồng bộ nội dung, kỹ năng tuyên truyền về
sức khỏe sinh sản vị thành niên.
- Về phía các tổ chức đoàn thể trong nhà trường:
Mặc dù các tổ chức đoàn thể trong Nhà trường đã có những hoạt động tuyên
truyền về sức khỏe sinh sản vị thành niên, đặc biệt là đoàn thanh niên nhưng việc
thực hiện chưa thường xuyên nên hiệu quả chưa cao.
2.2.3 Thuận lợi và khó khăn:

Từ thực trạng nêu trên, tôi nhận thấy có một số thuận lợi và khó khăn sau:
a) Thuận lợi: Nhận nhiệm vụ chủ nhiệm lớp 11D do Ban giám hiệu phân công
năm học 2018 - 2019, tôi nhận thấy có một số thuận lợi đó là:
- Phần lớn các thầy cô giáo công tác tại trường là người miền xuôi nên có
nhiều kiến thức giáo dục và kinh nghiệm sống để giáo dục học sinh.
- Học sinh tham gia học tập tương đối đầy đủ ít nghỉ học, ít đi chậm. Bởi vì
Nhà trường có khu kí túc xá bán trú cho học sinh và các khu ở trọ do nhân dân xây
dựng quanh trường.
- Tôi là giáo viên chủ nhiệm ở trong khu tập thể của Nhà trường nên thường
xuyên quan tâm sát xao lớp chủ nhiệm để phát hiện và có các giải pháp khắc phục
hạn chế của học sinh.
- Lớp 11D do tôi chủ nhiệm có sĩ số là 29 trong đó có 18 học sinh nam và 11
học sinh nữ. Các em là con em của nhân dân các dân tộc Thái là chủ yếu và một số
ít em người Mường và Kinh theo học. Các em phần lớn có ý thức học tập, chăm
ngoan, biết nghe lời thầy cô. Với 11 học sinh nữ là điều kiện thuận lợi để tôi thực
hiện công tác giáo dục học sinh và đúc rút được nhiều kinh nghiệm từ đề tài này vì
tình trạng tảo hôn diễn ra chủ yếu ở học sinh nữ nên nếu phải quản lý đông học sinh
nữ thì sẽ rất khó khăn.
b) Khó khăn: Bên cạnh những thuận lợi nêu trên, tôi nhận thấy còn một số yếu tố
không thuận lợi là:
- Do phụ huynh của học sinh nhận thức rằng: việc giáo dục con em mình là
giao cho các thầy cô giáo chủ yếu nên họ ít hoặc không có thời gian quan tâm
thường xuyên đến con.
- Về phía học sinh phần đa là các em ở trọ lại nhà dân và khu bán trú của Nhà
trường, các em phải tự lập cuộc sống, phải quyết định nhiều công việc như học tập,
vui chơi, chi tiêu cho bản thân, nên một số em tự do yêu đương, tự do trong quan
hệ tình dục và đặc biệt là thiếu hiểu biết về sức khỏe sinh sản vị thành niên nên đã
xảy ra tình trạng mang thai sớm, ngoài ý muốn ở các em học sinh cả 3 khối nhưng
chủ yếu tập trung ở học sinh lớp 10 đầu cấp.
5



- Ý thức của một số học sinh là chậm so với quá trình thực hiện giáo dục của
giáo viên nên kết quả giáo dục còn hạn chế.
2.3 Giải pháp khắc phục:
Với những khó khăn nêu trên trong công tác chủ nhiệm lớp mà Nhà trường
giao cho, để giúp bản thân khắc phục những khó khăn này đem lại hiệu quả trong
công tác giáo dục học sinh, tôi xin đưa ra các giải pháp để khắc phục tình trạng học
sinh tảo hôn ở một số nữ học sinh lớp 11D trường THCS&THPT Quan Hóa. Đó là:
2.3.1 Tư vấn cho học sinh cả lớp về kiến thức sức khỏe sinh sản vị thành niên:
Bởi vì tảo hôn là vấn đề diễn ra ở cả nam và nữ nên việc tư vấn sức khỏe sinh
sản vị thành niên rất cần thiết cho cả học sinh nam cũng như học sinh nữ, những
nội dung mà giáo viên cần phải chuẩn bị là kiến thức về sức khỏe sinh sản vị
thành niên để truyền đạt cho học sinh bao gồm:
* Một số khái niệm học sinh cần quan tâm:
- Vị thành niên: là người chưa đến độ tuổi được pháp luật coi là đủ khả năng để sử
dụng quyền, làm nghĩa vụ và chịu trách nhiệm.
- Độ tuổi vị thành niên: từ 10 đến dưới 18 tuổi.
- Sức khỏe sinh sản vị thành niên là: tình trạng khỏe mạnh về thể chất, tinh thần và
xã hội của tất cả những gì liên quan đến cấu tạo và hoạt động của bộ máy sinh sản
ở tuổi vị thành niên, không chỉ là không có bệnh hay khuyết tật của bộ máy đó.
* Những thay đổi ở tuổi vị thành niên như:
- Thay đổi về thể chất:
Nữ:
+ Phát triển chiều cao.
+ Phát triển cân nặng.
+ Tuyến vú phát triển ( ngực to ra).
+ Khung chậu phát triển ( mông to ra và to hơn nam giới).
+ Phát triển lông mu.
+ Đùi thon.

+ Bộ phận sinh dục phát triển: âm hộ, âm đạo to ra, tử cung và buồng trứng phát
triển.
+ Có kinh nguyệt.
+ Ngưng phát triển bộ xương sau khi hình thể đã hoàn thiện.
Nam:
+ Phát triển chiều cao.
+ Phát triển cân nặng.
+ Phát triển lông mu.
+ Thay đổi giọng nói ( bể giọng, giọng nói ồ ồ) sau 18 tuổi giọng trầm trở lại.
+ Tuyến bã, tuyến mồ hôi phát triển.
+ Ngực và hai cánh tay phát triển.
+ Các cơ của cơ thể rắn chắc.
+ Lông trên cơ thể và mặt phát triển, xuất hiện lông ở bộ phận sinh dục.
6


+ Dương vật và tinh hoàn phát triển.
+ Bắt đầu xuất tinh.
+ Trái cổ do sụn giáp phát triển.
+ Ngưng phát triển bộ xương sau khi hình thể đã hoàn thiện.
Chú ý: Thời kỳ dậy thì chính thức ở nam và nữ chứng tỏ rằng bộ máy sinh dục đã
trưởng thành, các em có khả năng thực hiện quan hệ tình dục, nam có thể làm cho
nữ giới mang thai và nữ có thể có thai và sinh con.
- Thay đổi về tâm sinh lý:
Nhân cách:
+ Cố gắng làm được những điều mà mình mong muốn.
+ Thường đặt ra những câu hỏi: Tôi là ai? Tôi có thể làm gì?
Tâm lý: cảm thấy mình không còn là trẻ con nữa.
+ Muốn được đối xử như người lớn.
+ Muốn thoát ra khỏi những ràng buộc của gia đình, thường xảy ra những xung đột

giữa trẻ vị thành niên và cha mẹ.
Tình cảm: Quan tâm và có cảm giác lạ với người khác giới, yêu đương nông
cạn, quan hệ tình dục không an toàn.
* Các nguy cơ hay gặp ở tuổi vị thành niên:
Do có những thay đổi mà vị thành niên dễ bị dụ dỗ, mua chuộc, lường gạt,
xâm hại và dễ bắt chước:
- Quan hệ tình dục bừa bãi, không an toàn và hậu quả:
+ Mang thai sớm, ngoài ý muốn: Dễ bị sảy thai, đẻ non, nhiễm độc thai, làm tăng
nguy cơ tử vong mẹ.
+ Do khung chậu phát triển chưa đầy đủ nên khi sinh dễ phải can thiệp bằng thủ
thuật hoặc phẫu thuật. Làm mẹ quá trẻ, cơ thể phát triển chưa đầy đủ dễ dẫn đến
thiếu máu, thai kém phát triển, dễ bị chết lưu.
+ Tỉ lệ trẻ sinh ra thiếu cân, trẻ suy dinh dưỡng, trẻ mắc bệnh và tử vong cao hơn
nhiều so với các bà mẹ sinh con ở tuổi trưởng thành.
+ Bỏ học giữa chừng, ảnh hưởng tới tương lai. Làm mẹ sớm dễ bị căng thẳng,
khủng hoảng tâm lý, tổn thương tình cảm, dễ chán nản, cảm thấy cách biệt với gia
đình và bạn bè.
+ Bị người kia bỏ rơi hoặc phải cưới gấp với người mà các em không muốn có cam
kết cuộc sống với người đó.
+ Bản thân và gia đình phải gánh chịu những định kiến của xã hội, gánh nặng về
kinh tế khi nuôi con, góp phần làm tăng chi phí xã hội, tăng dân số.
+ Phá thai có thể đưa đến các tai biến: chảy máu, nhiễm trùng, thủng tử cung, vô
sinh…
+ Ngoài ra còn mắc các bệnh lây truyền qua đường tình dục HIV/AIDS, lậu, giang
mai …
- Dễ bị lôi cuốn bởi các chất kích thích, chất gây nghiện như rượu, thuốc lá, ma
túy.
7



Vị thành niên cần phải làm gì để phòng tránh những tác hại?
- Rèn luyện kỹ năng sống:
+ Chủ động tìm hiểu kiến thức về giới tính, sức khỏe sinh sản vị thành niên từ cha
mẹ, thầy cô, anh chị, người thân và bạn bè.
+ Cần tâm sự về những lo lắng, băn khoăn, thắc mắc với người thân trong gia đình,
thầy cô, bạn bè, người có uy tín, kiến thức và trách nhiệm.
+ Có thời gian biểu học tập, nghỉ ngơi, giải trí và luyện tập thể dục thể thao cho phù
hợp và điều độ.
+ Phân biệt rõ ràng giữa tình yêu và tình bạn khác giới trong sáng, giúp đỡ nhau
cùng tiến bộ.
- Chăm sóc sức khỏe sinh sản, vệ sinh cá nhân, vệ sinh bộ phận sinh dục.
Nữ:
+ Phải biết cách thực hiện vệ sinh kinh nguyệt: Thay băng vệ sinh thường xuyên
trong thời gian hành kinh.
+ Đến 15-16 tuổi mà không có kinh nguyệt thì phải đi khám.
+ Uống viên sắt: kể từ khi bắt đầu có kinh nguyệt, mỗi tuần uống một viên, liên tục
16 tuần trong một năm (16 viên/năm) để phòng tránh thiếu máu do thiếu sắt.
Nam:
+ Phải biết phát hiện những bất thường về cơ quan sinh dục của mình để đi khám
bệnh kịp thời như: hẹp bao quy đầu, tinh hoàn ẩn, vị trí bất thường của lỗ tiểu.
+ Không mặc quần lót quá bó sát, chật hẹp.
- Tránh xa những hình ảnh, sách báo, phim ảnh, trang web khiêu dâm, đồi trụy,
tránh xa rượu, bia, thuốc lá và ma túy.
- Không nên quan hệ tình dục trước tuổi vị thành niên.
- Nếu quan hệ tình dục phải thực hiện tình dục an toàn: Cụ thể là sống chung thủy
với một bạn tình, sử dụng bao cao su đúng cách mỗi khi quan hệ tình dục để vừa
tránh mang thai ngoài ý muốn, vừa tránh các bệnh lý qua đường tình dục và
HIV/AIDS.
Chú ý 4 bước sử dụng bao cao su:
Bước 1: Đẩy bao cao su về một phía, xé bao ngoài ở phía kia, lấy bao cao su ra.

Bước 2: Dùng ngón tay cái và ngón tay trỏ, bóp nhẹ núm bao để đẩy hết không khí
ra ngoài, trùm bao cao su vào đầu dương vật đã cương cứng, vuốt nhẹ bao cao su
để phủ hết chiều dài dương vật.
Bước 3: Sau khi xuất tinh,giữ nhẹ vành bao rồi từ từ rút dương vật còn cương cứng
ra khỏi bao. Tuyệt đối tránh tinh dịch tràn ra ngoài.
Bước 4: Cột chặt miệng bao và bỏ vào thùng rác.
Lưu ý khi sử dụng bao cao su: Một bao cao su chỉ được sử dụng cho một
lần quan hệ tình dục, không được kéo dãn bao cao su trước khi trùm vào dương vật.
* Thời gian:
Lồng ghép giáo dục nội dung này trong một số buổi sinh hoạt lớp vào sáng
thứ 7 của tuần học. Chỉ cần mỗi lần giảng bài khoảng 1 tiết học 45 phút là đủ,
8


không cần trình bày dài về thời gian như vậy học sinh dễ nhớ, dễ tiếp thu kiến thức,
không bị nhàm chán, hấp dẫn học sinh tiếp thu.
* Phương pháp: Thuyết trình, đàm thoại, nêu vấn đề, đặt ra tình huống và tìm
hướng giải quyết
* Phương tiện: Hiện nay Nhà trường có nhiều phòng học được trang bị máy chiếu
đa năng trong đó có phòng học lớp 11D do tôi chủ nhiệm, việc giảng dạy vấn đề
này cần thông tin, hình ảnh được giáo viên chuẩn bị sẵn và truyền qua máy chiếu
nên hiệu quả đạt được cao.
* Địa điểm:
Giáo viên chủ nhiệm lớp sẽ thực hiện trao đổi nội dung mà mình đã chuẩn bị
tại phòng học của lớp 11D.
2.3.2 Thứ hai là: tư vấn cho học sinh nữ của lớp chủ nhiệm về kiến thức sức
khỏe sinh sản vị thành niên:
Theo tôi, việc tư vấn này là điều rất cần thiết đối với riêng học sinh nữ. Khi
chúng ta nói chuyện với các em học sinh nữ để tìm hiểu và nắm bắt được tâm tư,
nguyện vọng, tình cảm thật lòng của các em mà nếu có học sinh nam thì các em sẽ

không nói thật hoặc không giám thổ lộ.
Thực tế công tác giảng dạy của bản thân tôi tại trường chưa nhiều nhưng các
em học sinh nữ không ngại ngần khi hỏi chuyện về kiến thức sức khỏe sinh sản vị
thành niên và khi được tôi trả lời các em cảm thấy rất hứng thú, quan tâm mong
muốn thầy trao đổi nhiều hơn nữa.
Chúng ta có thể sử dụng phương pháp vấn đáp đối với các em học sinh nữ
của lớp chủ nhiệm thông qua các câu hỏi như:
- Tình yêu là gì?
- Thế nào là tình yêu chân chính?
- Các em có nên yêu trong đội tuổi vị thành niên không?
- Có nên quan hệ tình dục trước hôn nhân không?
- Nếu quan hệ tình dục thì cần làm gì để tự bảo vệ mình khỏi bệnh tật và
mang thai sớm dẫn đến tảo hôn?
- Có nên theo dõi chu kỳ kinh của mình không?
Sau khi các em trả lời giáo viên có thể nhận xét, nêu lên những ưu điểm và
hạn chế đồng thời uốn nắn các em để không hiểu lệch lạc về những kiến thức về
sức khỏe sinh sản vị thành niên.
Ngoài ra, chúng ta nên nói chuyện và định hướng nghề nghiệp để các em học
sinh nữ vùng cao hiểu là không nên lấy chồng sớm, sau khi học xong chương trình
phổ thông, có bằng tốt nghiệp THPT, các em sẽ chọn được nhiều việc làm phù hợp
hơn khi đi khỏi địa phương mình, thu nhập của các em sẽ tốt hơn, lúc phù hợp có
thể tìm được chồng ưng ý thì thật hạnh phúc. Nếu lấy chồng sớm thì bản thân học
sinh phải là người chịu nhiều thiệt thòi bởi tảo hôn có nghĩa là các em chưa được
đăng ký kết hôn, nếu từ bỏ cuộc sống vợ chồng thì pháp luật không thể làm thủ tục
ly hôn, pháp luật sẽ không thể bảo vệ một số quyền lợi của các em như phân chia
9


tài sản, giành quyền nuôi con... Hơn nữa, cuộc sống của các em bị lệ thuộc vào nhà
chồng, không tự chủ về tài chính, không được tự do, nhiều em còn bị ngược đãi.

Khi trưởng thành, các em xây dựng gia đình thì mình sẽ chủ động trong cuộc sống,
không bị lệ thuộc, được tự do, có công việc và thu nhập cho bản thân cuộc sống của
các em sẽ hạnh phúc hơn.
Điều quan trọng trong việc giáo dục kiến thức sức khỏe sinh sản vị thành
niên cho các em học sinh nữ của lớp 11D là giáo viên chủ nhiệm lớp cần phải giáo
dục thường xuyên, thực hiện nhiều lần với nhiều nội dung khác nhau, mỗi nội dung
chuẩn bị ngắn, không cần dài dòng thì mới khắc sâu kiến thức giúp các em nhận
thức tốt và có ước mơ hoài bão trong tương lai.
Giáo viên có thể dạy cho học sinh nữ một số kỹ năng cơ bản nếu các em yêu
đương trong độ tuổi này như:
- Kỹ năng nói lời “không” với bạn trai khi người yêu đề nghị quan hệ tình
dục. Mặc dù chỉ là sự từ chối nhưng nếu tế nhị vừa không mất tình cảm của người
mình yêu và hơn nữa còn giữ được sự an toàn.
- Không nên đi chơi ban đêm, không đến chỗ vắng, không vào nhà nghỉ và
những nơi dễ để thực hiện chuyện tình dục.
- Đối với học sinh vùng cao đặc biệt là các em học sinh nữ có thói quen uống
rượu mỗi khi bạn bè tổ chức sinh nhật hoặc các ngày lễ. Điều này là diễn ra liên tục
nên một số em nữ không làm chủ được bản thân, dễ bị lạm dụng đã có thai ngoài ý
muốn. Thay đổi một thói quen đã khó và với các em học sinh vùng cao lại càng khó
hơn nên đòi hỏi giáo viên chủ nhiệm phải quan tâm các em thường xuyên để có
phương pháp điều chỉnh, uốn nắn nếu thấy các em hành động không đúng. Giáo
viên nên chỉ cho học sinh cách để hạn chế việc đi sinh nhật ban đêm, cụ thể là nên
chon một số cuộc sinh nhật của bạn thân còn lại là từ chối khéo để không mất lòng
bạn bè và tránh được những nguy hiểm đến với mình.
2.4 Hiệu quả của sáng kiến, kinh nghiệm:
Năm học 2018-2019, Tôi được Ban giám hiệu Nhà trường giao nhiệm vụ chủ
nhiệm lớp 11D thay đồng chí Hà Văn Thảo. Năm học 2017 - 2018 lớp 11D là lớp
10D có tổng số học sinh là 35 học sinh trong đó có 20 học sinh nam và 15 học sinh
nữ. Tính đến cuối năm học 2017 - 2018 lớp có 4 học sinh nữ mang thai phải bỏ học
để lấy chồng bao gồm các em:

TT

Họ và tên

Nơi ở

Độ tuổi

1
2
3
4

Nguyễn Thị Phương Thảo
Phạm Thị Thúy
Lò Thị Nụ
Vi Thị Uân

Thành phố Sầm Sơn, Thanh Hóa
Bản Khang 1, Nam Tiến, Quan Hóa
Bản Chại, Hiền Chung, Quan Hóa
Bản Cụm, Nam Tiến, Quan Hóa

15
15
15
15

10



Đến đầu năm học 2018 – 2019 khi tôi nhận công tác chủ nhiệm, số học sinh
của lớp 11D do tôi chủ nhiệm chỉ còn lại 29 trong đó có 11 học sinh nữ và 18 học
sinh nam, nguy cơ có 3 học sinh nữ tiếp tục bỏ học để lấy chồng là các em:
TT
1
2
3

Họ và tên
Lương Thị Tố Như
Lộc Thị Trang
Vi Thị Sáu

Nơi ở

Độ tuổi

Bản Hán - Hiền Chung - Quan Hóa
Bản Sài 1 - Thiên Phủ - Quan Hóa
Bản Lóp - Hiền Chung - Quan Hóa

16
16
16

Trong 3 học sinh nêu trên đều là con em người Thái, đối với em Lộc Thị
Trang và em Vi Thị Sáu thì nhà trai đã đi ăn hỏi. Theo phong tục người Thái thì
việc ăn hỏi cũng coi như là vợ chồng rồi, các em đã trở thành con dâu. Em Lương
Thị Tố Như yêu học sinh nam cùng lớp tôi chủ nhiệm. Hai em này đã yêu nhau,

gần gũi nhau từ lúc các em học lớp 9 cho đến nay. Nguy cơ bỏ học lấy chồng đối
với cả ba em học sinh trên là rất lớn. Nếu thuận theo tự nhiên và không có giải
pháp, không có sự quan tâm từ phía BGH Nhà trường, các thầy cô giáo nói chung,
bản thân tôi nói riêng thì lớp tôi nhận đầu năm sĩ số là 29 thì ít nhất là sẽ có 4 học
sinh ( ba học sinh nữ và một học sinh nam) bỏ học và lớp tôi chỉ còn lại 25 học
sinh.
Cuối năm học 2018 – 2019 nhờ có các giải pháp mà tôi áp dụng nhằm hạn
chế tình trạng tảo hôn ở một số học sinh nữ tại lớp lớp 11D thì hiệu quả là rất tốt.
Tôi đã thành công giúp cho 3 học sinh nữ có ý định nghỉ học để lấy chồng không
có ý định đó nữa và yên tâm thực hiện nhiệm vụ học tập của mình. Không chỉ vậy,
đề tài này cùng với các giải pháp nêu trên đã giúp cho các em học sinh nữ khác của
lớp hiểu được tác hại của việc tảo hôn và quyết tâm học tập tốt để không phụ công
ơn nuôi dưỡng, giáo dục của cha mẹ các em cũng như công ơn dạy giỗ của các thầy
cô giáo trong Nhà trường.

3. Phần kết luận, kiến nghị:
3.1 Kết luận:
Như vậy để góp phần cùng với nhà trường THCS&THPT Quan Hóa hoàn
thành tốt nhiệm vụ năm học 2018 – 2019 và những năm tiếp theo, hạn chế tình
trạng tảo hôn diễn ra trong học đường của nhà trường. Tôi xin đưa ra một số giải
pháp giúp hạn chế tình trạng này đem đến niềm vui , hạnh phúc và tương lai tốt đẹp
cho học sinh, là niềm vui của các thầy cô giáo trong nhà trường cũng như bản thân
tôi. Đây là điều mà tôi cảm thấy mình cần phải góp một phần sức lực nhỏ bé của
mình cho Nhà trường, đặc biệt là các em học sinh vùng cao của huyện Quan Hóa
bởi là giáo viên được điều động từ trường THPT Cẩm Thủy 2 lên công tác tại Nhà
trường, thực sự tôi rất yêu học sinh nơi đây. Tôi mong với đề tài này của tôi sẽ
được đồng nghiệp tham khảo và áp dụng cho các lớp khác trong Nhà trường, hạn
11



chế tới mức tối đa tình trạng tảo hôn để các em học sinh học tập tốt và có một
tương lai tươi sáng.
3.2 Kiến nghị: Vì đây là đề tài mà tôi tập trung nhiều thời gian, công sức
nghiên cứu nên đối với lớp 11D do tôi chủ nhiệm thì các giải pháp đưa áp dụng
có hiệu quả. Tôi xin có một số đề nghị là:
- Ban giám hiệu quan tâm đề tài và tạo điều kiện để phạm vi của đề tài không chỉ
dừng lại ở lớp 11D mà còn nhân rộng ra nhiều lớp khác trong nhà trường.
- Nhà trường cần tổ chức các buổi ngoại khóa về sức khỏe sinh sản vị thành niên
cho học sinh và mời thêm các các chuyên gia tư vấn cũng như các bác sỹ của bệnh
viện đa khoa Quan Hóa để họ tư vấn giúp các em học sinh nắm được những kiến
thức cần thiết và bổ ích về vấn đề này.
XÁC NHẬN CỦA HIỆU TRƯỞNG

Thanh Hóa, ngày 4 tháng 4 năm
2019
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của
mình viết, không sao chép nội dung của
người khác.

Mai Hồng Kỳ

Tài liệu tham khảo phục vụ cho đề tài
1. Luật hôn nhân và gia đình năm 2014
2. Bộ luật hình sự năm 2015.
3. Trang Web chi cục dân số - kế hoạch hóa gia đình.
4. Sách giáo khoa giáo dục công dân 11 NXB Giáo dục.

12




×