Tải bản đầy đủ (.pdf) (106 trang)

Thực hiện chính sách bảo tồn di sản văn hóa trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn (LV thạc sĩ)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.01 MB, 106 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

HOÀNG THANH TÙNG

THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH BẢO TỒN DI SẢN
VĂN HÓA TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH LẠNG SƠN

Ngành: Chính sách công
Mã số: 8340402

LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH SÁCH CÔNG

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS. TS VÕ QUANG TRỌNG

HÀ NỘI, 2019


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan rằng:
Số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn này là hoàn toàn trung
thực và chưa từng được sử dụng hoặc công bố trong bất kỳ công trình nào
khác.
Mọi sự giúp đỡ cho việc thực hiện luận văn này đã được cám ơn và các
thông tin trích dẫn trong luận văn đều được ghi rõ nguồn gốc.
Nếu không đúng như đã nêu trên, tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về
đề tài của mình.
Người cam đoan

Hoàng Thanh Tùng




MỤC LỤC

MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1 .......................................................................................................... 9
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CHÍNH SÁCH CÔNG ............................ 9
VÀ CHÍNH SÁCH BẢO TỒN DI SẢN VĂN HÓA .................................... 9
1.1. Lý luận về chính sách bảo tồn di sản văn hóa ........................................................ 9
1.3. Một số kinh nghiệm về thực hiện chính sách bảo tồn và phát huy giá trị di sản
văn hóa ............................................................................................................................ 19
Tiểu kết chương ............................................................................................................. 26

Chương 2 ........................................................................................................ 27
KHẢO SÁT, ĐÁNH GIÁ VIỆC THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH .............. 27
BẢO TỒN DI SẢN VĂN HÓA TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH LẠNG SƠN ..... 27
2.1. Thực trạng di sản văn hóa trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn ...................................... 27
2.2. Việc ban hành chính sách bảo tồn di sản văn hóa trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn 32
2.3. Tình hình thực hiện chính sách bảo tồn di sản văn hóa trên địa bàn tỉnh Lạng
Sơn ................................................................................................................................... 33
Tiểu kết chương ............................................................................................................. 56

Chương 3 ........................................................................................................ 57
CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ CHÍNH SÁCH ................... 57
BẢO TỒN DI SẢN VĂN HÓA TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH LẠNG SƠN .... 57
3.1. Quan điểm chỉ đạo hoàn thiện chính sách ............................................................ 57
3.2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật và chính sách ..................................................... 64
3.3. Giải pháp nâng cao hiệu quả thực thi chính sách ................................................ 67
Tiểu kết chương ............................................................................................................. 73


KẾT LUẬN .................................................................................................... 74
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 77
PHỤ LỤC ....................................................................................................... 81


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

DSVH

Di sản văn hóa

HĐND

Hội đồng nhân dân

NXB

Nhà xuất bản

NVH

Nhà văn hóa

UBND

Ủy ban nhân dân


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài

Những năm qua, công tác bảo tồn và phát huy giá trị DSVH của dân tộc
đã đạt được nhiều tiến bộ. Trong đó, nhiệm vụ thứ tư là bảo tồn và phát huy
giá trị DSVH. Hết sức coi trọng bảo tồn, kế thừa, phát huy những giá trị văn
hóa truyền thống (bác học và dân gian), văn hóa cách mạng bao gồm cả văn
hóa vật thể và phi vật thể” [25, tr.27-31].
Trong thời kỳ đẩy mạnh phát triển kinh tế và hội nhập, Đảng và Nhà
nước ta đã ban hành nhiều chủ trương đường lối và chính sách bảo vệ và phát
huy giá trị di sản văn hóa nhằm nâng cao đời sống tinh thần của nhân dân,
góp phần phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Trong xu thế hội nhập quốc tế, các quốc gia dân tộc cần phải hướng tới
việc tôn trọng sự đa dạng văn hóa và bảo vệ, tôn vinh bản sắc văn hóa dân tộc
để tạo nền tảng tinh thần cho phát triển. Và cuối cùng là việc bảo tồn, bên
cạnh đó, việc trùng tu thiếu chuyên nghiệp không theo đúng những chuẩn
mực khoa học…) cũng là những nhân tố hủy hoại giá trị của di sản.
Từ thực tiễn của địa phương, có thể nói, Lạng Sơn là một tỉnh có nhiều
DSVH vật thể và phi vật thể, và cũng như nhiều địa phương trong cả nước,
tỉnh đang đối mặt với nhiều tác động của ngoại cảnh trong việc bảo tồn và
phát huy DSVH của mình.
Từ góc độ chính sách, có thể nói, bảo tồn và phát huy giá trị DSVH là
một nội dung quan trọng trong nhiều chính sách văn hóa của các cấp. Việc
thực hiện chính sách này ở tỉnh Lạng Sơn dù có nhiều kết quả tốt nhưng vẫn
còn rất nhiều bất cập cần nhận diện, phân tích, để đề xuất các giải pháp hữu
hiệu nhằm nâng cao hiệu quả chính sách.

1


Từ thực tiễn đó, và công tác thực hiện bảo tồn DSVH trên địa bàn tỉnh,
tôi chọn đề tài nghiên cứu “Thực hiện chính sách bảo tồn di sản văn hóa
trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn” để thấy rõ công tác bảo tồn và phát huy các giá

trị DSVH của địa phương.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Việc triển khai thực hiện chính sách bảo tồn DSVH trên địa bàn tỉnh
Lạng Sơn đã được nghiên cứu trong môt số công trình, bài viết hoặc đề án xếp
hạng di tích. Các công trình cụ thể như sau:
Những công trình nghiên cứu liên quan đến bảo tồn di sản văn hóa:
Bộ Văn hoá - Thông tin (2006), “Một con đường tiếp cận di sản văn
hoá”, đã tập hợp nhiều bài nghiên cứu về lý luận DSVH cũng như thực tiễn,
có thể làm tư liệu nghiên cứu tốt cho đề tài. Trong đó tiêu biểu nhất là các bài:
“Khảo cổ học với công tác bảo vệ và phát huy di sản văn hoá” (Vũ Quốc
Hiền), “Bảo tồn di tích, nhân tố quan trọng của phát triển bền vững” (Lê
Thành Vinh); “Di tích lịch sử và văn hoá đồng bằng sông Hồng” (Đặng văn
Bài); “Bảo tồn, tôn tạo và xây dựng khu di tích lịch sử - văn hoá Đường Lâm”
(Phan Huy Lê).
Tác giả Lã Đăng Bật (2010), cuốn sách “Việt Nam - DSVH Cố Đô Hoa
Lư”. Cố đô Hoa Lư - đất cũ người xưa, sách giới thiệu về kinh đô Hoa Lư xưa
và sự nghiệp của các anh hùng thuộc ba triều đại nhà Đinh, Tiền Lê và nhà Lý
tính từ Đinh Tiên Hoàng đến Lý Thái Tổ. Sách được trình bày rõ ràng và
minh hoạ hình ảnh đẹp giúp truyền đạt một bề dày lịch sử ở Hoa Lư theo cách
gãy gọn, dễ hiểu nhưng vẫn sâu sắc và đầy đủ.
Tác giả Vũ Trường Thành (2014), với luận văn “Bảo tồn DSVH gắn
với phát triển kinh tế du lịch trên địa bàn tỉnh Phú Thọ”, làm rõ mối quan hệ
hữu cơ giữa bảo tồn các DSVH và việc khai thác phục vụ mục đích phát triển
2


kinh tế du lịch. Làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn của công tác bảo tồn DSVH
gắn với phát triển kinh tế du lịch; Đánh giá thực trạng về tình hình bảo tồn
DSVH gắn với phát triển kinh tế du lịch trên địa bàn tỉnh Phú Thọ; Đề xuất
các nhiệm vụ, giải pháp bảo tồn và phát huy giá trị DSVH nhằm phát triển

kinh tế du lịch trên địa bàn tỉnh trong thời gian sắp tới.
Tác giả Bùi Thị Hà (2016), với luận văn “Bảo tồn DSVH của tỉnh Ninh
Bình hiện nay”, đã tìm hiểu về những giá trị DSVH ở tỉnh Ninh Bình. Nghiên
cứu thực trạng bảo tồn và phát huy giá trị DSVH. Ninh Bình cũng là một tỉnh
có một nền văn hóa truyền thống tốt đẹp, đồng thời cũng là một tỉnh có những
DSVH lớn của đất nước nói riêng và của thế giới nói chung. Hướng tới một
cái nhìn tổng thể về việc bảo tồn và phát huy DSVH ở tỉnh Ninh Bình.
Những công trình liên quan đến thực hiện chính sách bảo tồn di sản
văn hóa:
Tác giả Bùi Quốc Hoàn (2017), “Thực hiện chính sách bảo tồn và phát
huy giá trị DSVH phi vật thể từ thực tiễn tỉnh Hòa Bình”, luận văn thạc sĩ
chính sách công. Tác giả đã hệ thống hóa các tài liệu về chính sách bảo tồn
DSVH phi vật thể, chỉ rõ thực trạng thực hiện chính sách này trên địa bàn tỉnh
Hòa Bình. Qua đó, tác giả luận văn đã đánh giá những thành công, hạn chế
của chính sách cũng như thực hiện chính sách bảo tồn DSVH phi vật thể từ
thực tiễn tỉnh Hòa Bình và trên cơ sở đó đề xuất các giải pháp hoàn thiện
chính sách và thực hiện chính sách.
Tác giả Nguyễn Ngọc Hưng (2017), Thực hiện chính sách bảo tồn và
phát huy giá trị các di tích lịch sử - văn hóa từ thực tiễn huyện Đại Từ, tỉnh
Thái Nguyên, luận văn Thạc sĩ Chính sách công, Học viện Khoa học xã hội
Việt Nam. Tác giả luận văn đã vận dụng các lý luận về chính sách công, thực
hiện chính sách công trong bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa trên một

3


địa bàn cụ thể. Từ đó, tác giả tìm ra những thành công, hạn chế trong thực
hiện chính sách bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa, tìm ra các nguyên
nhân và đề xuất các giải pháp thích hợp.
Tác giả Nguyễn Thị Thu Trang (2018), Thực hiện chính sách bảo tồn,

phát huy giá trị di sản văn hóa từ thực tiễn quận Thanh Xuân, thành phố Hà
Nội, luận văn Thạc sĩ Chính sách công, Học viện Khoa học xã hội Việt Nam.
Đề tài tập trung nghiên cứu hoạt động triển khai chính sách bảo tồn và phát
huy giá trị DSVH trên địa bàn quận Thanh Xuân thông qua việc hệ thống hóa
các vấn đề lý luận, nghiên cứu các hoạt động quản lý nhà nước đối với các di
tích văn hóa của UBND quận Thanh Xuân, qua đó đề xuất các giải pháp hoàn
thiện việc thực hiện chính sách nêu trên.
Cuốn Một số vấn đề về du lịch Việt Nam của Đinh Trung Kiên, đã đi
sâu phân tích cụ thể những giá trị của di sản văn hóa truyền thống Việt Nam
trong phát triển du lịch nhƣ: Sức hấp dẫn khách du lịch từ các giá trị văn hóa
của lễ hội, làng nghề truyền thống; Hoạt động lữ hành với việc khai thác và
bảo tồn di sản văn hoá.
Trên Tạp chí Cộng sản số 20, năm 2003, PGS, TS. Nguyễn Văn Huy đã
có nhiều cố gắng nghiên cứu Một số vấn đề bảo tồn và phát huy những di sản
văn hoá các dân tộc hiện nay. Tác giả bài báo đã đề cập đến những vấn đề lý
luận và thực tiễn của công tác bảo tồn phát huy DSVH trên phạm vi cả nước.
Bên cạnh đó, tác giả tìm đọc các tài liệu như: Đề tài “Nghiên cứu bảo
tồn giá trị tín ngưỡng dân gian trong các di tích lịch sử văn hóa vùng cao
Mẫu Sơn” của tác giả Bế Cao Chuyển. Đề tài “Nghiên cứu đề xuất giải pháp
thích hợp để bảo tồn, phát huy dân ca các dân tộc tỉnh Lạng Sơn trong thời kỳ
hội nhập và phát triển” của Hội Bảo tồn dân ca các dân tộc tỉnh Lạng Sơn;
Đề án Bảo tồn tiếng nói, chữ viết, trang phục của đồng bào các dân tộc thiểu

4


số tỉnh Lạng Sơn; DSVH múa sư tử Tày, Nùng Lạng Sơn. Đề án Phục dựng
các lễ hội truyền thống: Lồng tồng Bản Chu, xã Hưng Đạo, huyện Bình Gia;
Lễ hội tình yêu huyện Tràng Định; lễ hội Ná nhèm huyện Bắc Sơn; lễ hội đền
Kỳ Cùng - tả phủ, thành phố Lạng Sơn. Dự án Bảo tồn DSVH phi vật thể: Hát

Xắng Cọ dân tộc Sán Chỉ, hát Lượn dân tộc Tày, hát Sli Slinh làng Nùng
cháo, sli Phàn Slinh Lạng Sơn; hát Ví Tày Bắc Sơn; Lẩu then, Nghệ thuật hát
Then, đàn Tính đồng bào Tày - Nùng tỉnh Lạng Sơn…
Nhìn chung, đã có nhiều công trình nghiên cứu về di sản văn hoá và
thực hiện chính sách bảo tồn DSVH, trong đó có những nghiên cứu trên địa
bàn tỉnh Lạng Sơn. Tuy nhiên, kết quả của những công trình nghiên cứu này
chưa xác định và kết luận rõ ràng về vài trò của di sản văn hoá đối với phát
triển kinh tế - xã hội và chỉ ra các điều kiện để di sản văn hoá phát huy được
vai trò của nó; chưa đề ra giải pháp cụ thể cho quá trình thực hiện chính sách
bảo tồn và phát huy giá trị DSVH. Kế thừa các kết quả nghiên cứu từ các
công trình đã nghiên cứu, luận văn này làm rõ các vấn đề trên.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở làm rõ những vấn đề lý luận và phân tích thực trạng thực
hiện chính sách bảo tồn và phát huy DSVH, đề xuất giải pháp tăng cường
hiệu quả của việc thực hiện chính sách bảo tồn và phát huy giá trị các DSVH
trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn trong giai đoạn tới.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Xác lập cơ sở lý luận về tổ chức thực hiện chính sách bảo tồn DSVH.
Hệ thống hóa cơ sở dữ liệu (văn bản, thực tiễn) về chính sách bảo tồn
và phát huy giá trị di sản trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn.

5


Khảo sát, phân tích, đánh giá thực trạng tổ chức thực hiện chính sách
bảo tồn DSVH trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn trong những năm gần đây.
Đề xuất một số giải pháp tổ chức thực hiện chính sách bảo tồn DSVH
phù hợp với điều kiện thực tế trong thời gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu: Việc thực hiện chính sách bảo tồn DSVH
trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn.
4.2. Phạm vi nghiên cứu: Việc tổ chức thực hiện chính sách bảo tồn
DSVH trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn. Trọng tâm là giai đoạn 2011 - 2017 (Lạng
Sơn thực hiện Đề tài bảo tồn DSVH).
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Trong quá trình nghiên cứu luận văn đã sử dụng phương pháp luận của
chủ nghĩa duy vật biện chứng, tư tưởng Hồ Chí Minh và các chủ trương,
chính sách của Đảng và Nhà nước về thực hiện chính sách bảo tồn DSVH,
những lý luận của khoa học chính sách công cũng như cơ sở thực tiễn về
chính sách bảo tồn DSVH.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp thu thập thông tin: Được sử dụng để thu thập và khai thác
thông tin từ các nguồn có sẵn liên quan đến đề tài nghiên cứu, bao gồm các
văn kiện, tài liệu, nghị quyết, quyết định của Đảng, Nhà nước, bộ, ban, ngành
ở Trung ương và địa phương; các công trình nghiên cứu, các báo cáo, tài liệu
thống kê của chính quyền, ban, ngành, đoàn thể, các tổ chức, cá nhân liên
quan trực tiếp, gián tiếp tới vấn đề chính sách bảo tồn DSVH ở nước ta nói
chung và chính sách bảo tồn DSVH trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn nói riêng.
6


Phương pháp thống kê: Sử dụng nhiều các số liệu thống kê trong luận
văn, đó thực chất là việc liệt kê, tính toán đối tượng để có kết quả biểu thị
bằng con số nhằm làm nổi bật đối tượng nghiên cứu, cũng như sự cần thiết và
tính thực tiễn cao của đề tài nghiên cứu.
Phương pháp đánh giá chính sách công: Luận văn sử dụng và thực hiện
một số phương pháp nghiên cứu chính sách công theo chu trình chính sách so
sánh dựa trên kết quả thực tế, từ đó dự báo xu hướng phát triển đề ra chính

sách trong giai đoạn tới.
Phương pháp phân tích: Được sử dụng nhiều trong luận văn như việc
phân tích thực trạng, các yếu tố môi trường bên trong và bên ngoài, phân tích
các tác động bảo tồn DSVH trên địa bàn tỉnh.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
6.1. Ý nghĩa luận: Làm rõ lý thuyết và các vấn đề lý luận về chính sách
bảo tồn và phát huy giá trị DSVH từ những cứ liệu của thực tế trên địa bàn
tỉnh Lạng Sơn. Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả chính sách
bảo tồn và phát huy giá trị DSVH trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn: Luận văn đã làm rõ được thực trạng về các chính
sách bảo tồn di sản trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn, cũng cấp thêm một kênh tham
khảo cho các cơ quan quản lý về văn hóa trên địa bản tỉnh Lạng Sơn trong
thực hiện chính sách bảo tồn di sản.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, nội dung chính của
luận văn được cấu trúc theo 3 chương như sau:
Chương 1: Một số vấn đề chung về chính sách công và chính sách bảo
tồn di sản văn hóa;

7


Chương 2: Khảo sát, đánh giá việc thực hiện chính sách bảo tồn di sản
văn hóa trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn;
Chương 3: Các giải pháp nâng cao hiệu quả của thực hiện chính sách
bảo tồn di sản văn hóa trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn.

8



Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CHÍNH SÁCH CÔNG
VÀ CHÍNH SÁCH BẢO TỒN DI SẢN VĂN HÓA
1.1. Lý luận về chính sách bảo tồn di sản văn hóa
1.1.1. Di sản văn hóa
Theo quan niệm của UNESCO, DSVH bao gồm hai loại:
DSVH vật thể:
Di sản “văn hóa vật thể” (tangible culture) được hiểu là những sản
phẩm văn hóa có thể “sờ thấy được”. DSVH vật thể luôn đứng trước nguy cơ
biến dạng hoặc thay đổi rất nhiều so với nguyên gốc. Theo đó: DSVH vật thể
được xem là những di tích của văn hóa còn sót lại, đó là những công trình
kiến trúc, di tích mà hiện tại vẫn còn tồn tại để chúng ta có thể nhìn thấy
được, sờ thấy được.
DSVH phi vật thể: Văn hóa phi vật thể là các sản phẩm tinh thần có giá
trị lịch sữ, văn hóa, khoa học được lưu giữu bằng trí nhớ, chữ viết và được lưu
truyền bằng miệng, truyền nghề, trình diễn và các hình thức lưu giữ, lưu
truyền khác. Bao gồm tiếng nói, chữ viết, tác phẩm văn hóa nghệ thuật, khoa
học, ngữ văn, truyền miệng diễn xướng, dân gian lối sống, nếp sống, lễ hội, bí
quyết về nghề thủ công, truyền thong tri thức về y, dược học cổ truyền, văn
hóa ẩm thực, về trang phục truyền thống dân tộc và những trí thức dân gian
khác.
1.1.2. Khái niệm chính sách công
Cuốn Từ điển Hán Việt dành cho học sinh đưa ra giải nghĩa phổ thông
về từ chính sách như sau: “Chính sách: Sách lược và kế hoạch cụ thể nhằm
đạt một mục đích nhất định, dựa vào đường lối chính trị chung và tình hình

9


thực tế mà đề ra” [38, tr.112]. Tiếp cận dưới góc nhìn chính trị, Từ điển bách

khoa Việt Nam lý giải: “Chính sách, những chuẩn tắc cụ thể để thực hiện
đường lối, nhiệm vụ; chính sách được thực hiện trong một thời gian nhất định,
trên những lĩnh vực cụ thể nào đó. Bản chất, nội dung và phương hướng của
chính sách tùy thuộc tính chất của đường lối, nhiệm vụ chính trị, kinh tế, văn
hóa, xã hội… Muốn định ra chính sách đúng phải căn cứ vào tình hình thực
tiễn trong từng lĩnh vực, từng giai đoạn, phải vừa giữ vững mục tiêu, phương
hướng được xác định trong đường lối, nhiệm vụ chung, vừa linh hoạt vận
dụng vào hoàn cảnh và điều kiện cụ thể” [21, tr.103].
Trong bài giảng “Những vấn đề cơ bản về chính sách công” (Ban hành
kèm theo Quyết định số: 26/QĐ-HVKHXH ngày 9/11/2012 của Giám đốc
Học viện Khoa học xã hội), tác giả Đỗ Phú Hải đã định nghĩa chính sách công
như sau: “Chính sách công là một tập hợp quyết định chính trị có liên quan
của Nhà nước nhằm lựa chọn mục tiêu và giải pháp, công cụ chính sách nhằm
giải quyết các vấn đề xã hội theo mục tiêu tổng thể đã xác định” [17, tr.88].
Trong công trình nghiên cứu về “Chính sách công - những vấn đề cơ
bản” (2016), tác giả Nguyễn Hữu Hải đã đưa ra nhận định về khái niệm về
chính sách công như sau: “Chính sách công là kết quả ý chí chính trị của Nhà
nước được thể hiện bằng một tập hợp các quyết định có liên quan với nhau,
bao hàm trong đó định hướng, mục tiêu và cách thức giải quyết những vấn đề
công trong xã hội” [14, tr.36].
Tác giả Lê Chi Mai cho rằng “Cho đến nay trên thế giới, cuộc tranh
luận về định nghĩa chính sách công vẫn là một chủ đề sôi động và khó đạt
được sự nhất trí rộng rãi” [23, tr.18].
1.1.3. Chính sách bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa

10


Bảo tồn nguyên trạng: Đây là quan điểm đã phát triển từ những năm 50
của thế kỷ XIX trên thế giới và thịnh hành trong một thời gian khá dài, gần

giống như đóng vai trò chủ đạo đối với cách thức quản lý DSVH ở nhiều quốc
gia. Theo nhà nghiên cứu văn hóa Ashworth, quan điểm bảo tồn nguyên trạng
có những đặc điểm như sau [1, tr. 28]:
Về mục đích: Nguyên tắc là đơn giản, dễ hiểu và là một đòi hỏi về mặt
đạo đức; Mục đích tối tượng là bảo tồn toàn bộ những gì có thể bảo tồn được.
Về nguồn lực: Các nguồn di sản là căn cứ bất di bất dịch: các địa điểm
di tích có một căn cứ lịch sử nhất định của nó; Các sản phẩm được xác định
và tạo ra trên cơ sở nguồn gốc của di sản.
Về tiêu chí lựa chọn di sản: Tiêu chí lựa chọn phụ thuộc vào bản chất
của di sản (có ý nghĩa về lịch sử, vẻ đẹp kiến trúc…); Về nguyên tắc, tiêu chí
lựa chọn có thể quyết định một cách khách quan thông qua sự đồng thuận tập
thể; Tính chân thực của di sản là yếu tố quyết định tối cao của giá trị.
Về các sản phẩm thuyết minh cho di sản: Các địa điểm/đồ tạo tác được
bảo tồn có một thị trường và một ý nghĩa toàn cầu, ổn định và đơn nghĩa.
Về chiến lược bảo tồn: Có một sự mâu thuẫn cố hữu giữa bảo tồn và
phát triển; Những tác động của sự bảo tồn phản lại chức năng sẽ sinh ra
những vấn đề phát sinh thứ cấp; Tăng việc sử dụng các sản phẩm được bảo
tồn trong giai đoạn hiện thời phải phù hợp với công việc quản lý và nếu cần
thiết phải giới hạn nhu cầu.
Bảo tồn kế thừa: Các DSVH vật thể sẽ được bảo tồn trên tinh thần giữ
gìn những nét cơ bản của di tích, cố gắng phục chế lại nguyên trạng DSVH
vật thể bằng nhiều kỹ thuật công nghệ hiện đại. Đối với các DSVH phi vật
thể, bảo tồn trên cơ sở kế thừa là bảo tồn các hiện tượng văn hóa đó ngay
chính trong đời sống cộng đồng.
11


Quan điểm này cho rằng di sản ấy cần phải được phát huy giá trị phù
hợp với xã hội hiện nay, đồng thời phải loại bỏ những gì không phù hợp với
thời đại, không còn thích hợp với xã hội mới. Do vậy, bảo tồn kế thừa không

phải là cố gắng dập khuôn nguyên gốc, khư khư giữ nguyên như cũ, bất di bất
dịch, mà là bảo tồn vừa có sự kế thừa vừa có sự bổ sung những yếu tố mới,
làm cho nó tương thích và có sức sống trong hoàn cảnh mới.
Bảo tồn phát triển: người ta coi di sản là sản phẩm của thời hiện tại,
phát triển nhằm mục đích đáp ứng nhu cầu và đòi hỏi của hiện tại và được
định hình bởi yêu cầu ấy.
Bảo tồn là một nhân tố cần thiết của phát triển, phát triển tạo nguồn lực
cho bảo tồn, bảo tồn và phát triển là nhiệm vụ thiết yếu của một quốc gia.
Đảm bảo mối quan hệ hữu cơ giữa bảo tồn và phát triển là cách ứng xử thông
minh của thời đại.
Từ các quan điểm đó: Luật Di sản văn hoá được Quốc hội nước Cộng
hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, khoá X kỳ họp thứ 9 thông qua đã khẳng
định: Di sản văn hoá Việt Nam là tài sản quý giá của cộng đồng các dân tộc
Việt Nam và là một bộ phận của Di sản văn hoá nhân loại, có vai trò to lớn
trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước của nhân dân ta.
Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII nêu: Chính sách bảo tồn, phát huy
di sản vǎn hóa dân tộc hướng vào cả vǎn hóa vật thể và phi vật thể.
Nhà nước, Chính phủ và các Bộ, ngành liên quan đã đưa ra các văn bản
quy phạm như:
Quyết định số 1706/2001/QĐ-BVHTT ngày 24 tháng 7 năm 2001 của
Bộ trưởng Bộ Văn hóa - Thông tin (nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch)
phê duyệt quy hoạch tổng thể bảo tồn và phát huy giá trị di tích lịch sử-văn
hóa và danh lam cảnh đến năm 2020.
12


Quyết định số 125/2007/QĐ-TTg ngày 31 tháng 7 năm 2007 của Thủ
tướng Chính phủ Phê duyệt chương trình mục tiêu quốc gia về văn hóa giai
đoạn 2006 – 2010.
Chiến lược phát triển văn hóa đến năm 2020 (Ban hành kèm theo quyết

định số 581/QĐ-TTg ngày 06/5/2009 của thủ tướng Chính phủ): trong đó, coi
DSVH là nền tảng để hun đúc nên bản sắc văn hóa và hệ giá trị của văn hóa
dân tộc, là một nguồn lực cho phát triển; bảo tồn và phát huy DSVH là nhiệm
vụ then chốt.
Nghị định số 98/2010/NĐ-CP ngày 21 tháng 9 năm 2010 của Chính
phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật DSVH và Luật sửa đổi, bổ
sung một số điều của Luật DSVH.
Quyết định số 1211/2012/QĐ-TTg ngày 5 tháng 9 năm 2012 của Thủ
tướng Chính phủ phê duyệt “Chương trình mục tiêu quốc gia về văn hóa giai
đoan 2012 - 2015”.
Từ các hoạt động thực tiễn, các văn bản quy phạm pháp luật về lĩnh
vực DSVH ngày càng hoàn thiện và chặt chẽ hơn, giúp các chính sách ngày
càng hoàn chỉnh, xác định rõ trách nhiệm của các cơ quan nhà nước từ Trung
ương đến địa phương và góp phần thiết thực vào việc hoàn thiện chính sách
bảo tồn và phát huy giá trị các DSVH, phát huy tác dụng tích cực công tác
bảo tồn và phát huy giá trị các DSVH.
1.1.4. Quan niệm của Đảng và Nhà nước về chính sách bảo tồn và phát huy
giá trị văn hóa
Trong những năm qua, Đảng và Nhà nước đã nhận thức sâu sắc về vai
trò của di sản văn hóa trong phát triển kinh tế - xã hội. Di sản văn hóa được
coi là “cốt lõi của bản sắc dân tộc” bởi nó được coi là yếu tố cấu thành đặc
trưng của nền văn hóa. Việc đề cao vị trí của di sản văn hóa là đề cao những
13


thành quả lao động cũng như đời sống tinh thần của nhân dân trong suốt quá
trình lịch sử dựng nước và giữ nước. Hệ thống đình, chùa, lăng tẩm, thành
quách... không chỉ minh chứng cho sức lao động sáng tạo cần cù, mà còn cho
thấy khát vọng, ý chí và nghị lực của cha ông. Việc lưu giữ, tôn tạo các giá trị
di sản văn hóa không chỉ thể hiện đạo lí “uống nước nhớ nguồn”, mà còn góp

phần làm phong phú đời sống tinh thần các thế hệ mai sau.
Năm 1943, Tổng Bí thư Trường Chinh soạn thảo Đề cương về văn hoá
Việt Nam đề ra 3 nguyên tắc vận động của văn hóa Việt Nam gồm: Dân tộc,
khoa học, đại chúng. Năm 1998, Đảng ta ban hành Nghị quyết Trung ương
5 (khoá VIII) về xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến,
đậm đà bản sắc dân tộc. Năm 2004, Kết luận Hội nghị Trung ương 10 (khoá
IX) tổng kết 5 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 5: Xác định mục tiêu:
“Bảo đảm sự gắn kết giữa nhiệm vụ phát triển kinh tế là trung tâm; xây dựng,
chỉnh đốn Đảng là then chốt với không ngừng nâng cao văn hoá - nền tảng
tinh thần của xã hội; tạo sự phát triển toàn diện và bền vững của đất nước”.
Chính sách vĩ mô của Nhà nước về văn hóa được ghi trong Hiến pháp
năm 2013, như sau [31]: Nhà nước và xã hội bảo tồn, phát triển văn hóa Việt
Nam: Dân tộc, hiện đại, nhân văn; kế thừa, phát huy những giá trị của nền văn
hiến các dân tộc Việt Nam, tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; tiếp
thu tinh hoa văn hóa nhân loại; phát huy mọi tài năng sáng tạo trong nhân
dân. Nhà nước thống nhất quản lý sự nghiệp văn hóa; nghiêm cấm truyền bá
tư tưởng và văn hóa phản động, đồi trụy, bài trừ mê tín, hủ tục. Nhà nước đầu
tư phát triển văn hóa, văn học, nghệ thuật; tạo điều kiện để nhân dân được
thưởng thức những tác phẩm văn học, nghệ thuật có giá trị; bảo trợ để phát
triển các tài năng sáng tạo văn học, nghệ thuật. Nhà nước phát triển các hình
thức đa dạng của hoạt động văn hóa, nghệ thuật; khuyến khích hoạt động
nghệ thuật văn hóa, nghệ thuật quần chúng.
14


Điều 60 Hiến pháp năm 2013 cũng quy định [31]: Nhà nước, xã hội
chăm lo xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản
sắc dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại.
1.2. Lý luận về thực hiện chính sách và các yếu tố ảnh hưởng đến thực
hiện chính sách bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa

1.2.1. Thực hiện chính sách bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa
Sau khi chính sách bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa được
hoạch định và các cơ quan quản lý nhà nước ban hành thì chính sách này cần
được thực thi trong cuộc sống. Các cơ quan quản lý nhà nước, trước hết là các
cơ quan quản lý DIVS là chủ thể hoạch định chính sách bảo tồn và phát huy
giá trị DSVH, cũng đồng thời là chủ thể tổ chức thực hiện chính sách bảo tồn
và phát huy giá trị DSVH.
Trong phạm vi nghiên cứu của luận văn, khái niệm thực hiện chính
sách bảo tồn và phát huy giá trị DSVH được hiểu là quá trình tổ chức triển
khai các văn bản quản lý, chính sách bảo tồn và phát huy giá trị DSVH vào
thực tiễn thông qua 06 bước cơ bản của tổ chức thực hiện chính sách công.
Các bước thực hiện chính sách bảo tồn và phát huy giá trị DSVH
Bước 1: Xây dựng kế hoạch thực hiện chính sách bảo tồn và phát huy
giá trị DSVH
Để đưa chính sách bảo tồn và phát huy giá trị DSVH vào thực tế cuộc
sống cần phải xây dựng Kế hoạch triển khai thực hiện chính sách bảo tồn và
phát huy giá trị DSVH một cách chi tiết, hiệu quả và phù hợp với thực tiễn
của từng ngành, từng địa phương. Hiệu quả thực hiện chính sách bảo tồn và
phát huy giá trị DSVH phụ thuộc rất nhiều vào những yêu cầu của kế hoạch
khi được xây dựng. Kế hoạch thực hiện chính sách bảo tồn và phát huy giá trị

15


DSVH phải bám sát theo các yêu cầu và nội dung của Chương trình mục tiêu
quốc gia về bảo tồn và phát huy giá trị DSVH.
Bước 2: Phổ biến, tuyên truyền chính sách bảo tồn và phát huy giá trị
DSVH
Phổ biến, tuyên truyền thực hiện chính sách bảo tồn và phát huy giá trị
DSVH của chủ thể thực hiện chính sách đề ra là một nội dung hoạt động quan

trọng trong thực hiện chính sách bảo tồn và phát huy giá trị DSVH từ trung
ương đến địa phương. Việc phổ biến, tuyên truyền chính sách bảo tồn và phát
huy giá trị DSVH giúp các chủ thể làm nhiệm vụ bảo tồn, phát huy giá trị
DSVH nắm được tổng thể chương trình này. Để mọi tầng lớp nhân dân hiểu
rõ được tầm quan trọng của chính sách bảo tồn và phát huy giá trị DSVH thì
cần phải phổ biến và tuyên truyền về thực hiện chính sách bảo tồn và phát huy
giá trị DSVH thông qua các phương pháp, hình thức đa dạng với nội dung dễ
hiểu vì Việt Nam là đất nước đa dạng văn hóa và đa dạng về dân tộc.
Bước 3. Phân công, phối hợp thực hiện chính sách bảo tồn và phát huy
giá trị DSVH
Việc phân công hợp lý và sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan quản
lý nhà nước các cấp, các ngành, các địa phương trong thực hiện chính sách
bảo tồn và phát huy giá trị DSVH tạo ra hiệu quả trong quá trình triển khai.
Mỗi cấp, mỗi ngành sẽ có những trách nhiệm và quyền hạn khác nhau trong
thực hiện chính sách bảo tồn và phát huy giá trị DSVH. Trên cơ sở đó, các
chủ thể thực hiện chính sách sẽ có những vai trò, nhiệm vụ khác nhau trong
toàn bộ quas trình này.
Bước 4: Duy trì, điều chỉnh chính sách bảo tồn và phát huy giá trị
DSVH

16


Duy trì chính sách bảo tồn và phát huy giá trị DSVH là hoạt động cần
thiết trong tổ chức thực hiện chính sách, hoạt động này nhằm bảo đảm cho
chính sách bảo tồn và phát huy giá trị DSVH tồn tại và phát huy được tác
dụng trong môi trường thực tế.
Điều chỉnh chính sách bảo tồn và phát huy giá trị DSVH diễn ra khi
chủ trường, đường lối của Đảng và pháp luật của Nhà nước về vấn đề bảo tồn,
phát huy giá trị DSVH có sự điều chỉnh, cũng như thực tiễn quá trình bảo tồn,

phát huy giá trị di sản văn hóa có những biến động cần được điều chỉnh cho
phù hợp với thực tiễn.
Bước 5: Theo dõi, đôn đốc, kiểm tra thực hiện chính sách bảo tồn và
phát huy giá trị DSVH
Thực hiện chính sách bảo tồn và phát huy giá trị DSVH diễn ra trên
phạm vi rộng lớn, với nhiều vùng văn hóa khác nhau của nhiều địa phương,
dân tộc khác nhau trên đất nước và với nhiều thành phần và đối tượng tham
gia. Để thực hiện tốt chính sách bảo tồn và phát huy giá trị DSVH cần phải
theo dõi, đôn đốc quá trình thực hiện chính sách. Bên cạnh đó, các cơ quan
chuyên môn, các cơ quan quản lý nhà nước cần phối hợp với nhau trong quá
trình kiểm tra thực hiện chính sách nhằm tìm ra những bất cập, hạn chế và
những yếu tố có thể làm gián đoạn quá trình thực hiện chính sách.
Bước 6. Tổng kết, đánh giá thực hiện chính sách bảo tồn và phát huy
giá trị DSVH
Tổng kết, đánh giá, rút kinh nghiệm thực hiện chính sách bảo tồn và
phát huy giá trị DSVH là nội dung, nhiệm vụ quan trọng cuối cùng nhưng
không thể tách rời quá trình thực hiện chính sách. Qua tổ chức, đánh giá, rút
ra những kiến nghị, đề xuất thực hiện chính sách bảo tồn và phát huy giá trị
DSVH, nêu bậc những hạn chế, tồn tại và thiếu sót, đưa ra bài học kinh
17


nghiệm và phương hướng, giải pháp trong chỉ đạo, điều hành và chấp hành
chính sách bảo tồn và phát huy giá trị DSVH trong thời gian tới.
1.2.2. Các yếu tố ảnh hưởng đến thực hiện chính sách bảo tồn và phát huy giá
trị di sản văn hóa
Trước hết, về nhận thức, tâm lý phổ biến của các vị lãnh đạo chính
quyền địa phương khi đề đạt nguyện vọng nâng cấp di tích của địa phương
mình lên hạng di tích quốc gia đặc biệt hoặc di sản thế giới, ngoài mong muốn
nhận được sự quan tâm đầu tư lớn của Chính phủ vào công tác bảo quản, tu

bổ và phục hồi di tích, còn có ý muốn tăng nhanh hoạt động du lịch tại di tích;
qua đó tăng nguồn thu cho ngân sách địa phương, cải thiện một phần đời sống
nhân dân. Đây là một nguyện vọng chính đáng, tuy nhiên ở góc độ bảo tồn di
sản, nếu việc bảo tồn di sản không được coi trọng ngang bằng hoặc hơn việc
khai thác di sản thì sẽ dẫn đến tình trạng phá hoại di sản, làm cho di sản bị
xuống cấp, mai một nhanh chóng. Bên cạnh đó, nhận thức của người dân về
Luật Di sản văn hóa còn chưa đầy đủ nên tình trạng vi phạm bảo tồn di tích
còn xảy ra như việc cung tiến đồ thờ cúng bày đặt tùy tiện, gây phản cảm.
Thứ hai, sự quản lý của các cơ quan nhà nước còn lỏng lẻo, dẫn đến
nhiều di tích tiếp tục bị xâm phạm, lấn chiếm, đánh cắp, làm hư hại, thất thoát
khá nặng nề. Ở một số nơi, trong khi tiến hành bảo tồn, trùng tu đã không cẩn
thận, thiếu trách nhiệm, thiếu năng lực chuyên môn, làm biến dạng, mất giá trị
di tích, đặc biệt là các di tích lịch sử cách mạng, kháng chiến của nhân dân ta.
Không ít văn hóa phi vật thể đang mai một dần, nhất là vùng đồng bào dân tộc
thiểu số (chẳng hạn, chữ viết các dân tộc chưa phát triển). Nhiều hoạt động lễ
hội văn hóa có những biến tướng nhằm trục lợi gây sự phản cảm, thậm chí bất
bình với du khách... Bên cạnh đó, dù Nhà nước quan tâm đầu tư, nhưng
nguồn kinh phí đưa về các di tích vẫn còn quá ít so với nhu cầu thực tế. Cả

18


nước hiện vẫn còn hàng nghìn di tích quốc gia chưa được tu bổ; những di tích
được tu bổ chủ yếu vẫn bằng nguồn vốn xã hội hóa nên vừa yếu vừa thiếu.
Các di tích được đầu tư mới chỉ đáp ứng được mục tiêu gia cố, chống xuống
cấp cục bộ chứ chưa đủ khả năng thực hiện các dự án tổng thể nhằm tạo điều
kiện cần và đủ để di tích tồn tại lâu dài. Việc xã hội hóa các hoạt động văn
hóa tuy thu được những nguồn lực đáng kể để tu bổ, tôn tạo di sản, nhưng do
yếu kém trong khâu quản lí dẫn đến lộn xộn, nhập nhằng, thậm chí phô
trương phản cảm.

Thứ ba, về tổ chức bộ máy quản lý di sản, tuy mỗi di sản văn hóa đã có
một tổ chức quản lý riêng, song quy mô và cơ chế tổ chức của các cơ quan
giữa các di sản còn chưa thống nhất. Đội ngũ cán bộ chuyên môn nghiệp vụ ở
một số cơ quan quản lý di sản còn thiếu về số lượng và yếu về chất lượng,
nhất là trong bối cảnh hiện nay, Việt Nam có nhiều di sản thế giới rất cần một
đội ngũ cán bộ thực sự có chuyên môn cao. Việc học tập chuyên môn, ngoại
ngữ của một số cán bộ, nhân viên thiếu bài bản, chỉ nhằm phục vụ những lợi
ích trước mắt, chứ không chú ý chuyên sâu, nâng cao thường xuyên để đáp
ứng những đòi hỏi chuyên môn cao của ngành. Sự thiếu đồng bộ trong tổ
chức và đội ngũ cán bộ ảnh hưởng rất rõ đến công tác bảo tồn và phát huy giá
trị di sản văn hóa cũng như tài nguyên du lịch. Sự chồng chéo về quản lý và
nhiệm vụ đã tạo nên những mâu thuẫn, gây bất lợi cho di sản cả trong công
tác bảo tồn di tích và phát triển du lịch. Chính vì thế, chất lượng công tác
quản lý di sản cũng còn rất khác nhau. Các di sản thế giới của nước ta được
ghi vào danh mục di sản văn hóa và thiên nhiên thế giới rải ra trong nhiều
năm.
1.3. Một số kinh nghiệm về thực hiện chính sách bảo tồn và phát huy giá
trị di sản văn hóa

19


1.3.1. Kinh nghiệm của Hàn Quốc: Xây dựng thương hiệu qua di sản quốc gia
Mỗi di sản đều được Chính phủ xác định là tài sản và báu vật của
quốc gia và địa phương. Chính phủ Hàn Quốc hiện đã và đang rất nỗ lực
nâng cao vị thế và hình ảnh của Hàn Quốc như một phần của “Sáng kiến xây
dựng thương hiệu quốc gia” thông qua việc phát huy các di sản vật thể và
phi vật thể.
Chính phủ Hàn Quốc luôn tổ chức định kỳ các sự kiện ở từng địa
phương nhằm xúc tiến chương trình nâng cao nhận thức của mọi tầng lớp xã

hội, tạo điều kiện cho toàn dân hiểu về giá trị của đất nước mình để người dân
thấm nhuần những gì mình đang có, tôn vinh và nghiêm khắc trong ứng xử
với di sản của quốc gia. Chính quyền địa phương luôn tổ chức các cuộc thi
sáng tác, thi viết phóng sự các hoạt động liên quan đến công tác bảo tồn di
sản... Hầu như bất kỳ đại sứ quán nào của Hàn quốc trên thế giới cũng mang
đậm tinh thần “Hàn Quốc và di sản Hàn Quốc”.
1.3.2. Kinh nghiệm của Ấn Độ - bước đầu thành công
Nhận thức được các di sản sẽ mất đi ý nghĩa và sự truyền đạt thông tin
cho các thế hệ tương lai một khi bị hư hại bởi tác động của thiên tai cũng như
hoạt động của con người, vì vậy Chính phủ coi việc bảo tồn di sản phải có
hành động nghiêm túc và đã lập nên nhiều chiến lược cụ thể, dành kinh phí
đáng kể cho quá trình này. Với nỗ lực để New Dehli được công nhận là Thành
phố Di sản Thế giới của UNESCO, Chính phủ Ấn Độ đã tiến hành không biết
bao nhiêu chương trình và chiến dịch thúc đẩy xây con đường di sản kết nối
hơn 30 di tích lịch sử tại thành phố Thủ đô này với nhau. Đây cũng là nỗ lực
đầu tiên của Ấn Độ nhằm giúp New Dehli đủ điều kiện để được trao tặng
danh hiệu Thành phố Di sản Thế giới của UNESCO.
1.3.3. Chính sách văn hóa ở Nhật Bản
20


Đối với Nhật Bản, quan niệm di sản văn hoá là tài sản văn hoá không
chỉ dừng lại ở nhận thức mà còn được cụ thể hoá trong những đạo luật, chính
sách văn hoá, nổi bật nhất là Bộ luật bảo tồn các tài sản văn hoá được ban
hành vào những năm 80 của thế kỷ trước. Bộ luật ra đời nhằm thực hiện bảo
tồn di sản văn hoá trên cơ sở xác lập quyền sở hữu và bảo trợ của nhà nước.
Trong đó, Bộ luật quy định rõ, mọi tài sản văn hoá đều thuộc quyền sở hữu
của các công dân, các cơ quan sự vụ, các tổ chức chính phủ và phi chính phủ.
Quyền sở hữu của chủ sở hữu đối với tài sản văn hoá bao gồm quyền chiếm
hữu, quyền sử dụng và quyền định đoạt. Việc công nhận quyền của các chủ sở

hữu được đảm bảo bằng một “Giấy chứng nhận” do Bộ trưởng Bộ Giáo dục
cấp. Bộ luật cũng quy định rõ, chính phủ và các cấp chính quyền địa phương
phải tôn trọng quyền của các chủ sở hữu và quyền sở hữu của những người
hữu quan.
Chính phủ Nhật Bản nghiêm cấm việc bán các tài sản văn hoá ra nước
ngoài dưới mọi hình thức. Nhà nước bỏ tiền mua lại các tài sản văn hoá quan
trọng, trợ cấp một phần kinh phí và phương tiện kỹ thuật cho việc bảo tồn tài
sản văn hoá thuộc tư nhân đối với các tài sản hữu hình. Nhà nước nắm giữ vai
trò điều tiết hoạt động bảo tồn và khai thác tài sản văn hoá trong tổng thể các
hoạt động chung của toàn xã hội. Do đó, các di sản văn hoá vật thể được giữ
gìn trong các dự án phát triển.
1.3.4. Chính sách văn hóa ở Trung Quốc
Bên cạnh việc hoàn thiện pháp chế về bảo vệ các DSVH lịch sử, thực
hiện phân cấp bảo vệ văn vật, nhà nước yêu cầu các cấp chính quyền đưa việc
bảo vệ văn vật vào kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của địa phương, vào
quy hoạch xây dựng thành thị và nông thôn, vào ngân sách, vào cải cách thể
chế; đồng thời cũng nhấn mạnh nghĩa vụ bảo vệ của cộng đồng, huy động lực

21


×