Tải bản đầy đủ (.pdf) (89 trang)

Thực hành quyền công tố đối với các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe của con người từ thực tiễn tỉnh Bình Định (LV thạc sĩ)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (907.59 KB, 89 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

HỒ NHẬT NAM

THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ ĐỐI VỚI CÁC TỘI
XÂM PHẠM TÍNH MẠNG, SỨC KHỎE CỦA CON
NGƯỜI TỪ THỰC TIỄN TỈNH BÌNH ĐỊNH

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI, năm 2019


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

HỒ NHẬT NAM

THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ ĐỐI VỚI CÁC TỘI
XÂM PHẠM TÍNH MẠNG, SỨC KHỎE CỦA CON
NGƯỜI TỪ THỰC TIỄN TỈNH BÌNH ĐỊNH

Chuyên ngành : Luật Hình sự và Tố tụng hình sự
Mã số

: 8 38 01 04

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS PHÙNG THẾ VẮC


HÀ NỘI, năm 2019


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các
kết quả nêu trong Luận văn chưa từng được công bố trong bất kỳ công trình
nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính
xác, tin cậy, trung thực, chỉ rõ nguồn gốc.
Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa
vụ tài chính theo quy định của Học viện Khoa học – Xã hội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Học viện Khoa học – Xã hội
xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!.
Người cam đoan

Hồ Nhật Nam


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1. LÝ LUẬN THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ ĐỐI VỚI
CÁC TỘI XÂM PHẠM TÍNH MẠNG, SỨC KHỎE CỦA CON NGƯỜI7
1.1 Khái niệm thực hành quyền công tố đối với các tội phạm xâm phạm tính
mạng, sức khỏe của con người .......................................................................... 7
1.2 Đặc điểm thực hành quyền công tố đối với các tội xâm phạm tính mạng,
sức khỏe của con người ................................................................................... 13
1.3 Đối tượng và phạm vi thực hành quyền công tố đối với các tội xâm phạm
tính mạng, sức khỏe của con người................................................................. 17
1.4 Nội dung và ý nghĩa thực hành quyền công tố đối với các tội xâm phạm
tính mạng, sức khỏe của con người................................................................. 19

CHƯƠNG 2. THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ ĐỐI VỚI CÁC TỘI
XÂM PHẠM TÍNH MẠNG, SỨC KHỎE CỦA CON NGƯỜI TỪ THỰC
TIỄN TỈNH BÌNH ĐỊNH ............................................................................. 25
2.1 Quy định của pháp luật về thực hành quyền công tố đối với các tội xâm
phạm tính mạng, sức khỏe của con người....................................................... 25
2.2 Thực trạng thực hiện quy định của pháp luật về thực hành quyền công tố
đối với các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe của con người trên địa bàn tỉnh
Bình Định ........................................................................................................ 32
CHƯƠNG 3. NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG THỰC HÀNH QUYỀN
CÔNG TỐ ĐỐI VỚI CÁC TỘI XÂM PHẠM TÍNH MẠNG, SỨC
KHỎE CỦA CON NGƯỜI TỪ THỰC TIỄN TỈNH BÌNH ĐỊNH.......... 56
3.1 Nâng cao chất lượng quản lý, điều hành trong công tác thực hành quyền
công tố đối với các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe của con người .......... 56


3.2 Tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra, gắn công tố với
hoạt động điều tra ............................................................................................ 57
3.3 Chủ động đề ra yêu cầu điều tra có chất lượng, toàn diện ........................ 59
3.4 Nâng cao nhận thức về hoạt động thực hành quyền công tố đối với các vụ
án xâm phạm tính mạng, sức khỏe con người ................................................ 61
3.5 Xây dựng mối quan hệ phối hợp giữa Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát
trong hoạt động điều tra .................................................................................. 63
3.6 Nắm vững quan điểm và thực hiện đúng đường lối, chính sách của Đảng,
pháp luật của Nhà nước trong quá trình thực hành quyền công tố ................. 67
3.7 Tăng cường hướng dẫn áp dụng thực hiện BLTTHS 2015 ...................... 69
KẾT LUẬN .................................................................................................... 73
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT


BLHS

Bộ luật hình sự

BLTTHS

Bộ luật tố tụng hình sự

CQĐT

Cơ quan điều tra

ĐTV

Điều tra viên

HĐXX

Hội đồng xét xử

KSND

Kiểm sát nhân dân

KSV

Kiểm sát viên

TA


Tòa án

TAND

Tòa án nhân dân

THQCT

Thực hành quyền công tố

TTHS

Tố tụng hình sự

TNHS

Trách nhiệm hình sự

VAHS

Vụ án hình sự

VKSND

Viện kiểm sát nhân dân

XHCN

Xã hội chủ nghĩa



DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU

Bảng 2.1: Số vụ, số bị can các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe của con
người do VKS thụ lý giai đoạn 01/12/2014 đến 30/11/2018 so với các tội
phạm khác: ...................................................................................................... 39
Bảng 2.2: Tổng hợp báo cáo số việc người bị hại từ chối giám định về thương
tích trong cá vụ cố ý gây thương tích từ ngày 01/12/2014 đến 30/11/2018 tại
các huyện trên địa bàn tỉnh Bình Định............................................................ 42


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Thực hành quyền công tố của VKSND là chức năng đã được ghi nhận
trong các Nghị quyết của Đảng. Nghị quyết 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của
Bộ Chính trị đưa ra các nội dung về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư
pháp trong thời gian tới, trong Nghị quyết này đã nhấn mạnh “Viện kiểm sát
các cấp thực hiện tốt chức năng công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật
trong hoạt động tư pháp. Hoạt động công tố của VKS luôn phải được bắt đầu
thực hiện ngay từ khi khởi tố vụ án và đến trong suốt quá trình tố tụng nhằm
đảm bảo vấn đề không bỏ lọt tội phạm và người phạm tội; không làm oan
những người vô tội và phải xử lý kịp thời những trường hợp sai phạm của
những người tiến hành tố tụng trong khi thi hành nhiệm vụ được giao…”. [5,
Tr.12-13]
Đây là những chủ trương hết sức quan trọng về trách nhiệm, chức năng
công tố của Viện kiểm sát và sau này được thể chế hóa trong tại khoản 1 Điều
107 Hiến pháp năm 2013 của Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam:
“Viện kiểm sát nhân dân thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư
pháp”.

Bình Định là một tỉnh thuộc vùng duyên hải Nam Trung Bộ, nằm trong
Vùng kinh tế trọng điểm Miền Trung có vị trí địa lý, kinh tế đặc biệt quan
trọng trong việc giao lưu với các quốc gia ở khu vực Đông Nam Á và quốc tế.
Trong tiến trình đổi mới, Bình Định đã có nhiều chuyển biến tích cực trong
phát triển kinh tế - xã hội. Bên cạnh những thành tựu đạt được đó, là tình hình
tội phạm ngày càng phức tạp, đối tượng thực hiện hành vi phạm tội rất đa
dạng, tinh vi, liều lĩnh, gây khó khăn cho quá trình xác minh, giải quyết của
các cơ quan tiến hành tố tụng; đặc biệt là các tội phạm xâm phạm tính mạng,
sức khỏe của con người.
1


Ngoài các yếu tố lý do khách quan về tình hình tội phạm, đa số những
vụ án gặp phải vướng mắc có một phần trách nhiệm của các Kiểm sát viên,
chưa bám sát tiến độ điều tra; năng lực phân tích, tổng hợp, đánh giá chứng
cứ còn hạn chế; nhận định lỗi chưa phù hợp với diễn biến thực tế của tội
phạm dẫn đến những khó khăn cho công tác điều tra, truy tố, xét xử. Vì thế,
công tác thực hành quyền công tố cần phải được nâng cao hơn nữa, để VKS
phát huy tốt vai trò, trách nhiệm của mình trong công tác đấu tranh, phòng
chống tội phạm.
Trách nhiệm của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng
ngoài việc giải quyết vụ án hình sự một cách công khai, dân chủ, công bằng,
không làm oan người vô tội, không bỏ lọt tội phạm; đồng thời phải đảm bảo
công lý được thực thi. Đây cũng là đòi hỏi cấp thiết của xã hội, nhất là khi
chúng ta đang xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Để góp phần nâng cao chất lượng công tác thực hành quyền công tố đối
với các vụ án hình sự nói chung, các tội phạm xâm phạm tính mạng, sức khỏe
của con người nói riêng. Đồng thời, để tổng kết, đánh giá, rút kinh nghiệm và
đưa ra các giải pháp từ thực tiễn hoạt động công tác thực hành quyền công tố
trên địa bàn tỉnh Bình Định, tác giả đã chọn đề tài nghiên cứu “Thực hành

quyền công tố đối với các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe của con người từ
thực tiễn tỉnh Bình Định” là luận văn Thạc sĩ Luật học.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Hoạt động thực hành quyền công tố của Viện KSND là vấn đề đã được
nhiều tác giả nghiên cứu dưới góc độ lý luận, trên nhiều phương diện khác
nhau, trong đó phải kể đến một số công trình điển hình như sau:
- Nguyễn Hồng Chương (2012), Những vấn đề lý luận về thực hành
quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp của Viện KSND, Luận văn thạc
sĩ Luật học, Hà Nội. [3]
2


- Lê Hữu Thể (2005), Thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt
động tư pháp trong giai đoạn điều tra, Nxb Tư pháp, Hà Nội. [36]
- Phan Hoàng Tân (2011), Thực tiễn áp dụng pháp luật trong hoạt động
thực hành quyền công tố ở giai đoạn điều tra của Viện kiểm sát nhân dân ở
tỉnh Điện Biên, Luận văn thạc sĩ Luật học, Hà Nội. [35]
- Hoàng Công Hạnh (2011), Thực trạng chất lượng thực hành quyền
công tố và kiểm sát điều tra các vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân
cấp huyện trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh, Luận văn thạc sĩ Luật học, Hà Nội.
[15]
- Bùi Mạnh Cường (2012), Gắn công tố với hoạt động điều tra trong tố
tụng hình sự theo tinh thần Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ X - Một số vấn
đề lý luận và thực tiễn, Luận văn thạc sĩ Luật học, Hà Nội. [4]
Tuy nhiên, chưa có một công trình khoa học nào nghiên cứu hoạt động
THQCT cụ thể đối với vụ án xâm phạm tình mạng, sức khỏe của con người.
Vì vậy, việc nghiên cứu đề tài "Thực hành quyền công tố đối với các tội xâm
phạm tính mạng, sức khỏe của con người từ thực tiễn tỉnh Bình Định” là một
đòi hỏi cấp thiết, có ý nghĩa thực tiễn sâu sắc.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục đích nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu, kế thừa có chọn lọc của các công trình khoa học
đi trước để làm sâu sắc thêm lý luận và làm rõ thực trạng, đưa ra các đề xuất,
phương hướng để nâng cao chất lượng THQCT các tra vụ án xâm phạm tính
mạng, sức khỏe con người nói riêng và các vụ án hình sự nói chung. Qua đó
góp phần hoàn thiện các quy định của pháp luật hình sự về tội xâm phạm tính
mạng, sức khỏe của con người; pháp luật tố tụng hình sự trong THQCT các
vụ án hình sự theo tinh thần cải cách tư pháp mà Nghị quyết số 49-NQ/TW
ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị đề ra.
3


3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Nhằm đạt được những mục đích đã đề ra, luận văn cần phải nghiên cứu,
làm rõ được những vấn đề như sau:
- Phân tích nhằm làm rõ lý luận về thực hành quyền công tố đối với các
tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe của con người;
- Phân tích thực trạng quy định pháp luật và thực trạng của công tác
thực hành quyền công tố đối với các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe con
người trên địa bàn tình Bình Định từ năm 2014 đến 2018.
- Nghiên cứu và làm rõ nguyên nhân của những hạn chế, vướng mắc
trong hoạt động thực hành quyền công tố đối với các tội xâm phạm tính
mạng, sức khỏe con người trên địa bàn tỉnh Bình Định làm cơ sở cho việc đưa
ra giải pháp.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Trong luận văn, đối tượng nghiên cứu là những vấn đề lý luận về thực
hành quyền công tố, thực trạng quy định và thực tiễn áp dụng quy định này
BLTTHS 2015 đối với các tội xâm phạm sức khỏe của con người trên địa bàn
tỉnh Bình Định.

Do thời điểm làm luận văn là thời kỳ giao thoa giữa việc áp dụng
BLTTHS năm 2003 và BLTTHS 2015 nên trong quá trình phân tích tác giả sẽ
so sánh, đối chiếu những điểm mới của BLTTHS 2015 so với BLTTHS năm
2003 về thực hành quyền công tố của VKSND qua các giai đoạn tố tụng.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Trong luận văn tác giả đã đề cập, nghiên cứu một số vấn đề về thực
hành quyển công tố trong các giai đoạn tiếp nhận tố giác tin báo về tội phạm,
kiến nghị khởi tố; giai đoạn khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử đối với các vụ án
xâm phạm sức khỏe con người quy định tại các điều từ Điều 123 - 140 BLHS
4


năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017 (và tại các điều từ Điều 104 - 110 BLHS
năm 1999 sửa đổi bổ sung năm 2009) theo quy định của BLTTHS năm 2003,
BLTTHS năm 2015 trên địa bàn Bình Định trong thời gian 05 năm (từ năm
2014 đến năm 2018).
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Trong luận văn này, tác giả thực hiện trên cơ sở phương pháp luận chủ
nghĩa duy vật biện chứng mác-xít, chủ nghĩa duy vật lịch sử. Ngoài ra còn,
dựa trên cơ sở tư tưởng Hồ Chí Minh nhận thức về Nhà nước và pháp luật.
Các đường lối, chủ trương, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về xây dựng
Nhà nước pháp quyền. Những vấn đề cải cách tư pháp được thể hiện thông
qua các chính sách về hình sự, tố tụng hình sự. Các Nghị quyết của Đảng về
nâng cao chất lượng thực hành Quyền công tố. Nghị quyết Nghị quyết số 49NQ/TW ngày 02/6/2005; các Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002.
Trong quá trình nghiên cứu đề tài, tác giả đã sử dụng một số phương
pháp cụ thể và đặc thù của khoa học luật tố tụng hình sự, khoa học điều tra
hình sự và các phương pháp, và các kỹ năng khác như: phương pháp so sánh,
đối chiếu; phương pháp phân tích và tổng hợp; phương pháp quy nạp; phương
pháp diễn dịch; phương pháp thống kê, điều tra xã hội học về tội phạm cố ý
gây thương tích, giết người để tổng hợp các tri thức khoa học luật tố tụng hình

sự và luận chứng các vấn đề được đưa ra nghiên cứu trong luận văn.
6. Ý nghĩa lý luận và ý nghĩa thực tiễn của luận văn
Kết quả nghiên cứu đề tài “Thực hành quyền công tổ đối với các tội
phạm xâm phạm tính mạng, sức khỏe của con người từ thực tiễn tỉnh Bình
Định”có ý nghĩa quan trọng về phương diện lý luận và thực tiễn, giải quyết
nhiều vấn đề quan trọng trong việc áp dụng pháp luật tố tụng hình sự và hình
sự để làm sáng tỏ các vấn đề cần chứng minh trong vụ án hình sự thông qua
hoạt động THQCT của Viện kiểm sát.
5


Những điểm mới cơ bản của luận văn là:
- Phản ánh được thực trạng THQCT vụ án xâm phạm tính mạng, sức
khỏe của con người; Phân tích, đánh giá, chỉ ra được những tồn tại, hạn chế
mà hoạt động THQCT vụ án xâm phạm tính mạng, sức khỏe của con người
thường gặp phải;
- Đưa ra những vấn đề cần lưu ý, những kinh nghiệm khi THQCT xâm
phạm tính mạng, sức khỏe của con người; Đề xuất hoàn thiện các quy định
của pháp luật tố tụng hình sự cũng như pháp luật hình sự liên quan đến
THQCT xâm phạm tính mạng, sức khỏe của con người trong chiến lược cải
cách tư pháp hiện nay.
Bên cạnh đó, luận văn sẽ là một tài liệu tham khảo cần thiết và bổ ích
dành cho không chỉ các học viên cao học và sinh viên thuộc chuyên ngành
Luật hình sự và tố tụng hình sự tại các cơ sở đào tạo luật, mà đặc biệt là cán
bộ VKSND tỉnh Bình Định trong công tác thực tiễn.
7. Kết cấu của luận văn
Kết cấu của luận văn, nội dung gồm có 3 chương, bên cạnh đó là các
phần phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo. Cụ thể các
chương như sau:
Chương 1: Lý luận thực hành quyền công tố đối với các tội xâm phạm

tính mạng, sức khỏe con người
Chương 2: Thực trạng thực hành quyển công tố đối với các tội xâm
phạm tính mạng, sức khỏe con người từ thực tiễn tỉnh Bình Định
Chương 3: Nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố đối với các
tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe con người từ thực tiễn tỉnh Bình Định.

6


CHƯƠNG 1
LÝ LUẬN THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ ĐỐI VỚI CÁC TỘI XÂM
PHẠM TÍNH MẠNG, SỨC KHỎE CỦA CON NGƯỜI
1.1 Khái niệm thực hành quyền công tố đối với các tội phạm xâm
phạm tính mạng, sức khỏe của con người
Khi nghiên cứu chức năng của VKS chúng ta hay nhắc đến khái niệm
thực hành quyền công tố, ngoài ra còn xuất hiện khái niệm quyền công tố hay
Công tố quyền. Cho đến nay, trong các nghiên cứu có rất nhiều quan điểm về
quyền công tố; có quan điểm cho rằng: quyền công tố gắn liền với sự phát
triển của khoa học pháp lý, khi mà các khái niệm dân chủ và quyền con người
được đề cao, đòi hỏi cần phải có một cơ quan thay mặt nhà nước đứng ra bảo
vệ quyền bị xét xử bởi các cơ quan tư pháp. Quan điểm khác lại coi công tố là
một quyền độc lập, chỉ có trong xã hội dân chủ, nhằm bảo vệ quyền của các
chủ thể quan hệ pháp luật khi tham gia quá trình tố tụng tại phiên tòa và thực
hiện các quyền theo quy định của pháp luật. Quan điểm thứ ba cho rằng, khi
chúng ta tách Tòa án ra khỏi hệ thống các cơ quan hành pháp, đồng thời với
sự phát triển của hệ thống pháp luật thì chức năng công tố mới xuất hiện.
Ngoài ra không đồng ý với các quan điểm nêu trên, một số học giả cho rằng,
quyền công tố là một khái niệm pháp lý, gắn liền với bản chất của nhà nước
và xuất hiện cùng với sự ra đời của nhà nước và pháp luật. Quyền công tố gắn
liền với hầu hết các kiểu nhà nước mà lịch sử ghi nhận, từ nhà nước chủ nô

đến các nhà nước hiện đại ngày nay.
Từ những phân tích trên, quan điểm của tác giả cho rằng: “quyền công
tố là một khái niệm pháp lý gắn liền với bản chất của nhà nước. Nó xuất hiện
và gắn liền với sự ra đời của nhà nước và pháp luật, tồn tại bên cạnh nhà nước
và mất đi khi không còn nhà nước”. Đồng thời, đồng ý với quan điểm của TS.
7


Lê Hữu Thể khi đưa ra định nghĩa về quyền công tố: “Quyền công tố là quyền
của một Cơ quan, cơ quan này nhân danh, đại diện nhà nước thực hiện việc
truy cứu trách nhiệm hình sự đối với những người thực hiện hành vi phạm tội.
Quyền công tố này là Quyền thuộc về nhà nước, và nhà nước ta đã giao phó
cho một cơ quan nhất định thực hiện (ở Việt Nam ta là Cơ quan Viện kiểm
sát) nhằm phát hiện tội phạm và truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người
phạm tội. Để thực hiện những vấn đề này, cơ quan có chức năng (ở đây là
Viện Kiểm Sát) thực hành quyền công tố phải luôn đề cao, có trách nhiệm
đảm bảo công tác thu thập chứng cứ phải hoàn thiện, đầy đủ tài liệu, để
chứng minh hành vi phạm tội. Dựa trên những cơ sở đó để quyết định truy tố
bị can ra trước Toà án và bảo vệ sự buộc tội đó trước phiên toà”. [35, Tr 18]
Khi nghiên cứu về thực hành quyền công tố, trong giới nghiên cứu luật
học hiện nay vẫn còn bảo vệ quan điểm, hai xu hướng khác nhau: Thứ nhất,
họ cho rằng việc thực hành quyền công tố luôn đi đôi với việc thực hiện
những nhiệm vụ khác của những Công tố viên trong tố tụng hình sự. Thứ hai,
một số nhà nghiên cứu họ chỉ đưa ra một số biện pháp (hoạt động) pháp lý cụ
thể như: Lập cáo trạng, luận tội trước phiên tòa sơ thẩm hình sự và xem đó là
thực hành quyền công tố, thậm chí một số người còn cho rằng thực hành
quyền công tố chỉ là sự buộc tội của công tố viên trước phiên tòa sơ thẩm.
Những năm trở lại đây, có một số học giả đã nghiên cứu một số công
trình khoa học về thực hành quyền công tố hoặc một số bài bình luận liên
quan đến thực hành quyền công tố, tuy nhiên những công trình này mới chỉ

dừng lại ở việc đưa ra được một số biện pháp để nâng cao chất lượng, hiệu
quả công tác kiểm sát như thực hiện công tác kiểm sát điều tra, công tác kiểm
sát xét xử các vụ án hình sự, công tác kiểm sát tạm giữ, tạm giam, giam, giữ
và cải tạo, kiểm sát việc thi hành án hình sự. Ngoài ra những công trình này
còn bộc lộ một số hạn chế về mặt nhận thức của một số học giả luật học làm
8


công tác nghiên cứu và thực tiễn trong, ngoài ngành kiểm sát đã có sự nhầm
lẫn giữa quyền công tố với thực hành quyền công tố trên nhiều phương diện
như đối tượng, nội dung, phạm vi. Đồng thời các công trình nghiên cứu này
luôn luôn gắn quyền công tố chỉ với VKS, coi đó là quyền năng của duy nhất
cơ quan VKS. Vì những nguyên nhân như vậy nên các học giả đã chưa giải
thích được một số vấn đề là khi một số cơ quan tiến hành tố tụng như CQ
CSĐT, TA thực hiện các biện phải như khởi tố vụ án, khởi tố bị can... cho nên
cần phải nhận thức, trong thực tiễn các cơ quan này có phải cũng thực hành
quyền công tố hay không.
Nhà nước ta đã tổ chức một hệ thống cơ quan cụ thể nhằm thực hiện
quyền lực của nhà nước trên một lĩnh vực nhất định. Hệ thống tập hợp các cơ
quan này có một vai trò vô cùng quan trọng trong công tác phối hợp giữa cơ
quan nhà nước với nhau nhằm thực hiện quyền lực nhà nước (các quyền lực
mà Nhà nước đã giao quyền). Hầu hết các nước trên thế giới thành lập cơ
quan công tố chuyên biệt để thực hành quyền công tố, với một số quyền hạn
và trách nhiệm tố tụng được pháp luật TTHS ghi nhận trong suốt quá trình
điều tra, truy tố, xét xử.
Không thể tồn tại một cơ quan nhà nước nào khác để có thể thay thế
được Viện kiểm sát trong việc sử dụng quyền công tố; Các công tác bắt tạm
giữ, tạm giam, tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị
khởi tố; điều tra, truy tố, xét xử có đúng người, đúng tội, đúng pháp luật hay
không, đó chính là việc, trách nhiệm của Viện kiểm sát phải bảo đảm cho hợp

lý, tốt. Những vấn đề này đã được quy định cụ thể tại vào Hiến pháp, Bộ Luật
Tố Tụng Hình Sự, Luật Tổ chức Viện KSND và các quy định hiện hành. Chắc
chắn không thể có một cơ quan nào khác có thể đảm đương, thay thế Viện
kiểm sát thực hành quyền công tố, vì các lý do sau:

9


a. Viện kiểm sát là cơ quan duy nhất trong hệ thống pháp luật hiện hành
về mặt pháp lý có quyền tự mình độc lập phát động quyền công tố.
b.VKS có quyền áp dụng, hoặc thay đổi, hủy bỏ các biện pháp ngăn
chặn, CQĐT chỉ có quyền đề nghị trên cơ sở Phê chuẩn của VKS.
c.Trong quá trình thực hành hoạt động điều tra vụ án hình sự, VKS có
trách nhiệm đánh giá, đảm bảo các chứng cứ đủ căn cứ để truy tố bị can.
d.Thông qua các biện pháp xác minh, điều tra, VKS ban hành quyết
định truy tố bị can trước pháp luật (Tòa án) khi và chỉ khi, VKS nhận thấy có
đủ căn cứ để chứng minh hành vi phạm tội. Ngay tại phiên tòa hình sự, VKS
có trách nhiệm bảo đảm việc truy tố bị cáo là có căn cứ và đúng pháp luật.
Bản án của Tòa án là việc HĐXX đã chấp nhận cáo trạng truy tố của Viện
kiểm sát là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
Từ những phân tích, đánh giá nêu trên, khái niệm thực hành quyền
công tố trong tố tụng hình sự có thể được hiểu như sau: Thực hành quyền
công tố trong tố tụng hình sự là việc Viện kiểm sát sử dụng tổng hợp các
quyền năng pháp lý do pháp luật quy định để thực hiện việc truy cứu trách
nhiệm hình sự đối với người phạm tội, nhằm đảm bảo mọi hành vi phạm tội,
người phạm tội phải được phát hiện, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử kịp thời,
nghiêm minh, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
Con người là một thực thể của xã hội, là đối tượng hàng đầu được pháp
luật bảo vệ đặc biệt. Thực hiện việc bảo vệ con người trước hết là bảo vệ tính
mạng, sức khoẻ, nhân phẩm, danh dự và tự do của họ, bởi đó là những vấn đề

có ý nghĩa quan trọng hàng đầu đối với bất kỳ một ai. Hiến pháp nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 đã đánh dấu một bước tiến lớn
trong lĩnh vực quyền con người. Nếu như quyền con người trong Hiến pháp
1992 chỉ thể hiện tại Điều 50 thì Hiến pháp năm 2013 đã dành một chương
riêng (chương II) quy định về quyền con người, quyền và nghĩa vụ công dân.
10


Trong chương này, các quyền con người, trong đó có quyền được tôn trọng và
bảo vệ tính mạng, sức khỏe được quy định cụ thể và phù hợp, tương thích với
các công ước quốc tế về quyền con người mà Việt Nam tham gia. Điều 19
quy định: “Mọi người có quyền sống. Tính mạng con người được pháp luật
bảo hộ. Không ai bị tước đoạt tính mạng trái luật”.
Đặc biệt, quyền này còn được bảo vệ bởi văn bản luật quan trọng là Bộ
luật hình sự. Bộ luật hình sự Việt Nam cũng cấm những hành vi trái pháp luật
xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe của con người và đưa ra những chế tài đối
với loại hành vi này.
Tuy nhiên, để hiểu rõ khái niệm "các tội xâm phạm tính mạng sức khỏe
của con người", chúng ta cần tìm hiểu khái niệm “tính mạng” "sức khỏe".
Tính mạng chính là sự sống của con người. Theo quan niệm của Tổ chức Y tế
Thế giới thì "Sức khỏe không phải là yếu đuối, hay không có bện tất mà chính
là có một trạng thái sảng khoái về mặt thể chất, tinh thần và xã hội chứ, có đủ
điều kiện phát triển thể chất tốt, trí tuệ được nâng cao, phát triển trong một xã
hội lành mạnh". Cho nên, sức khỏe là một vấn đề cá nhân của mỗi con người.
Vì vậy, mỗi người đều được quyền tôn trọng và bảo vệ sức khỏe của mình.
Trong các Giáo trình luật hình sự Việt Nam và một số tài liệu nghiên
cứu, bình luận chuyên sâu hiện nay chủ yếu đưa ra khái niệm chung về các tội
xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con người, ít có khái
niệm riêng về các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe của con người, có thể
điểm qua như sau:

GS.TS. Trần Quang Hòa đưa ra quan điểm: "Các tội xâm phạm tính
mạng và sức khỏe chính là những hành vi (có thể biểu hiện là hành động hoặc
không hành động); là một hành vi có lỗi (lỗi này có thể là cố ý hoặc vô ý) của
một cá nhân cụ thể, xâm phạm đến quyền được tôn trọng và bảo vệ tính
mạng, sức khỏe của người khác". [16, Tr.11]
11


TS. Nguyễn Thái Phúc thì có một quan điểm khác cho rằng: các tội
xâm phạm tính mạng, sức khỏe của con người chính là những hành vi nguy
hiểm cho xã hội của một cá nhân, với hành động cố ý hoặc vô ý xâm phạm
đến sức khỏe của con người. [26, Tr.9]
ThS. Trần Văn Luyện quan niệm đó chắc chắn chính là những hành vi
nguy hiểm cho xã hội của một cá nhân (không thể là pháp nhân), đây là hành
vi có lỗi nhằm gây tổn hại hoặc đe dọa gây tổn hại đến quyền sống, quyền
được bảo hộ về sức khỏe của con người. [18,Tr.8]
TS. Đỗ Hải Hà quan niệm: "Các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe của
con người được thể hiện qua những hành vi có lỗi cố ý hoặc vô ý, nhằm mục
đích xâm phạm đến quan hệ nhân thân của một cá nhân (không phải là pháp
nhân); và các nội dung của vấn đề này là quyền được sống; tôn trọng và bảo
vệ sức khỏe ".[14, Tr.12]
Về cơ bản các quan điểm trên đều tiếp cận dưới góc độ pháp lý, đều
phản ánh nội hàm khái niệm các tội xâm phạm sức khỏe của con người. Các
khái niệm trên đều đưa ra những phân tích cụ thể, cho ta thấy được được đặc
điểm của các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe của con người. Đây là những
hành vi có chủ đích (cố ý) hoặc vô ý (những hành vi nguy hiểm cho xã hội),
có đặc điểm có lỗi và xâm phạm quyền được sống; bảo hộ về sức khỏe của
một cá nhân, con người cụ thể.
Tuy nhiên, ở chừng mực nhất định, có quan điểm lại không đề cập đến
dấu hiệu chủ thể là người có năng lực trách nhiệm hình sự, dấu hiệu tuổi chịu

trách nhiệm hình sự của chủ thể hoặc chưa khẳng định rõ khách thể của tội
phạm này là quyền được tôn trọng và bảo vệ sức khỏe của con người được
pháp luật bảo vệ.
Từ những phân tích trên, theo tác giả, dưới góc độ khoa học pháp lý
luật hình sự, các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe của con người là những
12


hành vi có lỗi (cố ý hoặc vô ý) gây nguy hiểm cho xã hội; những hành vi này
phải do người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự và phải đủ tuổi chịu trách
nhiệm hình sự thực hiện; ngoài ra những hành vi này cụ thể được quy định
trong Bộ luật hình sự; và hành vi này được thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý
xâm phạm tới quyền được bảo vệ về tính mạng, sức khỏe của người khác
được Hiến pháp và pháp luật hình sự quy định.
Từ những phân tích, đánh giá nêu trên, tác giả đưa ra khái niệm thực
hành quyền công tố đối với các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe của con
người như sau:
“Thực hành quyền công tố đối với các tội xâm phạm tính mạng, sức
khỏe của con người là việc Viện Kiểm Sát sử dụng tổng hợp các quyền năng
pháp lý do pháp luật quy định để thực hiện việc truy cứu TNHS đối với người
thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm quyền được tôn trọng và
bảo vệ tính mạng, sức khỏe của người khác nhằm đảm bảo mọi hành vi phạm
tội, người phạm tội phải được phát hiện, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử kịp
thời, nghiêm minh, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật”
1.2 Đặc điểm thực hành quyền công tố đối với các tội xâm phạm
tính mạng, sức khỏe của con người
Khi thực hành quyền công tố đối với các tội xâm phạm tính mạng, sức
khỏe của con người chúng ta cần lưu tâm đến vấn đề có hay không có yêu cầu
khởi tố, nếu rơi vào trường hợp khoản 1 Điều 134 BLHS thì cần phải có yêu
cầu khởi tố của người bị hại hoặc đại diện bị hại, cơ quan chức năng mới xử

lý. Ngoài ra tỉ lệ tổn thương cơ thể cũng là một đặc trưng riêng biệt đối với
loại tội phạm này, nếu tỉ lệ tổn thương cơ thể từ 31% trở lên, hoặc từ 11% đến
30% nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm từ điểm a
đến điểm k khoản 1 Điều 134 BLHS thì không cần có yêu cầu khởi tố, cơ
quan chức năng vẫn vào cuộc xử lý, vì vậy giám định tỉ lệ tổn thương cơ thể
13


là một yêu cầu bắt buộc đối với nhóm tội phạm này. Ngoài ra để thực hiện tốt
hoạt động THQCT đối với các vụ án xâm phạm tính mạng, sức khỏe cần phải
xem xét các đặc điểm đặc trưng của nhóm tội này như:
Khách thể của các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, của con
người
Khách thể của các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, của con người
được thể hiện đó là, các tội phạm này xâm phạm đến quyền sống, quyền được
bảo hộ về sức khỏe của con người. Đối tượng tác động của các tội phạm này
là con người cụ thể. Theo đó, con người phải là một cơ thể còn sống và có
thời điểm tính từ khi sinh ra cho đến khi chết. Điều này cho thấy, không thể
coi một con người đang còn sống khi chưa lọt lòng mẹ (còn ở trong bào thai)
hoặc khi người đó đã chết.
Tính mạng ở đây được hiểu là quyền sống của con người. Quyền sống
chính là quyền tự nhiên có được khi con người sinh ra, đây là một quyền rất
thiêng liêng và hết sức cao quý được hiến pháp và pháp luật bảo vệ. Các hành
vi của các cá nhân xâm phạm tới tính mạng con người có thể được hiểu là sự
tác động làm thay đổi hiện trạng của đối tượng tác động là con người đang
còn sống.
Sức khỏe của con người là tình trạng sức lực của con người đang sống
trong điều kiện bình thường, là trạng thái tâm sinh lý, sự hoạt động hài hoà
trong cơ thể cả về thần kinh và cơ bắp, tạo nên khả năng chống lại bệnh tật.
Hành vi xâm phạm sức khỏe con người là hành vi một người nào đó dùng tác

động ngoại lực hoặc bất kỳ hình thức nào làm cho người đó yếu đi hoặc gây
ra những tổn thương ở các bộ phận trong cơ thể, gây bệnh tật, làm ảnh hưởng
đến hoạt động bình thường của người đó. Nó làm tổn hại đến khả năng suy
nghĩ, học tập, lao động, sáng tạo của nạn nhân.

14


Mặt khách quan của các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe của
con người
Mặt khách quan của các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe của con
người thể hiện ở những hành vi nguy hiểm cho xã hội (hành động hoặc không
hành động) xâm phạm trực tiếp tới tính mạng, sức khỏe của con người. Trong
Chương XIV của Bộ luật hình sự, đa số các hành vi nguy hiểm cho xã hội
được thực hiện bằng hành động phạm tội như: sử dụng các công cụ, phương
tiện khác nhau để gây nên sự tác động tới con người cụ thể, gây ra những thiệt
hại hoặc đe dọa gây ra những thiệt hại cho con người đó. Cá biệt cũng có
những tội phạm, hành vi nguy hiểm cho xã hội được thể hiện dưới dạng
không hành động phạm tội như: Tội không cứu giúp người đang ở trong tình
trạng nguy hiểm đến tính mạng – Điều 132 hoặc hành vi không cho con do
mình đẻ ra bú sữa gây ra cái chết cho đứa trẻ là một dạng hành vi không hành
động phạm tội trong Tội giết hoặc vứt bỏ con mới đẻ – Điều 124.
Mặt khách quan của tội phạm còn thể hiện ở hậu quả nguy hiểm cho xã
hội. Hậu quả nguy hiểm cho xã hội của các tội phạm này là những thiệt hại về
thể chất như chết người; thiệt hại về sức khỏe; cách ly trẻ em khỏi sự quản lý
của gia đình hoặc người thân; truyền bệnh nguy hiểm cho người khác… Phần
lớn các tội phạm thuộc Chương XIV Bộ luật hình sự đều có cấu thành vật
chất, tức là hậu quả là yếu tố bắt buộc của cấu thành tội phạm. Để truy cứu
trách nhiệm hình sự về các tội phạm này cần phải làm rõ mối quan hệ nhân
quả giữa hành vi và hậu quả do hành vi đó gây ra.

Chủ thể của các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe của con người
Chủ thể của tội phạm là người có năng lực trách nhiệm hình sự hoặc
pháp nhân thương mại thực hiện. Tuy nhiên do phần Chung của Bộ luật hình
sự quy định pháp nhân thương mại chỉ có thể là chủ thể của một số tội phạm
nhất định, trong đó không có các tội phạm xâm phạm tính mạng, sức khỏe,
15


nhân phẩm, danh dự nên các tội phạm này chủ thể chỉ có thể là cá nhân có
năng lực trách nhiệm hình sự và đạt một độ tuổi nhất định. Tuy nhiên, đối với
một số tội phạm, thì ngoài dấu hiệu chung, chủ thể của tội phạm còn cần có
các dấu hiệu đặc biệt như: người đang thi hành công vụ trong Điều 137; người
có chức vụ, quyền hạn hoặc có quan hệ nhất định đối với người bị lệ thuộc
(Điều 130, Điều 140).
Mặt chủ quan của các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe của con
người
Phần lớn các tội phạm được thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp (như tội giết
người, tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác,
v.v..). Tuy vậy, cũng có tội phạm được thực hiện với lỗi vô ý (như tội vô ý
làm chết người (Điều 128); vô ý gây thương tích hoặc tổn hại sức khỏe cho
người khác (Điều 138), v.v.. Ngoài ra, một số tội phạm ở Chương này còn
được thực hiện với lỗi cố ý gián tiếp, như tội bức tử (Điều 130), tội gây
thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe cho người khác trong khi thi hành công
vụ (Điều 137), v.v..
Đối với một số tội, mục đích và động cơ phạm tội là dấu hiệu bắt buộc
trong cấu thành tội phạm như tội giết người do vượt quá giới hạn phòng vệ
chính đáng (Điều 126); tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức
khỏe của người khác do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng (Điều 136).
Ngoài ra, Bộ luật hình sự còn quy định động cơ hoặc mục đích phạm tội là
dấu hiệu bắt buộc trong cấu thành tăng nặng ở một số cấu thành tăng nặng

như động cơ đê hèn (điểm q khoản 1 Điều 123 tội giết người; điểm c khoản 2
các điều 151, 152, 153 – các tội mua bán, đánh tráo hoặc chiếm đoạt trẻ em);
để thực hiện hoặc che giấu tội phạm khác, để lấy bộ phận cơ thể của nạn nhân
(điểm g, h khoản 1 Điều 123 – tội giết người); để che giấu hoặc trốn tránh
việc bị xử lý về một tội phạm khác (điểm d khoản 2 Điều 133 tội đe dọa giết
16


người); để cản trở người thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân
(điểm n khoản 1 Điều 134 tội cố ý gây thương tích, v.v..); để sử dụng vào
mục đích vô nhân đạo, để đưa ra nước ngoài (điểm b khoản 1, điểm đ khoản 2
Điều 150 – tội mua bán người; điểm h, e khoản 2 các điều 151, 152, 153 – các
tội mua bán, đánh tráo hoặc chiếm đoạt trẻ em). Đối với các tội khác, động
cơ, mục đích phạm tội không phải là dấu hiệu bắt buộc.
1.3 Đối tượng và phạm vi thực hành quyền công tố đối với các tội
xâm phạm tính mạng, sức khỏe của con người
1.3.1 Đối tượng thực hành quyền công tố đối với các tội xâm phạm
tính mạng, sức khỏe của con người
Quyền được tôn trọng và bảo vệ tính mạng, sức khỏe của con người
nằm trong hệ thống các quyền cơ bản của con người được pháp luật quốc tế
và pháp luật của nhiều quốc gia ghi nhận và bảo vệ. Trong thời đại toàn cầu
hóa, việc đảm bảo quyền con người nói chung và quyền được tôn trọng và
bảo vệ tính mạng, sức khỏe nói riêng được xem là thước đo trình độ phát
triển, tính ưu việt của mọi chế độ. Tính mạng, sức khỏe vốn là tài sản vô giá
của mỗi con người, mọi hành vi xâm phạm trái luật đến tính mạng, sức khỏe
của con người đều phải bị xử lý nghiêm minh. Tuy nhiên, không phải trường
hợp nào xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe con người cũng đều bị xử lý hình
sự; để có đủ căn cứ xử lý hình sự đối với tội phạm xâm phạm tính mạng, sức
khỏe thì cần phải căn cứ vào độ tuổi của người thực hiện hành vi, thực tế diễn
biến của hành vi làm chết người: như hành vi gây chết người trong trường

hợp phòng vệ chính đáng, tình thế cấp thiết thì không phạm tội giết người;
hoặc là định lượng của hành vi gây tổn hại đến sức khỏe của người khác dưới
11% mà không thuộc một trong các trường hợp quy định tại khoản 2 điều 134
BLHS 2015 và không có đơn yêu cầu xử lý hình sự thì cũng không phạm tội.

17


Như vậy đối tượng của quyền công tố chỉ có thể là hậu quả của hành vi phạm
tội và người phạm tội.
1.3.2 Phạm vi thực hành quyền công tố đối với các tội xâm phạm tính
mạng, sức khỏe của con người
Đây là vấn đề được bàn luận rất nhiều, và chưa có ý kiến đồng nhất bởi
các học giả nghiên cứu. Bởi vậy, khi chúng ta xem xét, cần có cái nhìn cẩn
trọng và phải phân biệt cụ thể, rõ ràng, đầy đủ chính xác giữa phạm vi của
quyền công tố với phạm vi thực hành quyền công tố. Việc xác định đúng đắn
phạm vi thực hành quyền công tố có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong việc
nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động thực hành quyền công tố nói chung
và hoạt động thực hành quyền công tố đối với các tội xâm phạm tính mạng,
sức khỏe nói riêng, nhằm chống bỏ lọt tội phạm, không làm oan người vô tội.
Khi có tội phạm xảy ra, quyền công tố được thực hiện và kết thúc khi
bản án được tòa án tuyên tại phiên tòa có hiệu lực pháp luật theo quy định của
pháp luật. Quyền công tố bao gồm các hoạt động làm rõ tội phạm, hành vi
phạm tội, truy tố tội phạm và người phạm tội ra trước tòa án và bảo vệ cáo
trạng, quyết định truy tố của cơ quan công tố, Viện kiểm sát tại phiên tòa.
Một số quan điểm cho rằng, VKS thực hiện việc truy tố và buộc tội bị
cáo trước phiên tòa chính chính là phạm vi thực hành quyền công tố của VKS.
Bên cạnh đó cũng có một số nhận định cho rằng, phạm vi thực hành quyền
công tố bắt đầu từ khi có hành vi phạm tội, tội phạm xảy ra cho đến khi người
phạm tội thi hành xong bản án đã được TA tuyên.

Trong TTHS nước ta, VKS là cơ quan duy nhất được giao chức năng
thực hành quyền công tố và thực hiện xuyên suốt ở các giai đoạn tố tụng, bởi
vì việc tiến hành các hoạt động tố tụng suy cho cùng bao giờ cũng gắn với
việc buộc tội. Tuy nhiên ở giai đoạn thi hành án thì không còn việc buộc tội

18


×