VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
PHAN THỊ BÍCH THUẬN
XỬ LÝ VI PHẠM HỢP ĐỒNG BÁN ĐẤU GIÁ
TÀI SẢN THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM TỪ
THỰC TIỄN TỈNH QUẢNG NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI, năm 2019
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
PHAN THỊ BÍCH THUẬN
XỬ LÝ VI PHẠM HỢP ĐỒNG BÁN ĐẤU GIÁ
TÀI SẢN THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM TỪ
THỰC TIỄN TỈNH QUẢNG NAM
Chuyên ngành : Luật kinh tế
Mã số
: 8 38 01 07
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. ĐẶNG VŨ HUÂN
HÀ NỘI, năm 2019
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn này là công trình nghiên cứu thực sự của cá
nhân tôi, chưa được công bố trong bất cứ một công trình nghiên cứu nào. Các
số liệu, nội dung được trình bày trong luận văn này là hoàn toàn hợp lệ và
đảm bảo tuân thủ các quy định về bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ.
Tác giả
Phan Thị Bích Thuận
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN PHÁP LUẬT VỀ XỬ LÝ VI
PHẠM HỢP ĐỒNG ĐẤU GIÁ TÀI SẢN ................................................... 7
1.1. Khái quát về xử lý vi phạm hợp đồng đấu giá tài sản ............................... 7
1.2. Pháp luật về xử lý vi phạm hợp đồng đấu giá tài sản ............................. 13
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN THI
HÀNH PHÁP LUẬT VỀ XỬ LÝ VI PHẠM HỢP ĐỒNG ĐẤU GIÁ TÀI
SẢN Ở TỈNH QUẢNG NAM ....................................................................... 28
2.1. Thực trạng pháp luật về xử lý vi phạm hợp đồng đấu giá tài sản ở Việt
Nam hiện nay .................................................................................................. 28
2.2. Thực tiễn thi hành pháp luật về xử lý vi phạm hợp đồng đấu giá tài sản ở
tỉnh Quảng Nam .............................................................................................. 43
CHƯƠNG 3. KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ NÂNG CAO
HIỆU QUẢ THI HÀNH PHÁP LUẬT VỀ XỬ LÝ VI PHẠM HỢP
ĐỒNG ĐẤU GIÁ TÀI SẢN Ở VIỆT NAM ................................................ 59
3.1. Một số định hướng trong việc hoàn thiện pháp luật về xử lý vi phạm hợp
đồng đấu giá tài sản ở Việt Nam .................................................................... 59
3.2. Một số kiến nghị về giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả
thực thi pháp luật về xử lý vi phạm hợp đồng đấu giá tài sản ở Việt Nam ... 61
KẾT LUẬN .................................................................................................... 68
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Ở Việt Nam, đấu giá tài sản với tư cách là một chế định pháp lý đã ra đời rất
sớm và ngày càng khẳng định vai trò của nó trong đời sống xã hội theo yêu cầu của
hội nhập kinh tế quốc tế.
Sau nhiều năm thi hành Nghị định số 17/2010/NĐ-CP ngày 04/03/2010 về
đấu giá tài sản (quy định về nguyên tắc, trình tự, thủ tục đấu giá tài sản; đấu giá
viên; tổ chức đấu giá tài sản và quản lý nhà nước đối với hoạt động đấu giá tài sản)
và Luật Đấu giá tài sản (có hiệu lực kể từ ngày 01/07/2017), hoạt động đấu giá tài
sản đã đạt được những kết quả đáng kể, các tài sản bắt buộc phải đấu giá được mở
rộng hơn, chất lượng hoạt động đấu giá ngày càng được nâng cao, giá trị tài sản
được cao hơn nhiều so với giá khởi điểm, thu ngân sách nhà nước thông qua hoạt
động đấu giá đạt hiệu quả cao.
Trong trường hợp nhất định quan hệ đấu giá phải được xác lập thành văn
bản chính là hợp đồng đấu giá. Hợp đồng đấu giá là một trong những công cụ hữu
hiệu hình thành cũng như định hình kết quả của quan hệ đấu giá. Nó chỉ ra quyền
và nghĩa vụ của các bên cần phải thực hiện cũng như đối tượng của quan hệ. Song
trong thực tiễn từ đối mới đến nay pháp luật đấu giá tài sản vẫn còn một số bất cập
trước áp lực của xu thế hội nhập của các tổ chức kinh tế khu vực và quốc tế cũng
như còn chồng chéo, mâu thuẫn với hệ thống pháp luật trong nước luôn được sửa
đổi và hoàn thiện cho phù hợp với thực tiễn. Đây chính là những kẽ hở cho vi phạm
hợp đồng đấu giá hình thành và lây lan ảnh hưởng đến lợi ích của Nhà nước, quyền
lợi của tổ chức cá nhân, tổ chức tham gia đấu giá tài sản. Trong công tác thanh tra
chuyên ngành về đấu giá tài sản, Thanh tra Bộ đã phát hiện ra một số vấn đề sai
phạm do cố ý và vô ý đã, đang và sẽ gây ra hậu quả pháp lý khó lường như hiện
tượng thông đồng giá, dìm giá khoanh vùng... là biểu hiện rõ rệt vi phạm trong hợp
đồng đấu giá. Quảng Nam - một tỉnh thuộc vùng kinh tế trọng điểm miền Trung, có
đầy đủ các yếu tố, điều kiện thuận lợi, đáp ứng yêu cầu các dự án đầu tư cũng chính
là cơ hội cho hoạt động đấu giá phát triển mạnh mẽ. Tuy nhiên, vi phạm về hợp
1
đồng đấu giá tài sản cũng diễn ra một cách phổ biến đang là mối quan tâm đáng lo
ngại cho chính quyền địa phương. Hệ thống xử lý vi phạm hợp đồng đấu giá tài sản
vẫn vấp phải những hạn chế nhất định xuất phát từ thiếu sót của hệ thống pháp luật
cũng như cơ chế áp dụng của người dân.
Từ cơ sở thực tiễn này hoạt động xử lý vi phạm hợp đồng đấu giá được đặt
ra trong nhu cầu hoàn thiện pháp luật liên quan nói chung và thực tiễn áp dụng nói
riêng. Để khắc phục những hạn chế thiếu sót của pháp luật trong xử lý vi phạm hợp
đồng đấu giá tài sản cần tiến hành nghiên cứu, rà soát, điều chỉnh, bổ sung, ban
hành mới các văn bản có giá trị pháp lý cao nhằm hoàn thiện, tạo khuôn khổ pháp lý
đồng bộ, thống nhất, toàn diện bảo đảm cho hoạt động xử lý vi phạm hợp đồng đấu
giá tài sản hiệu quả hơn. Với những lý do trên, việc nghiên cứu đề tài “Xử lý vi
phạm hợp đồng đấu giá tài sản theo pháp luật Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Quảng
Nam” là cần thiết, không những góp phần hoàn thiện lý luận pháp luật về vấn đề
này mà còn góp phần giải quyết các vấn đề về thực tiễn áp dụng hiện nay trên địa
bàn tỉnh Quảng Nam nói riêng và trên cả nước nói chung.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong những năm gần đây, trước yêu cầu đổi mới đất nước, cải cách hành
chính, cải cách tư pháp cũng đã có nhiều tác giả đề cập đến lĩnh vực pháp luật đấu
giá tài sản ở Việt Nam ở những góc độ khác nhau. Các công trình nghiên cứu trong
khuôn khổ luận văn, luận án có thể kể đến một số công trình tiêu biểu như:
- Luận văn Thạc sĩ luật học của tác giả Nguyễn Thị Thanh Nga với đề tài
“Một số vấn đề về quản lý nhà nước đối với hoạt động đấu giá tài sản ở Việt Nam
hiện nay”, Trường Đại học luật Hà Nội, năm 2012. Luận văn nghiên cứu những vấn
đề lý luận chung và thực trạng quy định pháp luật về quản lý nhà nước đối với hoạt
động đấu giá tài sản, có liên hệ với pháp luật Việt Nam.
- Luận văn Thạc sĩ luật học của tác giả Đỗ Thị Hoa với đề tài “ đấu giá tài
sản theo pháp luật Việt Nam”, Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội, năm 2010.
Luận văn trình bày những vấn đề lý luận về đấu giá tài sản theo quy định của pháp
luật. Phân tích thực trạng đấu giá tài sản theo luật dân sự Việt Nam và đưa ra các
2
giải pháp hoàn thiện pháp luật về đấu giá tài sản.
- Luận văn Thạc sĩ luật học của tác giả Lê Minh Hường với đề tài “Giao kết
hợp đồng trong đấu giá”, Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội, năm 2008. Luận
văn trình bày tổng quan những vấn đề lý luận cơ bản về giao kết hợp đồng trong
đấu giá và làm rõ điểm khác biệt của giao kết hợp đồng trong đấu giá so với giao
kết hợp đồng thông thường; nghiên cứu thực trạng giao kết hợp đồng trong đấu giá
và thực trạng pháp luật điều chỉnh vấn đề giao kết hợp đồng trong đấu giá tại Việt
Nam, từ đó, đưa ra những bất cập trong quy định của pháp luật Việt Nam về giao
kết hợp đồng trong đấu giá. Luận văn cũng giới thiệu những quy định của pháp luật
một số nước khác về giao kết hợp đồng trong đấu giá và những điểm có thể vận
dụng tại Việt Nam; đưa ra một số định hướng như: hoàn thiện các quy định pháp
luật liên quan đến giao kết hợp đồng; xiết chặt hơn chế tài xử lý vi phạm; nâng mức
tiền đặt trước và mức lệ phí hồ sơ đấu giá; ban hành quy chế khen thưởng cho người
đấu giá; làm rõ trách nhiệm pháp lý của người và người đấu giá đối với hàng
hóa/tài sản đấu giá; hoàn thiện pháp luật về giao kết hợp đồng trong đấu giá qua
internet…nhằm hoàn thiện pháp luật Việt Nam về giao kết hợp đồng trong đấu giá.
Bên cạnh các công trình nghiên cứu là luận văn, luận án, còn có các bài viết
nghiên cứu trên các tạp chí chuyên ngành về luật học như:
- Tác giả Nguyễn Quang Thái, Đào Thị Thúy Lan với bài viết “ đấu giá tài
sản trong thi hành án dân sự vẫn còn là điểm nghẽn” trên Tạp chí Dân chủ và Pháp
luật - Bộ Tư pháp, số 4/2016 đã đề cập đến một số khía cạnh của đấu giá tài sản
trong thi hành án dân sự như: Đặc điểm của đấu giá tài sản; những vướng mắc
thường gặp liên quan đến đấu giá tài sản; nguyên nhân và giải pháp cho những
vướng mắc trong hoạt động đấu giá tài sản.
- Tác giả Nguyễn Nhật Khanh với bài viết “Bảo đảm sự thống nhất trong
các quy định về biện pháp cưỡng chế kê biên tài sản có giá trị tương ứng với số tiền
phạt để đấu giá” trên Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, Viện Nghiên cứu lập pháp, số
8/2018 đã nêu những điểm chưa thống nhất giữa các quy định về biện pháp cưỡng
chế kê biên tài sản trong các nghị định của Chính phủ về biện pháp cưỡng chế này
3
và đề xuất kiến nghị hoàn thiện.
- Bài viết nêu một số khái niệm vê đấu giá tài sản, người mua được tài sản
đấu giá, người có tài sản đấu giá; quyền của người mua được tài sản đấu giá để thi
hành án dân sự; thực tiễn về đấu giá tài sản và thực thi pháp luật để bảo vệ quyền
của người mua được tài sản đấu giá để thi hành án dân sự và giải pháp thực hiện.
- Tác giả Võ Hải Phương với bài viết “Cơ chế bảo vệ quyến sở hữu đối với
người thứ ba ngay tình trong mua đấu giá tài sản”, trên Tạp chí Dân chủ và Pháp
luật - Bộ Tư pháp, số 12/2014 đã phân tích vấn đề tài sản và quyền sở hữu tài sản và
cơ chế bảo vệ quyền sở hữu đối với người thứ ba ngay tình trong mua tài sản đấu
giá và kiến nghị ban hành văn bản hướng dẫn thực hiện.
- Tác giả Phạm Thị Liên Hương với bài viết “Hoạt động đấu giá tài sản
những bất cập và giải pháp” trên Tạp chí Dân chủ và Pháp luật - Bộ Tư pháp, số
chuyên đề 10/2015 đã nêu những kết quả đạt được từ hoạt động đấu giá tài sản;
những tồn tại, hạn chế và một số giải pháp cho hoạt động này trên địa bàn tỉnh Nghệ
An.
Có thể nói, các công trình ở trên đã đề cập nghiên cứu ở nhiều giác độ khác
nhau liên quan đến các vấn đề lý luận và thực tiễn của hoạt động đấu giá tài sản,
song cho tới thời điểm này, chưa có một công trình khoa học nào nghiên cứu về đề
tài “Xử lý vi phạm hợp đồng đấu giá tài sản theo pháp luật Việt Nam từ thực tiễn
tỉnh Quảng Nam”. Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu trên sẽ là nguồn tư liệu
tham khảo có giá trị để tác giả chọn lọc, kế thừa và phát triển trong quá trình nghiên
cứu để hoàn thiện Luận văn Thạc sĩ của mình theo đề tài đã lựa chọn.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của luận văn là nhằm khái quát những vấn đề lý luận
về xử lý vi phạm hợp đồng đấu giá tài sản; thực hiện đánh giá thực trạng pháp luật
Việt Nam hiện hành vềxử lý vi phạm hợp đồng đấu giá tài sản và thực tiễn thi hành
pháp luật trên địa bàn tỉnh Quảng Nam, từ đó, luận văn chỉ ra các yêu cầu vàđề xuất
giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thi hành pháp luật về xử
4
lý vi phạm hợp đồng đấu giá tài sản tại Việt Nam.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Khái quát và làm rõ những vấn đề lý luận pháp luật có liên quan tới xử lý vi
phạm hợp đồng đấu giá tài sản.
- Nghiên cứu, đánh giá thực trạng các quy định pháp luật hiện hành về xử lý vi
phạm hợp đồng đấu giá tài sản và thực tiễn thi hành pháp luật về xử lý vi phạm hợp
đồng đấu giá tài sảntrên địa bàn tỉnh Quảng Nam, làm rõ những điểm thành công,
những vấn đề còn hạn chế, bất cập và nguyên nhân.
- Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn, luận văn chỉ ra các yêu cầu và
đề xuất giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thi hành pháp
luật về xử lý vi phạm hợp đồng đấu giá tài sản tại Việt Nam.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là những vấn đề lý luận và thực tiễn cũng
như hệ thống các quy định pháp luật Việt Namvề xử lý vi phạm hợp đồng đấu giá
tài sản.
Phạm vi nghiên cứu của luận văn là pháp luật về xử lý vi phạm hợp đồng
đấu giá tài sản qua nghiên cứu thực tiễn tại địa bàn tỉnh Quảng Nam trong 3 năm trở
lại đây (kể từ khi Luật Đấu giá tài sản năm 2016 có hiệu lực thi hành).
5. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình thực hiện đề tài này, ngoài việc sử dụng một số phương pháp
nghiên cứu truyền thống như: Phương pháp phân tích, phương pháp tổng hợp,
phương pháp so sánh tác giả còn sử dụng phương pháp thống kê được thực hiện
trong quá trình khảo sát thực tiễn áp dụng pháp luật tại Quảng Nam, với các số liệu
cụ thể giải quyết các vấn đề từ xử lý vi phạm hợp đồng đấu giá tài sản.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn
Về mặt khoa học, kết quả đạt được của luận văn góp phần làm sáng tỏ những
vấn đề lý luận pháp luật về xử lý vi phạm hợp đồng đấu giá tài sản.
Về mặt thực tiễn, kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ là tài liệu tham khảo
hữu ích không chỉ với đội ngũ giảng viên, sinh viên mà còn có giá trị đối với các
5
cán bộ đang làm công tác hoạch định chính sách, xây dựng và thực thi pháp luật về
xử lý vi phạm hợp đồng đấu giá tài sản ở Việt Nam.
7. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của
luận văn được kết cấu 3 chương như sau:
Chương 1: Những vấn đề lý luận pháp luật về xử lý vi phạm hợp đồng đấu
giá tài sản
Chương 2: Thực trạng pháp luật và thực tiễn thi hành pháp luật về xử lý vi
phạm hợp đồng đấu giá tài sản ở tỉnh Quảng Nam
Chương 3: Kiến nghị hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thi hành
pháp luật về xử lý vi phạm hợp đồng đấu giá tài sản ở Việt Nam
6
CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN PHÁP LUẬT VỀ XỬ LÝ VI PHẠM
HỢP ĐỒNG ĐẤU GIÁ TÀI SẢN
1.1. Khái quát về xử lý vi phạm hợp đồng đấu giá tài sản
1.1.1. Khái niệm và đặc điểm của hợp đồng đấu giá tài sản
1.1.1.1. Khái niệm đấu giá tài sản
Trên thế giới, đấu giá không còn là một khái niệm mới, nó đã hình thành từ
các nền văn minh thời cổ đại. Những người Babylon đã đấu giá những người vợ;
những người Hy Lạp cổ đại đã đấu giá việc nhượng quyền khai thác mỏ; giới quý
tốc cổ đại còn có những cuộc đấu giá nô lệ; người La Mã thì đấu giá tất cả mọi thứ
từ các chiến lợi phẩm từ các cuộc chiến tranh cho tới tài sản của các con nợ…
Trong thế giới hiện đại, các cuộc đấu giá thường được tiến hành đối với một số
lượng lớn về giao dịch trong kinh tế và dân sự. Chính phủ các nước sử dụng việc
đấu giá để trái phiếu kho bạc, các quyền khai thác khoáng sản, dầu mỏ, tài nguyên,
những công ty được tư nhân hóa và những tài sản khác. Nhà cửa, xe cộ, các tác
phẩm nghệ thuật, đồ cổ và nhiều loại tài sản khác của tư nhân và của các tổ chức
thường được giá tăng lên một cách nhanh chóng thông qua hình thức thương mại
điện tử.
Có thể thấy rằng, đấu giá tài sản đã có từ rất lâu đời và liên tục phát triển
cùng với sự phát triển của kinh tế thế giới. Trải qua nhiều thời kỳ lịch sử, đấu giá
có nhiều thay đổi về hinh thức, phương thức tổ chức nhưng về bản chất vẫn không
thay đổi. đấu giá của bất kỳ thời kỳ nào cũng luôn là một cuộc mua được tổ chức
bằng việc trả giá công khai, cạnh tranh bình đẳng và cuối cùng, việc mua được thực
hiện thông qua hình thức hợp đồng.
1.1.1.2. Khái niệm hợp đồng đấu giá tài sản
Đối với việc đấu giá tài sản, theo Điều 4 Luật Đấu giá tài sản năm 2016, tài
sản mà pháp luật quy định phải thông qua đấu giá, bao gồm: Tài sản nhà nước theo
quy định của pháp luật về quản lý, sử dụng tài sản nhà nước; tài sản được xác lập
7
quyền sở hữu toàn dân theo quy định của pháp luật; tài sản là quyền sử dụng đất
theo quy định của pháp luật về đất đai; tài sản bảo đảm theo quy định của pháp luật
về giao dịch bảo đảm; tài sản thi hành án theo quy định của pháp luật về thi hành án
dân sự; tài sản là tang vật, phương tiện vi phạm hành chính bị tịch thu sung quỹ nhà
nước, tài sản kê biên để bảo đảm thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính
theo quy định của pháp luật về xử lý vi phạm hành chính; tài sản là hàng dự trữ
quốc gia theo quy định của pháp luật về dự trữ quốc gia; tài sản cố định của doanh
nghiệp theo quy định của pháp luật về quản lý, sử dụng vốn nhà nước đầu tư vào
sản xuất, kinh doanh tại doanh nghiệp; tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã bị tuyên
bố phá sản theo quy định của pháp luật về phá sản; tài sản hạ tầng đường bộ và
quyền thu phí sử dụng tài sản hạ tầng đường bộ theo quy định của pháp luật về quản
lý, sử dụng và khai thác kết cấu hạ tầng giao thông đường bộ; tài sản là quyền khai
thác khoáng sản theo quy định của pháp luật về khoáng sản; tài sản là quyền sử
dụng, quyền sở hữu rừng sản xuất là rừng trồng theo quy định của pháp luật về bảo
vệ và phát triển rừng; tài sản là quyền sử dụng tần số vô tuyến điện theo quy định
của pháp luật về tần số vô tuyến điện; tài sản là nợ xấu và tài sản bảo đảm của
khoản nợ xấu của tổ chức mà Nhà nước sở hữu 100% vốn điều lệ do Chính phủ
thành lập để xử lý nợ xấu của tổ chức tín dụng theo quy định của pháp luật; tài sản
khác mà pháp luật quy định phải thông qua đấu giá. Tài sản thuộc sở hữu của cá
nhân, tổ chức nếu tự nguyện lựa chọn thông qua đấu giá, thì cũng có thể được thực
hiện theo trình tự, thủ tục quy định của Luật Đấu giá tài sản.
Theo quy định của pháp luật, người có tài sản đấu giá phải ký kết hợp đồng
đấu giá tài sản với tổ chức có chức năng đấu giá tài sản để thực hiện việc đấu giá
tài sản. Hợp đồng đấu giá tài sản phải được lập thành văn bản, được thực hiện theo
quy định của pháp luật về dân sự và quy định của Luật Đấu giá tài sản. Theo quy
định của Điều 33 Luật Đấu giá tài sản năm 2016, "hợp đồng đấu giá tài sản" còn
được gọi là "hợp đồng dịch vụ đấu giá tài sản".
Từ các phân tích ở trên, có thể đưa ra khái niệm: "Hợp đồng đấu giá tài sản
là hợp đồng dịch vụ được ký kết giữa tổ chức đấu giá tài sản và người có tài sản
8
đấu giá hoặc người đại diện của người đó để thực hiện việc đấu giá tài sản theo trình
tự và thủ tục mà pháp luật đã quy định".
1.1.1.3. Đặc điểm của hợp đồng đấu giá tài sản
- Chủ thể tham gia ký hợp đồng dịch vụ đấu giá tài sản là người có tài sản
đấu giá ký kết hợp đồng dịch vụ đấu giá tài sản với tổ chức đấu giá tài sản để thực
hiện việc đấu giá tài sản.
- Hình thức hợp đồng dịch vụ đấu giá tài sảnphải được lập thành văn bản,
được thực hiện theo quy định của pháp luật về dân sự và quy định của Luật Đấu giá
tài sản.
- Trách nhiệm của các bên tham gia hợp đồng dịch vụ đấu giá tài sản:
Khi ký kết hợp đồng dịch vụ đấu giá tài sản, người có tài sản đấu giá có trách
nhiệm cung cấp cho tổ chức đấu giá tài sản bằng chứng chứng minh quyền sở hữu,
quyền sử dụng hoặc quyền được tài sản theo quy định của pháp luật và chịu trách
nhiệm trước pháp luật về bằng chứng đó. Tổ chức đấu giá tài sản không chịu trách
nhiệm về giá trị, chất lượng của tài sản đấu giá, trừ trường hợp tổ chức đấu giá tài
sản không thông báo đầy đủ, chính xác cho người tham gia đấu giá những thông tin
cần thiết có liên quan đến giá trị, chất lượng của tài sản đấu giá theo hợp đồng dịch
vụ đấu giá tài sản.
- Quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia hợp đồng dịch vụ đấu giá tài sản:
Quyền, nghĩa vụ của tổ chức đấu giá tài sản và người có tài sản đấu giá được
thực hiện theo hợp đồng dịch vụ đấu giá tài sản, quy định của Luật Đấu giá tài sản,
quy định của pháp luật về dân sự và quy định khác của pháp luật có liên quan.
- Người có tài sản đấu giá có quyền hủy bỏ hợp đồng dịch vụ đấu giá tài sản
khi có một trong các căn cứ sau đây:
+ Tổ chức không có chức năng hoạt động đấu giá tài sản mà tiến hành cuộc
đấu giá hoặc cá nhân không phải là đấu giá viên mà điều hành cuộc đấu giá, trừ
trường hợp cuộc đấu giá do Hội đồng đấu giá tài sản thực hiện;
+ Tổ chức đấu giá tài sản cố tình cho phép người không đủ điều kiện tham
gia đấu giá theo quy định của pháp luật tham gia đấu giá và trúng đấu giá;
9
+ Tổ chức đấu giá tài sản có một trong các hành vi: Không thực hiện việc
niêm yết đấu giá tài sản; không thông báo công khai việc đấu giá tài sản; thực hiện
không đúng quy định về hồ sơ đăng ký tham gia đấu giá, tổ chức đăng ký tham gia
đấu giá; cản trở, hạn chế người tham gia đấu giá đăng ký tham gia đấu giá;
+ Tổ chức đấu giá tài sản thông đồng, móc nối với người tham gia đấu giá
trong quá trình tổ chức đấu giá dẫn đến làm sai lệch thông tin tài sản đấu giá hoặc
hồ sơ tham gia đấu giá hoặc kết quả đấu giá tài sản;
+ Tổ chức đấu giá tài sản tổ chức cuộc đấu giá không đúng quy định về hình
thức đấu giá, phương thức đấu giá theo Quy chế cuộc đấu giá dẫn đến làm sai lệch
kết quả đấu giá tài sản.
1.1.2. Khái niệm và đặc điểm của vi phạm hợp đồng đấu giá tài sản
Trách nhiệm dân sự trong hợp đồng là trách nhiệm hình thành từ việc không
thực hiện một nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng và hành vi vi phạm cũng chính là việc
không thực hiện các nghĩa vụ. Người không thực hiện,thực hiện không đúng hay
không đầy đủ một phần hoặc toàn bộ những cam kết trong hợp đồng mà gây thiệt
hại cho người cùng giao kết, được coi là có hành vi vi phạm hợp đồng. Nhưng
không phải bất cứ việc không thực hiện hoặc thực hiện không đúng không đầy đủ
hợp đồng bao giờ cũng là cơ sở của trách nhiệm hợp đồng.
Là một dạng trách nhiệm pháp lý nói chung nên trách nhiệm hợp đồng chỉ
phát sinh khi có hành vi vi phạm hợp đồng và khi hành vi vi phạm hợp đồng đó là
trái luật. Ngoài những nghĩa vụ mà các bên đã thỏa thuận trong hợp đồng thì còn
những nghĩa vụ mặc dù các bên không thỏa thuận nhưng pháp luật có quy định thì
các bên cũng phải thực hiện theo, nếu các bên không tuân thủ các quy định đó cũng
coi là hành vi vi phạm hợp đồng. Vì vậy, khi xem xét một hành vi vi phạm hợp
đồng hay không, cần phải căn cứ vào nội dung của hợp đồng và các quy định của
pháp luật. Tuy nhiên, trong trường hợp mà việc không thực hiện hoặc thực hiện
không đúng nghĩa vụ trong hợp đồng không bị coi là trái pháp luật thì không làm
phát sinh trách nhiệm hợp đồng của người có nghĩa vụ đối với người có quyền, ví
dụ trường hợp hợp đồng không thực hiện được là hoàn toàn do lỗi của người có
10
quyền hoặc do sự kiện bất khả kháng.
Việc hành động bị coi là bất hợp pháp, vi phạm các điều khoản của hợp đồng
khi bên có nghĩa vụ trong hợp đồng thực hiện điều cấm của pháp luật, vi phạm điều
khoản thỏa thuận của các bên, trái với tập quán hoặc trái với bản chất của nghĩa vụ.
Biểu hiện thứ hai của hình thức vi phạm hợp đồng là không hành động, không hành
động ở đây được hiểu là hành vi không thực hiện các điều khoản trong hợp đồng,
trong khi đó theo quy định của pháp luật hoặc theo sự thỏa thuận của các bên trong
hợp đồng bên có nghĩa vụ cần phải làm điều đó nhưng đã không làm. Nghĩa vụ phải
làm hoặc không được làm có thể phát sinh từ thỏa thuận từ trong hợp đồng, từ quy
định của pháp luật, từ chính bản chất của nghĩa vụ. Ví dụ như trong quan hệ hợp
đồng mua tài sản, việc bên không hành động bằng cách không giao tài sản đúng
thời hạn theo thỏa thuận sẽ bị coi là bất hợp pháp.
Trong phương diện xét xử, tính trái pháp luật của hành vi vi phạm hợp đồng
luôn được suy đoán mà không cần đến sự chứng minh của bên có quyền. Do đó,
trong trường hợp thông thường, bên có quyền không cần viện dẫn tính trái pháp
luật của hành vi vi phạm hợp đồng, mà chỉ cần đưa ra sự kiện bên có nghĩa vụ đã
có hành vi vi phạm hợp động dưới dạng hành động hoặc không hành động là đủ để
áp dụng các hình thức trách nhiệm pháp lý do vi phạm nghĩa vụ trong hợp đồng
mua tài sản đối với bên vi phạm. Chỉ trong trường hợp mà hành vi vi phạm hợp
đồng xảy ra là do sự kiện bất khả kháng hoặc là do việc bên có nghĩa vụ hoàn toàn
không có lỗi thì khi đó Tòa án mới xem xét, đánh giá hành vi vi phạm hợp đồng đó
có trái luật hay không và việc chứng minh sự kiện bất khả kháng hoặc sự kiện mình
không có lỗi sẽ thuộc trách nhiệm của bên có nghĩa vụ.
Biểu hiện cụ thể của vi phạm hợp đồng là không thực hiện hoặc thực hiện
không đúng, không đầy đủ các nghĩa vụ theo hợp đồng. Cần lưu ý, các bên không
chỉ thực hiện các nghĩa vụ đã thỏa thuận trong hợp đồng mà còn phải thực hiện cả
những nghĩa vụ theo quy định của pháp luật (nội dung thường lệ của hợp đồng).
Vậy nên, khi xem xét một hành vi có là hành vi vi phạm hợp đồng hay không cần
phải căn cứ vào các điều khoản đã thỏa thuận trong hợp đồng và cả quy định pháp
11
luật có liên quan..
Thông qua các phân tích về vi phạm hợp đồng cũng như khái niệm hợp đồng
đấu giá tài sản đã được nêu ở trên, có thể rút ra được khái niệm của vi phạm hợp
đồng đấu giá tài sản "là việc chủ thể giao kết hợp đồng đấu giá tài sản không thực
hiện hoặc thực hiện không đúng, không đầy đủ các nghĩa vụ của hợp đồng đấu giá
tài sản". Ngoài những vi phạm được các bên thỏa thuận trong hợp đồng, vi phạm
hợp đồng đấu giá tài sản cũng bao gồm những vi phạm về nguyên tắc cũng như
những hành vi bị nghiêm cấm theo quy định của Luật Đấu giá tài sản năm 2016.
Hợp đồng đấu giá tài sản ký kết giữa tổ chức đấu giá tài sản với người có tài sản
còn có các thỏa thuận không đúng quy định của Luật Ðấu giá tài sản về việc thu tiền
đặt trước hoặc về thù lao, chi phí dịch vụ đấu giá...
1.1.3. Vai trò của việc xử lý vi phạm hợp đồng đấu giá tài sản
Xử lý vi phạm hợp đồng đấu giá tài sản là công cụ quan trọng trong hoạt
động quản lý nhà nước nhằm duy trì trật tự, kỷ cương trong lĩnh vực đấu giá tài
sản. Thông qua hoạt động phát hiện và xử lý vi phạm hợp đồng đấu giá tài sản, nhà
nước điều tiết, ngăn chặn và bảo vệ quan hệ đấu giá tài sản một cách hiệu quả bằng
quyền lức của mình trong quyền hạn mà pháp luật cho phép.
Các biện pháp xử lý vi phạm hợp đồng đấu giá tài sản là thái độ của Nhà
nước đối với đối tượng vi phạm; và việc áp dụng các biện pháp này không phải do
một chủ thể áp dụng, để tránh hiện tượng mỗi chủ thể lại đưa ra các biện pháp khác
nhau, làm ảnh hưởng đến tính công bằng của pháp luật thì việc xác định rõ các biện
pháp xử lý vi phạm hợp đồng đấu giá tài sản là vô cùng quan trọng. Ngoài ra, việc
quy định ra các biện pháp xử lý vi phạm hợp đồng đấu giá tài sản còn giúp các chủ
thể trong quan hệ đấu giá tài sản nhận thức được hậu quả pháp lý của hành vi vi
phạm trong hợp đồng đấu giá tài sản – tính giáo dục.
Xử lý vi phạm hợp đồng đấu giá tài sản là công cụ góp phần bảo vệ quyền
và lợi ích chính đáng của người bị ảnh hưởng bởi hành vi vi phạm hợp đồng đấu
giá tài sản. Quyền được bình đẳng trong mọi hoạt động mua cần được tôn trọng và
bảo vệ, vì không chỉ tổn thất cho phát triển kinh tế cũng như trong công tác thi hành
12
pháp luật, đặc biệt là công tác thi hành án dân sự và xử lý vi phạm hành chính gây
thất thoát lớn cho Nhà nước; dẫn tới phân hóa và bất bình đẳng trong hoạt động đấu
giá.
Xử lý vi phạm hợp đồng đấu giá tài sản là công cụ nhằm răn đe, tác động tới
ý thức tuân thủ pháp luật, tuân thủ các thỏa thuận của hợp đồng đấu giá của các bên
trong hợp đồng riêng cũng như mọi chủ thế khác trong xã hội nói chung. Như đã
phân tích, xử lý vi phạm hợp đồng đấu giá tài sản sẽ hạn chế một số quyền hạn và
gia tăng nghĩa vụ của chủ thể vi phạm. Các chủ thể với mục đích cuối cùng khi hoạt
động trên thị trường chính là mục đích lợi nhuận. Việc bị hạn chế một số quyền lợi
nhất định cũng như phải thực hiện những nghĩa vụ nhất định trong đó có nghĩa vụ
tài chính sẽ ảnh hưởng không nhỏ tới hoạt động kinh doanh bình thường của các
chủ thể này.
1.2. Pháp luật về xử lý vi phạm hợp đồng đấu giá tài sản
1.2.1. Khái niệm và đặc điểm của pháp luật về xử lý vi phạm hợp đồng
đấu giá tài sản
Pháp luật là một hiện tượng xã hội mang tính khách quan, nó ra đời và tồn tại
cùng với Nhà nước. Có nhiều quan niệm, nhận thức khác nhau về pháp luật. Từ các
quan niệm như trên, có thể khái quát định nghĩa pháp luật như sau: “Pháp luật là hệ
thống các quy tắc xử sự có tính bắt buộc chung do Nhà nước đặt ra hoặc thừa nhận
thể hiện ý chí Nhà nước của giai cấp thống trị trên cơ sở ghi nhận các nhu cầu về lợi
ích của toàn xã hội được đảm bảo thực hiện bằng sức mạnh cưỡng chế của nhà
nước.
Là một bộ phận của hệ thống pháp luật của mỗi quốc gia nên ngày nay trên
thế giới pháp luật của các nước về bán đấu giá tài sản cũng theo hai dòng pháp luật:
Ở các nước thuộc dòng pháp luật Châu Âu lục địa, pháp luật về bán đấu giá tài sản
chỉ gồm các quy phạm pháp luật thành văn. Ở các nước thuộc dòng phápluật Anh Mỹ, pháp luật về bán đấu giá tài sản, ngoài các văn vản pháp luật, án lệ cũng được
xem là nguồn của bộ phận pháp luật này.
Ở Cộng hòa Pháp, hoạt động bán đấu giá được điều chỉnh bởi các quy định
13
của Bộ luật Dân sự và Bộ luật Thương mại. Hoạt động bán đấu giá phải do những
cá nhânhoặc tổ chức đủ điều kiện nhất định tiến hành; không phải bất cứ ai cũng có
thể tổchức bán đấu giá như một hoạt động thương mại. Các công ty bán đấu giá
được phép thành lập và hoạt động khi đảm bảo vềcơ cấu tổ chức, cơ sở vật chất và
tài chính đầy đủ theo quy định của pháp luật. Công ty phải đảm bảo được những
yêu cầu của hoạt động đấu giá là tính trung thực, khách quan, người điều hành có
kinh nghiệm trong bán đấu giá am hiểu về các loại tài sản đấu giá. Ngoài ra, các
công chứng viên, các thừa phát lại cũng được tiến hành việc bán đấu giá tài sản tại
văn phòng của mình khi được chủ sở hữu tài sản ủy quyền làm đại diện.
Các công ty bán đấu giá có thể áp dụng nhiều biện pháp để thu hút khách
hàng, bảo đảm hiệu quả trong hoạt động bán đấu giá của mình, chẳng hạn như:
Công ty có thể bảo đảm về giá tối thiểu cho người có tài sản bán đấu giá bằng
phương thức ký kết hợp đồng bảo hiểm với công ty bảo hiểm. Theo đó, công ty bảo
hiểm sẽ thanh toán khoản chênh lệch giữa giá bán tài sản thực tế và giá đã được bảo
đảm. Công ty bán đấu giá có thể tạm ứng trước tiền bán tài sản cho ngườicó tài sản
bán đấu giá. Các phiên bán đấu giá được tổ chức công khai theo những thủ tục,
phương thức đấu giá phù hợp. Giá khởi điểm của tài sản để bán là giá thấp nhất
được bên bán đồng ý hoặc giá đã được định, được thông báo công khai trước khi
bán đấugiá.
Theo pháp luật Nhật Bản, trình tự thủ tục bán đấu giá trước hết được xem
xét ở việc bán đấu giá bất động sản hay động sản. Đối với việc bán đấu giá bất động
sản, Tòa án sẽ ra quyết định bán đấu giá tài sản, cho kê biên tài sản nhằm mục đích
cấm việc tẩu tán bất động sản. Sau đó, niêm yết công khai thông tin bán đấu giá.
Khi người mua nộp tiền xong, thì quyền sở hữu bất động sản đó được chuyển cho
người mua. Để người mua được giao bất động sản một cách suôn sẻ, Tòa án có một
chế độ mệnh lệnh bắt buộc người sử dụng bất động sản phải giao trả bất động sản
cho người mua. Như đã trình bày ở trên, từ đầu đến cuối thủ tục bán đấu giá bất
động sản đều do Tòa án tổ chức thực hiện, không có một cơ quan nhà nước hay tổ
chức tư nhân nào là người thực hiện cả.
14
Đối với thủ tục bán đấu giá bất động sản thì chấp hành viên của Tòa án là
người tổ chức thủ tục bán đấu giá động sản. Trong các chủ thể thực hiện bán đấu giá
ở Nhật Bản thì có thư ký Tòa án, những quyết định quan trọng trong thủ tục thi
hành án dân sự thì do thư ký Tòa án thực hiện.
Ở Trung Quốc hoạt động bán đấu giá tài sản được điều chỉnh bởi Luật Bán
đấu giá tài sản năm 1996. Về tài sản bán đấu giá, Trung Quốc xem bán đấu giá tài
sản như một trong những hình thức mua bán tài sản thông thường. Tài sản được
đem bán đấu giá theoquy định của luật này phải là các tài sản và quyền tài sản được
phép giao dịch. Về người bán đấu giá tài sản, là các doanh nghiệp bán đấu giá tài
sản do chủ sở hữu hoặc người có quyền xử lý tài sản hoặc quyền tài sản (gọi là
người ủy quyền) ủy quyền. Đấu giá viên là người trực tiếp chủ trì các cuộc đấu giá.
Để đượccông nhận chính thức là đấu giá viên, người đáp ứng những điều kiện trên
phải tham gia kỳ thi tuyển chọn đấu giá viên do Hiệp hội bán đấu giá tổ chức. Khi
được cấp chứng chỉ đấu giá viên, họ sẽ được chủ trì các cuộc bán đấu giá tài sản. Về
hợp đồng ủy quyền bán đấu giá tài sản là hợp đồng được ký kết giữa người ủy
quyền và doanh nghiệp bán đấu giá. Hợp đồng ủy quyền có quy định các nội dung
sau: Chi phí thực tế, hợp lý cho việc bán đấu giá tài sản; quyền và nghĩa vụ của các
bên.
Vi phạm pháp luật và xử lý vi phạm trong hoạt động bán đấu giá tài sản theo
pháp luật bán đấu giá tài sản Trung Quốc là rất rõ ràng và cụ thể:
- Đối với doanh nghiệp bán đấu giá, người thành lập doanh nghiệp bán đấu
giá mà không đăng ký hoạt động hoặc không được sự phê chuẩn thì sẽ bị đình chỉ
hoạt động; các khoản thu nhập bất hợp pháp của doanh nghiệp sẽ bị tịch thu. Ngoài
ra, người vi phạm còn bị phạt một khoản tiền từ 100% đến 500% khoản thu nhập
bất hợp pháp đó. Doanh nghiệp bán đấu giá hoặc nhân viên khác tham gia vào cuộc
bán đấu giá hoặc ủy quyền cho người khác tham gia vào phiên đấu giá do mình tổ
chức, sẽ bị cảnh cáo và có thể bị phạt từ 100% đến 500% khoản phí bán đấu giá,
trường hợp nặng sẽ bị thu hồi giấy phép. Doanh nghiệp bán đấu giá tài sản hoặc
quyền tài sản của chính mình tại phiên bán đấu giá do mình tổ chức sẽ bị tịch thu
15
toàn bộ khoản thu từ cuộc bán đấu giá đó. Doanh nghiệp bán đấu giá câu kết với
người tham gia đấu giá khác mà gây thiệt hại cho người khác, thì cuộc bán đấu giá
sẽ không có hiệu lực và doanh nghiệp vi phạm phải chịu trách nhiệm bồi thường
theo quy định của pháp luật, có thể xử phạt một khoản tiền từ 100% đến 500% giá
trả cao nhất đối với người bán đấu giá có hành vi cấu kết. Doanh nghiệp bán đấu giá
nếu biết rõ rằng, người ủy quyền không có ủy quyền sở hữu đối với tài sản hoặc
không có quyền xử lý tài sản, quyền tài sản theo quy định của pháp luật, mà vẫn
tiến hành bán đấu giá tài sản thị sẽ bị xử lý theo quy định của pháp luật.
- Đối với người ủy quyền, người ủy quyền bán đấu giá tài sản mà mình
không có quyền sở hữu hoặc xử lý sẽ phải chịu trách nhiệm theo quy định của pháp
luật. Người ủy quyền tham gia trả giá hoặc ủy quyền cho người khác tham gia trả
giá sẽ bị phạt tiền đến 30% giá bán tài sản bán đấu giá.
- Đối với người tham gia đấu giá, mà cố ý cấu kết với những người tham gia
đấu giá khác và doanh nghiệp bán đấu giá sẽ bị xử phạt một khoản tiền từ 10% đến
30% của giá trả cao nhất đối với người tham gia đấu giá.
- Vi phạm từ cơ quan, cán bộ nhà nước, nhân viên cơ quan nhà nước có thẩm
quyền bán đấu giá tài sản theo quy định của Ủy ban nhân dân tỉnh, khu tự trị hoặc
chính quyền địa phương, nơi có tài sản mà không thực hiện đúng như quy định về
bán đấu giá các loại tài sản trên sẽ bị xử lý theo quy định về xử phạt vi phạm hành
chính, nếu gây thiệt hại cho Nhà nước thì phải bồi thường.
Ở Việt Nam từ khi thực hiện công cuộc đổi mới, các cơ quan có thẩm quyền
đã ban hành một số văn bản liên quan đến bán đấu giá như: Pháp lệnh Thi hành án
dân sự năm 1989, Bộ luật Dân sự năm 1995. Cụthể hóa Bộ luật Dân sự năm 1995,
Chính phủ đã ban hành Nghị định số 86/1996/NĐ-CP kèm theo Quy chế bán đấu
giá tài sản. Đây là văn bản đầu tiênquy định việc thành lập các tổ chức bán đấu giá
tài sản ở các tỉnh, thành phố và quy định một số nội dung liên quan đến bán đấu giá
tài sản. Từ năm 2002 đến năm 2004, Chính phủ đã ban hành một số nghị định liên
quan đến bán đấu giá tài sản trên từng lĩnh vực cụ thể; bên cạnh đó các Bộ cũng ban
hành nhiều thông tư hướng dẫn thực hiện Luật, Nghị định có liên quan đến bán đấu
16
giá tài sản. Ngày 18/01/2005, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 05/2005/NĐ-CP
về bán đấu giá tài sản và ngày 04/05/2005, Bộ Tư pháp đã ban hành Thông tư số
03/2005/TT-BTP hướng dẫn một số quy định của Nghị định 05/2005/NĐ-CP.Ngày
04/03/2010, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 17/2010/NĐ-CP về bán đấu giá
tài sản thay thế Nghị định số 05/2005/NĐ-CP. Trong những văn bản phápluật này
đã quy định khá rõ những nguyên tắc, thủ tục bán đấu giá tài sản, người bán đấu giá
tài sản, quản lý nhà nước về bán đấu giá tài sản, các hành vi bị cấm và xử lý các vi
phạm trong bán đấu giá
Từ các vấn đề lý luận về pháp luật nói chung và hệ thống các quy phạm pháp
luật đã được các cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành trong lĩnh vực bán đấu
giá tài sản hiện nay ở nước ta, có thể định nghĩa pháp luật về xử lý vi phạm hợp
đồng bán đấu giá tài sản như sau:
"Pháp luật về xử lý vi phạm hợp đồng bán đấu giá tài sản là hệ thống những
quy phạm pháp luật do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành nhằm điều
chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong hoạt động xử lý vi phạm hợp đồng bán đấu
giá tài sản bao gồm những quy định về nguyên tắc xử lý, biện pháp xử lý, thủ tục xử
lý và hậu quả pháp lý của hoạt động xử lý vi phạm hợp đồng bán đấu giá tài sản".
Thông qua khái niệm nêu trên, có thể rút ra một số đặc điểm của pháp luật về
xử lý vi phạm hợp đồng bán đấu giá tài sản như sau:
- Pháp luật về xử lý vi phạm hợp đồng bán đấu giá tài sản là một bộ phận
pháp luật điều chỉnh các quanhệ xã hội phát sinh mang tính chất “tư” do đó các chủ
thể tham gia quan hệ bình đẳng về quyền và nghĩa vụ.
- Pháp luật về xử lý vi phạm hợp đồng bán đấu giá tài sản là một bộ phận
pháp luật liên ngành không thuần túy là một chế định riêng biệt trong một văn bản
pháp luật cụ thể nào đó mà nó có ở nhiều văn bản quy phạm pháp luật. Quan hệ về
xử lý vi phạm hợp đồng bán đấu giá tài sản có thể mang tính chất của quan hệ dân
sự, thương mại thuần túy hoặc mang tính chất của quan hệ hành chính - tư pháp.
- Pháp luật về xử lý vi phạm hợp đồng bán đấu giá tài sản phản ánh rõ
nguyên tắc công khai của quan hệ bán đấu giá tài sản. Điều này xuất phát từ nguyên
17
lý chung là nếu không công khai thì sẽ không có nhiều người tham gia quan hệ theo
quy định của pháp luật;
- Pháp luật về xử lý vi phạm hợp đồng bán đấu giá tài sản mang đặc tính của
pháp luật về thủ tục thực hiện quan hệ pháp luật. Trong hệ thống pháp luật có thể
phân chia thành hai bộ phận cơ bản: các quy định về nội dung quan hệ và các quy
định về thủ tục thực hiện quan hệ. Pháp luật về bán đấu giá thuộc bộ phận thứ hai.
1.2.2. Những nội dung cơ bản về xử lý hợp đồng đấu giá tài sản theo
pháp luật
Theo nguyên tắc chung của pháp luật về hợp đồng, khi người có nghĩa vụ
không thực hiện, thực hiện không đúng, không đầy đủ nghĩa vụ trong hợp đồng thì
bên có quyền yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền áp dụng các biện pháp
cưỡng chế để buộc người có nghĩa vụ phải thực hiện nghĩa vụ. Nếu bên có quyền đã
yêu cầu mà bên có nghĩa vụ vẫn không thực hiện, thì có quyền yêu cầu cơ quan nhà
nước áp dụng những biện pháp cưỡng chế buộc bên kia phải thực hiện nghĩa vụ dân
sự theo hợp đồng.
Đối với việc xử lý vi phạm hợp đồng đấu giá tài sản, các quy định của pháp
luật về xử lý vi phạm hợp đồng bán đấu giá tài sản được quy định trong Luật Đấu
giá tài sản, Bộ luật Dân sự, Bộ luật Hình sự, Luật Xử lý vi phạm hành chính và các
văn bản pháp luật khác có quy định một số nội dung liên quan tới lĩnh vực bán đấu
giá tài sản. Có thể chia các pháp luật về xử lý vi phạm hợp đồng bán đấu giá tài sản
thành các nội dung cơ bản như sau:
- Quy định về các dạng vi phạm hợp đồng bán đấu giá.
Dạng vi phạm hợp đồng này thường được thể hiện qua các trường hợp và
nguyên nhân sau: Không chịu thực hiện hợp đồng hoặc đơn phương chấm dứt hợp
đồngbán đấu giá tài sản mà không giải thích rõ lý do cho bên kia (hợp đồng chưa
được bên nào thực hiện); không chịu thực hiện nghĩa vụ hợp đồng mặc dù đã hưởng
các quyền lợi từ hợp đồng. Chẳng hạn như nhận được tài sản bán đấu giá thì sau đó
không thực hiện nghĩa vụ trả tiền; không thực hiện đúng, đầy đủ các thỏa thuận ghi
trong hợp đồng (mặc dù có thực hiện hợp đồng).
18
Các vi phạm quy định của pháp luật thường gặp khi ký kết, thực hiện hợp
đồng gồm có: Giao kết hợp đồng không đúng đối tượng chủ thể; giao kết hợp đồng
không tuân thủ hình thức hợp đồng đã được pháp luật quy định; đối tượng giao kết
hợp đồng bị pháp luật cấm; hợp đồng thể hiện rõ ràng và thiếu các nội dung cơ bản
của hợp đồng; nội dung hợp đồng do các bên ký kết không bảo đảm các nguyên tắc
tự nguyện, bình đẳng, trung thực
- Quy định về các biện pháp xử lý vi phạm hợp đồng bán đấu giá, gồm có:
Các biện pháp xử lý vi phạm theo hợp đồng, bao gồm: (i) Buộc tiếp tục thực
hiện đúng hợp đồng; (ii) Hoãn thực hiện hợp đồng; (iii) Đơn phương chấm dứt, hủy
bỏ hợp đồng; (iv) Bồi thường thiệt hại do vi phạm nghĩa vụ; (v) Phạt vi phạm hợp
đồng…
Trong quá trình thực hiện hợp đồng dịch vụ bán đấu giá tài sản, nếu các bên
có hành vi vi phạm pháp luật về bán đấu giá tài sản, thì sẽ bị áp dụng các biện pháp
xử phạt vi phạm hành chính (với các hình phạt chính và hình phạt bổ sung). Trường
hợp nghiêm trọng đến mức cấu thành tội phạm thì sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình
sự.
Trong quá trình xử lý vi phạm hợp đồng dịch vụ bán đấu giá tài sản, các bên
có thể cùng nhau thương lượng hoặc nhờ trung gian hòa giải; có thể yêu cầu Tòa án
hoặc Trọng tài thương mại giải quyết theo các biện pháp đã thỏa thuận trong hợp
đồng; hoặc yêu cầu các cơ quan có thẩm quyền xử lý về mặt hành chính; hoặc có
thể yêu cầu cơ quan điều tra, Viện Kiểm sát nhân dân xem xét khởi tố vụ án hình
sự...
1.2.3. Các hành vi vi phạm hợp đồng bán đấu giá tài sản:
Trước hết, cần làm rõ thế nào là hành vi vi phạm hợp đồng bán đấu giá tài sản:
“Hành vi vi phạm hợp đồng bán đấu giá tài sản là các hành vi của các bên tham gia
quan hệ hợp đồng bán đấu giá tài sản, trong quá trình thực hiện hợp đồng bán đấu
giá tài sản, đã vi phạm pháp luật về bán đấu giá tài sản, vi phạm các điều khoản thỏa
thuận của các bên đã được ghi nhận trong hợp đồng bán đấu giá tài sản”.
Các hành vi vi phạm thể hiện qua các trường hợp sau đây:
19
Thứ nhất, có sự liên kết, thông đồng giữa người có tài sản bán đấu giá và tổ
chức bán đấu giá. Lợi dụng kẽ hở của pháp luật, chủ tài sản thường lựa chọn đơn vị,
doanh nghiệp tổ chức bán đấu giá “thân thiết” để dễ bề điều khiển họ làm theo ý
mình nhằm trục lợi cá nhân. “Trong trường hợp này, chủ tài sản thường thuê các
đơn vị thẩm định giá và đưa ra giá khởi điểm rất thấp để đấu giá. Đối với đơn vị
được thuê tổ chức đấu giá, họ sẽ đăng thông tin bán đấu giá tài sản trên các phương
tiện thông tin đại chúng một cách mập mờ, chung chung với mục đích càng ít người
biết và mua hồ sơ càng tốt. Nếu nhiều người mua hồ sơ, không thể “cầm trịch” được
kết quả đấu giá như mong muốn thì chủ tài sản và đơn vị tổ chức đấu giá sẽ tìm
cách huỷ phiên đấu giá.
Thứ hai, cũng diễn ra thường xuyên và phổ biến là việc một số doanh nghiệp,
đơn vị tổ chức đấu giá gây khó khăn cho khách hàng trong việc tiếp cận, mua hồ sơ
và xem tài sản với mục đích hạn chế người tham gia đấu giá. Mặc dù, hành vi “om”
hồ sơ, gây khó khăn cho khách hàng là hành vi bị cấm và bị phạt rất nặng được quy
định rõ trong Luật Đấu giá tài sản nhưng nhiều doanh nghiệp, đơn vị tổ chức đấu
giá tài sản vẫn phớt lờ những quy định này. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp, đơn vị
tổ chức đấu giá tài sản thực hiện niêm yết việc đấu giá tài sản còn chưa đúng quy
định về nơi niêm yết, thời hạn niêm yết, nhất là việc không lưu tài liệu, hình ảnh về
việc niêm yết đấu giá tài sản trong hồ sơ đấu giá; thực hiện bán hồ sơ tham gia đấu
giá và tiếp nhận hồ sơ tham gia đấu giá còn chưa theo Quy chế cuộc đấu giá, chưa
đúng với quy định về việc bán và tiếp nhận hồ sơ tham gia đấu giá trong giờ hành
chính, liên tục kể từ ngày niêm yết việc đấu giá tài sản cho đến trước ngày mở cuộc
đấu giá 2 ngày; thu, trả tiền đặt trước của người tham gia đấu giá không đúng về
thời hạn theo quy định; tổ chức cuộc đấu giá còn chưa đúng với hình thức đấu giá,
phương thức đấu giá, bước giá đã được quy định trong Quy chế cuộc đấu giá, việc
lập biên bản đấu giá còn sơ sài, không đầy đủ nội dung theo quy định…
Thứ ba, có sự thông đồng của tổ chức bán đấu giá với người tham gia đấu giá.
Mặc dù Luật Đấu giá tài sản đưa ra quy định cấm tiết lộ thông tin về khách hàng
nhưng một số đơn vị tổ chức bán đấu giá tài sản vẫn cung cấp danh sách khách hàng
20
tham gia đấu giá để khách hành dàn xếp trước khi vào phiên đấu giá. Và giá trúng
đấu giá thường chỉ cao hơn giá khởi điểm tí chút mặc dù số lượng khách hàng tham
gia rất đông”, một người hoạt động trong lĩnh vực đấu giá tài sản cho biết.
Thứ tư, có sự liên kết, thông đồng giữa các khách hàng đấu giá với nhau để kết
quả trúng đấu giá thấp nhất có thể. Phần lớn họ chỉ trả giá sàn, còn một số thì trả giá
chênh so với giá khởi điểm chút ít và trúng đấu giá. Sau đó, họ tiến hành “đấu giá
ngoài thực địa”, ai trả giá cao sẽ lấy được tài sản. Số tiền chênh lệch giữa “đấu giá
ngoài thực địa” và kết quả tại phiên đấu giá sẽ được chia cho những người tham gia.
Họ thông đồng với nhau để lách luật theo kiểu này khiến chủ tài sản và đơn vị tổ
chức bán đấu giá cũng phải “bó tay””.
Thứ năm, một số sự cố dẫn đến không thể thực hiện hợp đồng bán đấu giá tài
sản. Cụ thể, đối với trường hợp hủy theo thỏa thuận giữa người có tài sản bán đấu
giá, người mua được tài sản bán đấu giá và tổ chức bán đấu giá tài sản thì trường
hợp bán đấu giá thành nhưng vì một lý do nào đó hoặc gặp sự kiện bất khả kháng,
bên mua được tài sản không thể nộp đủ tiền mua tài sản bán đấu giá để nhận tài sản
theo hợp đồng mua bán tài sản bán đấu giá và bên bán cũng không đồng ý thỏa
thuận việc hủy kết quả bán đấu giá vì khi tổ chức bán đấu giá lại, có thể sẽ không
bán được với mức giá như lần đã đấu giá thành hoặc tài sản sẽ bị giảm sút giá trị do
chất lượng tài sản bị giảm sút theo thời gian. Lúc này không có cơ sở để hủy kết quả
bán đấu giá tài sản. Trường hợp này bên bán cũng không thể nhận được tiền bán
đấu giá tài sản, bên mua cũng không thể nhận được tài sản vì không thể thanh toán
được tiền cho bên bán và tổ chức bán đấu giá tài sản cũng không thể thu lại được
các khoản chi phí đã bỏ ra để tổ chức cuộc bán đấu giá nhưng kết quả cuộc bán đấu
giá tài sản thì vẫn không thể hủy được. Việc không có cơ sở pháp lý để giải quyết
đối với trường hợp này đã làm cho giá trị tài sản càng ngày càng hao hụt, giảm sút,
trong một số trường hợp việc dây dưa, kéo dài kết quả bán đấu giá tài sản của các
bên sẽ làm giá trị của tài sản không còn. Điều này ảnh hưởng trực tiếp đến quyền,
lợi ích của bên có tài sản bán đấu giá và tổ chức bán đấu giá.
Thứ sáu, bên cầm giữ tài sản tự ý ký hợp đồng bán đấu giá, dẫn đến hợp đồng
21