Tải bản đầy đủ (.pdf) (79 trang)

Giải quyết khiếu nại về cưỡng chế trong thi hành án dân sự từ thực tiễn của tỉnh Quảng Nam (LV thạc sĩ)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (709.52 KB, 79 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

HOÀNG MINH ĐÔNG

GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI VỀ CƯỠNG CHẾ
TRONG THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TỪ THỰC TIỄN
TỈNH QUẢNG NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI, năm 2019


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

HOÀNG MINH ĐÔNG

GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI VỀ CƯỠNG CHẾ
TRONG THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TỪ THỰC TIỄN
TỈNH QUẢNG NAM

Chuyên ngành : Luật Hiến pháp và Luật hành chính
Mã số

: 8 38 01 02

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. TRẦN MINH ĐỨC


HÀ NỘI, năm 2019


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn này là công trình nghiên cứu của riêng tôi, các số
liệu trong luận văn trung thực. Tác giả đã thu thập và sàng lọc trong quá trình học
tập, tham khảo, nghiên cứu tài liệu; là kết quả của sự phân tích, tổng hợp các báo
tổng kết của các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cũng như kinh nghiệm của bản
thân qua thực tiễn công tác tại Cục Thi hành án dân sự tỉnh Quảng Nam và dưới sự
hướng dẫn của TS Trần Minh Đức. Những nội dung trong các công trình nghiên
cứu của các giả khác đã được trích dẫn, ghi chú đầy đủ, chính xác theo đúng qui
định.

Tác giả cam đoan

HOÀNG MINH ĐÔNG


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ CỦA GIẢI QUYẾT
KHIẾU NẠI VỀ CƯỠNG CHẾ TRONG THI HÀNH ÁN DÂN SỰ ...................5
1.1. Khái niệm, đặc điểm của giải quyết khiếu nại về cưỡng chế trong thi hành án
dân sự. .........................................................................................................................5
1.2. Vai trò của giải quyết khiếu nại về cưỡng chế trong thi hành án dân sự. ..........11
1.3. Nội dung giải quyết khiếu nại về cưỡng chế trong thi hành án dân sự ..............11
1.4. Phương thức giải quyết khiếu nại về cưỡng chế trong thi hành án dân sự. .......13
1.5. Các yếu tố tác động đến việc giải quyết khiếu nại về cưỡng chế trong thi hành
án dân sự....................................................................................................................28
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI VỀ CƯỠNG CHẾ

TRONG THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TẠI TỈNH QUẢNG NAM. .........................33
2.1. Những đặc điểm tự nhiên, kinh tế - xã hội của tỉnh Quảng Nam có liên quan
đến giải quyết khiếu nại về cưỡng chế trong thi hành án dân sự. .............................33
2.2. Tình hình khiếu nại về cưỡng chế trong thi hành án dân sự tại tỉnh Quảng Nam.
...................................................................................................................................35
2.3. Tình hình giải quyết khiếu nại về cưỡng chế trong thi hành án dân sự tại tỉnh
Quảng Nam ...............................................................................................................39
2.4. Những ưu điểm và hạn chế, bất cập trong việc giải quyết khiếu nại về cưỡng
chế trong thi hành án dân sự tại tỉnh Quảng Nam .....................................................42
CHƯƠNG 3. PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ
GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI VỀ CƯỠNG CHẾ TRONG THI HÀNH ÁN DÂN
SỰ TỪ THỰC TIỄN TỈNH QUẢNG NAM .........................................................50
3.1. Nhu cầu nâng cao hiệu quả giải quyết khiếu nại về cưỡng chế trong thi hành án
dân sự từ thực tiễn tỉnh Quảng Nam .........................................................................50
3.2. Phương hướng nâng cao hiệu quả giải quyết khiếu nại về cưỡng chế trong thi
hành án dân sự từ thực tiễn tỉnh Quảng Nam. ...........................................................55
3.3. Các giải pháp nâng cao hiệu quả giải quyết khiếu nại về cưỡng chế trong thi
hành án dân sự từ thực tiễn tỉnh Quảng Nam. ...........................................................56
KẾT LUẬN ..............................................................................................................68
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài.
Thi hành án dân sự có vai trò quan trọng trong hoạt động tố tụng nói chung
và quá trình giải quyết vụ án nói riêng. Đây là công đoạn cuối cùng của hoạt động
tố tụng, bảo đảm bản án, quyết định của cơ quan có thẩm quyền được chấp hành
nghiêm chỉnh, góp phần tăng cường tính ngiêm minh của pháp luật, qua đó góp
phần giữ vững ổn định chính trị - xã hội, tăng cường hiệu quả của bộ máy Nhà
nước.

Thể chế hóa chủ trưởng, đường lối đối mới của Đảng về công tác Thi hành
án dân sự, đồng thời tạo hành lang pháp lý thuận lợi cho công tác này trong tình
hình đổi mới, ngày 14/11/2008, Quốc hội đã thông quan Luật thi hành án dân sự.
Trên cơ sở đó, việc tổ chức thi hành Luật thi hành án dân sự đã đạt được nhiều kết
quả quan trọng, nhận thức của các cơ quan, tổ chức, cá nhân và các tầng lớp nhân
dân về ý nghĩa, vai trò của công tác Thi hành án dân sự được nâng lên rõ rệt; vị thế
của cơ quan Thi hành án dân sự được nâng lên một bước ... nhờ đó kết quả thi hành
án dân sự đã có những bước chuyển biến tích cực và đạt kết qủa khả quan.
Do vậy, để tiếp tục thể chế hóa đường lối, chủ trưởng của Đảng về cải cách
tư pháp theo tinh thần Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị
về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, quy định của Hiến pháp năm 2013 và
hoạn thiện thể chế thi hành án dân sự, ngày 25/11/2014, Quốc hội khóa XIII tại kỳ
họp thứ 8 đã thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thi hành án dân
sự để tạo hành lang pháp lý vững chắc trong công tác thi hành án dân sự.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tích đáng ghi nhận, hoạt động thi hành án
dân sự nói chung vẫn còn nhiều bất cập thể hiện rõ rệt trong tình hình khiếu nại, giải
quyết khiếu nại về cưỡng chế thi hành án dân sự. Hiện tại, nó là vấn đề gây bức xúc
trong đời sống xã hội, đồng thời cũng là vấn đề trăn trở của ngành Tư pháp. Trong
lĩnh vực này, hàng năm số lượng các vụ việc khiếu nại về cưỡng chế thi hành án
dân sự không những không giảm mà lại có chiều hướng tăng lên.

1


Từ những trình bày trên đây, việc nghiên cứu một cách toàn diện cả về lý
luận và thực tiễn đối với công tác giải quyết khiếu nại về cưỡng chế trong thi hành
án dân sự là rất cần thiết. Qua đó, thấy được cơ sở lý luận, thực trạng tình hình giải
quyết khiếu nại thời gian qua với những bất cập, hạn chế, từ đó đưa ra những giải
pháp để điều chỉnh cho phù hợp. Đó chính là lý do để tác giả chọn làm đề tài luận
văn cao học chủ đề: “Giải quyết khiếu nại về cưỡng chế trong thi hành án dân sự từ

thực tiễn của tỉnh Quảng Nam”.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài.
Liên quan đến đề tài “Giải quyết khiếu nại về cưỡng chế trong thi hành án
dân sự từ thực tiễn của tỉnh Quảng Nam” đã có một số công trình nghiên cứu như:
Luận án tiến sỹ luật học “ Hoàn thiện thủ tục pháp lý về giải quyết khiếu nại của
công dân” của tác giả Nguyễn Hạnh, luận án đã nghiên cứu toàn diện hệ thống lý
luận và các quy định của pháp luật về khiếu nại của công dân, đưa ra những đánh
giá, nhận xét cũng như đề ra các biện pháp nhằm tăng cường và hoàn thiện hơn nữa
các thủ tục pháp lý về giải quyết khiếu nại của công dân. Tuy vậy luận án không đề
cập đến thủ tục pháp lý về giải quyết khiếu nại về cưỡng chế trong thi hành án dân
sự.
Luận án tiến sỹ“Bảo đảm pháp lý thực hiện quyền khiếu nại hành chính của
công dân ở nước ta hiện nay” của tác giả Nguyễn Tuấn Khanh, luận án đã nghiên
cứu, phân tích, đánh giá một cách toàn diện thực trạng từng yếu tố pháp lý bảo đảm
thực hiện quyền khiếu nại hành chính của công dân, làm cơ sở cho việc đề xuất các
giải pháp khắc phục nhằm hoàn thiện bảo đảm pháp lý thực hiện quyền khiếu nại
hành chính của công dân. Tuy nhiên nội dung của luận án không đề cập đến quyền
khiếu nại của công dân trong lĩnh vực thi hành án dân sự nói chung cũng như việc
giải quyết khiếu nại về cưỡng chế trong thi hành án dân sự nói riêng.
Nhìn chung, các công trình, bài viết nghiên cứu đó mới dừng lại ở việc
nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn có tính chất chung, tổng quát. Các
công trình nghiên cứu đó đã ít nhiều làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và thực tiễn
của tình hình khiếu nại, giải quyết khiếu nại nói chung, khiếu nại, giải quyết khiếu

2


nại trong lĩnh vực thi hành án dân sự. Tuy nhiên, chưa có công trình nghiên cứu nào
nghiên cứu một cách đầy đủ và toàn diện hệ thống những vấn đề lý luận, thực tiễn
công tác giải quyết khiếu nại về cưỡng chế trong thi hành án dân sự từ thực tiễn tỉnh

Quảng Nam. Do đó, đề tài này không trùng lắp với các công trình đã công bố.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu.
Trên cơ sở làm sáng tỏ lý luận công tác giải quyết khiếu nại về cưỡng chế
trong thi hành án dân sự từ thực tiễn tỉnh Quảng Nam, luận văn góp phần giải quyết
những vướng mắc trong hoạt động khiếu nại về cưỡng chế của người dân, cơ quan,
tổ chức đối với những quyết định, hành vi của các chủ thể bị khiếu nại về cưỡng chế
thi hành án và hoạt động giải quyết khiếu nại về cưỡng chế trong thi hành án dân sự
tại tỉnh Quảng Nam.
Để thực hiện mục đích trên đây, các nhiệm vụ đặt ra cho luận văn là:
- Nghiên cứu những vấn đề lý luận giải quyết khiếu nại về cưỡng chế trong
thi hành án dân sự.
- Đánh giá thực trạng pháp luật, thực tiễn việc giải quyết khiếu nại về cưỡng
chế trong thi hành án dân sự từ thực tiễn tỉnh Quảng Nam.
- Đề xuất các giải pháp, đề xuất những kiến nghị nhằm hoàn chỉnh hệ thống
pháp luật, chuẩn mực chung cho quy trình giải quyết khiếu nại về cưỡng chế và
nâng cao hiệu quả giải quyết khiếu về thi hành án dân sự tại tỉnh Quảng Nam.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
Đề tài tập trung nghiên cứu pháp lý và thực trạng của pháp luật hiện hành về
việc giải quyết khiếu nại về cưỡng chế thi hành án dân sự từ thực tiễn tỉnh Quảng
Nam.
Đề tài chỉ tập trung nghiên cứu công tác giải quyết khiếu nại về cưỡng chế
thi hành án dân sự từ thực tiễn tỉnh Quảng Nam theo quy định của Luật Thi hành án
dân sự và các văn bản hướng dẫn thi hành Luật Thi hành án dân sự. Không nghiên
cứu chuyên sâu vấn đề giải quyết khiếu nại trong các công đoạn khác của thi hành
án dân sự. Các số liệu được thu thập từ năm 2013 đến năm 2018.
5. Cơ sở lý luận và và phương pháp nghiên cứu.

3



5.1. Cơ sở lý luận.
Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận của Chủ nghĩa
Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh; quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam về
nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân và vì dân và các vấn đề về bảo đảm
quyền con người, quyền công dân trong các lĩnh vực, trong đó có lĩnh vực dân sự.
5.2. Phương pháp nghiên cứu.
Các phương pháp nghiên cứu cụ thể được sử dụng trong luận văn là: phương
pháp phân tích, phương pháp tổng hợp, phương pháp thống kê, phương pháp so
sánh… được tác giả sử dụng để đánh giá và rút ra nhận xét, kết luận phục vụ cho đề
tài của mình.
6. Ý nghĩa của đề tài.
Đề tài nghiên cứu toàn diện những vấn đề lý luận và thực tiễn về giải quyết
khiếu nại về cưỡng chế trong thi hành án dân sự từ thực tiễn tỉnh Quảng Nam
Luận văn có thể là tài liệu tham khảo phục vụ cho việc hoàn thiện pháp luật
và nâng cao chất lượng giải quyết khiếu nại trong lĩnh vực thi hành án dân sự.
Kết quả nghiên cứu luận văn cũng có thể sử dụng là tài liệu phục vụ cho các
sinh viên, học viên tham gia học tập, nhất là đối với cán bộ, công chức ngành Thi
hành án dân sự, cho các hoạt động nghiên cứu về giải quyết khiếu nại nói chung và
giải quyết khiếu nại trong lĩnh vực cưỡng chế thi hành án dân sự nói riêng.
7. Kết cấu của luận văn.
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được
cơ cấu thành 3 chương như sau:
Chương 1: Những vấn đề lý luận và pháp lý của giải quyết khiếu nại về
cưỡng chế trong thi hành án dân sự.
Chương 2: Thực trạng khiếu nại về cưỡng chế trong thi hành án dân sự tại
tỉnh Quảng Nam.
Chương 3: Phương hướng và giải pháp nâng cao hiệu quả giải quyết khiếu
nại về cưỡng chế trong thi hành án dân sự từ thực tiễn tỉnh Quảng Nam.

4



CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ CỦA GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI
VỀ CƯỠNG CHẾ TRONG THI HÀNH ÁN DÂN SỰ
1.1. Khái niệm, đặc điểm của giải quyết khiếu nại về cưỡng chế trong thi
hành án dân sự.
Khái niệm về cưỡng chế trong thi hành án dân sự
Cho thấy đến nay vẫn còn có nhiều quan điểm khác nhau về thi hành
án. Quan điểm thứ nhất cho rằng thi hành án là hoạt động tố tụng. Song, thi hành
án là hoạt động tố tụng nào và nằm ở giai đoạn nào của quá trình tố tụng thì lại có
những ý kiến khác nhau. Có ý kiến cho rằng, thi hành án là một giai đoạn tố tụng và
là công đoạn cuối cùng của hoạt động tố tụng. Ý kiến khác cho rằng, thi hành án là
một thủ tục tố tụng đặc biệt mang cả đặc trưng của tố tụng dân sự, tố tụng hình sự
và tố tụng hành chính, thi hành án vừa tôn trọng quyền tự định đoạt của đương sự,
vừa biểu hiện tính cưỡng chế của Nhà nước.
Có ý kiến khác lại cho rằng, thi hành án thuộc loại tố tụng "hỗn hợp" vì "thi
hành án có rất nhiều trình tự, thủ tục và đặc trưng giống các loại tố tụng
khác". Quan điểm thứ hai, xem thi hành án là hoạt động quản lý hành chính - tư
pháp thì cho rằng, quá trình tố tụng mà trọng tâm là việc xét xử của Toà án chấm
dứt khi Toà án ra phán quyết nhân danh Nhà nước, trong đó Toà án đã xác định
quyền, nghĩa vụ của các bên, còn việc thi hành phán quyết đó lại là một giai đoạn
khác, không thuộc quá trình tố tụng. thi hành án không phải là giai đoạn tố tụng, bởi
vì thi hành án có mục đích khác với mục đích tố tụng; tố tụng là quá trình đi tìm sự
thật của các vụ việc đã diễn ra trên thực tế, trên cơ sở đó đưa ra cách giải quyết vụ
việc theo đúng quy định của pháp luật, còn thi hành án là quá trình tiến hành các
hoạt động nhằm thực hiện các bản án, quyết định của Toà án đã có hiệu lực pháp
luật. Quan điểm thứ ba cho rằng, thi hành án là hoạt động tư pháp nên phải gắn với
khâu hoạt động xét xử để tạo một cơ chế chặt chẽ và có hiệu quả nhằm đưa ra và
đảm bảo thi hành các bản án, quyết định của Toà án và các quyết định khác theo


5


quy định của pháp luật.
Mỗi loại quan điểm nêu trên đều có những cơ sở khoa học riêng, tuy nhiên
theo tác giả thì thi hành án là một thủ tục tố tụng và chỉ cần xác định thi hành án là
thủ tục tố tụng thi hành án, không nên coi đó là một giai đoạn của thủ tục tố tụng
hình sự, dân sự, hành chính hay tố tụng khác và cần hiểu thi hành án là thủ tục tố
tụng độc lập so với các thủ tục tố tụng khác như điều tra, kiểm sát hoặc xét xử. “Tố
tụng” không nên hiểu chỉ là "thưa kiện tại Toà án nói chung", là hoạt động của cơ
quan Toà án xét xử để đi tìm “chân lý”, mà cần xem xét đến bản chất của tố tụng.
Về bản chất, thực ra tố tụng chỉ là việc thực hiện các quy định của pháp luật hình
thức theo thủ tục nhất định để giải quyết các quan hệ xã hội theo đúng sự điều chỉnh
của pháp luật nội dung. Tố tụng được thực hiện bởi nhiều cơ quan, tuỳ theo tính
chất và mức độ do pháp luật quy định. Hoạt động của cơ quan tiến hành tố tụng nói
chung, cơ quan thi hành án nói riêng nhằm mục đích bảo đảm để bản án, quyết định
của Toà án hoặc quyết định của cơ quan, tổ chức có thẩm quyền khác được thực thi
trên thực tế. Hoạt động nào tuân theo thủ tục do pháp luật hình thức quy định là
hoạt động tố tụng, do đó có nhiều loại tố tụng, như: Tố tụng dân sự, tố tụng hình sự,
tố tụng hành chính, tố tụng trọng tài, tố tụng thi hành án.
Từ nhận định trên, để làm rõ khái niệm cưỡng chế thi hành án dân sự cần tìm
hiểu về bản chất của cưỡng chế. Theo cuốn Đại Từ điển tiếng Việt của Nguyễn Như
Ý (chủ biên), Trung tâm Ngôn ngữ và văn hóa Việt Nam, Bộ Giáo dục và Đào tạo
do Nhà xuất bản Văn hóa thông tin ấn hành năm 1998 thì cưỡng chế là“bắt buộc
phải tuân theo bằng sức mạnh quyền lực: tính chất cưỡng chế của pháp luật”. Từ
điển tiếng Việt của Viện ngôn ngữ học do Nhà xuất bản Thanh niên ấn hành 2001
thì “cưỡng chế là dùng quyền lực nhà nước bắt buộc người khác phải tuân theo”.
Theo Từ điển Bách khoa Việt Nam tập 1 xuất bản năm 1996 thì cưỡng chế là “dùng
quyền lực của Nhà nước để bắt buộc người khác thực hiện những việc làm trái với ý

muốn của họ. Cưỡng chế là một trong những phương pháp chủ yếu của hoạt động
quản lý nhà nước”. Về mặt thuật ngữ pháp lý, theo cuốn Từ điển Luật học do Nhà
xuất bản Từ điển bách khoa ấn hành năm 1999 thì cưỡng chế là “những biện pháp

6


bắt buộc cá nhân hay tổ chức phải thực hiện và phục tùng mệnh lệnh nhất định của
cơ quan nhà nước có thẩm quyền”. Từ điển Luật học do Nhà xuất bản Từ điển bách
khoa và Nhà xuất bản Tư pháp ấn hành năm 2006 thì cưỡng chế là “buộc cá nhân
hay tổ chức phải phục tùng một mệnh lệnh, thực hiện một nghĩa vụ, trách nhiệm
theo quyết định đã có hiệu lực của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Chỉ tổ chức
hay cá nhân được pháp luật quy định mới được ra quyết định cưỡng chế, quyết định
lực lượng cưỡng chế. Cưỡng chế phải được tiến hành theo thủ tục, trình tự chặt
chẽ. Cá nhân hay tổ chức là đối tượng cưỡng chế có thể bị buộc phải làm hay
không được làm một việc nhất định về quyền tài sản hay quyền nhân thân. Biện
pháp sử dụng trong cưỡng chế là bạo lực về mặt vật chất hoặc tinh thần, thường
được áp dụng khi quyết định đã có hiệu lực không được thực hiện một cách tự
nguyện”.
Như vậy, các ý kiến không hoàn toàn đồng nhất về khái niệm cưỡng chế, tuy
nhiên có thể thấy rằng nói đến cưỡng chế là nói đến việc dùng quyền lực nhà nước,
áp đặt ý chí của Nhà nước đối với tổ chức, cá nhân nhất định để buộc tổ chức, cá
nhân đó phải thực hiện hoặc không được thực hiện công việc nhất định theo ý chí
của Nhà nước. Quyền lực nhà nước được sử dụng với nhiều phương thức khác
nhau, theo nhiều lĩnh vực thông qua những biện pháp nhất định và do chủ thể nhất
định tiến hành. Chủ thể đó có thể là công chức nhà nước hoặc cá nhân, tổ chức khác
được Nhà nước trao quyền tiến hành cưỡng chế. Tuy nhiên, việc dùng quyền lực
nhà nước để cưỡng chế cũng phải được thực hiện trên cơ sở các quy định cụ thể của
pháp luật, với phương thức thực thi pháp luật phù hợp.
Để bảo đảm thực thi pháp luật, ngoài phương thức giáo dục, thuyết phục mọi

chủ thể tự giác tuân thủ, bất kỳ Nhà nước nào cũng sử dụng sức mạnh cưỡng chế
bằng pháp luật. Cưỡng chế là khái niệm thuộc phạm trù Nhà nước và pháp luật, là
hiện tượng gắn liền với Nhà nước. Quyền lực nhà nước là quyền lực dựa trên sức
mạnh của Nhà nước, khả năng sử dụng Nhà nước thực hiện ý chí của giai cấp thống
trị buộc xã hội phải phục tùng ý chí đó; quyền lực nhà nước là quyền lực chính trị
được thực hiện bằng Nhà nước và là trung tâm của quyền lực chính trị bởi vì Nhà

7


nước là tổ chức rộng lớn nhất, bao trùm lên toàn bộ xã hội, quản lý mọi tầng lớp
dân cư trong phạm vi lãnh thổ của mình.
Như vậy, cưỡng chế là dùng quyền lực nhà nước buộc tổ chức, cá nhân nhất
định phải tuân theo, đó là một phương thức sử dụng và bảo đảm cho quyền lực nhà
nước được thực hiện bởi biện pháp nhất định và do chủ thể có thẩm quyền tiến
hành. Theo Điều 45 và 46 Luật Thi hành án dân sự, quy định: Hết thời hạn tự
nguyện thi hành án là 10 ngày, kể từ ngày người phải thi hành án nhận được quyết
định thi hành án hoặc được thông báo hợp lệ quyết định thi hành án, người phải thi
hành án có điều kiện thi hành án mà không tự nguyện thi hành án thì bị cưỡng chế
và Điều 71 Luật Thi hành án dân sự quy định 07 biện pháp cưỡng chế thi hành án
bao gồm: (1) Khấu trừ tiền trong tài khoản; thu hồi, xử lý tiền, giấy tờ có giá của
người phải thi hành án; (2) Trừ vào thu nhập của người phải thi hành án; (3) Kê
biên, xử lý tài sản của người phải thi hành án, kể cả tài sản đang do người thứ ba
giữ; (4) Khai thác tài sản của người phải thi hành án; (5) Buộc chuyển giao vật,
chuyển giao quyền tài sản, giấy tờ; (6) Buộc người phải thi hành án thực hiện hoặc
không được thực hiện công việc nhất định.
Từ những phân tích trên có thể đưa ra khái niệm cưỡng chế thi hành án dân
sự như sau: Cưỡng chế thi hành án dân sự là việc chủ thể có thẩm quyền dùng
quyền lực nhà nước thực hiện biện pháp cưỡng chế theo quy định của pháp luật về
thi hành án dân sự đối với tổ chức, cá nhân nhằm bảo đảm thi hành trên thực tế

quyền, nghĩa vụ đã được xác định trong bản án, quyết định được thi hành theo thủ
tục thi hành án dân sự. Cưỡng chế thi hành án dân sự có thể được xem xét dưới góc
độ là một quan hệ pháp luật, một chế định pháp luật hoặc một hoạt động áp dụng
pháp luật trong thực tiễn.
Giải quyết khiếu nại về cưỡng chế trong thi hành án dân sự
Giải quyết khiếu nại là việc người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại theo
thủ tục pháp luật quy định thực hiện các bước như thụ lý, xác minh để kết luận và ra
quyết định giải quyết khiếu nại.
Cụ thể hơn, giải quyết khiếu nại là việc người có thẩm quyền giải quyết

8


khiếu nại căn cứ vào các quy định của pháp luật về khiếu nại và các quy phạm pháp
luật khác có liên quan để xác định xem việc khiếu nại là đúng hay sai. Giải quyết
khiếu nại được thực hiện theo trình tự - cách thức do pháp luật quy định và qua
nhiều bước khác nhau từ việc đưa vụ việc ra để giải quyết khiếu nại theo thủ tục thụ
lý, sau đó phải thực hiện việc xác minh, đánh giá tính chất của khiếu nại, đánh giá
chứng cứ cũng như các tài liệu để từ đó ra quyết định về tính hợp pháp, hợp lý của
đơn khiếu nại.
Do đó, giải quyết khiếu nại về cưỡng chế thi hành án dân sự được hiểu là quá
trình cơ quan cơ quan quản lý hoặc cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền xem
xét, đánh giá đối với quyết định cưỡng chế, hành vi cưỡng chế (bao gồm hành vi
thực hiện hoặc không thực hiện việc cưỡng chế thi hành án) của Chấp hành viên về
tính hợp pháp và tính hợp lý, từ đó đưa ra các giải pháp xử lý phù hợp.
Đặc điểm của giải quyết khiếu nại về cưỡng chế trong thi hành án dân sự.
Khiếu nại trong lĩnh vực thi hành án dân sự nói chung và khiếu nại về cưỡng
chế thi hành án nói riêng vừa phải tuân theo các qui định của luật khiếu nại năm
2011, vừa phải tuân theo và thực hiện các qui định của Luật Thi hành án dân sự và
các văn bản hướng dẫn thi hành luật Thi hành án dân sự cũng như quy trình giải

quyết khiếu nại, tố cáo mà Tổng cục Thi hành án dân sự đã xây dựng. Khiếu nại về
thi hành án dân sự là khiếu nại hành chính nhưng nội dung liên quan đến vấn đề tư
pháp. Trong giới khoa học, các nhà nghiên cứu cũng xác nhận tính chất hành chính
của loại khiếu nại nêu trên. Theo giáo sư, viện sỹ Nguyễn Duy Quý và phó giáo sư,
tiến sỹ Nguyễn Tất Viễn thì “cơ quan Thi hành án dân sự cần xác định rõ là cơ
quan hành chính - tư pháp (tác giả nhấn mạnh), hướng là phải tập trung nhiệm vụ
thống nhất quản lý nhà nước về công tác thi hành án vào một đầu mối. Đồng thời,
từng bước thực hiện xã hội hóa hoạt động thi hành án và quy định hình thức, thủ
tục đã giao cho tổ chức không phải là cơ quan quản lý nhà nước thực hiện một số
công việc thi hành án”. Chính vì vậy mà khiếu nại trong lĩnh vực thi hành án dân sự
có những đặc điểm khác biệt so với khiếu nại hành chính theo qui định của luật
Khiếu nại, điều này thể hiện ở chỗ:

9


Khiếu nại hành chính thì công dân, tổ chức, cơ quan có quyền đề nghị cơ
quan nhà nước xem xét lại quyết định hành chính, hành vi hành chính khi có căn cứ
cho rằng quyết định, hành vi đó là trái luật, xâm phạm đến quyền, lợi ích hợp pháp
của họ. Việc khiếu nại hành chính xảy ra ở nhiều lĩnh vực khác nhau (đất đai, lao
động, môi trường...), tuy nhiên ở đây chúng ta thấy rằng chỉ khi quyết định, hành vi
hành chính nào đó của hoặc cơ quan có thẩm quyền mà ảnh hưởng đến quyền, lợi
ích hợp pháp của một cá nhân, cơ quan, tổ chức nào đó thì họ mới thực hiện được
quyền khiếu nại của mình.
Khiếu nại về lĩnh vực thi hành án dân sự thì không chỉ người được thi hành
án, người phải thi hành án có quyền khiếu nại đối với quyết định, hành vi của thủ
trưởng cơ quan Thi hành án dân sự, Chấp hành viên mà ngay cả những người có
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến việc thi hành án, không phải người được thi hành
án, phải thi hành án cũng có quyền khiếu nại.
Giải quyết khiếu nại trong lĩnh vực thi hành án dân sự nói chung và về cưỡng

chế trong thi hành án dân sự nói riêng mang các đặc trưng sau đây:
- Giải quyết khiếu nại về cưỡng chế trong thi hành án dân sự mang đặc điểm
chung của giải quyết khiếu nại về thi hành án, theo đó, mặc dù nội dung khiếu nại
mang tính chất là một công đoạn của thi hành án dân sự nhưng lại được giải quyết
theo trình tự thủ tục được Luật Thi hành án dân sự. Từ đó, quá trình giải quyết
khiếu nại về cưỡng chế thi hành án dân sự cũng phải được thực hiện theo thủ tục
giải quyết khiếu nại về thi hành án dân sự, gồm các giai đoạn như: thụ lý đơn, xác
minh, ra quyết định giải quyết khiếu nại, thi hành quyết định giải quyết khiếu nại,
thực hiện quyền khiếu nại lần tiếp theo và đề nghị xem xét lại quyết định giải quyết
khiếu nại đã có hiệu lực pháp luật.
- Đặc điểm riêng của giải quyết khiếu nại về cưỡng chế trong thi hành án dân
sự trước hết nó phải được xuất hiện trong hoạt động tổ chức thi hành án dân sự của
Chấp hành viên. Nghĩa là người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại giải quyết đối
với các khiếu nại có liên quan đến quyết định, hành vi về cưỡng chế thi hành án dân
sự của Chấp hành viên chứ không phải bất kỳ chức danh nào khác của cơ quan thi

10


hành án dân sự.
- Vì khiếu nại về cưỡng chế thi hành án dân sự được giải quyết theo thủ tục
hành chính, chứ không phải thủ tục Tòa án, nên các vụ việc được giải quyết khiếu
nại vừa được xem xét có hợp pháp (phù hợp với quy định của pháp luật) hay không
mà còn được xem xét cả về tính hợp lý của nó liên quan đến khiếu nại về thời điểm
thực hiện việc cưỡng chế thi hành án, bố trí lực lượng…có tốt hay không.
1.2. Vai trò của giải quyết khiếu nại về cưỡng chế trong thi hành án dân
sự.
Thứ nhất, giải quyết khiếu nại về cưỡng chế trong thi hành án dân sự nhằm
bảo đảm cho bản án, quyết định của Tòa án được thực hiện trên thực tế nhằm bảo
đảm pháp chế theo yêu cầu của nhà nước pháp quyền. Bảo đảm pháp chế trong giải

quyết khiếu nại thể hiện trong hoạt động việc tuân thủ chặt chẽ quy định của pháp
luật trong giai đoạn áp dụng biện pháp cưỡng chế của Chấp hành viên và bảo đảm
quyền khiếu nại của đương sự khi họ không đồng ý với việc áp dụng các thủ tục và
biện pháp cưỡng chế thi hành án của Chấp hành viên.
Thứ hai, giải quyết khiếu nại về cưỡng chế trong thi hành án dân là hoạt
động giúp người được thi hành án, người phải thi hành án, người có quyền lợi nghĩa
vụ liên quan bảo vệ được lợi ích hợp pháp, chính đáng của mình, theo yêu cầu, đề
nghị của họ. Kết quả giải quyết khiếu nại có tác động lớn đến tâm lý cũng như lợi
ích vật chất của các bên trong quan hệ khiếu nại và giải quyết khiếu nại.
Thứ ba, giải quyết khiếu nại về cưỡng chế trong thi hành án dân sự là nhân tố
quan trọng thúc đẩy hoạt động thi hành án dân sự. Thi hành án dân sự luôn là điểm
nóng trong thực tiễn pháp lý ở Việt Nam. Việc giải quyết đúng đắn khiếu nại không
những làm bảo đảm pháp chế trong lĩnh vực cưỡng chế thi hành án mà còn bảo vệ
quyền của các đương sự liên quan đến bản án, quyết định của Tòa án mà còn tạo ra
sự tôn nghiêm trong hoạt động thi hành án dân sự, hạn chế khả năng vi phạm trong
lĩnh vực này.
1.3. Nội dung giải quyết khiếu nại về cưỡng chế trong thi hành án dân sự
Trong lĩnh vực thi hành án dân sự các khiếu nại liên quan tới các quyết định,

11


hành vi về cưỡng chế của Chấp hành viên trong quá trình tổ chức thi hành án và
trong cả quá trình giải quyết khiếu nại, nội dung khiếu nại trong lĩnh vực về cưỡng
chế thi hành án dân sự rất đa dạng như chậm ra quyết định thi hành án cưỡng chế kê
biên tài sản, chậm tổ chức cưỡng chế kê biên tài sản thi hành án, kê biên tài sản sai
đối tượng, bán đấu giá tài sản không đúng trình tự thủ tục, thanh toán tiền thi hành
án không đúng quy định…
Khác với đặc điểm về khiếu nại trong lĩnh vực thi hành án dân sự nói chung,
khiếu nại về cưỡng chế trong thi hành án dân sự mang những đặc điểm khác biệt về

chủ thể bị khiếu nại, đối tượng khiếu nại cũng như nội dung khiếu nại chủ yếu là do
giới hạn về phạm vi khiếu nại và chủ thể bị khiếu nại chỉ có thể là Chấp hành viên.
Về chủ thể thực hiện quyền khiếu nại.
Khoản 1 Điều 140 Luật THADS năm 2014 quy định về quyền của người
khiếu nại, bao gồm: Đương sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền
khiếu nại đối với quyết định, hành vi của Chấp hành viên nếu có căn cứ cho rằng
quyết định, hành vi đó là trái pháp luật, xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của
mình.
Theo quy định tại Khoản 1, 2, 3 và khoản 4 Điều 3 Luật Thi hành án dân sự,
thì:
+ Đương sự bao gồm người được thi hành án, người phải thi hành án.
+ Người được thi hành án là cá nhân, cơ quan, tổ chức được hưởng quyền, lợi
ích trong bản án, quyết định được thi hành.
+ Người phải thi hành án là cá nhân, cơ quan, tổ chức phải thực hiện nghĩa vụ
trong bản án, quyết định được thi hành.
+ Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là cá nhân, cơ quan, tổ chức có
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trực tiếp đến việc thực hiện quyền, nghĩa vụ thi hành
án của đương sự.
Với các quy định như trên, có thể hiểu người có quyền khiếu nại về cưỡng chế
trong thi hành án dân sự là cá nhân, tổ chức có liên quan trực tiếp đến việc áp dụng
biện pháp cưỡng chế thi hành án của Chấp hành viên thuộc cơ quan thi hành án dân sự.

12


Đối tượng bị khiếu nại.
Theo Luật THADS năm 2008 được sửa đổi bổ sung năm 2014 thì đối tượng
khiếu nại về biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự là các quyết định, hành vi về
áp dụng biện pháp cưỡng chế của Chấp hành viên đươc phân công thụ lý vụ việc.
Theo Điều 71 Luật Thi hành án dân sự, thì các biện pháp cưỡng chế sau đây là

đối tượng bị khiếu nại:
+ Khấu trừ tiền trong tài khoản; thu hồi, xử lý tiền, giấy tờ có giá của người
phải thi hành án.
+ Trừ vào thu nhập của người phải thi hành án.
+ Kê biên, xử lý tài sản của người phải thi hành án, kể cả tài sản đang do
người thứ ba giữ.
+ Khai thác tài sản của người phải thi hành án.
+ Buộc chuyển giao vật, chuyển giao quyền tài sản, giấy tờ.
+ Buộc người phải thi hành án thực hiện hoặc không được thực hiện công việc
nhất định.
Hoặc các hành vi thực hiện hoặc không thực hiện các biện pháp cưỡng chế nêu
trên cũng là đối tượng bị khiếu nại.
Đối tượng bị khiếu nại về cưỡng chế trong thi hành án dân sự ngoài các
quyết định, hành vi nêu trên của Chấp hành viên thì còn có các hành vi của Chấp
hành viên khi thực hiện không đúng hoặc không thực hiện việc mà theo qui định
của luật phải làm như hành vi không thông báo, thông báo không đúng quy định về
áp dụng biện pháp cưỡng chế, kết quả thẩm định giá, bán đấu giá, kê biên thiếu
hoặc dư tài sản, kê biên tài sản không được quyền kê biên, không thực hiện giao tài
sản bán đấu giá thành …
1.4. Phương thức giải quyết khiếu nại về cưỡng chế trong thi hành án
dân sự.
1.4.1. Cơ sở làm phát sinh khiếu nại và giải quyết khiếu nại về cưỡng chế
trong thi hành án dân sự.
Việc thi hành án dân sự không tự nhiên mà phát sinh. Khi bản án đã có hiệu

13


lực thì điều kiện bắt buộc để thực hiện bản án dân sự là cơ quan Thi hành án dân sự
phải ban hành quyết định thi hành án theo một thủ tục nhất định. Cụ thể là, sau khi

thực hiện xét xử xong thì các bản án phải được Tòa án chuyển giao sang cho cơ
quan thi hành án để cơ quan thi hành án thực hiện giai đoạn tổ chức thi hành. Trong
lĩnh vực thi hành án dân sự, có hai loại quyết định thi hành án là: quyết định thi
hành án chủ động và quyết định thi hành án theo đơn yêu cầu. Trong đó các quyết
định thi hành án theo đơn yêu cầu thường phức tạp hơn rất nhiều vì nó ảnh hưởng
lớn đến lợi ích vật chất của các bên tham gia quan hệ thi hành án dân sự theo ý chí
của người yêu cầu.
Trong thi hành án dân sự, Thủ trưởng cơ quan Thi hành án có quyền ra quyết
định về thi hành án theo quy định, đó là cơ sở để Chấp hành viên được phân công tổ
chức thi hành án thực hiện nhiệm vụ của mình. Khi thực hiện việc tổ chức thi hành
các bản án, Chấp hành viên của cơ quan Thi hành án dân sự phải thực hiện nhiều
thao tác, biện pháp nghiệp vụ khác nhau nhằm đảm bảo cho việc thi hành án diễn ra
đúng thẩm quyền, trình tự pháp luật quy đinh, đồng thời bảo đảm quyền và lợi ích
hợp pháp của các đương sự. Nhìn toàn bộ, các khiếu nại về cưỡng chế và việc giải
quyết khiếu nại về cưỡng chế trong thi hành án dân sự được phát sinh trên cơ sở bản
án được Tòa án sở tại đã tuyên, có hiệu lực pháp luật, hết thời hạn tự nguyện thi
hành án, người phải thi hành án có điều kiện nhưng Chấp hành viên không ra quyết
định cưỡng chế thi hành án hoặc ra quyết định cưỡng chế nhưng quyết định vi phạm
các quy định của pháp luật.
Trong trường hợp này, việc khiếu nại và thụ lý khiếu nại mở ra thủ tục giải
quyết khiếu nại. Về thủ tục này như trên đã xác định, đó là thủ tục khiếu nại và giải
quyết khiếu nại hành chính. Thủ tục này đã được xem xét tính chất pháp lý theo
quan điểm ngành luật. Thi hành án dân sự cũng như việc khiếu nại và giải quyết
khiếu nại thi hành án dân sự không phải là hoạt động tư pháp. Nó không phải là một
giai đoạn của tố tụng dân sự của nhà nước nhằm đưa ra và đảm bảo thi hành các bản
án, quyết định của tòa án đã có hiệu lực pháp luật. Hoạt động thi hành án dân sự nói
chung cũng như việc khiếu nại và giải quyết khiếu nại về cưỡng chế trong thi hành

14



án dân sự nói riêng là hoạt động có bản chất là tổ chức, điều hành thuộc lĩnh vực
hoạt động quản lý hành chính do luật hành chính điều chỉnh. Ở trên, luận văn đã
dẫn ra các ý kiến tán thành quan điểm này của Tổng cục Thi hành án Bộ Tư pháp và
quan điểm của một số nhà khoa học.
1.4.2. Trình tự, thủ tục giải quyết khiếu nại về cưỡng chế trong thi hành
án dân sự.
1.4.2.1. Các nguyên tắc giải quyết khiếu nại về cưỡng chế trong thi hành án
dân sự.
Giải quyết khiếu nại về cưỡng chế trong thi hành án dân sự là hoạt động
mang tính quyền lực nhà nước, được thực hiện bởi người có thẩm quyền giải quyết
khiếu nại theo một trình tự, thủ tục do pháp luật qui định. Các thủ tục này chứa
đựng và thể hiện những tư tưởng cơ bản được gọi là nguyên tắc. Các nguyên tắc này
bao gồm các nguyên tắc chung của việc thực hiện thủ tục hành chính, đồng thời nó
phải thể hiện tính đặc thù của hoạt động giải quyết khiếu nại. Đó là các nguyên tắc:
1/ Chỉ có cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền do pháp luật quy định mới
được tiến hành các thủ tục hành chính nhất định và phải thực hiện đúng trình tự và
cách thức thể hiện trong các phương tiện, biện pháp và hình thức được pháp luật
cho phép.
Trong lĩnh vực thi hành án dân sự, giải quyết khiếu nại về cưỡng chế trong
thi hành án dân sự phải tuân thủ các quy định của pháp luật về khiếu nại và các quy
định về khiếu nại, giải quyết khiếu nại trong lĩnh vực thi hành án dân sự. Nguyên
tắc này đặt ra yêu cầu đối với người giải quyết khiếu nại là phải tuân thủ và thực
hiện đúng theo các qui định của Luật khiếu nại năm 2011, Luật Thi hành án dân sự
năm 2008 (được sửa đổi bổ sung một số điều năm 2014) trong việc giải quyết khiếu
nại. Việc giải quyết khiếu nại phải căn cứ vào qui định của Luật Thi hành án dân sự,
qui chế giải quyết khiếu nại về thi hành án dân sự, phải đánh giá vấn đề khiếu nại
một cách khách quan, công minh, không bao che, phải trung thực trong việc bảo vệ
quyền, lợi ích hợp pháp của các bên liên quan, từ đó đưa ra quyết định giải quyết
khiếu nại một cách chính xác, đúng qui định.


15


2/ Mọi khiếu nại phải được xem xét, xử lý, giải quyết đúng pháp luật, bảo
đảm quyền, lợi ích hợp pháp của các cơ quan, tổ chức và người có quyền, nghĩa vụ
liên quan đến việc thi hành án dân sự. Trong quá trình giải quyết khiếu nại, người
khiếu nại có đơn xin rút khiếu nại thì người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại ra
thông báo về việc đình chỉ giải quyết khiếu nại. Khi giải quyết khiếu nại cần phải
xem xét mọi khiếu nại, giải quyết đúng trình tự thủ tục theo luật định như thời hạn
giải quyết khiếu nại, xác minh nội dung khiếu nại, thu thập chứng cứ, thực hiện việc
đối thoại giữa các bên liên quan. Cũng theo nguyên tắc này thì khi giải quyết khiếu
nại, người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại phải tôn trọng quyền rút đơn khiếu
nại của người khiếu nại tại bất kỳ giai đoạn nào của quá trình giải quyết khiếu nại.
3/ Thủ tục hành chính phải được tiến hành kịp thời, nhanh chóng. Đây là đòi
hỏi đỏi với bất cứ vụ việc nào được giải quyết theo thủ tục hành chính. Đối với lĩnh
vực thi hành án dân sự, không thực hiện yêu cầu này có thể dẫn tới tình trạng không
tốt cho việc thi hành án mà phổ biến nhất là hiện tượng che dấu, tẩu tán tài sản làm
cho bản án không thực hiện được.
4/ Thực hiện thủ tục phải bảo đảm chính xác, khách quan, công minh. Tính
chính xác, khách quan, công minh trong thực hiện thủ tục hành chính được bảo đảm
bởi hoạt động của cơ quan tiến hành thủ tục, cơ quan tiến hành thủ tục phải có đủ
tài liệu, chứng cứ và có thẩm quyền đòi hỏi việc giải quyết, cung cấp thông tin, áp
dụng các biện pháp bảo đảm cho các cá nhân, tổ chức hữu quan thực hiện thủ tục
hành chính được thuận lợi.
5/ Thủ tục hành chính được thực hiện công khai. Trước hết, phải công khai
các loại thủ tục để nhân dân biết. Đồng thời, khi tiến hành thủ tục phải bảo đảm
công khai, trừ các trường hợp pháp luật quy định phải bí mật theo quy định chung
hoặc theo đề nghị hợp pháp của các bên tham gia thủ tục.
6/ Các chủ thể tham gia thủ tục hành chính bình đẳng trước pháp luật.

Nguyên tắc này tể hiện ở chỗ các cơ quan hành chính nhà nước phải đáp ứng đề
nghị của công dân, tổ chức khi đề nghị của họ có đủ điều kiện do pháp luật quy định
và phải áp dụng những biện pháp cần thiết để bảo vệ và bảo đảm thực hiện quyền,

16


lợi ích hợp pháp của đương sự.
7/ Khi thực hiện việc xem xét, giải quyết khiếu nại về cưỡng chế thi hành án,
thủ trưởng cơ quan Thi hành án dân sự có thể xin ý kiến chỉ đạo nghiệp vụ của cơ
quan cấp trên trực tiếp. Trường hợp Thủ trưởng cơ quan Thi hành án dân sự đồng
thời là Chấp hành viên đã thực hiện hành vi, ban hành quyết định để thực hiện việc
cưỡng chế thi hành án mà sau đó bị khiếu nại thì không được xin ý kiến chỉ đạo
nghiệp vụ về nội dung liên quan đến quyết định hành vi bị khiếu nại của mình mà
phải hướng dẫn người có đơn khiếu nại gửi đơn đến người có thẩm quyền để giải
quyết. Đây là nguyên tắc phản ánh rõ sự khác biệt của giải quyết khiếu nại trong
lĩnh vực thi hành án dân sự thể hiện tính khách quan trong việc giải quyết khiếu nại.
1.4.2.2. Thủ tục giải quyết khiếu nại về cưỡng chế trong thi hành án dân sự
Thủ tục hay là trình tự - cách thức tiến hành việc giải quyết khiếu nại về thi
hành án dân sự nói chung và về cưỡng chế thi hành án nói riêng thuộc thẩm quyền
của Thủ trưởng cơ quan Thi hành án dân sự bao gồm các giai đoạn và các cách thức
thực hiện các hành vi thủ tục dưới dạng là quyền và nghĩa vụ của các bên tiến hành
thủ tục và tham gia thủ tục hướng tới việc ra quyết định giải quyết khiếu nại. Thủ
tục pháp lý nói chung, thủ tục hành chính nói riêng, trong đó có thủ tục giải quyết
khiếu nại việc thi hành án dân sự được khoa học cũng như thực tiễn pháp lý quan
niệm là bảo đảm pháp lý thực hiện các quyền và nghĩa vụ (quy phạm vật chất) của
cá nhân, tổ chức.
Tuy nhiên, không nên tuyệt đối hóa vai trò bảo đảm pháp lý đó của thủ tục
hành chính trong việc giải quyết khiếu nại việc thi hành án dân sự. Bởi vì, thủ tục
hành chính, dù là thủ tục cho việc giải quyết vụ việc nào cũng chỉ tạo ra điều kiện

thủ tục để bảo đảm cho quyền và nghĩa vụ vật chất hay nội dung của chủ thể nhất
định được thực hiện, chứ nó không thể bảo đảm 100% cho quyết định của cơ quan
nhà nước có thẩm quyền là hợp pháp và hợp lý. Trên thực tế, có những trường hợp
vụ việc giải quyết khiếu nại việc thi hành án dân sự được tiến hành theo đúng quy
trình nhưng lại không bảo đảm tạo ra các quyết định hợp pháp, hợp lý như quy định
của pháp luật. Và, nếu nhìn sang lĩnh vực hình sự thì ta cũng thấy có tình hình như

17


vậy. Nhưng từ đó không thể dẫn đến thái cực khác xem thường các thủ tục hành
chính trong việc giải quyết khiếu nại. Bởi vì, việc giải quyết khiếu nại nói chung,
giải quyết khiếu nại việc thi hành án dân sự nói riêng không thể bảo đảm có kết quả,
nếu người ta (kể cả người khiếu nại và người giải quyết khiếu nại) không thực hiện
hợp pháp các hành vi thủ tục theo các giai đoạn và theo các quy định cụ thể về các
quyền và nghĩa vụ của bên tiến hành thủ tục và bên tham gia thủ tục.
1.4.2.3 Các quy định của pháp luật hiện hành về trình tự, thủ tục giải quyết
khiếu nại về cưỡng chế trong thi hành án dân sự.
Cùng với Luật Khiếu nại, sự ra đời của Luật Thi hành án dân sự năm 2008
(được sửa đổi, bổ sung năm 2014) đánh dấu một bước tiến lớn của ngành Thi hành
án dân sự, nó đã đáp ứng được yêu cầu cấp thiết của hoạt động tổ chức thi hành án
dân sự, tạo ra một hành lang pháp lý mạnh mẽ để các cơ quan Thi hành án dân sự
thực hiện chức năng nhiệm vụ và quyền hạn của mình. Trong hoạt động giải quyết
khiếu nại Luật Thi hành án dân sự đã có những điểm tiến bộ hơn so với các Pháp
lệnh Thi hành án dân sự trước đây, phần nào khắc phục những hạn chế trong việc
giải quyết khiếu nại về thi hành án dân sự. Đối với giải quyết khiếu nại về cưỡng
chế trong thi hành án dân sự cũng phải căn cứ và áp dụng các trình tự, thủ tục theo
các quy định về giải quyết khiếu nại được Luật Thi hành án dân sự quy định, Luật
Thi hành án dân sự từ đó làm căn cứ để xây dựng và hoàn thiện hệ thống văn bản
quy định chi tiết về giải quyết khiếu nại mà rất quan trọng là Nghị định số

62/2015/NĐ-CP ngày 18/7/2015 hướng dẫn thi hành Luật, Thông tư 02/2016/TTBTP ngày 01/02/2016 của Bộ Tư pháp quy định về quy trình giải quyết đơn khiếu
nại, tố cáo, đề nghị, kiến nghị, phản ánh trong thi hành án dân sự, Quy chế giải
quyết khiếu nại tố cáo về thi hành án dân sự do Tổng Cục Thi hành án dân sự ban
hành kèm theo quyết định 1318/QĐ-TCTHADS ngày 30/9/2013. Ngoài ra, còn phải
kể đến văn bản luật rất quan trọng quy định trực tiếp về khiếu nại, đó là Luật Khiếu
nại áp dụng trong lĩnh vực hoạt động hành chính nhà nước. Các luật và văn bản trên
đã quy định thẩm quyền, trình tự giải quyết khiếu nại cũng như quyền, nghĩa vụ của
người khiếu nại, thời hiệu khiếu nại, thời hạn giải quyết khiếu nại…

18


Trình tự giải quyết khiếu nại
Từ các quy định trong các văn bản pháp luật nêu trên, trình tự - cách thức
giải quyết khiếu nại có thể chia thành các giai đoạn với các quy định cụ thể như sau:
Giai đoạn thứ nhất: Tiếp nhận khiếu nại; vào sổ, phân công việc xử lý đơn
thư và phân loại, xử lý đơn khiếu nại.
1. Việc tiếp công dân đến khiếu nại được thực hiện tại trụ sở cơ quan theo
quy định hoặc tại trụ sở tiếp công dân của cơ quan có thẩm quyền khác theo yêu
cầu.
Trường hợp người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại; người được giao
nhiệm vụ tham mưu giải quyết khiếu nại thực hiện việc xác minh, đối thoại tại địa
phương thì địa điểm tiếp được thực hiện tại trụ sở của Cơ quan thi hành án dân sự
địa phương, hoặc nhà trưởng thôn, trưởng bản, hoặc trụ sở Ủy ban nhân dân cấp xã
nơi đang thực hiện việc thi hành án.
2. Tại buổi tiếp dân, sau khi nghe người khiếu nại trình bày về nội dung
khiếu nại, người tiếp phải xem xét để xác định thẩm quyền giải quyết đối với nội
dung khiếu nại đó.
Trường hợp nhiều người cùng khiếu nại trực tiếp về một nội dung, thì người
tiếp hướng dẫn những người khiếu nại cử người đại diện để trình bày nội dung

khiếu nại. Trường hợp nhiều người khiếu nại bằng đơn thì trong đơn khiếu nại phải
ghi rõ ngày, tháng, năm khiếu nại; họ, tên, địa chỉ; có chữ ký của những người
khiếu nại và phải cử người đại diện để trình bày khi có yêu cầu của người giải quyết
khiếu nại;
Trường hợp khiếu nại không thuộc thẩm quyền giải quyết của cơ quan mình
thì người tiếp từ chối nhận đơn nhưng phải giải thích, hướng dẫn đương sự gửi đơn
đến cơ quan có thẩm quyền để được giải quyết.
Trường hợp khiếu nại thuộc thẩm quyền giải quyết của cơ quan mình thì
người tiếp phải nhận đơn. Trường hợp đương sự trình bày chưa rõ về nội dung
khiếu nại; chưa cung cấp đầy đủ các thông tin, tài liệu theo quy định của pháp luật
thì người tiếp yêu cầu người khiếu nại giải trình và thông báo để họ biết, bổ sung

19


thông tin, tài liệu.
3. Việc giải thích, hướng dẫn và từ chối nhận đơn khiếu nại phải lập thành
biên bản; việc nhận đơn phải được lập giấy biên nhận và cấp cho người khiếu nại.
4. Đơn khiếu nại hoặc biên bản ghi lời trình bày về nội dung khiếu nại phải
được chuyển ngay cho văn thư cơ quan để vào sổ theo quy định.
5. Văn thư chịu trách nhiệm tiếp nhận, vào sổ đối với đơn khiếu nại do
đương sự gửi; do cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền chuyển đến và tiếp nhận
thông qua việc tiếp công dân.
Việc vào sổ phải được thực hiện ngay trong ngày tiếp nhận, có các thông tin
cơ bản về việc khiếu nại (họ và tên, địa chỉ, trích yếu nội dung; nguồn tiếp nhận,
ngày gửi, ngày nhận).
Đối với đơn thư gửi đích danh thì Văn thư phải chuyển đến đúng người được
đề gửi ngay trong ngày tiếp nhận để xem xét, xử lý.
6/ Trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ ngày được phân công, công chức
tham mưu giải quyết phải tiến hành nghiên cứu nội dung khiếu nại, phân loại và xử

lý như sau:
-. Trường hợp khiếu nại, tố cáo thuộc thẩm quyền giải quyết của cơ quan
mình theo quy định tại Điều 142, Điều 157 Luật thi hành án dân sự, nhưng chưa đủ
điều kiện thụ lý do người khiếu nại chưa thực hiện đúng quy định của pháp luật thì
công chức tham mưu giải quyết khiếu nại soạn thảo, trình Lãnh đạo xem xét, ký văn
bản hướng dẫn, yêu cầu người khiếu nại thực hiện để được thụ lý, giải quyết.
- Trường hợp khiếu nại thuộc thẩm quyền giải quyết của cơ quan mình theo
quy định tại Điều 142, Điều 157 Luật thi hành án dân sự và người khiếu nại đã thực
hiện đúng quy định của pháp luật thì phải thụ lý, giải quyết theo quy định.
- Trường hợp khiếu nại có một phần nội dung thuộc thẩm quyền giải quyết
của cơ quan mình theo quy định tại Điều 142, Điều 157 Luật thi hành án dân sự,
một phần thuộc thẩm quyền giải quyết của cơ quan khác, thì chỉ tiến hành xem xét
những nội dung thuộc thẩm quyền giải quyết của cơ quan mình. Đối với những nội
dung thuộc thẩm quyền giải quyết của cơ quan khác thì chuyển cho cơ quan có

20


thẩm quyền.
- Trường hợp khiếu nại không thuộc thẩm quyền giải quyết của cơ quan
mình nhưng không xác định được cơ quan có thẩm quyền giải quyết thì công chức
tham mưu giải quyết khiếu nại, tố cáo soạn thảo, trình lãnh đạo xem xét, ký công
văn thông báo, trả lời để đương sự biết.
- Trường hợp khiếu nại đã có quyết định giải quyết khiếu nại có hiệu lực thi
hành nhưng không có bằng chứng mới thì không thụ lý nhưng phải có văn bản chỉ
dẫn, trả lời cho người khiếu nại được biết.
- Trường hợp đơn khiếu nại đã được chuyển, chỉ dẫn, thông báo, trả lời, giải
quyết theo quy định của pháp luật nhưng đương sự vẫn tiếp tục có đơn cùng nội
dung; đơn đồng thời đề gửi nhiều cơ quan, trong đó đã đề gửi cơ quan có thẩm
quyền giải quyết; đơn đã mời người khiếu nại hai lần (theo địa chỉ cung cấp trên

đơn) để xác định nội dung khiếu nại, yêu cầu cung cấp tài liệu nhưng không đến mà
không thông báo lý do thì lưu đơn.
Giai đoạn thứ hai: Thụ lý đơn khiếu nại, yêu cầu báo cáo, giải trình, cung
cấp hồ sơ, tài liệu
1. Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được đơn khiếu nại do
văn thư chuyển, công chức được giao tham mưu giải quyết khiếu nại có nhiệm vụ
soạn thảo Thông báo về việc thụ lý đơn khiếu nại trình Lãnh đạo xem xét, cho ý
kiến và ký ban hành.
2. Công chức được giao tham mưu giải quyết khiếu nại có nhiệm vụ lập hồ
sơ giải quyết khiếu nại theo quy định của Luật thi hành án dân sự.
3. Trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được đơn khiếu nại do
văn thư chuyển, công chức được giao tham mưu giải quyết khiếu nại có nhiệm vụ
soạn thảo Công văn yêu cầu báo cáo giải trình và cung cấp hồ sơ, tài liệu có liên
quan trình Lãnh đạo xem xét, cho ý kiến, ký ban hành.
Trường hợp người bị khiếu nại là Chấp hành viên thì Lãnh đạo trực tiếp yêu
cầu Chấp hành viên báo cáo giải trình bằng văn bản, cung cấp hồ sơ vụ việc mà
không cần có công văn yêu cầu.

21


×