Tải bản đầy đủ (.pdf) (190 trang)

Địa vị pháp lý của Luật sư trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn Thành phố Hồ Chí Minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.65 MB, 190 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN THANH LONG

ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA LUẬT SƯ
TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA VỤ ÁN HÌNH SỰ THEO
PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC
TIỄN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI – 2019


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1
Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU ....................................... 7
1.1. Tình hình nghiên cứu ở nước ngoài ..................................................................... 7
1.2. Tổng quan tình hình nghiên cứu trong nước ...................................................... 12
1.3. Đánh giá tình hình nghiên cứu liên quan đến luận án và những vấn đề luận
án tiếp tục nghiên cứu và giải quyết.......................................................................... 23
1.4. Cơ sở lý thuyết và phương pháp nghiên cứu ..................................................... 25
Chương 2: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ QUY ĐỊNH CỦA PHÁP
LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VỀ ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA LUẬT SỰ
TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA VỤ ÁN HÌNH SỰ ........................................ 28
2.1. Những vấn đề lý luận về địa vị pháp lý của Luật sư trong giai đoạn điều tra
vụ án hình sự ............................................................................................................. 28
2.2. Quy định của pháp luật về địa vị pháp lý của Luật sư trong giai đoạn điều
tra vụ án hình sự ........................................................................................................ 43


Chương 3: THỰC TRẠNG ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA LUẬT SƯ TRONG GIAI
ĐOẠN ĐIỀU TRA VỤ ÁN HÌNH SỰ TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH .......... 76
3.1.Thực trạng các yếu tố tác động đến địa vị pháp lý của Luật sư trong giai
đoạn điều tra vụ án hình sự tại Thành phố Hồ Chí Minh.......................................... 76
3.2. Thực tiễn thực hiện các quy định của pháp luật tố tụng hình sự về địa vị pháp lý
của Luật sư trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự tại Thành phố Hồ Chí Minh ............ 82
Chương 4: YÊU CẦU, GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM THỰC HIỆN ĐÚNG QUY
ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VÀ NÂNG CAO ĐỊA VỊ PHÁP LÝ VỀ ĐỊA VỊ
PHÁP LÝ CỦA LUẬT SƯ TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA VỤ ÁN
HÌNH SỰ ................................................................................................................ 117
4.1. Yêu cầu bảo đảm thực hiện địa vị pháp lý của Luật sư trong giai đoạn điều
tra vụ án hình sự ...................................................................................................... 117
4.2. Các giải pháp nâng cao chất lượng thực hiện địa vị pháp lý của Luật sư
trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự. .................................................................... 123
4.3. Các giải pháp khác nâng cao địa vị pháp lý của Luật sư ................................. 144
KẾT LUẬN ............................................................................................................ 149
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC ĐÃ ĐƯỢC CÔNG BỐ
LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN .............................................................................. 151
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................. 152


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
BLTTHS

Bộ Luật tố tụng hình sự

CQTHTT

Cơ quan tiến hành tố tụng


ĐTV

Điều tra viên

HĐXX

Hội đồng xét xử

KSV

Kiểm sát viên

NBBT

Người bị buộc tội

NBC

Người bào chữa

PLTTHS

Pháp luật tố tụng hình sự

QBC

Quyền bào chữa

QCN


Quyền con người

TAND

Tòa án nhân dân

TANDTC

Tòa án nhân dân tối cao

THTT

Tiến hành tố tụng

TNHS

Trách nhiệm hình sự

TTHS

Tố tụng hình sự

VAHS

Vụ án hình sự

VKS

Viện kiểm sát


VKSND

Viện kiểm sát nhân dân

VKSNDTC

Viện kiểm sát nhân dân tối cao


DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU ĐỒ
Trang
Bảng 3.1:

Số lượng Luật sư chính thức

168

Bảng 3.2:

Số lượng Người tập sự hành nghề Luật sư

168

Bảng 3.3:

Độ tuổi của Luật sư

168

Bảng 3.4:


Số năm hành nghề của Luật sư

169

Bảng 3.5:

Trình độ học vấn của Luật sư

169

Bảng 3.6:

Địa bàn hoạt động của Luật sư

169

Bảng 3.7:

So sánh số lượng vụ án hình sự tại Thành phố Hồ Chí
Minh với thành phố Hà Nội, thành phố Đà Nẵng giai đoạn
2009-2018.

Biểu đồ 3.1:

170

Thống kê kết quả thực hiện nhiệm vụ chuyên môn của
ngành Tòa án nhân dân hai cấp Thành phố Hồ Chí Minh
từ năm 2009 đến năm 2018.


171

Biểu đồ 3.2:

Số vụ án đã được thụ lý, giải quyết và số bị cáo

171

Biểu đồ 3.3:

Số vụ án và Luật sư tham gia bào chữa theo yêu cầu của
khách hàng

172

Biểu đồ 3.4:

Số vụ án và Luật sư tham gia bào chữa chỉ định

172

Biểu đồ 3.5:

Số lượng Luật sư Thành phố Hồ Chí Minh phát triển qua
10 năm (Giai đoạn 2009-2018)

Biểu đồ 3.6:

173


So sánh vi phạm kỷ luật, quy tắc đạo đức của Liên đoàn
Luật sư Việt Nam, Đoàn Luật sư Thành phốHồ Chí Minh
giai đoạn 2009-2018

Bảng 4.1:

173

Bảng thống kê số lượng Luật sư tăng trong các năm từ
năm 2009 – năm 2018

174


MỞ ĐẦU
1.Tính cấp thiết của đề tài
Để bảo đảm quyền con người, quyền công dân và quyền bào chữa của người
bị buộc tội (NBBT), Nước ta đã ký hầu hết các Công ước quốc tế về quyền con người
trong đó có quyền bào chữa cho NBBT theo pháp luật tố tụng hình sự (PLTTHS). Cùng
với đó, Nghị quyết 08-NQ/TW ngày 02-01-2002 [4], Nghị quyết 48-NQ/TW ngày 2405-2005 [5], Nghị quyết 49-NQ/TW ngày 02-06-2005 [6] đã định hướng chiến lược xây
dựng và hoàn thiện hệ thống PLTTHS về cải cách tư pháp trong đó coi trọng việc bảo
đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại,
đương sự. Hiến pháp 2013 ghi nhận những quy định mới bảo đảm quyền con người,
quyền công dân và quyền bào chữa của người bị buộc tội. Chủ trương đảm bảo quyền
bào chữa cho NBBT, nâng cao vị thế, vai trò của người bào chữa, cơ chế bảo đảm các
quyền của người bào chữa (NBC) là nền tảng cho việc bảo đảm dân chủ hóa hoạt động
tố tụng hình sự (TTHS), tạo thế độc lập, bình đẳng với các chủ thể có chức năng buộc
tội. Điều này có nghĩa ở đâu có việc buộc tội thì ở đó quyền bào chữa phải được thực
hiện và tôn trọng; bảo đảm Tòa án thực sự là hiện thân của công lý, khách quan, vô tư

trong quá trình xét xử để con người thực sự được sống trong sự “bảo hộ công dân” của
pháp luật [34]. Mặt khác, Hiến pháp đã có những quy định chặt chẽ, cụ thể nhằm bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của NBBT, về những nguyên tắc áp dụng nhằm bảo vệ con
người trước “vòng xoáy” TTHS mà cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng
thực hiện khi khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử. Một trong những quyền đó là: “Người bị
bắt, tạm giữ, tạm giam, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử có quyền tự bào chữa, nhờ Luật
sư hoặc người khác bào chữa” [84, tr 24]. Quyền bào chữa (QBC) là cơ sở pháp lý cần
thiết để NBC bào chữa, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho NBBT. Bảo đảm quyền
bào chữa của NBBT không những là một nguyên tắc quan trọng của PLTTHS mà còn
là một quy định được ghi nhận trong 5 bản Hiến pháp từ Hiến pháp 1946, 1959, 1980,
1992 đến 2013. Một trong các chủ thể có thể thực hiện quyền bào chữa cho NBBT, bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị hại, đương sự theo BLTTHS, đó là Luật sư.
Giai đoạn điều tra, giai đoạn có tính quyết định của quá trình tiến hành tố tụng,
vì người bị tạm giữ, bị can chỉ là đối tượng bị “tình nghi phạm tội”, nếu thiếu thận trọng
thì khoảng cách giữa không phạm tội và phạm tội hoặc giữa lỗi và tội dễ bị xóa nhòa
[137]. Đặc điểm nổi bật trong giai đoạn điều tra là i) người có thẩm quyền THTT (Điều
tra viên) là người nắm quyền chủ động; họ có xu hướng “quy, kết tội”; ii) người bị tình
nghi phạm tội, là người yếu thế, bị động, thường có tâm lý hoang mang, dao động,
không ổn định trong lời khai (dễ có lời khai khác nhau); iii) Luật sư trong giai đoạn này
1


chính là “bác sĩ pháp lý”, tiếp cận người bị buộc tội với tư cách người bào chữa cho
NBBT, người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho bị hại, đương sự; có trách nhiệm giải
thích cho NBBT về những quyền được pháp luật bảo đảm, chuẩn bị tâm lý để từ đó
giúp cho người bị “tình nghi phạm tội” bình tĩnh, sáng suốt trong quá trình khai báo;
xem xét sự việc một cách trung thực, khách quan tránh oan sai cho người bị “tình nghi
phạm tội”, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự.
Thực trạng đó đòi hỏi sự tham gia của Luật sư trong giai đoạn điều tra VAHS
là rất quan trọng, nhằm tìm kiếm chứng cứ gỡ tội, những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm

hình sự cho người bị buộc tội; bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị hại, đương sự
trong việc đưa ra đề nghị hình phạt, thu thập tài liệu, chứng cứ đưa ra yêu cầu bồi
thường thiệt hại bao gồm thiệt hại về vật chất, tinh thần, tài sản bị xâm phạm…; đồng
thời góp phần hạn chế vi phạm tố tụng trong hoạt động điều tra như bức cung, nhục
hình, làm sáng tỏ sự thật khách quan của vụ án, giúp việc điều tra được nhanh chóng,
chính xác, không làm oan người vô tội, không bỏ lọt tội phạm. Tuy nhiên, qua nghiên
cứu các quy định của BLTTHS và thực tiễn hoạt động tố tụng cho thấy quy định pháp
luật TTHS về địa vị pháp lý của Luật sư trong giai đoạn điều tra VAHS còn mang tính
hình thức, thiếu cơ chế bảo đảm thực hiện việc tham gia tố tụng của Luật sư. Nhiều
trường hợp Luật sư bị cản trở, làm khó, chậm trễ trong việc cấp văn bản thông báo
người bào chữa, không được gặp gỡ NBBT, không được tham gia hỏi cung và tham gia
các hoạt động điều tra khác dẫn đến hệ quả Luật sư dường như bị gạt ra khỏi hoạt động
tố tụng trong giai đoạn điều tra VAHS; không bảo vệ được quyền, lợi ích hợp pháp cho
người bị buộc tội, bị hại, đương sự. Nhiều cơ quan, người có thẩm quyền THTT chưa
nhận thức được vai trò của Luật sư, tôn trọng Luật sư, coi thường các quy định của PL
TTHS dẫn đến oan, sai, bỏ lọt tội phạm và sự thật của VAHS chưa được làm sáng tỏ.
Việc xác định đúng đắn địa vị pháp lý của Luật sư trong TTHS góp phần quan
trọng hiệu quả hoạt động TTHS của cải cách tư pháp. Khi Luật sư tham gia tố tụng thì
pháp luật TTHS phải “luật hóa” về quyền và nghĩa vụ; những quy định này tạo thành
địa vị pháp lý của Luật sư trong TTHS. Mặt khác việc Luật sư tham gia sớm vào giai
đoạn điều tra VAHS “…vai trò của Luật sư trong các vụ án oan, sai đều ở thời điểm mà
người bị oan đang phải “chấp hành án”, có nghĩa những giai đoạn đầu của tố tụng, Luật
sư chưa thực sự được nhìn nhận và tôn trọng tương xứng với vai trò là “người chiến sĩ
dấn thân vì công lý” cũng như trong việc phòng, chống án oan, sai”[167] sẽ góp phần
cùng với các cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng tìm ra sự thật khách quan
của VAHS, góp phần khắc phục oan, sai.
Là thành phố lớn nhất Việt Nam đồng thời cũng là đầu tàu kinh tế, với những
điều kiện tự nhiên thuận lợi, Thành phố Hồ Chí Minh hiện là nơi thu hút lao động trên
2



khắp mọi miền đất nước, trong đó lao động hoạt động trong lĩnh vực pháp lý nói chung
và Luật sư nói riêng chiếm số lượng đông đảo nhất cả nước (Theo số liệu thống kê của
Đoàn Luật sư Thành phố Hồ Chí Minh: tính đến tháng 11-2018, Thành phố Hồ Chí
Minh có tổng số 8.066 Luật sư, trong đó có 5.527 Luật sư chính thức và 2.539 tập sự
hành nghề Luật sư; nữ chiếm tỷ lệ 40%. Là thành phố có dân số đông nhất 8.611.100
người tính đến năm 2017 [132, tr 24] như vậy 1 Luật sư/1.558 người dân. Việc gia tăng
tội phạm hình sự, trong đó số lượng các VAHS tại Thành phố Hồ Chí Minh giải quyết
hằng năm luôn chiếm tỷ lệ cao so với các địa phương khác [104] những năm gần đây,
khiến người tham gia tố tụng ngày càng đông, dẫn đến nhu cầu nhờ Luật sư tại Thành
phố Hồ Chí Minh ngày càng lớn.
Thời gian qua, có nhiều công trình liên quan đến việc nghiên cứu về địa vị pháp
lý của Luật sư trong các giai đoạn tố tụng nhưng chưa có công trình nào nghiên cứu một
cách tách bạch, từng khía cạnh, riêng lẻ về chủ thể mang tính chuyên nghiệp thực hiện
quyền bào chữa như Luật sư; tách bạch riêng trong giai đoạn điều tra VAHS trên địa
bàn Thành phố Hồ Chí Minh. Nghiên cứu một cách toàn diện những vấn đề về cơ sở lý
luận; thực trạng pháp luật quy định; thực tiễn thực hiện địa vị pháp lý của Luật sư trong
giai đoạn điều tra VAHS theo PLTTHS Việt Nam hiện nay nhằm đề xuất các giải pháp
nâng cao địa vị pháp lý của Luật sư trong giai đoạn điều tra VAHS theo PLTTHS Việt
Nam hiện nay có ý nghĩa không chỉ về mặt lý luận, thực tiễn mà còn góp phần hoàn
thiện PLTTHS Việt Nam; thay đổi nhận thức cơ quan, người có thẩm quyền THTT về
vai trò, vị trí của Luật sư.
Đây là lý do mà nghiên cứu sinh chọn đề tài “Địa vị pháp lý của Luật sư trong
giai đoạn điều tra vụ án hình sự theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn
Thành phố Hồ Chí Minh” để thực hiện nghiên cứu.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
2.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của luận án là xác lập luận cứ khoa học; khảo sát thực
trạng về địa vị pháp lý của Luật sư trong giai đoạn điều tra VAHS (từ thực tiễn Thành
phố Hồ Chí Minh) nhằm hoàn thiện chế định về Luật sư trong tố tụng hình sự, nâng cao

hiệu quả hoạt động của Luật sư trong việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình nhằm
bảo vệ quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Thứ nhất, phân tích, luận giải các vấn đề lý luận về địa vị pháp lý của Luật sư
trong giai đoạn điều tra VAHS theo PLTTHS Việt Nam, làm rõ khái niệm, bản chất,
chủ thể, quyền và nghĩa vụ của Luật sư trong giai đoạn điều tra VAHS theo PLTTHS
Việt Nam; các cơ chế đảm bảo thực hiện địa vị pháp lý của Luật sư, các yếu tố tác động
3


đến việc thực hiện địa vị pháp lý của Luật sư trong giai đoạn điều tra VAHS theo pháp
luật TTHS Việt Nam.
Thứ hai, phân tích quy định của PLTTHS Việt Nam về địa vị pháp lý của Luật
sư trong giai đoạn điều tra VAHS.
Thứ ba, phân tích, đánh giá thực trạng về thực hiện quyền và nghĩa vụ của Luật
sư trong giai đoạn điều tra VAHS theo PLTTHS Việt Nam từ thực tiễn Thành phố Hồ
Chí Minh xác định nguyên nhân những hạn chế, bất cập làm cơ sở cho việc đề ra những
giải pháp thực hiện.
Thứ tư, xây dựng và thực hiện hệ thống các giải pháp nâng cao hiệu quả địa vị
pháp lý của Luật sư trong giai đoạn điều tra VAHS theo PLTTHS Việt Nam.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án là những vấn đề lý luận, quy định của pháp
luật, thực tiễn thực hiện quy định của pháp luật về địa vị pháp lý của Luật sư trong giai
đoạn điều tra vụ án hình sự tại Thành phố Hồ Chí Minh.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Luận án nghiên cứu “Địa vị pháp lý của Luật sư trong giai đoạn điều tra
VAHS theo pháp luật TTHS Việt Nam từ thực tiễn Thành phố Hồ Chí Minh” dưới khía
cạnh quyền gắn liền với nghĩa vụ của NBC trong giai đoạn điều tra VAHS theo
PLTTHS Việt Nam, tập trung vào nhóm chủ thể duy nhất là Luật sư vì Luật sư gắn bó

mật thiết, chuyên nghiệp trong hoạt động nghề nghiệp, đạt hiệu quả cao nhất so với
người bào chữa khác.
- Phạm vi không gian: Nghiên cứu địa vị pháp lý của Luật sư trong giai đoạn
điều tra vụ án hình sự (trừ các vụ án xâm phạm môi trường và an ninh quốc gia) thuộc
thẩm quyền điều tra của Cơ quan Cảnh sát điều tra 24 Quận, Huyện, Cơ quan Cảnh sát
điều tra Công an Thành phố Hồ Chí Minh; Cơ quan Cảnh sát điều tra Bộ Công an C01,
C03; Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao; Cơ quan điều tra hình sự Bộ
Quốc phòng từ thực tiễn Thành phố Hồ Chí Minh. Luận án tập trung nghiên cứu chủ
yếu địa vị pháp lý của Luật sư trong giai đoạn điều tra với tư cách là người bào chữa và
một số vấn đề có liên quan đến địa vị pháp lý của Luật sư với tư cách là người bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của người bị hại, đương sự.
- Phạm vi về thời gian: Luận án nghiên cứu thực tiễn thực hiện quy định của
pháp luật TTHS về địa vị pháp lý của Luật sư tại Thành phố Hồ Chí Minh trong 10 năm
từ năm 2009 đến năm 2018 (gồm BLTTHS năm 2003 và BLTTHS năm 2015).

4


4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
4.1. Phương pháp luận
Luận án tiến hành nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận biện chứng duy vật
của triết học Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Để giải quyết các nhiệm vụ của luận án, tác giả sử dụng các phương pháp
nghiên cứu cụ thể sau:
- Phương pháp điều tra xã hội học: Để làm rõ tình hình, thực trạng quy định địa
vị pháp lý của Luật sư cũng như các nội dung khác liên quan đến địa vị pháp lý của
Luật sư trong giai đoạn điều tra VAHS, tác giả tiến hành điều tra, khảo sát tại Thành
phố Hồ Chí Minh để đánh giá thực trạng thông qua các câu hỏi điều tra xã hội học bằng
các bảng hỏi.

- Phương pháp thống kê hình sự: Thông qua khảo sát thực tiễn, tác giả có
những số liệu và để đánh giá được thực trạng cần thiết phải sử dụng thống kê hình sự để
phân tích địa vị pháp lý của Luật sư trong giai đoạn điều tra VAHS.
- Phương pháp tổng kết kinh nghiệm: Kinh nghiệm, lịch sử, quá trình thực hiện
quy định địa vị pháp lý của Luật sư trong giai đoạn điều tra VAHS là nguồn tư liệu
quan trọng cho việc giải quyết nhiệm vụ của luận án. Việc sử dụng phương pháp tổng
kết kinh nghiệm góp phần làm cho luận án gắn kết với thực tiễn và có giá trị khoa học.
- Phương pháp tọa đàm trao đổi với các chuyên gia: Trong quá trình thực hiện
luận án, góp phần đưa ra những nhận xét, đánh giá khoa học, toàn diện và các giải pháp
có giá trị, cần thiết phải có sự tham khảo kiến thức, kinh nghiệm của các chuyên gia lý
luận và thực tiễn về TTHS. Tác giả đã sử dụng phương pháp tọa đàm, trao đổi với các
chuyên gia TTHS cũng như các Luật sư, Luật gia, nhằm củng cố thêm các căn cứ cho
các luận giải trong luận án.
- Phương pháp lựa chọn án điển hình: Trong luận án có những nội dung tác giả
không có điều kiện điều tra, khảo sát trong phạm vi toàn quốc, do đó tác giả đã sử dụng
phương pháp chọn thực tiễn Thành phố Hồ Chí Minh để khảo sát, từ đó có thể phân
tích, kết luận các nội dung liên quan.
- Phương pháp tổng hợp, phân tích, so sánh: Để có thể sử dụng được số liệu, tài
liệu đã thu thập được, cần thiết phải sử dụng phương pháp tổng hợp, so sánh số liệu
nhằm sử dụng kết quả đó chứng minh cho những luận giải, kết luận trong luận án.
- Phương pháp lịch sử: phân tích lịch sử, nguyên nhân hình thành các quy định
pháp luật và các vụ việc trong lịch sử có liên quan đến các quy định pháp luật để từ đó
có thể hiểu được nội dung và mục đích hình thành các quy định đó.
5


5. Những điểm mới của luận án
- Làm sáng tỏ cơ sở lý luận địa vị pháp lý của Luật sư, như xây dựng khái niệm
địa vị pháp lý của Luật sư, chỉ ra đặc điểm và ý nghĩa, nội dung địa vị pháp lý của Luật
sư trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự.

- Làm rõ những bất cập trong các quy định của pháp luật tố tụng hình sự và
pháp luật về Luật sư ảnh hưởng đến địa vị pháp lý của Luật sư.
- Làm rõ thực tiễn thực hiện quy định của pháp luật tố tụng hình sự về địa vị
pháp lý của Luật sư trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự; nguyên nhân của những bất
cập, hạn chế trong việc thi hành các quy định của PLTTHS về địa vị pháp lý của Luật
sư trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự từ thực tiễn Thành phố Hồ Chí Minh.
- Đề xuất các giải pháp thực hiện PLTTHS theo hướng mở rộng cho Luật sư
nhiều quyền và cơ hội tham gia vào quá trình tố tụng trong sự bình đẳng với người có
thẩm quyền tiến hành tố tụng. Điều này có ý nghĩa rất quan trọng đối với việc bảo đảm
thực hiện, nâng cao chất lượng bào chữa của Luật sư nói chung và bảo vệ quyền, lợi ích
hợp pháp của người bị buộc tội nói riêng, đặc biệt tác giả mong muốn kiến nghị đến cơ
quan thẩm quyền văn bản hướng dẫn luật quy định tại khoản 1 điều 79 BLTTHS năm
2015: “phải báo trước một thời gian hợp lý cho người bào chữa” [86, tr83] để thực hiện
thống nhất trong phạm vi cả nước.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
Kết quả nghiên cứu của luận án có thể bổ sung cơ sở lý luận về địa vị pháp lý
của người bào chữa, của Luật sư trong giai đoạn điều tra VAHS nói riêng.
Với những trình bày, phân tích cơ sở lý luận về địa vị pháp lý của Luật sư; những cơ
chế bảo đảm thực hiện địa vị pháp lý của Luật sư trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự theo
pháp luật TTHS Việt Nam, luận án sẽ là nguồn tư liệu có ý nghĩa để các cơ quan Nhà nước
có thẩm quyền, các nhà làm luật tham khảo, nghiên cứu, xem xét hoàn thiện BLTTHS 2015,
Luật Luật sư hiện hành; kiến nghị các giải pháp bao gồm ban hành những văn bản dưới luật
về pháp luật tố tụng hình sự. Luận án cũng là tài liệu nghiên cứu, tham khảo hữu ích cho các
nhà khoa học, các nhà làm luật, giảng viên, Luật sư, Luật gia, người bào chữa khác; hoặc sử
dụng làm tài liệu giảng dạy tại cơ sở đào tạo các chức danh tư pháp.
7. Kết cấu của luận án: Kết cấu nội dung chính của luận án bao gồm:
Chương 1. Tổng quan tình hình nghiên cứu.
Chương 2. Những vấn đề lý luận và quy định của pháp luật tố tụng hình sự về
địa vị pháp lý của Luật sư trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự.
Chương 3. Thực trạng địa vị pháp lý của Luật sư trong giai đoạn điều tra vụ án

hình sự tại Thành phố Hồ Chí Minh.
Chương 4. Yêu cầu, giải pháp bảo đảm thực hiện đúng quy định của pháp luật
và nâng cao địa vị pháp lý của Luật sư trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự.
6


Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
1.1. Tình hình nghiên cứu ở nước ngoài
1.1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu các vấn đề liên quan đến đề tài ở
nước ngoài.
1.1.1.1. Các công trình nghiên cứu về người bào chữa, quyền có người bào
chữa của người bị buộc tội trong tố tụng hình sự.
- Cuốn sách“Brownlie’s document on the human rights” [184], tạm dịch Tài
liệu của Brownlie’s về quyền con người của tác giả Ian Brownlie - Giáo sư người Anh
viết năm 2010. Ian Brownlie cho rằng đây là văn kiện tổng hợp bao quát các nội dung
cốt lõi, các nguyên tắc về quyền con người (QCN); cuốn sách có đề dẫn, chú thích và
mục lục chi tiết, rõ ràng; nội dung về những văn kiện chuẩn xác và minh bạch, rất quan
trọng về QCN, được thông qua bởi Liên Hợp Quốc và các bên liên quan, bởi những tổ
chức trong khu vực và những người am hiểu về luật pháp là tài liệu không thể thiếu cho
việc nghiên cứu, tham khảo về QCN.
- Cuốn sách “Toward an international criminal procedure” [189], tạm dịch
Hướng đến một thủ tục hình sự quốc tế của tác giả Christoph Saffeling năm 2003, Giáo
sư người Đức viết với nội dung so sánh, phân tích những quy định bảo đảm các chuẩn
mực quốc tế về QCN của NBBT nói chung và quyền bào chữa nói riêng, đặc biệt cuốn
sách đề cập đến nội dung tạo hành lang pháp lý về xét xử công bằng và điều kiện cần
thiết để Luật sư trợ giúp NBBT thực hiện quyền bào chữa của họ như việc kiểm tra
chéo nhân chứng, giả định vô tội, nguyên tắc tìm lỗi của bị cáo và sự thương lượng các
thủ tục tố tụng.
- Bài viết “Evolution of U. S.Criminal Law” [183], tạm dịch Sự tiến hóa của

Luật hình sự Hoa Kỳ của James B.Jacobs, Warren.E.Burger (Hoa Kỳ) – Giáo sư
Trường Đại học Tổng hợp New York, Giám đốc Trung tâm nghiên cứu tội phạm và
công lý tại Khoa luật, Đại học tổng hợp New York, đăng trên Tạp chí điện tử của Bộ
Ngoại giao Hoa Kỳ số 1 tập 6, tháng 7/2001. Bài viết giải thích cấu trúc và cơ sở để xây
dựng thủ tục TTHS là Hiến pháp Hoa Kỳ, bao gồm 10 điều bổ sung dựa trên bản Tuyên
ngôn nhân quyền. Hiến pháp đảm bảo cho tất cả mọi công dân đang sinh sống tại Hoa
Kỳ có quyền tự do và những quyền cơ bản. Với tinh thần chủ đạo đó, trong giới hạn của
Luật hình sự Hoa Kỳ, các bị can được coi là không có tội. Các bị can không phải chứng
minh sự vô tội của mình, Luật phải chứng minh được họ có tội; Quyền có Luật sư bắt
đầu được thực hiện khi những người bị tình nghi trở thành bị cáo, có nghĩa là bắt đầu
các thủ tục xét xử với mục đích bảo đảm cho tất cả các bị can đều có Luật sư bào chữa,
7


nếu bị can không có tiền thuê Luật sư, Tòa án sẽ chỉ định cho họ một Luật sư bảo vệ khi
tiến hành phiên tòa đầu tiên; Hiến pháp bắt buộc rằng, trong nguyên tắc tìm lỗi của bị
cáo, cơ quan điều tra (có thể là Bồi thẩm đoàn hoặc Thẩm phán) yêu cầu cơ quan khởi
tố phải đưa ra được đầy đủ những chứng cứ đã được chứng minh rõ ràng chứ không chỉ
ở mức nghi ngờ, điều này là biểu hiện cụ thể của nguyên tắc “bị can không bị coi là có
tội”. Luật sư có quyền khai thác các nhân chứng của họ nhằm thẩm tra về những nhân
chứng của phía bên kia để thẩm tra chéo (Exammination cross).
Một số nghiên cứu được viết dưới góc độ so sánh và hầu hết mang tính mô tả
pháp luật TTHS các nước; không ít các nghiên cứu có liên quan đến quyền tố tụng của
người bị buộc tội được tiếp cận ở góc độ pháp luật quốc tế bảo đảm quyền con người.
Nhìn chung, những nghiên cứu trên đã cung cấp cho tác giả một lượng kiến thức nền
tảng về tố tụng công bằng; về QBC, quyền có NBC của NBBT trong TTHS quốc tế và
một số quốc gia trên thế giới, đặc biệt là Hoa Kỳ. Vì vậy, việc nghiên cứu toàn diện về
QBC và quyền có NBC của NBBT cũng như các cơ chế pháp lý bảo đảm quyền trong
sự so sánh và đối chiếu với pháp luật nước ngoài thực sự cần thiết và có ý nghĩa.
1.1.1.2. Các công trình nghiên cứu về địa vị pháp lý của Luật sư trong giai

đoạn điều tra; về hệ thống pháp luật các nước; về mô hình tố tụng
- Liên quan đến vấn đề hoạt động bào chữa của Luật sư trong giai đoạn điều tra,
cuốn sách “Law and legal system of the Russian Federation” (tạm dịch “Luật pháp và
hệ thống pháp luật Liên bang Nga”) [178] của Giáo sư William Burnham, xuất bản lần
đầu vào năm 1999, tái bản lần thứ 5 năm 2012. Giáo sư có nhiều năm kinh nghiệm với
hệ thống pháp luật Liên bang Nga, nội dung tập trung vào nhân quyền, thủ tục Tòa án,
Luật hình sự và thủ tục tố tụng hình sự, Luật dân sự, thương mại và thuế. Các chương
bao gồm các khía cạnh quan trọng của hệ thống pháp luật Liên bang Nga, bao gồm các
nguồn luật, hệ thống tư pháp, Luật hiến pháp, quyền cá nhân, Luật dân sự và thương
mại, thủ tục dân sự, Luật quốc tế tư nhân, Luật đầu tư nước ngoài, thủ tục hình sự, Luật
hành chính và luật thuế. Cuốn sách bao gồm những thay đổi lớn trong luật pháp Liên
bang Nga kể từ ấn bản trước đó, bao gồm sự phụ thuộc nhiều vào tiền lệ tư pháp, tăng
sự độc lập của các Điều tra viên hình sự từ các Công tố viên, xử lý việc lạm dụng hệ
thống pháp luật của các quan chức tham nhũng và những sơ hở trong hệ thống thuế.
Lần tái bản mới biên soạn cuộc đấu tranh liên tục của Tòa án Nhân quyền châu Âu và
các Luật sư hoạt động của Nga nhằm thúc đẩy luật pháp Liên bang Nga hướng tới các
tiêu chuẩn quốc tế.
Theo đó, QBC được bắt đầu khi một người bị bắt giữ hoặc “khi có bất kỳ biện
pháp tố tụng có tính cưỡng bức nào khác hoặc có hành vi tố tụng khác xảy ra xâm
phạm các quyền tự do của một người bị tình nghi là phạm một tội”. Tác giả chỉ rõ “thời
8


điểm thực sự bị bắt” theo tố tụng hình sự Liên bang Nga là khi người đó “thực tế bị
tước quyền tự do di chuyển”. Trong giai đoạn này, Luật sư được quyền tham gia vào
hai hoạt động điều tra: i) khi xét hỏi người bị tình nghi hoặc bị can; ii) trong các hoạt
động điều tra khác được thực hiện có sự tham gia của người bị tình nghi, bị can, hoạt
động điều tra được thực hiện theo yêu cầu của người bị tình nghi, bị can. Cuốn sách đề
cập đến vấn đề thu thập chứng cứ như việc điều tra độc lập của NBC là một trong
những điểm mới nhất của Luật tố tụng hình sự Liên bang Nga năm 2001. Cần tiếp thu

và tiếp tục nghiên cứu.
- “Basic principles on the role of lawyers” [149], tạm dịch Các nguyên tắc cơ
bản về vai trò của Luật sư, được thông qua tại Đại hội lần thứ VIII của Liên Hợp Quốc
về phòng chống tội phạm và đối xử với người phạm tội, tổ chức tại Havana (Cu Ba), từ
27-08 đến 07-09-1990. Các nguyên tắc trên chỉ rõ tất cả mọi người có quyền kêu gọi sự
hỗ trợ của Luật sư mà họ chọn để bảo vệ quyền lợi cho họ trong suốt giai đoạn tố tụng
hình sự; Chính phủ và Hiệp hội Luật sư thúc đẩy chương trình thông báo cho công
chúng về các quyền và nghĩa vụ theo luật pháp và vai trò quan trọng của Luật sư trong
việc bảo vệ các quyền tự do cơ bản cho họ; Chính phủ đảm bảo rằng tất cả mọi người
được thông báo ngay lập tức bởi người có thẩm quyền tố tụng và họ có quyền lựa chọn
Luật sư khi bị bắt giữ, tạm giam hoặc khi bị buộc tội; họ được cung cấp trợ giúp pháp
lý, không trả tiền nếu họ không đủ tiền để trả cho dịch vụ này; Chính phủ đảm bảo rằng
tất cả những người bị bắt giữ, giam giữ có hoặc hay không có tội sẽ được quyền mời
Luật sư không trễ hơn 48 giờ kể từ thời điểm bắt giữ, giam giữ; tất cả những người bị
bắt, giam giữ, cầm tù đều được cung cấp đầy đủ cơ hội, thời gian, giao tiếp và tham
khảo Luật sư, không bị kiểm duyệt hoặc giám sát chỉ trong tầm nhìn. Những nội dung
trên cần tiếp tục nghiên cứu.
- Hội thảo quốc tế về BLTTHS năm 2003 và quyền của Luật sư bào chữa năm
2012, tác giả Tian Wen Chang - chuyên gia Trung Quốc công bố bài viết “Suy nghĩ và
đánh giá tổng thể về bản dự thảo sửa đổi Luật tố tụng hình sự Trung Quốc”[185]. Bài
viết đề cập đến những khó khăn trong công tác xây dựng Luật nhằm bảo đảm về mặt
pháp lý và tạo bình diện mở rộng cho sự tham gia TTHS của Luật sư. Bởi lẽ, bào chữa
trong VAHS là lĩnh vực hành nghề quan trọng, có những đóng góp đáng kể trong việc
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị cáo, bảo vệ sự công bằng trong tư pháp và thúc
đẩy xây dựng hệ thống PLTTHS của Trung Quốc. Tác giả đề cập đến nội dung kiến
nghị hoàn thiện TTHS của Trung Quốc. Trong đó thực hiện quy chế thẩm vấn chéo;
tăng cường QBC, tạo sự cân bằng giữa cơ quan tố tụng và người bào chữa, đảm bảo cho
người bào chữa tham gia xét xử một cách hiệu quả và thực chất; đề phòng trường hợp
Cơ quan kiểm sát lạm dụng quyền truy tố, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của
9



người bào chữa; thực hiện tính trung lập của Tòa án, tăng quyền tham dự và quyền
quyết định của cơ quan tố tụng và người bào chữa.
- Sách “Outline of the U.S. Legal system, Congressional Quarterly, Inc, 2001”
[186], tạm dịch Khái quát hệ thống pháp luật Hoa Kỳ của tác giả Michael Jay Friedman
(Hoa Kỳ) - là tài liệu đáng quan tâm nghiên cứu vì cuốn sách này đã phác họa bức tranh
toàn cảnh hệ thống pháp luật Hoa Kỳ; về các Thẩm phán, Luật sư, Bồi thẩm đoàn; về
thủ tục TTHS và dân sự; về Tòa án tối cao, các Tòa sơ thẩm và phúc thẩm cấp bang và
liên bang. Đặc biệt, cuốn sách đề cập đến hoạt động và vai trò của Luật sư trong việc
thương lượng lời khai (còn gọi là mặc cả thú tội), khi mà đổi lấy việc nhận tội, bị cáo
được áp dụng pháp luật cả về nội dung và hình thức theo hướng có lợi hơn. Hoạt động
này không có ở Việt Nam nhưng cũng có thể nghiên cứu để rõ hơn mức độ chủ động
của Luật sư trong TTHS.
- “Body of Principles for the protection of All Persons under Any Form of
Detention or Imprisonment” [150], tạm dịch Khung nguyên tắc bảo hộ người bị giam
giữ hoặc phạt tù dưới mọi hình thức. Đây là Nghị quyết số 43/173 ngày 09-12-1998 của
Đại hội đồng Liên Hợp Quốc theo đó Liên Hợp Quốc đề ra các nguyên tắc nhằm bảo vệ
con người chống lại sự bức cung, nhục hình, được thông báo về việc bị bắt giữ thể hiện
tại: Nguyên tắc 10: Bất cứ ai bị bắt giữ sẽ được thông báo tại thời điểm bắt giữ lý do bắt
giữ anh ta và sẽ được thông báo ngay lập tức về bất kỳ cáo buộc nào chống lại anh ta.
Nguyên tắc 11: Một người không bị giam giữ mà không được cơ quan tư pháp hoặc cơ
quan có thẩm quyền giải quyết ngay một cơ hội hiệu quả. Người bị giam giữ có quyền
tự bảo vệ hoặc được Luật sư hỗ trợ theo quy định của pháp luật; Một người bị giam giữ
và Luật sư của anh ta, nếu có, sẽ nhận được thông tin liên lạc nhanh chóng và đầy đủ về
bất kỳ lệnh giam giữ nào, cùng với những lý do đó; Một cơ quan tư pháp hoặc cơ quan
khác sẽ được trao quyền xem xét khi thích hợp việc tiếp tục giam giữ. Nguyên tắc 21:
Nghiêm cấm lợi dụng quá mức của tình trạng của một người bị giam giữ hoặc bị cầm tù
vì mục đích buộc anh phải thú nhận, tự trách mình hoặc để làm chứng chống lại bất kỳ
người nào khác; Không có người bị giam giữ trong khi bị thẩm vấn sẽ bị bạo lực, đe

dọa hoặc phương pháp thẩm vấn làm suy giảm khả năng quyết định hoặc phán xét của
mình. Một người sẽ không bị tạm giữ nếu không có cơ hội cho họ nghe quan tòa hoặc
người có thẩm quyền thông báo về việc họ bị bắt giữ; Một người bị bắt, tạm giữ có
quyền tự bào chữa hoặc được hỗ trợ bởi Luật sư theo quy định của pháp luật.
- Sách “Nghiên cứu về tổ chức và hoạt động của hệ thống tư pháp Trung Quốc,
Indonesia, Nhật Bản, Hàn Quốc và Nga” [151] do Liên hợp quốc thực hiện năm 2010
đã làm rõ cơ cấu tổ chức cơ quan tư pháp hình sự, quy định về QBC, tạo điều kiện để
Luật sư tham gia bào chữa của 5 quốc gia chọn lọc. Trong đó, các vấn đề Luật sư được
10


phép sử dụng nhiều phương pháp đặc biệt để thu thập chứng cứ, cho phép Luật sư đề
nghị Đoàn Luật sư địa phương yêu cầu cơ quan, tổ chức cung cấp tài liệu; hỏi cung
không được ghi hình, ghi tiếng khi chưa có sự hiện diện của Luật sư được tập trung
nghiên cứu.
- Sách “Criminal Evidence: Principles and Cases (6th edition, 2006) [187], tạm
dịch Chứng cứ hình sự của tác giả Thomas J. Gardner và Terry M. Anderson (Hoa Kỳ)
- Thomas J. Gardner là Luật sư hành nghề được tôn trọng rãi với hơn 50 năm kinh
nghiệm, bao gồm nhiều năm làm Luật sư phụ tá ở Milwaukee. Ông Gardner tốt nghiệp
trường Luật Marquette, bang Wisconsin. Cuốn sách Criminal Evidence bao gồm các
quy tắc chính của chứng cứ và khả năng áp dụng các quy tắc này trong các vấn đề hình
sự. Các tác giả cung cấp cho sinh viên sự hiểu biết về các quy tắc này, tập trung vào
việc đưa ra các quy tắc có thể truy cập cho các viên chức thực thi pháp luật. Cách sử
dụng chứng cứ giả, chứng cứ không hợp pháp (use of false or perjured evidence) đối
với những người phải áp dụng chúng vào công việc. Tác giả sẽ sử dụng nội dung trên
trong phần cơ sở lý luận về quyền thu thập chứng cứ của Luật sư.
- Sách “Comparative Criminal Justice Systems”, tạm dịch Hệ thống tư pháp
hình sự so sánh [188] tái bản lần thứ 6, 2012 của Philip L.Reichel (Hoa Kỳ), Giáo sư
trường Đại Học Kansas, Colorado, New Hampshire. Cách tiếp cận duy nhất của cuốn
sách này là kiểm tra các hệ thống pháp luật, Cảnh sát, Tòa án và chỉnh sửa bằng cách sử

dụng pháp luật hơn 30 quốc gia khác nhau để thể hiện sự đa dạng trong các hệ thống
pháp luật trên toàn thế giới. Nội dung của cuốn sách giúp người đọc hiểu được cách
thức khác nhau để quản lý và điều hành hệ thống pháp luật. Lần tái bản này có phạm vi
đầy đủ hơn về truyền thống pháp lý Hồi giáo, thông tin về cải cách ở Nhật Bản, sử dụng
nhiều nguồn tài liệu chính được cập nhật đầy đủ bao gồm thêm thông tin về: Đạo luật
Patriot; Người Hồi giáo Sunni và Shia; Các thay đổi pháp luật và thủ tục rõ ràng cho
Pháp, Đức và Nigeria; Hệ thống điều tra và phản đối; Thử nghiệm theo một thủ tục điều
tra; Hệ thống tư pháp vị thành niên thay đổi ở Anh, xứ Wales và Trung Quốc. Quan tâm
nhiều đến truyền thống pháp lý Hồi giáo bao gồm các mô tả chi tiết về các khía cạnh
chính của nó. Phản ánh các sự kiện cập nhật trong công lý hình sự của Nhật Bản bao
gồm các thay đổi đã được chính thức phê duyệt nhưng chưa được triển khai đầy đủ.
Tham khảo luật thực định của nhiều quốc gia và cung cấp thông tin bổ sung cho cơ
quan tư pháp hình sự của quốc gia đó và bất cứ ai quan tâm đến tư pháp hình sự trên
toàn thế giới.
Những nghiên cứu cho thấy mặc dù cùng chung mục đích là tìm ra sự thật, phát
hiện và xử lý tội phạm nhưng truyền thống pháp luật sử dụng mô hình tố tụng khác
nhau, đặt vấn đề là xem cách thức nào là tốt nhất để tìm ra sự thật. Sự khác nhau giữa
11


các mô hình tố tụng tất yếu dẫn đến sự khác nhau, trong đó có sự khác nhau về địa vị
pháp lý của các chủ thể, cách thức vận hành các chức năng tố tụng, sự khác nhau về
những quy định liên quan đến địa vị pháp lý của Luật sư. Mặt khác những nghiên cứu
về mô hình tố tụng nói trên có những nội dung liên quan đến địa vị pháp lý của NBC,
trong đó có Luật sư. Tham khảo các tài liệu trên giúp cho việc nghiên cứu của tác giả có
những hiểu biết về các mô hình tố tụng và địa vị pháp lý của Luật sư trong các mô hình
tố tụng đó. Trên cơ sở đó đưa ra những kiến nghị nhằm hoàn thiện PLTTHS, địa vị
pháp lý của Luật sư, phù hợp với mô hình tố tụng pha trộn và cải cách tư pháp mà Việt
Nam đang hướng đến.
1.2. Tổng quan tình hình nghiên cứu trong nước

Thời gian qua, ở Việt Nam đã có khá nhiều công trình nghiên cứu làm rõ cơ sở
lý luận về quyền con người, QBC của NBBT, điạ vị pháp lý của Luật sư trong các giai
đoạn tố tụng hình sự. Các nội dung này được tiếp cận ở phạm vi rộng, hẹp khác nhau,
trong đó đề cập đến địa vị pháp lý của Luật sư. Những cơ sở lý luận đó giúp cho tác giả
có được cách tiếp cận đúng đắn về QBC và địa vị pháp lý của Luật sư, xác định hướng
kiến nghị hoàn thiện PLTTHS trên nguyên tắc vừa bảo đảm QBC của NBBT, vừa bảo
đảm lợi ích của Nhà nước, lợi ích chung của xã hội, bảo đảm lợi ích của cơ quan, tổ
chức; quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân cũng như đưa ra các giải pháp nâng cao
vai trò, vị trí địa vị pháp lý của Luật sư trong giai đoạn điều tra VAHS theo pháp luật
TTHS Việt Nam.
1.2.1. Nhóm các công trình nghiên cứu về mô hình tố tụng, nguyên tắc tố
tụng hình sự; chức năng TTHS liên quan đến địa vị pháp lý của người bào chữa,
Luật sư; về quyền và địa vị pháp lý của các chủ thể trong TTHS; về quyền và địa vị
pháp lý của người bào chữa, Luật sư nói chung và trong giai đoạn điều tra vụ án
hình sự nói riêng.
Tác giả chia thành 3 nhóm công trình nghiên cứu như sau:
Nhóm các công trình nghiên cứu mô hình tố tụng, nguyên tắc TTHS; chức năng
tố tụng hình sự có liên quan đến địa vị pháp lý của người bào chữa, Luật sư.
+ Luận án tiến sĩ luật học “Mô hình tố tụng hình sự Việt Nam và vấn đề áp
dụng tố tụng tranh tụng” [100] của TS.Nguyễn Thị Thủy năm 2014 là công trình đầu
tiên nêu lên yêu cầu đổi mới toàn diện mô hình TTHS Việt Nam theo hướng áp dụng
phù hợp các yếu tố của tố tụng tranh tụng.
Tuy nhiên tác giả dừng lại trong việc hoàn thiện mô hình TTHS Việt Nam theo
hướng xây dựng mô hình tố tụng pha trộn, duy trì phát huy những yếu tố tích cực của
mô hình tố tụng thẩm vấn, tiếp thu những yếu tố tích cực của mô hình tố tụng tranh
tụng phù hợp với điều kiện theo hướng cải cách tư pháp của Việt Nam.
12


+ Luận án tiến sĩ Luật học của tác giả Nguyễn Mạnh Hùng 2012 “Các chức

năng trong tố tụng hình sự Việt Nam - Những vấn đề lý luận và thực tiễn” [46]. Tác giả
đã làm rõ những vấn đề lý luận về chức năng buộc tội, chức năng bào chữa và chức
năng xét xử trong tố tụng hình sự; nghiên cứu, tìm hiểu, đánh giá thực trạng thực hiện
các chức năng này trong thực tiễn TTHS Việt Nam, đề xuất những giải pháp cần thiết
để thực hiện có hiệu quả các chức năng của TTHS.
Tuy nhiên tác giả dừng lại trong việc đánh giá chức năng từng mô hình tố
tụng, các chủ thể thực hiện chức năng ấy trong việc bảo vệ quyền con người, quyền
công dân mà không đề cập đến quyền và nghĩa vụ của Luật sư.
+ Luận án tiến sĩ “Nguyên tắc tranh tụng trong TTHS Việt Nam - Những vấn đề
lý luận và thực tiễn” [36] của tác giả Nguyễn Văn Hiển năm 2010. Luận án đã nghiên
cứu toàn diện các vấn đề lý luận và thực tiễn để chứng minh sự tồn tại khách quan của
nguyên tắc tranh tụng trong các mô hình TTHS; khả năng xây dựng và áp dụng có hiệu
quả nguyên tắc này phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh của PLTTHS Việt Nam mà không
cần thay đổi mô hình tố tụng truyền thống. Từ đó khẳng định tầm quan trọng của chức
năng gỡ tội và địa vị pháp lý của NBC theo PLTTHS Việt Nam.
Tuy nhiên tác giả chỉ phân tích nguyên tắc tranh tụng trong TTHS mà không
đánh giá được hiệu quả chất lượng tranh tụng ra sao nếu không có NBC tham gia tranh
tụng ngay từ giai đoạn điều tra VAHS.
+ Mức độ đại cương có Giáo trình “Luật Tố tụng hình sự” [107] của Trường
Đại học Luật Hà Nội năm 2006; Giáo trình “Luật Tố tụng hình sự Việt Nam” [108] của
Trường Đại học Luật Hà Nội năm 2011; Giáo trình “Luật sư và nghề Luật sư” [109]
của Trường Đào tạo các chức danh tư pháp năm 2001; Giáo trình “Kỹ năng giải quyết
vụ án hình sự” [43] của Học viện Tư pháp (Nxb Lao động) năm 2014; Giáo trình “Kỹ
năng hành nghề Luật sư” tập IV [42] của Học viện Tư pháp năm 2001.
Nội dung trong các giáo trình này là những kiến thức đại cương, cơ bản về mặt
pháp luật TTHS, những kỹ năng hành nghề của Luật sư, nội dung quyền và nghĩa vụ
của Luật sư trong VAHS.
+ Các bài viết có tính chất tham khảo về hoạt động tranh tụng trong TTHS như
bài:“Bàn về tranh tụng trong tố tụng hình sự” của TS. Hoàng Thị Quỳnh Chi [126].
+ Công bố tại Hội thảo quốc tế về BLTTHS năm 2003 và quyền của Luật sư,

năm 2012, TS. Lê Hữu Thể và Ths Nguyễn Thị Thủy, có bài viết “Hoàn thiện mô hình
tố tụng hình sự Việt Nam theo yêu cầu cải cách tư pháp” [96]. Bài viết phân tích chế
định NBC trong TTHS Việt Nam, theo đó quá trình phát triển mô hình TTHS Việt Nam
chịu ảnh hưởng lớn từ mô hình tố tụng hình sự của Đức và Liên bang Nga.
13


Liên đoàn Luật sư Việt Nam cũng đã tổ chức những Hội thảo khoa học nghiên
cứu về địa vị pháp lý của Luật sư như hội thảo khoa học “Cải cách tư pháp và phòng
chống oan sai trong hoạt động tố tụng” [55] tổ chức tại Hà Nội ngày 2 & 3-11-2009;
Trường Đại học Luật Hà Nội và UNDP cũng tổ chức hội thảo quốc tế “Báo cáo quyền
bào chữa trong pháp luật tố tụng hình sự và thực tiễn tại Việt Nam” [130] tháng 52010. Tại các cuộc hội thảo này, nhiều Luật sư đã có những tham luận, những kiến nghị
xác đáng được rút ra từ thực tiễn hành nghề, thể hiện những trăn trở, tâm huyết với hoạt
động hành nghề Luật sư.
+Công trình “Những nội dung mới trong BLTTHS năm 2015” do PGS.TS
Nguyễn Hoà Bình (chủ biên) - NXB Chính trị Quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2016 [3].
Trong 18 công trình nghiên cứu trên, đã công bố 19 nội dung chuyên sâu; công
bố 3 nội dung quan trọng i) Mục tiêu, quan điểm chỉ đạo sửa đổi, bổ sung BLTTHS; ii)
Những công việc triển khai xây dựng BLTTHS năm 2015; iii) Những nội dung lớn sửa
đổi, bổ sung BLTTHS năm 2015. Yêu cầu đặt ra được quán triệt trong suốt quá trình
soạn thảo là phải thể chế hóa đầy đủ, sâu sắc chủ trương cải cách tư pháp của Đảng,
Hiến pháp 2013, phải thật sự công tâm, khách quan vì cuộc sống, sự bình yên của nhân
dân, vì những giá trị văn minh, tiến bộ của nền tư pháp.
Trong phần tổng quan của công trình, PGS.TS. Nguyễn Hòa Bình đã luận giải
một số nội dung lớn sửa đổi, bổ sung BLTTHS năm 2015 như:
Đổi mới chế định bảo đảm chứng cứ, chứng minh cho phù hợp với tình hình
mới như thay đổi khái niệm chứng cứ theo hướng phá thế “độc quyền” trong việc thu
thập chứng cứ (hiện đang chỉ giao cho cơ quan tiến hành tố tụng) theo đó bổ sung cho
người bào chữa có quyền thu thập chứng cứ, NBBT có quyền đưa ra chứng cứ; bổ sung
nguyên tắc loại trừ chứng cứ nhằm khắc phục những biểu hiện tùy tiện, vi phạm quyền

con người, quyền công dân có thể xảy ra trong quá trình chứng minh vụ án; bảo đảm
nguyên tắc tranh tụng trong xét xử, củng cố lòng tin của nhân dân vào công lý, vào sự
công bằng của pháp luật; bảo đảm quyền con người, quyền công dân; bảo đảm QBC
của NBBT. Ngoài ra, trong công trình trên TS.LS Phan Trung Hoài bổ sung làm rõ nội
dung “Về mở rộng các quyền có ý nghĩa quan trọng nhằm nâng cao địa vị pháp lý của
người bào chữa với tư cách chủ thể thực hiện chức năng cơ bản của tố tụng hình sự”
[3, tr 195]. Điểm lớn nhất trong lịch sử hình thành và phát triển PLTTHS Việt Nam là
đề cao địa vị pháp lý, vai trò và trách nhiệm của NBC trong TTHS. BLTTHS năm 2015
đã xây dựng chương V (gồm 13 điều), khắc phục sự không bình đẳng giữa NBC với
người THTT; quyền của NBC phái sinh từ NBBT nhưng lại phụ thuộc hoàn toàn vào sự
chấp nhận hay không của cơ quan THTT. Theo đó, phải đảm bảo khi nào và ở đâu có
việc buộc tội thì ở đó QBC phải được thực hiện và tôn trọng. Sự buộc tội càng cao thì
14


sự bào chữa càng phải lớn, tội phạm càng nghiêm trọng càng phải coi trọng việc bào
chữa. Tăng cường hơn nữa trách nhiệm của Nhà nước trong việc bảo đảm QBC của bị
can, bị cáo, đề cao vai trò của người bào chữa trong các giai đoạn tố tụng. Việc NBC
tham gia tố tụng không chỉ để thực hiện việc bào chữa, gỡ tội cho NBBT mà còn góp
phần cùng các cơ quan THTT xác định sự thật vụ án, tìm chân lý khách quan; xác lập
một kênh giám sát đối với các cơ quan tư pháp.
Đây cũng chính là nội dung mà tác giả sẽ sử dụng và tiếp tục nghiên cứu sâu
trong luận án của mình.
Tuy nhiên, phần tổng quan các tác giả chưa dự liệu những vướng mắc, khó
khăn trong quá trình thực hiện BLTTHS năm 2015, cũng như khả năng sửa đổi, bổ sung
các điều luật là sự thiếu sót trong quá trình xây dựng PLTTHS Việt Nam.
+Công trình “Bình luận khoa học BLTTHS năm 2015” do PGS.TS Nguyễn
Văn Huyên - TS Lê Lan Chi (Chủ biên) - NXB Lao động, 2016 [47].
Trong phạm vi công trình, 16 tác giả đã phân tích, bình luận chuyên sâu về 19
nội dung như: Những quy định chung của BLTTHS. Các tác giả đã đưa ra những phân

tích, bình luận chi tiết 510 điều luật trong mối quan hệ giữa các quy định cùng điều
chỉnh quá trình giải quyết VAHS trong mối quan hệ với các văn bản pháp luật khác có
liên quan. Đặc biệt một nhiệm vụ khác mà tập thể tác giả nỗ lực thực hiện, đó là truyền
tải những nội dung mới, những tinh thần mới của BLTTHS năm 2015, đánh giá khách
quan những sửa đổi, bổ sung với nhiều điểm tiến bộ, khoa học và cả một số điểm chưa
rõ ràng hoặc mâu thuẫn, bất cập.
+ Công trình “Bình luận khoa học BLTTHS 2015”do GS.TS Nguyễn Ngọc Anh LS. TS Phan Trung Hoài (Đồng chủ biên) - NXB Chính trị Quốc gia - Sự thật, 2018 [1].
Công trình có bố cục bám sát nội dung các chương, điều của BLTTHS năm
2015; phân tích, đối chiếu với thực tiễn thi hành pháp luật; cập nhập các văn bản hướng
dẫn; các điều luật được giải thích rõ ràng, dễ hiểu, giúp việc tìm hiểu, nâng cao nhận
thức, triển khai tốt các quy định của BLTTHS năm 2015, nhất là đối với các quy định
sửa đổi, bổ sung so với BLTTHS năm 2003, đây thực sự là tài liệu chuyên khảo hữu
ích, đáp ứng được yêu cầu tìm hiểu, nghiên cứu.
Tuy nhiên vì đây là sách chuyên sâu về bình luận khoa học nên thiếu phần lý
luận về địa vị pháp lý của Luật sư trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự.
- Nhóm các công trình nghiên cứu về quyền và địa vị pháp lý của các chủ thể
trong tố tụng hình sự.
+ Năm 2014, luận án tiến sĩ “Quyền bào chữa của bị can, bị cáo là người chưa
thành niên trong tố tụng hình sự” [106], tác giả Nguyễn Hữu Thế Trạch đã đi sâu
nghiên cứu, phân tích bổ sung, phát triển lý thuyết về QBC của bị can, bị cáo là người
15


chưa thành niên phạm tội; làm rõ mối liên hệ giữa tính đặc thù của bị can, bị cáo là người
chưa thành niên với việc cần thiết hình thành, phát triển chế định QBC cho đối tượng này
cũng như cơ chế đảm bảo thực hiện; đưa ra những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực
hiện cơ chế đảm bảo QBC của bị can, bị cáo là người chưa thành niên trong TTHS.
Tuy nhiên, trong luận án tác giả chưa đề cập đến địa vị pháp lý của NBC với
người chưa thành niên trong giai đoạn điều tra VAHS.
+ Luận án tiến sĩ luật học “Thực hiện quyền bào chữa của bị can, bị cáo trong

tố tụng hình sự” [95] của tác giả Hoàng Thị Minh Sơn, Trường Đại học Luật Hà Nội,
năm 2003. Tác giả trình bày những vấn đề chung về QBC; hình thức thực hiện QBC;
bảo đảm QBC; thực tiễn thực hiện QBC; đề xuất các giải pháp có giá trị nâng cao hiệu
quả thực hiện QBC của bị can. Luận án là một công trình nghiên cứu toàn diện cả về lý
luận và thực tiễn, những hoạt động của NBC nhằm thực hiện QBC, kiến nghị hoàn
thiện PLTTHS nhằm thực hiện có hiệu quả QBC của bị can có tính khoa học và khả thi.
Tuy nhiên đối tượng nghiên cứu của luận án là BLTTHS năm 1988 [78] vì vậy
có những vấn đề không còn phù hợp trong thời điểm hiện nay. Bên cạnh đó, tác giả chỉ
tập trung đề cập đến QBC của bị can, bị cáo mà không đề cập về quyền và nghĩa vụ của
Luật sư nhất là trong giai đoạn điều tra VAHS.
+ Tài liệu “Nghiên cứu quyền bào chữa trong pháp luật tố tụng hình sự và thực
tiễn tại Việt Nam” [76] do nhóm nghiên cứu Nguyễn Hưng Quang và cộng sự năm
2012 làm rõ các tiêu chuẩn quốc tế về QBC thông qua việc nghiên cứu các văn bản
pháp lý quốc tế, khu vực như ICCPR, ECHR, quy chế Rome; đánh giá mức độ bảo
đảm, tạo điều kiện của cơ quan tiến hành tố tụng thực hiện QBC của NBBT.
- Nhóm các công trình nghiên cứu về quyền và địa vị pháp lý của người bào
chữa, Luật sư nói chung và trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự nói riêng.
+ Những luận văn liên quan đến cơ sở lý luận, có luận văn thạc sĩ của Hoàng
Chí Hiếu, năm 2016 với đề tài “Địa vị pháp lý của người bào chữa trong giai đoạn điều
tra vụ án hình sự” [37]; Luận văn thạc sĩ của Chu Đăng Chung, năm 2014 với đề tài
“Luật sư bào chữa trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự” [24]; Luận văn thạc sĩ của
Hoàng Thị Phương Thu, năm 2007 với đề tài “Vị trí, vai trò của Luật sư trong giai
đoạn điều tra vụ án hình sự” [98, tr 7]; Luận văn thạc sĩ của Đỗ Đình Nghĩa, năm 2004
với đề tài “Địa vị pháp lý của người bào chữa trong Luật Tố tụng hình sự Việt Nam Những vấn đề lý luận và thực tiễn” [72]. Trong các luận văn trên, các tác giả đã nêu lên
các khái niệm, vị trí, vai trò, ý nghĩa của NBC, trong giai đoạn điều tra VAHS, quyền
và nghĩa vụ của luật sư theo quy định của BLTTHS năm 2003 [80]; nhưng bất cập trong
quy định của PLTTHS, trong hoạt động thực thi PLTTHS đồng thời đưa ra giải pháp
16



nhằm thực hiện quy định của PLTTHS về hoạt động của NBC, Luật sư trong giai đoạn
điều tra VAHS.
Tuy nhiên luận văn của các tác giả phân tích các vấn đề trên nền tảng BLTTHS
năm 2003, do đó các giải pháp đưa ra không còn phù hợp với yêu cầu hiện nay, điều này
khiến việc đánh giá thực trạng, kiến nghị giải pháp chỉ mang tính tham khảo.
+ Luận án tiến sĩ “Hoạt động bào chữa của Luật sư trong giai đoạn xét xử sơ
thẩm vụ án hình sự” [116] của tác giả Ngô Thị Ngọc Vân, năm 2016. Bài viết đã phân
tích đầy đủ khái niệm hoạt động bào chữa, nguyên nhân những hạn chế bất cập hoạt
động bào chữa của Luật sư trong giai đoạn xét xử sơ thẩm.
Tuy nhiên tác giả không phân tích về giai đoạn điều tra VAHS nên còn rời rạc
khi xâu chuỗi hoạt động bào chữa của Luật sư trong các giai đoạn của PLTTHS bao
gồm giai đoạn điều tra, giai đoạn truy tố và giai đoạn xét xử.
+ Luận án tiến sĩ “Thực hiện quyền bào chữa trong tố tụng hình sự Việt Nam
hiện nay” [73] năm 2016, tác giả Đặng Trần Thanh Ngọc cho rằng Nghị quyết 08NQTW ngày 02-01-2002 đã hướng đến xây dựng một nền tố tụng công bằng, dân chủ
nhằm hạn chế tối đa tình trạng oan sai; phân tích về mối quan hệ giữa pháp luật - thực
hiện pháp luật; thực hiện QBC - thực hiện pháp luật dưới khía cạnh xã hội học pháp luật.
Tác giả kiến nghị chuyển đổi chức danh Trợ giúp viên pháp lý thành Luật sư
công, xây dựng mô hình Luật sư công tương ứng và xã hội hóa hoạt động trợ giúp pháp
lý để chia sẻ gánh nặng cho ngân sách nhà nước là nhiệm vụ “bất khả thi” trong giai
đoạn hiện nay khi quyền tự bào chữa, nhờ Luật sư hoặc nhờ người khác bào chữa mâu
thuẫn với số liệu “80% số VAHS hiện nay NBBT tự bào chữa có chất lượng quá thấp
nên không đáp ứng với yêu cầu tranh tụng, dễ dẫn đến oan, sai”.
+ Năm 2011, luận án tiến sĩ “Bảo đảm quyền có người bào chữa của người bị
buộc tội - So sánh giữa Luật tố tụng hình sự Việt Nam, Đức, Mỹ” [92] tác giả Lương
Thị Mỹ Quỳnh đã khái quát các quan điểm lịch sử về hình thành quyền có NBC; khái
quát hóa các quan điểm, quan niệm của pháp luật quốc tế và Việt Nam về bảo đảm
quyền có NBC, qua đó tổng kết và khẳng định những nội dung cơ bản để bảo đảm
quyền có NBC được ghi nhận trên cả bình diện quốc tế và quốc gia; hệ thống hóa các
quy định của pháp luật Việt Nam, Đức và Mỹ về bảo đảm quyền có NBC trong sự đối
chiếu so sánh, chỉ ra được những điểm tương đồng và khác biệt cùng những điểm hợp

lý và những điểm bất hợp lý của vấn đề trong từng hệ thống pháp luật; đưa ra một số
kiến nghị hoàn thiện PLTTHS Việt Nam về bảo đảm quyền có NBC. Đây cũng là nội
dung tác giả sẽ kế thừa để hoàn thiện luận án của mình trong việc so sánh quyền có
người bào chữa trong PLTTHS giữa Việt Nam và các nước như Đức và Mỹ.
17


Tuy nhiên, bài viết vẫn chưa đề cập về vai trò, vị trí của NBC trong TTHS,
cũng như chưa nêu lên quyền và nghĩa vụ của Luật sư bào chữa, bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của người bị buộc tội trong giai đoạn điều tra VAHS.
+ Năm 2003, luận án tiến sĩ “Cơ sở lý luận của việc hoàn thiện pháp luật về Luật
sư ở Việt Nam hiện nay” [38, tr 155] tác giả Phan Trung Hoài đã đưa ra lý luận, phân tích
về khái niệm, bản chất, vai trò của nghề Luật sư; cơ sở lý luận việc điều chỉnh pháp luật
đối với hoạt động Luật sư; thực trạng pháp luật và thi hành pháp luật về Luật sư ở Việt
Nam, đề xuất các phương hướng hoàn thiện pháp luật về Luật sư ở Việt Nam.
Tuy nhiên, trong luận án tác giả sử dụng BLTTHS năm 2003 để phân tích, đánh
giá thực trạng, đưa ra các giải pháp hoàn thiện pháp luật về Luật sư ở Việt Nam nên
không còn nhiều ý nghĩa.
Trong luận án, tác giả kế thừa việc phân tích, khái niệm, bản chất, vai trò của
nghề Luật sư và Luật sư ở Việt Nam để làm rõ sự chuyên nghiệp của Luật sư.
+ Luận án tiến sĩ luật học của tác giả Đỗ Văn Đương năm 2000 “Thu thập,
đánh giá và sử dụng chứng cứ trong điều tra vụ án hình sự ở Việt Nam hiện nay” [33],
đã tiến hành phân tích rõ lý luận chung về thu thập, đánh giá và sử dụng chứng cứ
chứng minh; thực trạng thu thập, đánh giá và sử dụng chứng cứ; những giải pháp góp
phần nâng cao việc thu thập, đánh giá và sử dụng chứng cứ trong điều tra VAHS ở Việt
Nam hiện nay.
Tác giả cho rằng, việc thu thập chứng cứ, đánh giá và sử dụng chứng cứ là do
Cơ quan điều tra và ĐTV thực hiện “thì niềm tin nội tâm của Điều tra viên trong đánh
giá cũng cần được nghiên cứu xem xét với tính cách như là một cơ sở để xác định tính
xác thực của những thông tin chứng cứ”, tác giả còn nêu vai trò của “niềm tin nội tâm”

trong đánh giá chứng cứ và “niềm tin nội tâm cũng được xác định là một cơ sở để đánh
giá chứng cứ trong điều tra vụ án hình sự”.
Tác giả áp dụng BLTTHS năm 1988 [78] để phân tích nên không còn phù hợp
với BLTTHS 2015 cho phép Luật sư được thu thập chứng cứ, tài liệu, đồ vật…; kiểm
tra, đánh giá và trình bày ý kiến về chứng cứ nên nghiên cứu trên chỉ còn ý nghĩa về cơ
sở lý luận.
Tuy nhiên, trong luận án của mình, tác giả sẽ kế thừa những quan điểm của
công trình nghiên cứu trên tinh thần của BLTTHS năm 2015 về quyền thu thập, kiểm
tra và đánh giá chứng cứ nhất là cơ sở lý luận về quyền thu thập chứng cứ của Luật sư.
+ Sách “Cơ chế bảo đảm và bảo vệ quyền con người” [122] - Sách chuyên khảo Dự
án Diễn đàn Giáo dục quyền con người - GS.TS Võ Khánh Vinh chủ biên, Nxb Khoa học xã
hội, Hà Nội 2011. Bên cạnh đó, những công trình nghiên cứu về quyền con người như sách
18


chuyên khảo“Quyền con người - Tiếp cận đa ngành và liên ngành Luật học” [121] do
GS.TS. Võ Khánh Vinh chủ biên, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội 2010 (2 tập).
+ Sách “Vai trò của Luật sư trong tố tụng hình sự” [110] của TS. Nguyễn văn
Tuân, Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội 2001.
Cuốn sách đã phân tích quyền con người là quyền tự nhiên, xuất hiện trước khi
Nhà nước ra đời và QBC là quyền cơ bản của NBBT, bên cạnh còn chỉ ra rằng trong
mối quan hệ tố tụng giữa chủ thể buộc tội và NBBT, NBBT luôn yếu thế, do đó Nhà
nước phải ghi nhận quyền bào chữa trong TTHS để họ tự bảo vệ các quyền, lợi ích hợp
pháp của mình. Đồng thời nêu lên cơ chế bảo vệ quyền con người ở một số nước, về
thực trạng các cơ chế bảo vệ quyền con người, đặt ra những vấn đề và xu hướng phát
triển, tạo tiền đề cho những nghiên cứu sâu hơn về cơ chế bảo đảm và bảo vệ quyền con
người ở Việt Nam.
Tuy nhiên, các nghiên cứu trên chưa tiếp cận trực tiếp, toàn diện về bảo đảm
quyền có NBC, chưa tiến hành khảo sát mở rộng tìm ra giải pháp nhằm nâng cao vị thế
cho Luật sư nhất là trong giai đoạn điều tra VAHS.

+ Công trình “Vị trí của Luật sư bào chữa trong phiên tòa xét xử” [35] của tác
giả Phạm Hồng Hải năm 1999 đề cập đến vấn đề QBC, quyền có NBC ở những khía
cạnh nhất định. Nghiên cứu trên chỉ dừng ở mức độ diễn giải luật thực định. Nội dung
trong công trình thể hiện ở 3 khía cạnh: i) nghiên cứu những quy định của BLTTHS
1988 dưới góc độ bảo đảm quyền con người (bao gồm quyền của NBBT); ii) nghiên
cứu nguyên tắc TTHS về bảo đảm QBC của NBBT; iii) nghiên cứu vai trò của NBC
trong TTHS.
+ Các bài nghiên cứu mang tính chất phân tích về chế định của NBC được đăng
trên các tạp chí nghiên cứu có nội dung liên quan đến cơ sở lý luận của đề tài như bài
“Quyền của Luật sư trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự - Những hạn chế bất cập
qua thực tiễn áp dụng” [53] của tác giả Vũ Huy Khánh, tạp chí Tòa án số 04 tháng
2/2009; “Địa vị pháp lý và mối quan hệ của người bào chữa với bị can, bị cáo trong Tố
tụng hình sự” [112] của tác giả Nguyễn Văn Tuân, tạp chí Dân chủ và Pháp luật số
11/2008; bài “Bàn về sự tham gia bắt buộc của người bào chữa trong TTHS” [75] của
tác giả Nguyễn Thái Phúc, tạp chí Kiểm sát, số Xuân 1/2009; bài “Nâng cao vị thế của
người bào chữa tại phiên toà hình sự” [51]của tác giả Nguyễn Ngọc Khanh, tạp chí
Luật học số 7/2008; bài “Bàn về sự tham gia bắt buộc của người bào chữa trong giai
đoạn điều tra trong TTHS” [101] của Nguyễn Trương Tín, tạp chí Nhà nước và pháp
luật số 12/2010. Nhóm các bài viết này chủ yếu tập trung phân tích quyền và nghĩa vụ
của Luật sư, vị trí của Luật sư trong TTHS, sự tham gia của Luật sư trong một số
trường hợp bắt buộc phải có Luật sư.
19


+ Bài báo “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn trong việc thực thi các quy định
của pháp luật nhằm đảm bảo quyền của Luật sư trong quá trình tham gia TTHS, dân
sự” [40] của tác giả Phan Trung Hoài, Tạp chí Kiểm sát số 4/2007. Bài viết đánh giá về
số lượng Luật sư tham gia bào chữa tại các phiên toà hình sự ở một số thời điểm nhất
định; nhận định chung về địa vị pháp lý; chỉ rõ một số rào cản trong thực tế khiến chất
lượng hoạt động bào chữa của Luật sư chưa hiệu quả.

+ Một số công trình đăng tải trên các tạp chí khoa học chuyên ngành có liên
quan nhất định đến đề tài như bài viết “Đào tạo nghề Luật sư - Nhiệm vụ quan trọng
của Bộ Tư pháp” [49] trên tạp chí Nghề luật số 3/2006 của PGS.TS.Nguyễn Văn
Huyên; “Vai trò của Luật sư trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự” [50] đăng trên tạp
chí Công an nhân dân số 5/2006 của PGS.TS.Nguyễn Văn Huyên; “Vai trò của Luật sư
bào chữa trong tố tụng hình sự theo mô hình tranh tụng ở một số nước” [52] của
TS.Nguyễn Ngọc Khánh.
+ Các bài viết có tính chất tham khảo về hoạt động tranh tụng trong TTHS như
bài: “Bảo đảm quyền của bị cáo trong phiên toà mở rộng tranh tụng” [48] của
PGS.TS.Nguyễn Văn Huyên, tạp chí Dân chủ và Pháp luật số chuyên đề về tranh tụng
năm 2003; “Một số vấn đề về tranh tụng trong tố tụng hình sự” [18] của tác giả Lê Tiến
Châu, tạp chí Khoa học pháp lý số 1, năm 2003; bài “Nguyên tắc tranh tụng trong hệ
thống nguyên tắc cơ bản của Luật tố tụng hình sự” của PGS.TSKH. Lê Cảm, tạp chí
Luật học số 6 năm 2004 [17]; bài “Thực trạng tranh tụng và vấn đề nâng cao vai trò
của Luật sư trong tranh tụng trước yêu cầu cải cách tư pháp” [113] của tác giả Nguyễn
Văn Tuân, tạp chí Dân chủ và Pháp luật số tháng 3/2010; bài viết “Những vấn đề lý
luận về bảo vệ quyền con người bằng pháp luật trong lĩnh vực tư pháp hình sự” của
GS.TSKH. Lê Cảm, Tạp chí TAND số 11,13 và 14/2006 [16].
Các công trình trên đã phân tích các khía cạnh khác nhau của QBC, bảo đảm
quyền bào chữa, cho cái nhìn tổng thể về QBC, đảm bảo thực hiện quyền này trên thực
tế cũng như làm sáng tỏ về cơ sở lý luận; nhận diện được vai trò của NBC trong TTHS;
các nội dung liên quan đến quyền bào chữa và địa vị pháp lý của Luật sư; nguyên nhân
những hạn chế, bất cập về việc thực hiện QBC của NBBT trong thực tế; giải pháp nhằm
nâng cao hiệu quả hoạt động bào chữa Luật sư.
+ Các bài viết bình luận mang tính thời sự về oan, sai như “Luật sư tố Kiểm sát
viên, bị can từ chối Luật sư” [136] ngày 08-12-2016 của Nguyễn Đức”; “Ngăn cản
Luật sư sao chụp tài liệu là phạm luật” [161] ngày 04-12-2016 của tác giả Đinh văn
Quế; báo Tuổi trẻ đăng bài: “Luật sư được sao chụp tài liệu vụ án” [156] ngày 28-112016 của tác giả Tuyết Mai”; “Cựu chủ tịch phường đòi bồi thường 150 tỷ đồng cho 26
năm oan sai” [158] của Hoàng Nam - báo Vnexpress ngày 04-11-2016; “Phát hiện oan
20



sai ở đâu, sửa sai ngay ở đó” [134] của Hoàng Điệp, báo Tuổi Trẻ ngày 16-05-2016;
“Vụ chìm ca nô ở Cần Giờ: Tại sao không coi trọng vật chứng vụ án” [141]- Đức Hà,
trên vov.vn ngày 18-02-2016; bài “Chính phủ phải đầu tư thiết bị ghi âm, ghi hình để
tránh oan sai” [148] của Lương Kết đăng trên báo danviet.vn ngày 26-06-2015;
“Nguyên nhân gốc rễ của những án oan chấn động” [169] trên Zing.vn ngày 17-062015; “Từ chối Luật sư: Thực hư như thế nào?” [176] của Thanh Tùng -Tấn Lộc đăng
trên plo.vn; bài “Điểm danh 7 vụ án oan trong nước gây chấn động dư luận” [135] của
Anh Đức trên báo Dân Việt ngày 06-11-2013; “Bỏ bằng chứng ngoại phạm, lấy dấu
chân lạ kết tội ông Chấn” [166] của Đoàn Tân, báo Người Đưa tin, ngày 07-11-2013;
“Vụ được trả tự do sau 10 năm ngồi tù chung thân: Oan hay không, còn phải chờ”
[165] do Thái Sơn thực hiện, báo Thanh Niên; “Đề xuất gắn camera chống bức cung,
nhục hình” [157] ngày 24-7-2013 của Bình Minh; “Bất thường trong việc bị can từ chối
Luật sư [159] của Ngân Nga - Lệ Trinh đăng trên báo Pháp luật Thành phố Hồ Chí
Minh 05-08-2015.
Các bài báo trên đã phản ảnh những dư luận xã hội liên quan đến việc thực hiện
quyền và nghĩa vụ của Luật sư trong giai đoạn điều tra VAHS, cũng như những bất cập
của BLTTHS năm 2003. Những bức xúc, kiến nghị, giải pháp trong những bài báo trên
được tác giả phân tích trong phần cơ sở lý luận, đánh giá thực trạng của đề tài.
- Công trình sách tham khảo“Những điểm mới về chế định bào chữa trong Bộ
Luật TTHS năm 2015” của TS. Luật sư Phan Trung Hoài – NXB Chính trị Quốc gia –
Sự thật, Hà Nội, 2016 [41].
Trong phạm vi công trình, gồm 10 chương, TS. Luật sư Phan Trung Hoài đã
phân tích, lý luận chuyên sâu về các vấn đề như: Nhận thức về mô hình và các chức
năng cơ bản trong TTHS; thực trạng hành nghề Luật sư và quá trình sửa đổi, bổ sung
Bộ Luật TTHS năm 2003; nguyên tắc cơ bản trong BLTTHS năm 2015 nhằm nâng cao
vị thế, vai trò của NBC.
Trong công trình này, TS. Luật sư Phan Trung Hoài hệ thống toàn bộ những nội
dung mà pháp luật quy định về địa vị pháp lý của Luật sư, những biện pháp nhằm nâng
cao vai trò, vị thế của Luật sư như việc đề xuất xây dựng chương V: “Vấn đề không chỉ

dừng lại ở việc BLTTHS năm 2015 đã xây dựng một chương mới về bào chữa, bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự, mà đã có bước chuyển căn bản trong
nhận thức thể hiện trong quy định của BLTTHS quán triệt toàn diện và sâu sắc tinh thần
Hiến pháp năm 2013…; ghi nhận các nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa, suy đoán vô
tội và tranh tụng trong xét xử được bảo đảm”... góp phần bảo vệ công lý, bảo vệ quyền
con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước,
quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân [3; tr.179-180].
21


×