Tải bản đầy đủ (.docx) (73 trang)

THỰC TRẠNG và một số yếu tố LIÊN QUAN đến HÀNH VI NGUY cơ lây NHIỄM HIV của NHÓM NGƯỜI MÔNG HUYỆN mù CANG CHẢI, TỈNH yên bái, năm 2017

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (461.02 KB, 73 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ Y TẾ

TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y HÀ NỘI

LÊ THỊ THU TRANG

THỰC TRẠNG VÀ MỘT SỐ YẾU TỐ
LIÊN QUAN ĐẾN HÀNH VI NGUY CƠ LÂY NHIỄM HIV
CỦA NHÓM NGƯỜI MÔNG HUYỆN MÙ CANG CHẢI,
TỈNH YÊN BÁI, NĂM 2017

ĐỀ CƯƠNG LUẬN VĂN THẠC SĨ Y HỌC

HÀ NỘI – 2017


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ Y TẾ

TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y HÀ NỘI

LÊ THỊ THU TRANG

THỰC TRẠNG VÀ MỘT SỐ YẾU TỐ
LIÊN QUAN ĐẾN HÀNH VI NGUY CƠ LÂY NHIỄM HIV
CỦA NHÓM NGƯỜI MÔNG HUYỆN MÙ CANG CHẢI,
TỈNH YÊN BÁI, NĂM 2017
Chuyên ngành: Dịch tễ học


Mã số: 60720117
ĐỀ CƯƠNG LUẬN VĂN THẠC SĨ Y HỌC
Người hướng dẫn khoa học:
PGS.TS. Nguyễn Minh Sơn

HÀ NỘI – 2017


DANH MỤC CHỮ CÁI VIẾT TẮT
AIDS

Hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải
(Acquired Immune Deficiency Syndrome)

BCS

Bao cao su

DTTS

Dân tộc thiểu số

HIV

Virus gây suy giảm miễn dịch ở người
(Human Immuno Deficiency Virus)

MSM

Nhóm quan hệ tình dục đồng giới tính


NCMT

Nghiện chích ma túy

PNBD

Phụ nữ bán dâm

QHTD

Quan hệ tình dục

STDs

Bệnh lây truyền qua đường tình dục
(Sexually Transmitted Disease)

UNAIDS

Chương trình Phối hợp của Liên Hợp Quốc về HIV/AIDS
(The Joint United Nations On HIV/AIDS)

WHO

Tổ chức Y tế Thế Giới (World Health Organization)


MỤC LỤC


ĐẶT VẤN ĐỀ

1

Chương 1: TỔNG QUAN TÀI LIỆU3

1.1. Các khái niệm cơ bản.............................................................................3
1.1.1. HIV/AIDS........................................................................................3
1.1.2. Dân tộc thiểu số..............................................................................3
1.2. Tình hình dịch HIV/AIDS......................................................................4
1.2.1. Tình hình dịch HIV/AIDS trên thế giới...........................................4
1.2.2. Tình hình dịch HIV/AIDS ở Việt Nam và ở nhóm DTTS...............6
1.2.3. Tình hình dịch HIV/AIDS tại địa bàn nghiên cứu...........................9
1.3. Các yếu tố nguy cơ nhiễm HIV/AIDS đối với DTTS..........................10
1.3.1. Yếu tố sinh học..............................................................................10
1.3.2. Yếu tố hành vi................................................................................11
1.3.3. Yếu tố dân tộc học.........................................................................13
1.3.4. Yếu tố văn hoá, kinh tế, xã hội......................................................13
1.4. Một số nghiên cứu về kiến thức, thái độ và hành vi nguy cơ lây nhiễm
HIV/AIDS....................................................................................................13
1.4.1. Kiến thức, thái độ và hành vi nguy cơ lây nhiễm HIV của dân tộc Kinh. .13
1.4.2. Kiến thức, thái độ và hành vi nguy cơ lây nhiễm HIV của DTTS 14
1.5. Đặc điểm văn hóa – xã hội của người Mông huyện Mù Cang Chải....18
Chương 2: ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 21

2.1. Đối tượng nghiên cứu...........................................................................21
2.2. Địa điểm nghiên cứu:...........................................................................21
2.3. Thời gian nghiên cứu............................................................................22
2.4. Phương pháp nghiên cứu......................................................................22
2.4.1. Thiết kế nghiên cứu.......................................................................22



2.4.2. Cỡ mẫu và cách chọn mẫu.............................................................22
2.4.3. Biến số và chỉ số nghiên cứu.........................................................24
2.5. Phương pháp và công cụ thu thập số liệu.............................................31
2.5.1. Thu thập số liệu định lượng...........................................................31
2.5.2. Thu thập số liệu định tính..............................................................32
2.6. Quản lý và phân tích số liệu.................................................................32
2.7. Sai số và cách khắc phục......................................................................33
2.8. Đạo đức nghiên cứu..............................................................................33
2.9. Hạn chế của đề tài.................................................................................34
Chương 3: DỰ KIẾN KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU

35

3.1. Thông tin chung về đối tượng nghiên cứu............................................35
3.1.1. Đặc điểm nhân khẩu – xã hội học.................................................35
3.1.2. Thực trạng kiến thức, thái độ, thực hành phòng chống lây nhiễm
HIV/AIDS................................................................................................37
3.2. Mô tả một số hành vi nguy cơ lây nhiễm HIV/AIDS...........................40
3.2.1. Hành vi sử dụng ma túy.................................................................40
3.2.2 Hành vi quan hệ tình dục................................................................41
3.3. Phân tích một số yếu tố liên quan đến hành vi nguy cơ lây nhiễm
HIV/AIDS của người Mông........................................................................44
Chương 4: DỰ KIẾN BÀN LUẬN 46
DỰ KIẾN KẾT LUẬN

47

DỰ KIẾN KHUYẾN NGHỊ 47

TÀI LIỆU THAM KHẢO

PHỤ LỤC


DANH MỤC BẢNG

Bảng 3.1.

Đặc trưng nhân khẩu - xã hội học của đối tượng nghiên cứu.....35

Bảng 3.2.

Kiến thức về HIV/AIDS của người Mông..................................37

Bảng 3.3.

Thái độ đối với người nhiễm HIV của người Mông...................38

Bảng 3.4.

Nhận được các thông tin tuyên truyền phòng chống HIV/AIDS 38

Bảng 3.5.

Nhận được các hỗ trợ từ chương trình phòng chống HIV/AIDS 39

Bảng 3.6.

Các tình huống trong lần xét nghiệm HIV gần đây nhất.............40


Bảng 3.7.

Hành vi sử dụng ma tuý của người Mông...................................40

Bảng 3.8.

Hành vi QHTD của người Mông.................................................41

Bảng 3.9.

Sử dụng BCS khi QHTD với vợ/chồng hoặc bạn tình đang chung
sống trong 12 tháng qua..............................................................41

Bảng 3.10. Sử dụng BCS khi QHTD với bạn tình bất chợt không trả tiền
trong 12 tháng qua.......................................................................42
Bảng 3.11. Sử dụng BCS khi QHTD với bạn tình ngoài hôn nhân không
chung sống trong 12 tháng qua...................................................42
Bảng 3.12. Sử dụng BCS khi QHTD với gái mại dâm/ khách làng chơi trong
12 tháng qua................................................................................43
Bảng 3.13. Hành vi sử dụng ma túy và một số yếu tố liên quan...................44
Bảng 3.14. Hành vi thường xuyên sử dụng BCS trong 12 tháng qua và một
số yếu tố liên quan.......................................................................45



DANH MỤC BIỂU ĐỒ

Biểu đồ 3.1 Sử dụng ngôn ngữ tiếng Việt của đồng bào dân tộc Mông.......36
Biểu đồ 3.2. Tiếp cận với các kênh thông tin đại chúng của người Mông....36

Biểu đồ 3.3. Được nghe nói về HIV/AIDS của người Mông........................37
Biểu đồ 3.4. Tỷ lệ đối tượng nghiên cứu từng đi xét nghiệm HIV và biết nơi
xét nghiệm HIV.........................................................................39


1

ĐẶT VẤN ĐỀ
Mới xuất hiện ở Việt Nam trong vòng hơn 20 năm nhưng dịch HIV đã
gia tăng một cách nhanh chóng cả về số lượng người nhiễm cũng như độ bao
phủ trên cả nước. Trong 6 tháng đầu năm 2016 cả nước đã phát hiện mới
3.684 người nhiễm HIV, chuyển sang giai đoạn AIDS 2.366 người, số tử vong
là 862 người. Lũy tích số người nhiễm HIV hiện đang còn sống là 227.225
người trong đó có 85.753 người giai đoạn AIDS [1].
Không giống với những năm trước đây tập trung chủ yếu ở các khu vực
thành thị và đô thị lớn, hiện nay đại dịch đã có mặt gần như mọi vùng miền
đất nước kể cả những khu vực khó khăn, vùng núi cao, vùng sâu vùng xa.
Theo báo cáo của 49 tỉnh, thành phố có nhiều đồng bào dân tộc thiểu số, cho
đến thời điểm cuối năm 2012 có khoảng 15.910 người dân tộc thiểu số nhiễm
HIV/AIDS còn sống, trong đó 12.040 người ở giai đoạn AIDS [2]. Như vậy,
HIV/AIDS đã len lỏi đến hầu hết vùng đồng bào dân tộc thiểu số trên cả
nước. Phần lớn khu vực dân tộc thiểu số sinh sống tiềm tàng nhiều nguy cơ
lây lan dịch HIV/AIDS như trồng và sử dụng cây thuốc phiện, buôn bán và
vận chuyển ma túy, lạm dụng chất ma túy, mại dâm qua biên giới [3].
Yên Bái là một tỉnh miền núi nằm ở cửa ngõ phía Tây Bắc và là một
trong 10 tỉnh thành trên cả nước có số ca phát hiện mới nhiễm HIV/AIDS
(281) và tỷ lệ mắc HIV/100.000 dân năm 2015 (493/100.000) cao nhất [4].
Kể từ trường hợp nhiễm HIV đầu tiên năm 1997, đến nay dịch HIV/AIDS đã
có mặt ở 9/9 huyện, thị xã, thành phố, 160/180 xã phường của tỉnh, số phát
hiện nhiễm mới HIV trong năm 2016 là 206 người, lũy tích số người nhiễm

HIV được phát hiện toàn tỉnh là 5.554 người, trong đó 2.403 người chuyển
sang giai đoạn AIDS, tỷ lệ hiện nhiễm là 0,509% [5]. Là một huyện vùng cao
của tỉnh, thuộc 1 trong 62 huyện nghèo trên cả nước với trên 90% dân số là
người Mông, mặc dù không phải là địa bàn trọng điểm của nhiễm HIV/AIDS
nhưng tính đến năm 2016, lũy tích toàn huyện Mù Cang Chải đã có 109


2

trường hợp nhiễm HIV tại 10/14 xã, hiện còn sống là 93 người trong đó trên
50% là người dân tộc Mông nhiễm HIV/AIDS, phát hiện nhiễm mới HIV
trong năm 2016 là 7 trường hợp. Đây cũng là huyện có hành vi sử dụng ma
túy chiếm tỷ lệ cao, hai trong tổng số 9 cơ sở điều trị Methadone của tỉnh
được đặt tại huyện Mù Cang Chải, điều trị cho 152 người, trong đó có 3 người
nhiễm HIV/AIDS [5]. Với đặc thù là một huyện vùng cao nên thực hiện công
tác phòng, chống HIV/AIDS còn gặp không ít khó khăn.
Sau một thời gian dài các hoạt động phòng chống HIV/AIDS cũng như
các nghiên cứu trong lĩnh vực này tập trung chủ yếu vào các nhóm nguy cơ
cao tại các địa bàn trọng điểm về HIV/AIDS, hiện nay các hoạt động phòng
chống lây nhiễm HIV/AIDS trong nhóm dân tộc thiểu số được xác định là
một trong những ưu tiên hàng đầu trong công tác phòng chống HIV/AIDS tại
Việt Nam. Cho đến nay mới chỉ có ít những số liệu về hành vi nguy cơ lây
nhiễm HIV cũng như kiến thức, thái độ và thực hành dự phòng lây nhiễm
HIV ở dân tộc thiểu số được báo cáo, đặc biệt chưa có nghiên cứu nào ở
nhóm đồng bào dân tộc Mông trên địa bàn tỉnh Yên Bái.
Với các lý do trên, để tìm hiểu các hành vi nguy cơ lây nhiễm HIV của người
dân tộc Mông? Những yếu tố nào khiến họ có thể có nguy cơ lây nhiễm HIV?
Kiến thức về HIV/AIDS của đồng bào dân tộc Mông như thế nào? Người dân ở
đây có quan tâm, có ý thức và thực hành đúng trong phòng, chống HIV không ?
Vì vậy, chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: “Thực trạng và một số

yếu tố liên quan đến hành vi nguy cơ lây nhiễm HIV của nhóm người Mông
huyện Mù Cang Chải, tỉnh Yên Bái, năm 2017” với 2 mục tiêu như sau:
1. Mô tả một số hành vi nguy cơ lây nhiễm HIV/AIDS của nhóm người
Mông tại huyện Mù Cang Chải, tỉnh Yên Bái, năm 2017.
2. Phân tích một số yếu tố liên quan đến hành vi nguy cơ lây nhiễm
HIV/AIDS của nhóm người Mông tại huyện Mù Cang Chải, tỉnh
Yên Bái, năm 2017.


3

Chương 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Các khái niệm cơ bản
1.1.1. HIV/AIDS
Năm 1981, bệnh nhân AIDS đầu tiên được mô tả ở California Hoa Kỳ.
Năm 1986, Hội nghị định danh quốc tế mới đặt tên cho tác nhân gây bệnh là
virus HIVđược viết tắt của cụm từ “Humman immunodeficeny Virus” là vi rút
gây suy giảm miễn dịch ở người [6].
AIDS là viết tắt của cụm từ “Acquired Immuno Deficiency Syndrome”
có nghĩa là hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải. Khái niệm này dùng để
chỉ giai đoạn cuối cùng của quá trình nhiễm HIV được thể hiện bởi các bệnh
nhiễm trùng cơ hội, ung thư và các bệnh liên quan đến rối loạn miễn dịch dẫn
đến tử vong. Thời gian từ khi nhiễm HIV đến biến chuyển thành bệnh AIDS
tùy thuộc vào hành vi và đáp ứng miễn dịch của từng người nhưng tựu chung
lại trong khoảng thời gian trung bình là 5 năm [6], [7].
1.1.2. Dân tộc thiểu số
Dân tộc thiểu số (DTTS) là những dân tộc có số dân ít hơn so với dân
tộc đa số trên phạm vi lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Vùng dân tộc thiểu số là địa bàn có đông các DTTS cùng sinh sống ổn định

thành cộng đồng trên lãnh thổ đất nước [8]. Tính đến năm 2009, Việt Nam
hiện có 54 dân tộc trong đó dân tộc Kinh chiếm tỷ lệ đông nhất (85,7%). Như
vậy, các nhóm DTTS chỉ chiếm 14,3% dân số cả nước và các nhóm DTTS
đông dân nhất bao gồm Tày, Thái, Mường, Khmer và Mông. Các nhóm DTTS
này sống tập trung ở miền núi, vùng sâu, vùng xa tại các khu vực miền núi
phía Bắc, Tây Nguyên và đồng bằng sông Mê Kông [9].
Các nhóm DTTS tại Việt Nam hiện vẫn đang phải đối mặt với những
vấn đề khó khăn trong kinh tế, giáo dục và y tế. Theo kết quả Tổng điều tra hộ


4

nghèo năm 2011, người nghèo tập trung phần lớn ở khu vực nông thôn với
khoảng 90% chủ yếu tại một số tỉnh miền núi phía Bắc, Tây Nguyên, miền
núi Duyên hải miền Trung, Tây Nam Bộ và người DTTS chiếm gần 50% số
người nghèo trong cả nước [10]. Về giáo dục, tỷ lệ tốt nghiệp phổ thông trung
học trong các DTTS, đặc biệt là các em gái còn thấp. Theo thống kê năm
2010, số người không biết đọc, biết viết chiếm 19% của cả nước và chiếm
39% trong nhóm các DTTS. Về y tế, tỷ lệ suy dinh dưỡng vẫn ở mức cao, đặc
biệt là suy dinh dưỡng trẻ em với 32% số trẻ em không đủ cân nặng cần thiết.
Các nhóm DTTS không những phải đối mặt với một số căn bệnh thường gặp
mà còn cả những căn bệnh nghiêm trọng như HIV/AIDS [10], [11].
1.2. Tình hình dịch HIV/AIDS
1.2.1. Tình hình dịch HIV/AIDS trên thế giới
Trải qua hơn 30 năm đối phó với đại dịch có quy mô và diễn biến phức
tạp, với những nỗ lực huy động cộng đồng cùng tiến bộ của khoa học kỹ
thuật, song cho đến nay HIV/AIDS vẫn đang tiếp tục là một đại dịch nguy
hiểm và chưa đủ sức đẩy lùi. Điều đáng ghi nhận trong các chương trình
phòng chống, ứng phó với đại dịch HIV/AIDS, đó là giảm số người nhiễm
HIV mới, gia tăng tỷ lệ những người nhiễm HIV được tiếp cận điều trị ARV,

giảm tỷ lệ tử vong do AIDS, kéo dài và nâng cao chất lượng cuộc sống.
Theo báo cáo của UNAIDS, tính đến cuối năm 2015, có khoảng 2,1
(1,8 – 2,4) triệu người nhiễm mới HIV trên toàn cầu trong đó 47% là nữ giới.
Số người nhiễm HIV/AIDS hiện đang còn sống trên thế giới là 36,7 triệu
người (34 – 39,8 triệu người), trong đó có khoảng 17 triệu người đang được
nhận liệu pháp điều trị thuốc kháng virus – ARV, phủ sóng toàn cầu đạt 46%
(43-50%) [12]. Số người được tiếp cận với các thuốc ARV đều tăng hàng năm
vì vậy số trường hợp tử vong do các nguyên nhân liên quan đến HIV/AIDS
cũng đã giảm đáng kể, từ 1,5 triệu người năm 2010 xuống 1,1, triệu người vào


5

năm 2015 [13], [14]. Theo ước tính của WHO, việc mở rộng điều trị ARV đến
tất cả những người sống chung với HIV sẽ ngăn chặn 21 triệu ca tử vong liên
quan đến AIDS vào năm 2030 [15].
Châu Phi là châu lục chịu tác động nặng nề nhất của đại dịch HIV/AIDS,
với số người nhiễm mới, số người hiện đang sống với HIV và số người tử
vong do HIV/AIDS cao nhất trên thế giới. Năm 2015, khu vực Đông và Nam
Châu Phi có khoảng 19 triệu người đang chung sống với HIV, trong đó số
nhiễm HIV mới là 960.000 người, khu vực phía Tây và Trung phi với khoảng
6,5 triệu người đang chung sống với HIV và 410.000 người nhiễm HIV mới.
Kế tiếp là khu vực châu Á – Thái Bình Dương với 5,1 (4,4 - 5,9) triệu người
hiện đang chung sống với HIV/AIDS [13]. Sáu quốc gia Trung Quốc, Ấn Độ,
Indonesia, Myanmar, Thái Lan và Việt Nam chiếm hơn 90% số người sống
chung với HIV trong khu vực [16].
Trẻ em, phụ nữ trẻ tuổi và bạn tình của nhóm nguy cơ cao được coi là
đối tượng dễ bị tổn thương trong lây nhiễm HIV. Năm 2015, ước tính trong số
khoảng 5700 người nhiễm HIV mới mỗi ngày thì có tới 66% số người ở tiểu
vùng Sahara - châu Phi và khoảng 400 người là trẻ em dưới 15 tuổi. Số trẻ em

dưới 15 tuổi hiện đang sống chung với HIV trên thế giới là 1,8 (1,5 -2,0) triệu
trẻ [14]. Đa số là lây truyền HIV từ mẹ khi mang thai, khi sinh và khi cho con
bú. Tuy nhiên, tín hiệu khả quan là số trẻ em nhiễm mới HIV trong năm 2015
đã giảm 51% kể từ năm 2010. Ngoài ra, số lượng trẻ em đang điều trị kháng
virus trên toàn cầu đã tăng gấp đôi và số các ca tử vong liên quan đến
HIV/AIDS ở trẻ em cũng đã giảm 44% trong 5 năm qua [17].
Những phụ nữ trẻ tuổi từ 15-24 tuổi có nguy cơ đặc biệt cao lây nhiễm
HIV, chiếm 20% số ca nhiễm HIV mới ở người trưởng thành trên toàn cầu
trong năm 2015, mặc dù chỉ chiếm 11% dân số trưởng thành. Trong tiểu vùng
Sahara - châu Phi, phụ nữ trẻ chiếm 25% các ca nhiễm HIV mới ở người


6

trưởng thành và phụ nữ chiếm 56% số ca nhiễm HIV mới ở người trưởng
thành. Hàng triệu người hầu như không biết hoặc biết rất ít kiến thức về
HIV/AIDS để tự bảo vệ mình. Vấn đề bất bình đẳng giới, bao gồm cả bạo lực
giới càng làm trầm trọng thêm tính dễ bị tổn thương của phụ nữ và trẻ em gái
đến việc tiếp cận các chương trình phòng chống lây truyền HIV/AIDS. Tác
động của những rào cản này là mạnh nhất ở những nơi có tỷ lệ nhiễm cao, chủ
yếu ở phía Đông và Nam Phi [12].
DTTS là một trong các nhóm dễ bị tổn thương nhất trong các nhóm
quần thể. Tại Trung Quốc, HIV/AIDS bắt đầu có tỷ lệ nhiễm HIV đáng báo
động ở tỉnh miền núi Vân Nam với số lượng lớn các ca nhiễm mới. Đặc biệt,
các nhóm DTTS sống ở khu vực biên giới có nguy cơ cao tiếp xúc dễ dàng
với sự sẵn có của ma túy. Tính đến tháng 9 năm 2006, tỉnh Vân Nam có
47.314 người sống chung với HIV/AIDS. Con số này chiếm gần 25% tổng số
quốc gia. Tổng cộng có 7.973 ca nhiễm HIV được báo cáo từ 1988 đến 2000
ở Vân Nam chiếm 50% tổng số báo cáo nhiễm HIV ở Trung Quốc [18], [19].
Dịch tễ học HIV/AIDS tại Thái Lan đã được bổ sung một phần quan

trọng là hình ảnh chi tiết tỷ lệ nhiễm HIV trong các nhóm DTTS. Khoảng 1
triệu người tại Thái Lan đã bị nhiễm kể từ khi đại dịch được phát hiện đầu
tiên vào cuối những năm 1980 và gần 300.000 người đã chết vì AIDS. Trong
số này, các tỉnh miền núi phía Bắc đã bị ảnh hưởng nặng nề nhất với tỷ lệ tử
vong cao đáng kể. Theo số liệu của một cuộc giám sát dịch tễ học được tiến
hành bởi Trung tâm Điều trị Ma túy khu vực phía Bắc vào năm 1994 cho thấy
rằng 52% người sử dụng ma túy khu vực miền núi bị nhiễm HIV [18], [19].
1.2.2. Tình hình dịch HIV/AIDS ở Việt Nam và ở nhóm DTTS
Tại Việt Nam, kể từ ca nhiễm HIV đầu tiên vào tháng 12/1990 tại thành
phố Hồ Chí Minh, sau hơn 20 năm, đến nay dịch HIV/AIDS đã gia tăng
nhanh chóng cả về số lượng người nhiễm cũng như độ bao phủ trên cả nước.


7

Theo số liệu thống kê của Bộ Y tế, dịch HIV/AIDS đã xảy ra ở tất cả tỉnh,
thành phố với 99,8% số quận/huyện và trên 80,3% số xã/phường. Trong 6
tháng đầu năm 2016 cả nước đã phát hiện mới 3.684 người nhiễm HIV,
chuyển sang giai đoạn AIDS 2.366 người, số tử vong là 862 người. Hiện cả
nước báo cáo có 227.225 người đang nhiễm HIV, 85.753 người giai đoạn
AIDS và đã có 89.210 người nhiễm HIV đã tử vong. Trong số những người
nhiễm HIV đang báo cáo, chỉ có khoảng 80- 85% số trường hợp quản lý và
theo dõi được [1].
Theo báo cáo công tác phòng chống HIV/AIDS năm 2015, tỷ lệ người
hiện mắc HIV/100.000 dân của cả nước là 250 người. Tỉnh Điện Biên vẫn là
địa phương có tỷ lệ hiện mắc HIV trên 100.000 dân cao nhất cả nước là 821
người, tiếp đến là Sơn La (668), đứng thứ 3 là thành phố Hồ Chí Minh (621)
[4]. Trong 5 năm 2010-2015 tiếp tục ghi nhận số người nhiễm HIV/AIDS và
tử vong hàng năm giảm, số người nhiễm HIV do lây truyền qua tiêm chích ma
túy giảm mạnh, số người lây nhiễm qua đường tình dục có giảm nhưng tốc độ

còn chậm.
Một điểm rất đáng quan tâm trong tình hình dịch HIV/AIDS ở Việt Nam
đó là sự phân bố người nhiễm HIV theo giới đang có chiều hướng thay đổi: Gia
tăng số người nhiễm HIV là phụ nữ và giảm số người nhiễm là nam giới. Trong
số những người được báo cáo xét nghiệm mới phát hiện nhiễm HIV trong năm
2015, nữ chiếm 34,1%, nam chiếm 65,9%. Nhiễm HIV gia tăng trong nhóm nữ
có liên quan đến sự thay đổi về “đường lây” HIV ở nước ta. Phân tích số người
nhiễm HIV được phát hiện và được báo cáo năm 2015 cho thấy lây truyền qua
đường tình dục chiếm 50,8%, lây truyền qua đường máu chiếm 36,1%, mẹ
truyền sang con chiếm 2,8%, không rõ chiếm 10,4% [4].
Những người nhiễm HIV mới trong giai đoạn hiện nay không còn tập
trung trong nhóm hành vi nguy cơ cao như trước đây, hiện nay lây nhiễm HIV


8

xảy ra cho nhóm những người dễ bị tổn thương như vợ, bạn tình của người
nhiễm HIV, cụ thể hơn là vợ, bạn tình của người nghiện chích ma túy
(NCMT). Ngoài ta, yếu tố nguy cơ mới làm lây truyền HIV trong sử dụng ma
túy tổng hợp ở giới trẻ và phụ nữ bán dâm (PNBD), dẫn đến tăng nguy cơ
quan hệ tình dục tập thể không được bảo vệ, và mại dâm nam, gồm nam bán
dâm cho nam đồng tính, người chuyển giới nữ [1], [4].
Không chỉ tập trung chủ yếu ở khu vực thành thị và đô thị lớn, hiện nay
đại dịch HIV/AIDS đã có mặt kể cả những khu vực khó khăn, các thôn bản
vùng núi cao, vùng sâu vùng xa. Phần lớn các tỉnh có số lượng người nhiễm
HIV cao tập trung ở khu vực miền núi phía Bắc và biên giới Việt Lào, là nơi
có nhiều đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống, lại có nhiều nguy cơ tiềm tàng
làm lây lan HIV/AIDS như trồng và sử dụng cây thuốc phiện, buôn bán vận
chuyển chất ma tuý, lạm dụng chất ma tuý. Tình hình tiêm chích ma tuý trong
nhóm đồng bào DTTS nhất là vùng biên giới đang gia tăng. Những vấn đề

của phụ nữ DTTS bao gồm gánh vác các công việc nặng nhọc, ít có quyền
quyết định liên quan đến vấn đề sinh sản và ít có cơ hội học tập, nâng cao
kiến thức. Một số phụ nữ DTTS đi tới các vùng khác, đô thị hành nghề mại
dâm [20]. Trong số 10 tỉnh có tỷ lệ nhiễm HIV cao nhất tính trên 100.000 dân
năm 2015 đã có 5 tỉnh thuộc miền núi phía Bắc nơi có đông đồng bào dân tộc
sinh sống [4]. Dự án “Phòng chống HIV/AIDS ở Việt Nam” tại một số tỉnh
miền núi phía Bắc (Sơn La và Lai Châu), có trên 75% là người DTTS trong
tổng số mẫu điều tra, kết quả HIV dương tính 40,6% ở nhóm NCMT và 4,5%
ở nhóm PNBD [20]. Vì vậy, nhiễm HIV/AIDS trong nhóm DTTS đang là vấn
đề y tế công cộng cần được quan tâm ở nước ta.
Theo báo cáo của 49 tỉnh, thành phố có đông đồng bào dân tộc thiểu số,
tính đến cuối năm 2012 có khoảng 15.910 người dân tộc thiểu số nhiễm
HIV/AIDS còn sống, trong số đó có 12.040 người là bệnh nhân AIDS. Một số


9

dân tộc có tỷ lệ nhiễm HIV cao hơn trung bình tỷ lệ nhiễm HIV trong quần
thể chung của cả nước nhiều lần. Khơ Mú (Thanh Hóa) tỷ lệ nhiễm HIV là
5,3%, Thái (Lai Châu) 1,2%, Tày (Cao Bằng) 1,0%...[2], [21].
Nguy cơ lây nhiễm HIV trong đồng bào dân tộc thiểu số khá đa dạng,
do hạn chế trong hiểu biết, các hành vi và lối sống, nhất là hành vi sử dụng
ma túy và quan hệ tình dục không an toàn khá phổ biến. Người dân tộc sinh
sống thường là vùng sâu, vùng xa khó tiếp cận với các dịch vụ dự phòng [21].
Hiện nay, quan hệ tình dục không an toàn đang trở thành đường lây truyền
HIV chủ yếu với đồng bào dân tộc thiểu số phía Bắc và Bắc Trung Bộ
1.2.3. Tình hình dịch HIV/AIDS tại địa bàn nghiên cứu
Yên Bái là một trong 10 tỉnh có số ca nhiễm HIV/AIDS phát hiện mới
trong năm 2015 cao nhất cả nước với 281 trường hợp [4]. Theo số liệu báo
cáo giám sát tính đến 14/12/2016 lũy tích số trường hợp nhiễm HIV được

phát hiện trên địa bàn tỉnh Yên Bái là 5.554 người, trong đó có: 206 người
phát hiện nhiễm mới, 2.403 người chuyển sang giai đoạn AIDS, 1.473 trường
hợp người nhiễm HIV/AIDS đã tử vong và hiện đang còn sống là 4.081
người. Tỷ lệ hiện nhiễm HIV toàn tỉnh còn ở mức cao là 0,50% [5].
Dịch HIV đã có ở 9/9 huyện thị, thành phố; 160/180 xã, phường (chiếm
88,8%). Trong năm 2016, đường lây truyền HIV chủ yếu trên địa bàn toàn
tỉnh là qua đường máu 39,13% và đường tình dục 21,74%, ngoài ra từ mẹ
sang con chiếm 2,17% và không rõ đường lây chiếm 36,96%. Dịch vẫn tập
trung ở nhóm có hành vi nguy cơ cao. Đối tượng nhiễm chiếm tỷ lệ cao nhất
là nhóm nghiện chích ma túy 40,28% (tăng 4,18% so năm 2015); người có
quan hệ tình dục khác giới 20,37% (giảm 3,1% so với năm 2015); Tù nhân
9,26% (tăng 0,6% so với năm 2015); phụ nữ mang thai 2,78% (giảm 6,61%
so với năm 2015); Mẹ truyền sang con 0,46% (tăng 0,46% so với năm 2015),
còn lại các đối tượng khác: 26,85% [5].


10

Trong số bệnh nhân HIV nhiễm mới nam giới chiếm 69,57%, nữ giới
chiếm 30,43%. Người nhiễm HIV được phát hiện là phụ nữ có xu hướng tăng
lên. Người nhiễm HIV có ở tất cả các thành phần xã hội (nông dân, trí thức,
học sinh, sinh viên, lao động tự do...). Thành phố Yên Bái, huyện Văn Chấn,
Yên Bình; Trấn Yên và thị xã Nghĩa Lộ là những địa phương có số người
nhiễm HIV/AIDS hiện còn sống cao trong tỉnh.
Mù Cang Chải là một huyện vùng cao phía Tây của tỉnh, với trên 90%
dân số là người Mông. Với đặc thù là huyện vùng núi cao nên công tác phòng,
chống HIV trên địa bàn huyện còn gặp không ít khó khăn. Mặc dù cũng
không phải là địa bàn trọng điểm của nhiễm HIV/AIDS nhưng tính đến năm
2016, toàn huyện Mù Cang Chải lũy tích 109 trường hợp nhiễm HIV tại 10/14
xã, trong đó có 7 người phát hiện nhiễm mới, 36 người chuyển sang giai đoạn

AIDS, 16 người tử vong. Trong số 93 người hiện đang còn sống, trên 50%
(47/93 người) nhiễm HIV/AIDS là người dân tộc Mông tập trung ở các xã
như Lao Chải (16/16 người), xã Kim Nọi (7/7 người), xã Nậm Có (6/12
người), xã Mồ Dề (6/6 người) và xã Nậm Khắt (5/5 người). Người Kinh, Thái
nhiễm HIV tập trung chủ yếu ở thị trấn Mù Cang Chải, xã Nậm có, xã Púng
Luông và xã Chế Cu Nha [5]. Các hoạt động phòng chống lây nhiễm
HIV/AIDS trong nhóm DTTS tại các huyện miền núi được xác định là một
trong những ưu tiên hàng đầu trong công tác phòng chống HIV/AIDS tại Việt
Nam nói chung và tại Yên Bái nói riêng.
1.3. Các yếu tố nguy cơ nhiễm HIV/AIDS đối với DTTS
1.3.1. Yếu tố sinh học
Người mắc các bệnh lây truyền qua đường tình dục có khả năng bị
nhiễm HIV cao hơn người bình thường 2 – 9 lần. Mắc các bệnh phụ khoa
khiến cho phụ nữ DTTS dễ bị tổn thương hơn đối với lây nhiễm HIV/AIDS.
Tỷ lệ phụ nữ thông báo mắc các bệnh phụ khoa khá cao (70-80%) ở nông


11

thôn và các vùng DTTS. Số lần khám phụ khoa trung bình trong cả nước tại
các cơ sở y tế là cao 80%. Tuy nhiên, tỷ lệ này ở phụ nữ DTTS tại khu vực
miền núi thấp hơn nhiều so với ở phụ nữ người Kinh. Phần lớn phụ nữnghèo
nói rằng họ chưa bao giờ đi khám phụ khoa [22], [23], [24], [25].
Hẹp bao quy đầu cũng dẫn đến dễ bị các bệnh lây truyền qua đường tình
dục gây loét vì vậy nguy cơ nhiễm HIV và lây bệnh cho người khác cao hơn.
Ngoài ra, giai đoạn nhiễm HIV cũng ảnh hưởng lớn tới khả năng lây truyền:
Nguy cơ lây nhiễm rất cao ngay sau khi bị nhiễm HIV (giai đoạn cửa sổ) và giai
đoạn AIDS (có khoảng 3.000 vi-rút/1 ml máu), ở giai đoạn nhiễm HIV không
triệu chứng, số lượng HIV chỉ khoảng 20 – 40 vi-rút/1 ml máu [26].
1.3.2. Yếu tố hành vi

Hành vi sử dụng ma túy:
Theo số liệu báo cáo về tình trạng NCMT tại gần 150 quốc gia trên thế
giới thì có 120 quốc gia trong số đó có báo cáo về mối liên quan đến HIV, ước
tính trên thế giới hiện nay có khoảng 16 triệu người NCMT nhiễm HIV [27].
Nghiện chích ma túy là con đường lây lan HIVchính ở nhiều nước khu vực
châu Á, Trung Đông và Đông Âu [28]. Việt Nam cũng nằm trong số các nước
này, chính vì thế kiểm soát đại dịch HIV/AIDS ở nước ta phụ thuộc rất nhiều
vào việc kiểm soát HIV trong nhóm này. Tại Việt Nam, kết quả giám sát trọng
điểm năm 2015 cho thấy tỷ lệ nhiễm HIV trong nhóm nghiện chích ma túy là
9,3%, phụ nữ bán dâm 2,7% và MSM là 5,2% [4].
Một số DTTS ở các tỉnh phía Bắc có lịch sử lâu đời về việc trồng cây
thuốc phiện. Người Mông và người Dao đã từng là những dân tộc duy nhất ở
khu vực Đông Dương đã từng được phép trồng thuốc phiện cho tiêu dùng
trong nước do đó thuốc phiện xâm nhập vào cuộc sống kinh tế và xã hội của 2
nhóm DTTS trên. Tuy nhiên, do sự gia tăng sử dụng ma tuý bất hợp pháp
trong những năm nên Chính phủ đã triển khai một chiến dịch rộng lớn liên tục
cấm trồng cây thuốc phiện [22], [29].


12

Hành vi quan hệ tình dục
Vấn đề quan hệ tình dục (QHTD) trước hôn nhân của các nhóm thanh
thiếu niên DTTS là cao hơn hẳn nhóm dân tộc Kinh. Trong Điều tra quốc gia
về Vị thành niên và Thanh niên Việt Nam (SAVY) năm 2005, có 39,8% nam
thanh niên và 26,1% nữ thanh niên DTTS đã từng QHTD và tỷ lệ này ở nhóm
thanh thiếu niên dân tộc Kinh là 11,1% ở nam và 4% ở nữ. Lý do được giải
thích cho việc này là có thể do phong tục tập quán của một số DTTS coi việc
QHTD trước hôn nhân là hành vi bình thường. Tần suất QHTD trong một
tháng của thanh thiếu niên DTTS cũng cao hơn tần suất trung bình của các

nhóm khác là 7,3 ở nam và 6,1 ở nữ nhóm DTTS so với 5,0 tần suất trung
bình. Cũng trong điều tra này có 5,3% số thanh niên trong nhóm DTTS trả lời
đã có QHTD với PNBD và trong số đó tỷ lệ sử dụng BCS khi QHTD với
PNBD là 90% [18], [22], [30]. Điều này cho thấy việc không giáo dục đầy
đủvề hành vi an toàn tình dục thì nguy cơ lây nhiễm HIV trong nhóm thanh
thiếu niên DTTS.
Về hôn nhân, tập tục “chọc sàn” và “ngủ thăm” của người dù quy định
là họ không được ngủ chung giường nhưng tình trạng QHTD được coi là phổ
biến. Một tập tục khác của DTTS có ảnh hưởng tới sức khoẻ sinh sản của
cộng đồng là tập tục kết hôn sớm vẫn phổ biến. Nữ thanh niên DTTS thường
thôi học vào lớp 7, lớp 8 để chuẩn bị kết hôn. Tuổi kết hôn trung bình là từ
16-18 tuổi, đôi khi ít hơn. Sau khi đã lập gia đình thì ngoại tình thường vẫn
xảy ra kín đáo và tương đối phổ biến ở người Dao và Mông [22], [25], [31].
Các phong tục trong hôn nhân nêu trên của DTTS tiềm ẩn những nguy cơ về
sức khoẻ sinh sản của đặc biệt là dẫn tới hành vi QHTD không an toàn, nguy
cơ lây nhiễm HIV và các nhiễm trùng qua đường tình dục.
Về tình hình hoạt động mại dâm: có rất ít dữ liệu liên quan tới hoạt
động mại dâm và các nhóm DTTS. Tại khu du lịch miền núi phía Bắc, Sapa,


13

có hai nghiên cứu đã chỉra rằng, trẻ em gái dưới 16 tuổi đang tham gia công
việc mại dâm, phần lớn họ là người dân tộc Mông. Phụ nữ và trẻ em của các
nhóm DTTS đang sống tại các tỉnh biên giới là đối tượng cho việc buôn bán
qua biên giới [22].
1.3.3. Yếu tố dân tộc học
Tuổi trẻ (lứa tuổi có tỷ lệ nhiễm HIV cao là 15 - 45), những biến động
về phân bố dân số (do sự phát triển và đô thị hoá nhanh, gia tăng giải trí,
thương mại và du lịch, hệ thống xe tải đường dài ngày càng phát triển...) [26].

1.3.4. Yếu tố văn hoá, kinh tế, xã hội
Sự kém hiểu biết về HIV/AIDS, tác hại của ma tuý, an toàn tình dục;
các yếu tố về văn hoá - xã hội như trình độ học vấn, ngôn ngữ; các yếu tố về
kinh tế như nghèo đói, không đủ nguồn lực để đương đầu với bệnh tật, mặt
tiêu cực của kinh tế thị trường; yếu tố về chính trị như thái độ của xã hội, luật
pháp với các nhóm nguy cơ cao (người NCMT, PNBD, MSM...); thái độ đối
với giáo dục tình dục, với tình trạng của người phụ nữ trong xã hội, sự chấp
nhận của xã hội với phương pháp xét nghiệm HIV giấu tên và việc cho phép
cung cấp BCS, BKT, điều trị cai nghiện bằng các ma tuý thay thế [26], [32].
Đây là các rào cản cho hành vi chủ động tìm kiếm dịch vụ y tế trong các
nhóm DTTS. Họ có nhu cầu về y tế hơn nhưng thường ngại tìm đến các dịch
vụ y tế. Rất nhiều người đến các dịch vụ y tế quá muộn và hậu quả là bệnh
nặng và khó điều trị hơn, chi phí cao hơn [25], [33] .
1.4. Một số nghiên cứu về kiến thức, thái độ và hành vi nguy cơ lây nhiễm
HIV/AIDS
1.4.1. Kiến thức, thái độ và hành vi nguy cơ lây nhiễm HIV của dân tộc Kinh
Nghiên cứu đánh giá kiến thức, thái độ, hành vi về phòng, chống nhiễm
HIV/AIDS trên 1.040 người dân 15-49 tuổi tại Khánh Hòa cho thấy: 97,1%
đối tượng nghiên cứu người dân tộc Kinh đã từng nghe, biết về HIV/AIDS.


14

Người Kinh nhận được thông tin về HIV/AIDS qua tivi rất cao (chiếm
96,8%); 88,2% biết đúng cả 3 đường lây truyền HIV; 83,6% biết đúng 3 cách
phòng lây nhiễm HIV. Đa số có thái độ đúng khi vợ/chồng (73,3%) dùng BCS
trong QHTD; chỉ có 8,8% độc thân, chưa có gia đình nhưng đã có QHTD
trước hôn nhân và 28,6% chưa bao giờ sử dụng BCS khi QHTD [34].
Nghiên cứu của tác giả Hoàng Huy Phương tại huyện Hoa Lư và thành
phố Ninh Bình năm 2009, cũng cho thấy hầu hết các đối tượng nghiên cứu ở

cả thành thị và nông thôn đều có kiến thức tốt về các đường lây truyền của
HIV. Cụ thể: 99,59% người tham gia nghiên cứu cho biết HIV có lây qua
đường máu, 98,78% nói HIV có lây qua QHTD và 83,27% trả lời HIV có lây
truyền từ mẹ sang con. Phần lớn người tham gia phỏng vấn (khoảng 96%) đều
có nhận thức đúng khi phản đối các quan niệm sai lầm về đường không lây
truyền của HIV như: ăn uống chung và nằm giường chung không nhiễm HIV.
Tuy nhiên, sự kỳ thị và phân biệt đối xử của người dân với người nhiễm và
gia đình người nhiễm HIV/AIDS vẫn còn nặng nề. Khi được hỏi “Ai cũng bị
nhiễm HIV” thì có tới 60,05% người ở nông thôn và 24,49% người ở thành
thị cho rằng: chỉ những người mắc các tệ nạn xã hội mới nhiễm HIV, 18% và
10% lần lượt người dân ở thành phố và nông thôn cho rằng người nhiễm HIV
nên sống tại một nơi riêng biệt. Về hành vi QHTD, khoảng 67% người dân
thành phố đã từng có quan hệ tình dục ở thời điểm phỏng vấn, tỷ lệ này ở
nông thôn là 70%. Những người đã từng có QHTD và thường xuyên sử dụng
BCS trong các lần QHTD chỉ đạt 27,44% ở thành thị và 25,5% ở nông thôn.
Đặc biệt, không bao giờ sử dụng BCS lần lượt ở thành phố và nông thôn là
19,5% và 49,4%.
1.4.2. Kiến thức, thái độ và hành vi nguy cơ lây nhiễm HIV của DTTS
Điều tra đầu tiên tại Việt Nam năm 2006 trên nhiều nhóm đồng bào dân
tộc ít người 15 - 49 tuổi, tại 11 tỉnh về tỷ lệ nhiễm HIV, giang mai và các hành
vi nguy cơ gây nhiễm HIV/AIDS kết quả cho thấy:


15

+ Nhóm người dân tộc Mông chưa bao giờ đến trường rất cao (76,8%).
Tỷ lệ người dân không được tiếp cận với vô tuyến, đài và báo trong tuần cũng
chiếm cao nhất (33,4%). Trung vị tuổi quan hệ tình dục lần đầu cũng trẻ nhất
(17 tuổi). Thêm vào đó, tỷ lệ đồng bào Mông đã từng sử dụng ma tuý rất cao
(10,5%). Hầu như không có ai kể cả nam lẫn nữ có kiến thức đầy đủ về HIV.

Tỷ lệ nam giới cũng như nữ giới đồng bào Mông có thái độ tích cực với người
nhiễm HIV cũng thấp nhất trong các tỉnh điều tra (3,1% cho nhóm nam giới
và 1,8% cho nhóm nữ giới).
+ Tỷ lệ nam đồng bào dân tộc có quan hệ với bạn tình bất chợt trong 12
tháng qua của đồng bào Mông ở Lai Châu (21,1%) và đồng bào Dao ở Yên
Bái (7,1%) là cao nhất. Kết quả nghiên cứu định tính tại hai tỉnh này cho thấy
nhóm dân tộc Mông ở Lai Châu và dân tộc Dao ở Yên Bái có QHTD tương
đối tự do và thoải mái do quan niệm và lối sống đã có từ lâu. Các điều tra xã
hội học trong khuôn khổ nghiên cứu này cũng cho thấy hai nhóm đồng bào
dân tộc này sử dụng BCS không nhiều do BCS không sẵn có và chủ yếu là
giới trẻ mới biết và sử dụng.
+ Lai Châu có tỷ lệ sử dụng ma tuý trong nhóm quần thể dân cư 15 - 49
tuổi rất cao (10,5%). Thái Nguyên, Thanh Hoá và Yên Bái có tỷ lệ người dân
sử dụng ma tuý vào khoảng 2,0%. Điều tra xã hội học tại tỉnh Thanh Hoá cho
thấy địa bàn tiến hành can thiệp và điều tra là nơi có tình hình sử dụng và
buôn bán ma tuý rất phức tạp [33].
Kết quả nghiên cứu của tác giả Phan Thị Thu Hương về thực trạng kiến
thức, thái độ, hành vi và hiệu quả mô hình can thiệp phòng lây nhiễm HIV
trong nhóm dân tộc Thái 15-49 tại 2 huyện tỉnh Thanh Hóa năm 2007-2012
cho thấy tỷ lệ đối tượng có hiểu biết đúng về 4 nhóm kiến thức HIV/AIDS ở
mức thấp hoặc rất thấp, lần lượt là 29,6% cho nhóm kiến thức dự phòng lây
nhiễm, 36,2% cho nhóm phản đối quan niệm sai lầm về HIV, 11,2% cho


16

nhóm hiểu biết về các dịch vụ phòng chống HIV, 54,1% cho nhóm hiểu biết
đường lây truyền HIV từ mẹ sang con. Tỷ lệ đối tượng trả lời đúng theo 3
nhóm thái độ đối với người nhiễm HIV cũng ở mức khá thấp, lần lượt là
38,0% cho nhóm không kỳ thị sợ lây nhiễm, 34,1% cho nhóm không kỳ thị đổ

lỗi phán xét, 14,3% cho nhóm không phân biệt đối xử với người nhiễm HIV.
Về hành vi nguy cơ lây nhiễm HIV, tỷ lệ đối tượng có hành vi sử dụng BCS
trong QHTD lần gần nhất với mọi loại bạn tình rất thấp, chỉ có 8%. Tỷ lệ đối
tượng được tiếp cận với các hoạt động truyền thông phòng chống HIV/AIDS
còn thấp, phương tiện thiếu, nội dung thông điệp đơn điệu và nghèo nàn [22].
Nghiên cứu đánh giá thực trạng nhiễm HIV/STI, một số yếu tố liên
quan và hiệu quả can thiệp dự phòng ở người dân tộc Dao tại 3 xã của tỉnh
Yên Bái 2006-2012 của tác giả Trần Đại Quang cho thấy Đồng bào dân tộc
Dao có kiến thức dự phòng lây nhiễm HIV/STI rất thấp (18,7%). Vấn đề kỳ
thị, phân biệt đối xử với người nhiễm HIV/AIDS trên địa bàn nghiên cứu còn
khá phổ biến với tỷ lệ người Dao có thái độ đúng với người nhiễm HIV/AIDS
rất thấp (6,7%). Tỷ lệ luôn sử dụng BCS khi QHTD với các loại bạn tình của
đồng bào Dao là rất thấp (3,5%), nguyên nhân có thể là do kiến thức dự
phòng lây nhiễm HIV/STI rất thấp cùng với thiếu hụt các hoạt động phòng
chống HIV/AIDS như truyền thông hay chương trình cấp phát BCS [18].
Một nghiên cứu khác cũng trên đối tượng người dân tộc Dao huyện
Văn Chấn tỉnh Yên Bái năm 2012 của tác giả Nguyễn Văn Hà cho thấy kiến
thức, thái độ và thực hành của người dân đã dần được cải thiện: Có 37,3%
người dân hiểu biết đúng về các đường lây truyền HIV, 91,5% người dân biết
là HIV có thể lây từ mẹ sang con nếu mẹ bị nhiễm HIV và 87,8% người dân
biết được nơi cung cấp BCS. Người dân có thái độ tích cực chấp nhận người
nhiễm HIV/AIDS chiếm 36,5%. Trung bình tuổi QHTD lần đầu là 17,3 tuổi.
Trong nhóm chưa lập gia đình: Số đã QHTD chiếm tỷ lệ rất cao 84,2%;


17

QHTD trước 15 tuổi chiếm 14,5%. Trong 12 tháng qua: Số có quan hệ tình
dục với bạn tình bất chợt chiếm tới 56,6 trong đó có 54,4% sử dụng BCS
trong lần QHTD gần đây nhất và chỉ có 19,7% luôn sử dụng BCS [26].

Nghiên cứu của tác giả Nguyễn Việt Cường về kiến thức, thái độ, thực
hành trong phòng chống HIV/AIDS của đồng bào dân tộc Mông tỉnh Lai
Châu năm 2012 cho thấy:
+ Mặc dù, số đối tượng nghiên cứu đã từng được nghe nói về HIV là
khá cao chiếm 88,2%, nhưng tới 2/3 số đối tượng nghiên cứu có kiến thức về
HIV/AIDS không đạt yêu cầu (71,1%). Nhận thức bản thân về nguy cơ lây
nhiễm HIV của đối tượng nghiên cứu rất thấp, chỉ có 2,4% trả lời mình có
nguy cơ nhiễm HIV từ các hành vi nguy cơ như tiêm chích ma túy và quan hệ
tình dục không sử dụng BCS, 78,3% cho rằng mình không nhiễm HIV khi:
không có QHTD, chỉ có một bạn tình và luôn luôn sử dụng BCS khi QHTD.
+ Thái độ của đồng bào dân tộc Mông đối với người nhiễm HIV/AIDS
còn rất nặng nề: Có tới 88% đối tượng nghiên cứu cho rằng người nhiễm HIV
phải thấy xấu hổ về bản thân mình; cũng như vậy có tới 81,9% đối tượng
nghiên cứu đổ lỗi cho người nhiễm HIV vì họ mang virus về cho cộng đồng;
đặc biệt tới 85,1% đối tượng nghiên cứu có thái độ không đồng ý chăm sóc
người nhiễm HIV tại nhà.
+ Đồng bào dân tộc Mông có QHTD khá sớm, người có quan hệ tình
dục lần đầu sớm nhất khi mới 12 tuổi. Số đối tượng từng có quan hệ tình dục
trong độ tuổi 15-49 là khá cao 87%. QHTD ngoài hôn nhân chỉ chiếm 5,3%.
Tỷ lệ sử dụng BCS trong khi QHTD với vợ/chồng hoặc bạn tình đang chung
sống lại rất thấp chiếm tỷ lệ 5,3% (bạn tình quen thuộc) và 18,2% với các loại
bạn tình (bạn tình bất chợt, gái bán dâm...). Đối tượng nghiên cứu cũng ít sử
dụng ma túy (5,1%). Hầu hết là sử dụng thuốc phiện hoặc Heroin qua đường
hút, hít. Đồng bào dân tộc Mông còn chưa chú ý nhiều tới việc xét nghiệm


×