Tải bản đầy đủ (.doc) (86 trang)

Nhân thân người phạm tội về ma túy trên địa bàn thành phố đà nẵng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (809.95 KB, 86 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

LÊ ĐÌNH TÀI

NHÂN THÂN NGƯỜI PHẠM TỘI VỀ MA TÚY
TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI, năm 2019


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

LÊ ĐÌNH TÀI

NHÂN THÂN NGƯỜI PHẠM TỘI VỀ MA TÚY
TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

Chuyên ngành : Tội phạm học và Phòng ngừa tội phạm
Mã số

: 8 38 01 05

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. PHẠM VĂN TỈNH

HÀ NỘI, năm 2019



LỜI CAM ĐOAN

Tôi cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi. Các
số liệu, ví dụ và trích dẫn trong luận văn đảm bảo độ tin cậy, chính xác và
trung thực. Những kết luận khoa học của luận văn chưa từng được công bố
trong bất kỳ công trình khoa học nào khác.
Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về lời cam đoan này.

Tác giả

Lê Đình Tài


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN TỘI PHẠM HỌC VỀ NHÂN
THÂN NGƯỜI PHẠM TỘI VỀ MA TÚY ................................................. 10
1.1. Khái niệm và ý nghĩa của nhân thân người phạm tội .............................. 10
1.2. Các đặc điểm của nhân thân người phạm tội trong tội phạm học............ 17
1.3. Những yếu tố tác động đến quá trình hình thành nhân thân người phạm
tội..................................................................................................................... 28
CHƯƠNG 2. THỰC TIỄN NHÂN THÂN NGƯỜI PHẠM TỘI VỀ MA
TÚY TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG GIAI ĐOẠN 2013 –
2018 ................................................................................................................. 35
2.1. Thực tiễn nhận thức về nhân thân người phạm tội về ma túy trên địa bàn
thành phố Đà nẵng giai đoạn từ năm 2013 đến 2018 ..................................... 35
2.2. Thực tiễn các yếu tố tác động đến quá trình hình thành nhân thân phạm
tội về ma túy trên địa bàn thành phố Đà nẵng giai đoạn 2013 dến 2018........ 52
2.3. Thực tiễn các loại nhân thân người phạm tội về ma túy ..........................

58
CHƯƠNG 3. HOÀN THIỆN HỆ THỐNG CÁC GIẢI PHÁP PHÒNG
NGỪA TÌNH HÌNH TỘI PHẠM VỀ MA TÚY TRÊN ĐỊA BÀN
THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG TỪ KHÍA CẠNH NHÂN THÂN NGƯỜI
PHẠM TỘI .................................................................................................... 61
3.1. Dự báo tình hình nhân thân người phạm tội về ma túy trên địa bàn thành
phố Đà nẵng .................................................................................................... 61
3.2. Hoàn thiện hệ thống các giải pháp phòng ngừa các tội phạm về ma túy từ
khía cạnh nhân thân người phạm tội ............................................................... 64
KẾT LUẬN .................................................................................................... 74
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

THTP

: Tình hình tội phạm

BLHS

: Bộ luật hình sự

BLTTHS

: Bộ luật Tố tụng hình sự

TTHS

: Tố tụng hình sự


TPMT

: Tội phạm ma túy CTTP

: Cấu thành tội phạm TAND
Tòa án nhân dân VKSND
kiểm sát nhân dân

:
: Viện


DANH MỤC BẢNG
S


T
r
h 2Mứ a 3
c
5
1độ
tổn
g
2Diễ 3
n
6
2biế
n

của
tìn
h
2Cơ 3
cấu 8
3độ
tuổ
i,
2Th 4
ốn
0
4g


2Cơ 4
cấ
1
5u
về
trì
2Th 4
ốn
3
6g
2kê
Cơ 4
cấ
7
7u
về



DANH MỤC HÌNH
S


T
r
h2Cơ a 3
cấu 8
1về
2độ
Cơ 3
cấu 9
2về
2giớ
Cơ 4
cấu 0
3về
2cư
Cơ 4
cấu 2
4về
2trìn
Cơ 4
cấu 4
5về
việ



MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đà Nẵng là một thành phố thuộc trung ương từ năm 1997, nằm trong
vùng Trung Trung Bộ, Việt Nam, có phía Bắc giáp tỉnh Thừa Thiên - Huế,
phía Tây và Nam giáp tỉnh Quảng Nam, phía Đông giáp biển Đông. Với vị trí
địa lý thuận lợi về giao thông như: Nằm trên trục giao thông về đường bộ,
đường sắt, đường biển và đường hàng không của cả nước, Đà Nẵng là một
trong những cửa ngõ quan trọng ra biển của Tây Nguyên, các nước Đông nam
Á và các nước tiểu vùng sông Mê Kông. Đà Nẵng vừa có địa hình thành phố,
đồng bằng, duyên hải, vừa có đồi núi; có diện tích tự nhiên là 1.283,42 km2 ,
được chia làm 8 quận huyện với dân số gần 1,1 triệu người, trong đó người
kinh chiếm 99,4%, các dân tộc khác là 0,6% (chủ yếu là dân tộc Hoa, Cơ tu,
…); có mật độ dân số 828 người/km2 , dân số thành thị chiếm 87,62%;
người từ 15 tuổi trở lên chiếm tỷ lệ 53,35 % trong tổng dân số; có tỷ lệ người
theo Đạo là 0,2% ? (Đà nẵng có 15 tổ chức tôn giáo đang hoạt động với gần
200.000 tín đồ, 185 cơ sở thờ tự, 1000 chức sắc, hơn 10.000 chức việc.).
Trong những năm qua, Đà Nẵng có tốc độ phát triển kinh tế vào loại cao
nhất nước (tỉ lệ 8% - 9%); có nhiều khu chế xuất, khu công nghiệp mới được
hình thành với số vốn đầu tư nước ngoài lớn, thu hút lao động từ các tỉnh khác
về đây làm việc; đời sống nhân dân ngày một nâng cao, thu nhập bình quân
đầu người là 2.980USD; tỉ lệ hộ nghèo chiếm 1,96% tổng dân số; tỉ lệ thất
nghiệp của lực lượng lao động trong độ tuổi lao động chiếm 3,97%. Đời sống
tinh thần của người dân luôn được chính quyền quan tâm và ngày càng được
nâng cao. Đến nay, toàn thành phố đã đạt 99,62% số người trong độ tuổi từ
15-60 biết chữ 100%.
Bên cạnh những mặt tích cực, thành phố Đà nẵng cũng có những mặt

1



tiêu cực, trong đó phải nói đến tình hình tội phạm (THTP), đặc biệt là THTP
về ma túy. Theo số liệu thống kê của Tòa án nhân dân Thành phố Đà nẵng thì
trong giai đoạn 2013 – 2018, tình hình tội phạm về ma túy trên địa bàn thành
phố Đà Nẵng diễn biến rất phức tạp, số vụ, số đối tượng liên quan tăng theo
từng năm. Tính chất từng vụ việc ngày càng tinh vi, phức tạp. Năm 2013 có
148 đối tượng trên 99 vụ; năm 2014 có 170 đối tượng trên 117 vụ; năm 2015
có 166 đối tượng trên 115 vụ; năm 2016 có 196 đối tượng trên 145 vụ; năm
2017 có 231 đối tượng trên 165 vụ; năm 2018 có 251 đối tượng trên 196 vụ.
Dù mức độ đó là không quá cao, nhưng các tội phạm về ma túy trên địa bàn
thành phố Đà Nẵng đang có xu hướng tăng lên. Tỷ lệ này so với THTP về ma
túy trên phạm vi cả nước là chưa cao nhưng nó đang diễn ra theo xu hướng
tăng, gây bức xúc và lo lắng trong xã hội.
Trước tình hình đó, UBND thành phố Đà Nẵng đã phối hợp đồng bộ với
các ban ngành, địa phương đẩy manh công tác phòng, chống ma túy và thực
hiện nghiêm túc Luật phòng, chống ma túy, Chương trình mục tiêu quốc gia
phòng chống ma túy cua Chính phủ và đặc biệt là Chỉ thị số 21-CT/TW ngày
26-3-2008 của Bộ Chính trị (khóa X) về “tiếp tục tăng cường lãnh đạo, chỉ
đạo công tác phòng, chống và kiểm soát ma túy trong tình hình mới”. Sự vào
cuộc của các ban ngành cùng với nhân dân đấu tranh với tội phạm về ma túy
rất tích cực, song tình hình tội phạm vẫn diễn ra phức tạp và nghiêm trọng.
Thực tế này đặt ra nhu cầu tìm kiếm giải pháp để nâng cao hiệu quả đấu tranh
với THTP về ma túy trên địa bàn thành phố, nơi đang có 12.253 người
nghiệm ma túy (tính đến tháng 6/2018). Xét về mặt lý luận, trong đấu tranh
với tội phạm, xu hướng phòng ngừa tội phạm vẫn được xem là xu hướng hứa
hẹn hiệu quả hơn và nhân đạo hơn. Đặc biệt, việc phòng ngừa tội phạm ở
nước ta hiện nay đã có lý luận dẫn dắt, tức là đã hiện hữu một khoa học về
phòng ngừa tội phạm. Đó chính là Tội phạm học. Theo đó, phòng ngừa tội

2



phạm chỉ có thể đạt hiệu quả của nó khi đã làm rõ được hiện trạng của THTP,
hiện trạng công tác phòng ngừa tội phạm, cũng như xác định được nguyên
nhân, điều kiện của hiện tượng tiêu cực này. Thực tế nghiên cứu tội phạm học
ở nước ta những năm qua cho thấy, trong số những vấn đề cơ bản vừa nêu,
vấn đề nguyên nhân, điều kiện của THTP đang là thách thức lớn, cả về mặt lý
luận, cả về mặt thực tế nghiên cứu, tức là đang đòi hỏi nghiên cứu chuyên sâu
mà hạt nhân của nó cũng đã được xác định là vấn đề nhân thân người phạm
tội. Nói cách khác, với tính cách là cái phản ánh tập trung nhất, cụ thể nhất về
kết quả của sự tương tác giữa những đặc điểm của môi trường sống với con
người (chủ thể hành vi) và là khái niệm bao trùm, tức là gồm cả “những dấu
hiệu, đặc điểm không thuộc dấu hiệu pháp lý của khái niệm chủ thể tội
phạm”, vấn đề nhân thân người phạm tội trong tội phạm học phải được
quan tâm nghiên cứu sâu hơn nữa vì mục đích phòng ngừa tội phạm.
Theo ý tưởng như vậy, đề tài “Nhân thân người phạm tội về ma túy trên
địa bàn thành phố Đà Nẵng” đã được lựa chọn để nghiên cứu với mong
muốn góp phần tạo sự bình yên hơn cho thành phố quê hương, đồng thời góp
phần hiện thực hóa lý luận tội phạm học về nhân thân người phạm tội vào
nghiên cứu thực tế tình hình tội phạm về ma túy trên địa bàn thành phố Đà
nẵng, đáp ứng mục đích hoàn thiện hệ thống phòng ngừa loại tội phạm này.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Với nhận thức rằng, để có thể thực hiện được đề tài đang nói ở đây, luận
văn không chỉ tham khảo những công trình khoa học đã được công bố về các
tội liên quan đến ma túy mà còn phải áp dụng được lý luận tội phạm học về
các vấn đề cơ bản của khoa học này, trong đó có vấn đề nhân thân người
phạm tội. Những công trình khoa học đã được tác giả tham khảo trong quá
trình thực hiện đề tài:

3



2.1. Các công trình nghiên cứu về lý luận chung của tội phạm học
Các công trình khoa học loại này đã được nghiên cứu gồm:
- Bộ Luật hình sự 2015 số 100/2015/QH13 và sửa đổi, bổ sung năm
2017
- “Tội phạm học Việt Nam-Một số vấn đề lý luận và thực tiễn” của Viện
Nhà nước và Pháp luật, Nxb. Công an nhân dân, năm 2000;
- Giáo trình “Tội phạm học” của GS.TS. Võ Khánh Vinh, Nxb. Công an
nhân dân, H. 2003, tái bản năm 2013;
- “Tội phạm học hiện đại và phòng ngừa tội phạm” - Sách chuyên khảo
của GS.TS Nguyễn Xuân Yêm, Nxb. Công an nhân dân, năm 2001.
- Giáo trình Tội phạm học Việt Nam do GS.TS. Trần Đại Quang chỉ đạo
biên soạn, Nxb. Công an nhân dân, năm 2013.
- Giáo trình “Tội phạm học” của trường Đại học Luật Hà Nội, Nxb.
Công an nhân dân, 2004…2010;
- Giáo trình “Tội phạm học” của Học viện Cảnh sát nhân dân, Nxb.
Công an nhân dân, 2002, 2013;
- “Một số vấn đề lý luận về THTP ở Việt Nam” của TS. Phạm Văn Tỉnh,
Nxb. Công an nhân dân, 2007;
- Đấu tranh với tình hình tội phạm chống người thi hành công vụ ở nước
ta hiện nay, một mô hình nghiên cứu tội phạm học chuyên ngành, Phạm Văn
Tỉnh, Đào Bá Sơn, Nxb. CAND, 2010;
- “Một số vấn đề tội phạm học Việt Nam” của Nguyễn Văn Cảnh và
Phạm Văn Tỉnh, do Học viện Cảnh sát nhân dân, Bộ Công an ấn hành năm
2013.
- Các bài viết liên quan đến nhân thân người phạm tội, phòng ngừa tội
phạm được đăng tải trên tạp chí Nhà nước và Pháp luật , tạp chí Tòa án nhân
dân và các tạp chí có liên quan trong giai đoạn 2013 - 2018.
2.2. Các công trình nghiên cứu tội phạm về ma túy


4


Những luận văn và các công trình nghiên cứu khoa học mà tác giả đã
nghiên cứu trong quá trình thực hiện luận văn:
- Nguyễn Đình Hoàng Anh (2016), “Tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán
trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy trên địa bàn quận hai bà trưng, thành
phố hà nội: tình hình, nguyên nhân và giải pháp phòng ngừa” Luận văn Thạc
sỹ luật học, Học viện Khoa học xã hội;
- Lâm Thị Thanh (2016) “Các tội phạm về ma túy trên địa bàn thành phố
Tuyên Quan, tỉnh Tuyên Quang: Tình hình, nguyên nhân và giải pháp phòng
ngừa, Luận văn Thạc sỹ luật học, Học viện Khoa học xã hội;
- Bùi Phương Tuấn (2017) “Nhân thân người phạm tội mua bán trái phép
chất ma túy trên địa bàn huyện Mộc châu, tỉnh Sơn la”, Luận văn Thạc sỹ luật
học, Học viện Khoa học xã hội;
Tóm lại, những công trình khoa học đã nêu giữ vai trò là tài liệu tham
khảo nền tảng, có giá trị hướng dẫn lý luận và thực tế nghiên cứu cho
việc triển khai thực hiện đề tài luận văn với đề tài đã nêu.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu nhân thân người phạm tội về ma túy trong giai đoạn
2013 đến năm 2018 trên địa bàn thành phố Đà nẵng có mục đích xác định
những cơ sở thực tiễn cho việc hoàn thiện hệ thống các biện pháp phòng ngừa
tội phạm về ma túy trên địa bàn thành phố Đà nẵng bằng cách làm rõ những
đặc điểm nhân thân người phạm tội, xác định và phân tích các yếu tố tác động
đến quá trình hình thành nhân thân người phạm tội loại này.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Các nhiệm vụ mà luận văn cần nghiên cứu để đạt được mục đích như đã
nêu:
Một là, nghiên cứu lý luận và pháp luật bao gồm: Thu thập và sàn lọc



các thông tin liên quan về tội phạm học, về pháp luật hình sự và những thôn
tin khác phù hợp với đề tài luận văn làm cơ sở để nhận thức được sự hiện hữu
của lý luận tội phạm học về nhân thân người phạm tội; để xác định được
phương pháp luận nghiên cứu và sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể
cho phù hợp;
Hai là, nghiên cứu thực tế, bao gồm ba hoạt động sau:
- Tìm, thu thập, xử lý, phân tích, so sánh những số liệu thống kê thường
xuyên của một số cơ quan tư pháp, đặc biệt là số liệu thống kê xét xử sơ thẩm
hình sự từ năm 2013 đến năm 2018 của Toàn án nhân dân thành phố Đà nẵng
về các tội phạm về ma túy;
- Tìm, thu thập các bản án xét xử sơ thẩm hình sự về các tội phạm về ma
túy trên địa bàn thành phố Đà nẵng trong khoảng thời gian từ năm 2013 đến
năm 2018 và xử lý, phân tích, so sánh theo các tiêu thức Tội phạm học cần
thiết;
- Tìm, thu thập và nghiên cứu các báo cáo tổng kết năm của cơ quan
Công an, Viện kiểm sát nhân dân và Toà án nhân dân thành phố Đà nẵng.
Ba là, nghiên cứu sáng tạo, bao gồm:
- Khái quát hóa và xác định rõ những vấn đề lý luận tội phạm học về
nhân thân người phạm tội;
- Áp dụng lý luận đó vào nghiên cứu thực tế nhân thân, cũng như các
yếu tố tác động đến sự hình thành nhân thân người phạm tội về ma túy ở
thành phố Đà nẵng;
- Kiến nghị hoàn thiện hệ thống các biện pháp phòng ngừa tội phạm về
ma túy trên địa bàn thành phố Đà nẵng từ kết quả nghiên cứu nhân thân người
phạm tội.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu



Đối tượng nghiên cứu của đề tài là nghiên cứu làm tõ mối quan hệ giữa
các vấn đề lý luận và thực tiễn làm rõ mối quan hệ giữa nhân thân người
phạm tội về ma túy với các hiện tượng, quá trình kinh tế - xã hội khác trên địa
bàn thành phố Đà nẵng dựa trên các số liệu thống kê của các cơ quan pháp
luật của Thành phố Đà nẵng giai đoạn 2013 – 2018 và qua nghiên cứu 100
bản án với 172 bị cáo liên quan đến tội phạm về ma túy trên địa bàn thành
phố Đà nẵng
Đối tượng nghiên cứu của đề tài đã nêu thể hiện ở việc làm rõ mối quan
hệ phụ thuộc giữa các đặc điểm nhân thân người phạm tội về ma túy với các
hiện tượng, quá trình kinh tế-xã hội khác trên địa bàn thành phố Đà nẵng, tức
là làm rõ quy luật của sự phạm tội về ma túy dựa trên các đặc điểm nhân thân
người phạm tội ở địa bàn nghiên cứu.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
-Xét về mặt nội dung: Nội dung của đề tài nhân thân người phạm tội về
ma túy được nghiên cứu ở khía cạnh tội phạm học thuộc chuyên ngành tội
phạm học và phòng ngừa tội phạm. Cụ thể hơn, do tên đề tài quy định, nên đề
tài sẽ được thực hiện trong phạm vi lý luận tội phạm học về nguyên nhân và
điều kiện của tình hình tội phạm, trong đó có lý luận về nhân thân người
phạm tội, áp dụng cho các tội phạm về ma túy;
- Xét về thời gian: đề tài sử dụng chất liệu nghiên cứu trong vòng 06
năm từ năm 2013 đến năm 2018 trên địa bàn thành phố Đà nẵng, bao gồm số
liệu thống kê xét xử sơ thẩm hình sự của Tòa án đối với các tội phạm về ma
túy và 100 bản án hình sự sơ thẩm các tội phạm loại này;
- Xét về không gian: đề tài Luận văn được thực hiện trên phạm vi thành
phố Đà nẵng;
- Xét về tội danh: đề tài nghiên cứu các tội về ma túy theo quy định của
Bộ luật hình sự hiện hành, bao gồm các tội được quy định từ Điều 247 đến



Điều 259.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu trên dựa trên các quan điểm duy vật biện chứng
của chủ nghĩa Mác-Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Mingrwh, các chủ trương, chính
sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước ta về công tác đấu tranh phòng, chống
tội phạm nói chung và tội phạm về ma túy nói riêng và các phương pháp
nghiên cứu của các chuyên ngành khoa học khác phù hợp với nội dung của
luận văn.
Đề tài áp dụng các phương pháp nghiên cứu khoa học trong lĩnh vực
khoa học xã hội nói chung và các phương pháp nghiên cứu mang tính đặc thù
của chuyên ngành Tội phạm học, như: quy nạp, diễn dịch, thống kê tội phạm,
phân tích, tổng hợp, so sánh, nghiên cứu điều tra, phỏng vấn, khảo sát, tổng
kết kinh nghiệm từ đó có thể đưa ra những kết luận có tính lý luận và thực
tiễn và đề xuất các kiến nghị liên quan đến công tác đấu tranh phòng, chống
tội phạm về ma túy trên địa bàn Thành phố Đà nẵng. Ngoài ra người viết cũng
đã trực tiếp nghiên cứu một số bản án hình sự về tội phạm ma túy do Tòa án
nhân dân Thành phố Đà nẵng xét xử giai đoạn từ 2013 - 2018.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Về lý luận: Luận văn có giá trị kiểm nghiệm lý luận tội phạm học về các
vấn đề cơ bản của nó, đặc biệt là tính thống nhất giữa các vấn đề như: Tình
hình tội phạm; Nguyên nhân và điều kiện của THTP; Nhân thân người phạm
tội; Phòng ngừa tội phạm.
Về thực tiễn: Kết quả nghiên cứu của luận văn có giá trị nâng cao hiệu
quả phòng ngừa tội phạm về ma túy trong phạm vi thành phố Đà nẵng. Đồng
thời, nó cũng là tài liệu tham khảo hữu ích cho các cán bộ, giảng viên, sinh
viên trong các cơ sở đào tạo luật trên phạm vi cả nước.


7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung

của luận văn được kết cấu thành ba chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận tội phạm học về nhân thân người phạm
tội về ma túy
Chương 2: Thực tiễn nhân thân người phạm tội về ma túy trên địa bàn
thành phố Đà nẵng giai đoạn 2013 - 2018
Chương 3: Hoàn thiện hệ thống các giải pháp phòng ngừa tội phạm về
ma túy trên địa bàn thành phố Đà nẵng từ khía cạnh nhân thân người phạm tội


CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN TỘI PHẠM HỌC
VỀ NHÂN THÂN NGƯỜI PHẠM TỘI VỀ MA TÚY
1.1. Khái niệm và ý nghĩa của nhân thân người phạm tội
1.1.1. Khái niệm nhân thân người phạm tội trong tội phạm học
Có thể hiểu, con người dù thực hiện hành vi tội phạm đến đâu đi nữa thì
họ vẫn là con người của xã hội. Cho nên, khi đề cập đến nhân thân người
phạm tội là bao gồm các đặc điểm của nhân thân của con người và những đặc
điểm đặc trưng của nhân thân người phạm tội, chính những đặc điểm đặc
trưng này thể hiện tính nguy hiểm cho xã hội của họ. “Đối tượng nghiên cứu
của tội phạm học là con người phạm tội chứ không phải là con người nói
chung. Người phạm tội là người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội mà
luật hình sự quy định là tội phạm” [49, tr. 41].
Bản chất cùa con người không phải là cái gì có sẵn, cái bất biến mà được
hình thành nên, được bộc lộ ra trong đời sống hiện thực của nó, bao gồm
nhiều mối quan hệ khác nhau ràng buộc, chi phối lẫn nhau. Với bất kỳ hình
thái xã hội nào, thời đại nào xuất phát từ các mối quan hệ với nhau mà nhân
thân của con người được hình thành. Con người luôn luôn tồn tại những mối
quan giai cấp, quan hệ chính trị và nhiều các mối quan hệ khác. Và động lực
để thúc đẩy một con người cụ thể thực hiện hành vi phạm tội thì phải có sự
tác động của các điều kiện, hoàn cảnh và các tình huống cụ thể.

Tóm lại, nhân thân người phạm tội là tổng hợp những đặc điểm sinh học,
tâm lí và xã hội của người phạm tội và các đặc điểm này kết hợp với các điều
kiện, hoàn cảnh khách quan bên ngoài đã dẫn đến con người đó thực hiện
hành vi phạm tội.
Nghiên cứu nhân thân người phạm tội có ý nghĩa rất lớn như: từ nhân


thân người phạm tội ta có những cái nhìn toàn diện hơn về vụ án từ đó giúp
góp phần giúp cho các cơ quan tư pháp áp dụng các biện pháp trách nhiệm
hình sự phù hợp, đồng thời đề ra các biện pháp cải tạo, giáo dục người phạm
tội một cách hiệu quả, tạo cơ sở cho việc xây dựng các biện pháp dự báo và
phòng ngừa tội phạm trong xã hội. Nhận ra tầm quan trọng đó, nên nhiều
ngành khoa học pháp lý như tội phạm học, luật hình sự, luật tố tụng hình
sự, khoa học điều tra hình sự,… đã lấy nhân thân người phạm tội là đối tượng
nghiên cứu của mình. Một số quan điểm về đặc điểm nhân thân người phạm
tội dưới góc độ khoa học pháp lý:
Theo GS. TSKH Lê Cảm: “Nhân thân người phạm tội theo Luật hính sự
là hệ thống các thuộc tính có ý nghĩa xã hội của người đã thực hiện tội phạm,
phản ánh khả năng cải tạo của người đó bằng các biện pháp và pháp lý hình
sự”
Theo GS, TS Kiều Đình Thụ: “ Nhân thân người phạm tội là tổng hợp
tất cả những khía cạnh xã hội đặc trưng của người phạm tội tạo thành cá
nhân, có ý nghĩa giải quyết đúng đắng các vấn đề trách nhiệm hình sự” .
Theo GS.TS Võ Khánh Vinh: “Nhân thân người phạm tội tức là người
có lỗi trong việc thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội bị luật hình sự quy
định là tội phạm được hiểu là tổng thể các dấu hiệu, đặc điểm có ý nghĩa về
mặt xã hội, trong sự kết hợp với các điều kiện và hoàn cảnh bên ngoài ảnh
hưởng đến hành vi phạm tội của người đó” [39, tr. 130].
Từ các quan điểm trên cho ta thấy các tác giả đã khẳng định, bản chất
của con người trong các quan hệ xã hội là đặc điểm nhân thân người phạm tội.

Nhân thân con người nói chung kết hợp dấu hiệu đặc trưng riêng của người
phạm tội là hai yếu tố hình thành nên nhân người phạm tội. Thực hiện hành vi
phạm tội và là chủ thể của tội phạm theo quy định trong Bộ luật hình sự là
dấu hiệu đặc trưng trong nhân thân người phạm tội. Đặc điểm nhân thân là


những đặc điểm thuộc về người phạm tội được tích lũy hình thành trong suốt
quá trình sống và nó phản ánh bản chất xã hội của người phạm tội khi họ
tham gia vào các mối quan hệ xã hội. Do đó, các đặc điểm xã hội của người
phạm tội cùng với những yếu tố thuận lợi cho hành vi phạm tội đã tạo điều
kiện thuận lợi cho việc hình thành hành vi của người thực hiện phạm tội.
Khoa học luật hình sự nghiên cứu người phạm tội với tư cách họ là chủ thể
thực hiện tội phạm và là người chịu trách nhiệm hình sự về hành vi phạm tội.
Góc đặc điểm nhân thân người phạm tội được nghiên cứu ở đây là xuất phát
từ nhu cầu xác định và đánh giá hành vi phạm tội, trách nhiệm hình sự và
quyết định biện pháp xử lí hình sự đối với người phạm tội theo luật hình sự.
Tâm lí học tư pháp và tâm thần học cũng coi việc nghiên cứu người phạm tội
là vấn đề trung tâm nhưng lại phục vụ cho mục đích xác định năng lực trách
nhiệm hình sự và xử lí những người phạm tội là người mắc các bệnh về tâm
lí, tậm thần.
Trong khi đó, tội phạm học nghiên cứu người phạm tội hay nhân thân
người phạm tội là vì mục đích xác định nguyên nhân của tội phạm, bao gồm
không chỉ các nguyên nhân từ phía người phạm tội mà cả các nguyên nhân tử
phía xã hội. Nghiên cứu nhân thân người phạm tội trong tội phạm học có thể
xác định được những đặc điểm nhân thân nào của người phạm tội có tác động
làm tăng nguy cơ phạm tội ở người phạm tội hay còn gọi là đặc điểm tiêu cực
hay rủi ro phạm tội. Các đặc điểm này có thể íấ những đặc điểm từ chính
người phạm tội, như các đặc điểm sinh học hay các đặc điểm tâm lí tiêu cực
thuộc nhân cách hoặc ỉà các đặc điểm xã hội là kết quả hoặc phản ánh sự tác
động của các yếu tố tiêu cực từ môi trường xã hội đối với người phạm tội.

Tổng hợp những phân tích trên về nhân thân người phạm tội, dưới góc
độ Tội phạm học có thể rút ra định nghĩa nhân thân người phạm tội về ma túy
như sau:


Dưới góc độ tội phạm học, nhân thân người phạm tội về ma túy là tổng
thể những đặc điểm về các mặt của cá nhân người phạm tội, những đặc điểm
có giá trị nhận thức về hành trình dẫn đến việc thực hiện hành vi phạm tội về
ma túy của người đó.
1.1.2. Ý nghĩa tội phạm học của nhân thân người phạm tội
Các ý nghĩa của luận văn trong việc nghiên cứu nhân thân người phạm
tội về Ma túy trên địa bàn Thành Phố Đà Nẵng:
Thứ nhất, nghiên cứu làm rõ nhân thân người phạm tội về ma túy, góp
phần làm cho quá trình định tội, định khung và quyết định hình phạt được
chính xác
Các cơ quan tiến hành tố tụng muốn giải quyết đúng đắn vấn đề trách
nhiệm hình sự của người phạm tội phải nghiên cứu đầy đủ về nhân thân người
phạm tội ở một số tội phạm, việc nghiên cứu nhân thân người phạm tội có ý
nghĩa đối với việc định tội cũng như định khung hình phạt. Do vậy, pháp luật
về tố tụng hình sự đã quy định các cơ quan tiến hành tố tụng phải thu thập đầy
đủ các đặc điểm nhân thân người phạm tội trong hồ sơ vụ án, nhân thân người
phạm tội cũng phải được ghi rõ trong bản Kết luận điều tra của Cơ quan điều
tra, bản Cáo trạng của Viện kiểm sát và Bản án của Tòa án.
Việc định tội và định khung hình phạt trong việc xét xử các vụ án về tội
phạm ma túy cần phải chú ý các đặc điểm nhân thân của họ. Như động cơ và
mục đích thu lợi bất chính là yếu tố định tội của Tội mua bán, vận chuyển trái
phép chất ma túy, mục đích cất giữ ma túy để thỏa mãn cơn nghiện của bản
thân là yếu tố định tội của tội Tàng trữ trái phép chất ma túy… theo quy định
tại Chương XX của Bộ luật hình sự 2015; yếu tố “đã bị xử phạt hành chính về
hành vi này mà còn vi phạm” là tình tiết định tội đối với Tội trồng cây thuốc

phiện hoặc các loại cây khác có chứa chất ma túy (Điều 247); đặc điểm “tái
phạm nguy hiểm” được quy định là yếu tố định khung một số đa số các tội


phạm về ma túy (điểm i, khoản 2 Điều 248; điểm n khoản 2 Điều 249, Điều
200; điểm p khoản 2 của Điều 250; điểm p khoản 2 Điều 251; điểm 0 khoản 2
Điều 252; điểm o khoản 2 Điều 253 của BLHS)
Để việc quyết định hình phạt đối với người phạm tội về ma túy chính
xác, phù hợp với tính chất và mức độ nguy hiểm do hành vi phạm tội gây ra,
phải dựa trên cơ sở định tội và định khung chính xác.
Ta có thể thấy rõ, các nhà làm luật đã đưa nhân thân người phạm tội là
một trong những căn cứ quyết định hình phạt trong Bộ luật hình sự (Khoảng
1, Điều 50 Bộ luật hình sự 2015 quy định: “Khi quyết định hình phạt, Tòa án
căn cứ vào quy định của Bộ luật này, cân nhắc tính chất và mức độ nguy hiểm
cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân người phạm tội, các tình tiết giảm
nhẹ và tăng nặng trách nhiệm hình sự). Bên cạnh đó, các tình tiết tăng nặng,
giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cũng phụ thuộc vào nhân thân người phạm tội
(theo quy định tại Điều 51 và Điều 52BLHS). Đặc điểm về nhân thân người
phạm tội là một trong các nội dung mà tòa án trước khi xem xét quyết định
hình phạt cho người phạm tội phải được nghiên cứu một cách cụ thể, khách
quan.
Thứ hai, nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm ma túy sẽ
được làm sáng tỏ qua việc nghiên cứu nhân thân tội phạm về ma túy.
Về mặt chủ quan thì động cơ thúc đẩy việc thực hiện tội phạm về ma túy
là nhu cầu, thỏa mãn nhu cầu lệch lạc của cá nhân; ý thức pháp luật kém,
thiếu tôn trọng pháp luật, cũng là yếu tố chủ quan dẫn đến thực hiện hành vi
phạm tội về ma túy. Mặt khách quan bên ngoài là những điều kiện cụ thể,
những yếu tố thuận lợi thúc đẩy việc thực hiện tội phạm.
Sự động lẫn nhau giữa các nguyên nhân và điều kiện đến đạo đức, tâm lý
con người đã quyết định đến động cơ và sự quyết tâm thực hiện tội phạm về

ma túy. Con người vốn là thiện nhưng việc đi đến hành động phạm tội và trở


thành tội phạm là do các nguyên nhân, điều kiện tiêu cực bên ngoài tác động
đến. Những nguyên nhân, điều kiện tiêu cực từ môi trường tác động như thế
nào đến sự hình thành nhân thân xấu từ đó đi đến thực hiện hành vi phạm tội
về ma túy sẽ được làm rõ trong quá trình nghiên cứu nhân thân người phạm
tội về ma túy. Hay, nguyên nhân và điều kiện phát sinh tội phạm về ma túy sẽ
được sáng tỏ khi nghiên cứu về nhân thân người phạm tội về ma túy.
Thứ ba, Các phương pháp phòng ngừa tội phạm về ma túy sẽ được cụ
thể hóa trong quá trình nghiên cứu về nhân thân người phạm tội về ma túy.
Đặc điểm của mỗi tầng lớp dân cư khác nhau cùng với những nguyên
nhân nhân và điều kiện hoàn cảnh tiêu cực cụ thể sẽ hình thành nên nhân thân
người phạm tội khác nhau. Do đó, Để đề ra được các biện pháp phòng ngừa
tình hình tội phạm một cách hiệu quả nhất thì chúng ta cần phải hiểu được đặc
điểm của từng nhóm người, các đặc điểm của từng loại tội phạm, các nguyên
nhân, điều kiện phát sinh ra tội phạm đó. Để đề ra được các biện pháp phòng
ngừa tình hình tội phạm về ma túy một cách hiệu quả thì ta cần phải đi nghiên
cứu nhân thân người phạm tội về ma túy.
Loại trừ các nguyên nhân, điều kiện thuận lợi cho việc phát sinh tội
phạm về ma túy, các yếu tố tiêu cực ảnh hưởng đến quá trình hình thành nhân
thân xấu của của con người phạm tội về ma túy là nguyên tắc của phòng ngừa
tội phạm về ma túy. Để tìm ra các biện pháp phù hợp tác động loại bỏ dần các
đặc điểm nhân thân tiêu cực và đi đến hình thành các nhân thân tích cực làm
chuyển hóa người phạm tội thành người có ích cho xã hội thì việc nghiên cứu
làm rõ các đặc điểm nhân thân của mỗi người, đặc biệt là làm rõ các đặc điểm
nhân thân xấu là một yêu cầu quan trọng.
Thứ tư, Công tác giáo dục, cải tạo người phạm tội về ma túy sẽ có hiệu
quả hơn nếu làm rõ được nhân thân người phạm tội về ma túy.
Giáo dục cải tạo người phạm tội sau quá trình chấp hành án có vai trò hết



sức quan trọng trong công tác phòng ngừa tội phạm. Vì đây là những con
người vốn trong mình đã tồn tại những nhân thân xấu, nếu không được giáo
dục cải tạo tốt thì sau này nếu gặp các nguyên nhân, điều kiện thuận lợi cho
việc thực hiện phạm tội thì sẽ tiếp tục tái phạm. Để thực hiện giáo dục cải tạo
tốt thì việc xác định từng nhóm nhân thân người phạm tội, những nguyên
nhân và điều kiện hoàn cảnh cụ thể dẫn đến con người thực hiện hành vi
phạm tội để đề ra các biện pháp giáo dục, cải tạo phù hợp từ đó giúp họ có thể
tái hòa nhập cộng đồng trở thành người có ích cho xã hội và không tái phạm.
Để đưa ra các biện pháp cải tạo, giáo dục có hiệu quả đối với người
phạm tội về ma túy thì việc làm rõ nhân thân người phạm tội về ma túy là một
yêu cầu quan trọng. Vì qua việc hiểu được các đặc điểm nhân thân tiêu cực đó
sẽ có những biện pháp tác động cụ thể, phù hợp với từng loại nhân thân tưng
ứng để đạt được hiệu quả cao nhất trong giáo dục cải tạo người phạm tội về
ma túy. Từ đặc điểm nhân thân riêng đó, ta có thể loại bỏ được các yếu tố tiêu
cực của người phạm tội mà khi tiếp xúc với các nguyên nhân, điều kiện tiêu
cực cụ thể từ bên ngoài thúc đầy họ thực hiện hành vi phạm tội về ma túy, có
thể định hướng được các nghề nghiệp phù hợp cho từng người phạm tội, trở
thành người bình thường có thể nuôi sống bản thân khi tái hòa nhập cộng
đồng.
Thứ năm, việc nghiên cứu nhân thân người phạm tội về ma túy còn còn
có ý nghĩa trong việc cung cấp những thông tin hữu ích cho các ngành khoa
học pháp lý khác: như khoa học luật Tố tụng hình sự, khoa học Điều tra hình
sự.
- Trong khoa học luật Tố tụng hình sự: Để đưa ra trình tự, thủ tục khởi
tố, điều tra, truy tố, xét xử; thi hành đối với người phạm tội về ma túy một
cách phù hợp, hiệu quả, đúng pháp luật thì việc xác định những thông tin về
nhân thân có liên quan đến người phạm tội là một yêu cầu không thể thiếu.



Các đặc trưng của nhân thân cần xác định như: nghề nghiệp, trình độ văn hóa,
độ tuổi, tiền án, tiền sự,…
- Trong Khoa học Điều tra hình sự: Để thu thập chứng cứ chứng minh
tội phạm trong quá trình điều tra, truy tố,xét xử vụ án một cách khách quan,
nhanh chóng thì thì việc nghiên cứu nhân thân người phạm tội về ma túy có
vai trò rất quan trọng, từ đó có thể đề ra các phương pháp, biện pháp, các hệ
thống các quan điểm, thủ thuật, phương pháp lập kế hoạch điều tra, tổ chức
điều tra nhằm bảo đảm hoạt động điều tra tuân thủ theo pháp luật đồng thời
bảo đảm hiệu quả cao nhất.
1.2. Các đặc điểm của nhân thân người phạm tội trong tội phạm học
Mỗi người phạm tội nói chung và phạm tội về ma túy nói riêng đều có
những đặc điểm nhân thân, dấu hiệu phạm tội riêng biệt. Mặc dù có những
hình thức biểu hiện, đóng vai trò khác nhau trong từng người phạm tội nhưng
chúng lại có mối quan hệ tương hỗ với nhau từ đó hình thành nên đặc trưng
riêng về nhân thân người phạm tội khác nhau. Với mục đích là tìm hiểu
những dấu hiệu, đặc điểm riêng về nhân của người phạm tội, các nguyên
nhân, điều kiện, các điều kiện cụ thể hình thành nên các đặc điểm của từng
nhân thân người phạm tội, từ đó tội phạm học tiến hành nghiên cứu nhân thân
người phạm tội. Có 03 nhóm đặc điểm;
1.2.1. Các đặc điểm tự nhiên
Sự hình thành thói quen, sở thích,… của từng người, từng nhóm người
đều ảnh hưởng từ các đặc điểm sinh học như: độ tuổi, giới tính,…
Trong quá trình sinh sống, làm việc,… cộng với sự tác động của các yếu
tố khách quan dẫn đến hình thành các đặc điểm kể trên. Tuy nhiên sự tác
động qua lại giữa các đặc điểm sinh học và các điều kiện tác động đến việc
hình thành nhân cách con người, với nhu cầu, lợi ích của người đó trong xã
hội sẽ giúp chúng ta hiểu rõ hơn về đặc điểm nhân thân của người đó và từ đó



sẽ tạo điều kiện cho chúng ta đề ra cá biện pháp quản lý, giáo dục, cải tạo
người phạm tội về Ma túy.
1.2.1.1. Đặc điểm lứa tuổi
Nhân cách của con người thay đổi theo từng độ tuổi nhất định. Tương
tự, độ tuổi thay đổi thì nhân cách trong đặc điểm nhân thân của người phạm
tội cũng thay đổi theo. Để xác định đặc điểm xử sự trái pháp luật, trái với xã
hội cần xác định độ tuổi của từng người phạm tội. Điều đó cũng cần thiết cho
việc kế hoạch hóa và tác động trong công tác đấu tranh phòng, chống tội
phạm về ma túy.
Việc phân đoạn quá trình phát triển tâm lý người phác họa cho chúng ta
thấy rõ những nét tâm lý đặc trưng cho từng lứa tuổi. Trong mỗi giai đoạn
phát triển các nét tâm lý đặc trưng nảy sinh trên cơ sở kết hợp các điều kiện
khách quan và chủ quan sẽ nãy sinh các đặc điểm nhân thân khác nhau.
Nhóm người từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi: đây là nhóm tuổi còn hạn
chế về nhiều mặt như: hành vi, thiếu kinh nghiệm sống và rất dế bị các yếu tố
khách quan tác động, nhất là các yếu tố mang tính tiêu cực.
Nhóm người từ đủ 18 tuổi đến 30 tuổi: là độ tuổi có mức độ chín muồi
của quá trình phát triển các đặc điểm sinh lý giới, sự cảm nhận về tính chất
người lớn của bản thân mình.
Nhóm người từ 30 tuổi đến 45 tuổi: đây là nhóm tuổi đã trưởng thành
về mọi mặt từ thể chất cho đến tinh thần, đại đa số là ổn định về gia đình,
công việc, ít phụ thuộc kinh tế vào gia đình.
Nhóm người có độ tuổi từ sau 45 tuổi: là độ tuổi mà con người đã có
thành tựu về công danh sự nghiệp, gia đình con cái ổn định, con người bắt đầu
hưởng thụ cuộc sống an nhàn nên họ thường khó bị tác động bởi môi trường
xung quanh.
Để đề ra các biện pháp, phương thức đấu tranh phòng, chống tội phạm



×