Tải bản đầy đủ (.doc) (351 trang)

Địa vị pháp lý của luật sư trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự theo pháp luật tố tụng hình sự việt nam từ thực tiễn thành phố hồ chí minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.93 MB, 351 trang )



VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN THANH LONG

ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA LUẬT SƯ
TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA VỤ ÁN HÌNH SỰ THEO
PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC
TIỄN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI – 2019


VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN THANH LONG

ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA LUẬT SƯ
TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA VỤ ÁN HÌNH SỰ THEO
PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC
TIỄN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

Ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số : 9.38.01.04



LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. NGUYỄN VĂN HUYÊN

HÀ NỘI - 2019


LỜI CAM ĐOAN
Xin cám ơn các Thầy, Cô Học viện Khoa học Xã hội đã cho tôi cơ hội học
tập, nghiên cứu, đặc biệt xin cám ơn Thầy Nguyễn Văn Huyên đã tận tình hướng
dẫn tôi hoàn thành luận án này. Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các nội dung và số liệu nêu trong luận án là trung thực. Những kết luận
khoa học của luận án chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
TÁC GIẢ LUẬN ÁN

NGUYỄN THANH LONG


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU.................................................................................................................. 1
Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU......................................7
1.1. Tình hình nghiên cứu ở nước ngoài..................................................................... 7
1.2. Tổng quan tình hình nghiên cứu trong nước...................................................... 12
1.3.Đánh giá tình hình nghiên cứu liên quan đến luận án và những vấn đề luận
án tiếp tục nghiên cứu và giải quyết.........................................................................23
1.4. Cơ sở lý thuyết và phương pháp nghiên cứu..................................................... 25
Chương 2: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ QUY ĐỊNH CỦA PHÁP
LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VỀ ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA LUẬT SỰ
TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA VỤ ÁN HÌNH SỰ........................................28

2.1.Những vấn đề lý luận về địa vị pháp lý của Luật sư trong giai đoạn điều tra
vụ án hình sự...........................................................................................................28
2.2.Quy định của pháp luật về địa vị pháp lý của Luật sư trong giai đoạn điều
tra vụ án hình sự......................................................................................................43
Chương 3: THỰC TRẠNG ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA LUẬT SƯ TRONG GIAI
ĐOẠN ĐIỀU TRA VỤ ÁN HÌNH SỰ TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH.......76
3.1.Thực trạng các yếu tố tác động đến địa vị pháp lý của Luật sư trong giai
đoạn điều tra vụ án hình sự tại Thành phố Hồ Chí Minh......................................... 76
3.2. Thực tiễn thực hiện các quy định của pháp luật tố tụng hình sự về địa vị pháp lý
của Luật sư trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự tại Thành phố Hồ Chí Minh.........82
Chương 4: YÊU CẦU, GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM THỰC HIỆN ĐÚNG QUY
ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VÀ NÂNG CAO ĐỊA VỊ PHÁP LÝ VỀ ĐỊA VỊ
PHÁP LÝ CỦA LUẬT SƯ TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA VỤ ÁN
HÌNH SỰ
...............................................................................................117
4.1.Yêu cầu bảo đảm thực hiện địa vị pháp lý của Luật sư trong giai đoạn điều
tra vụ án hình sự....................................................................................................117
4.2.Các giải pháp nâng cao chất lượng thực hiện địa vị pháp lý của Luật sư
trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự....................................................................123
4.3.Các giải pháp khác nâng cao địa vị pháp lý của Luật sư.................................144
KẾT LUẬN.......................................................................................................... 149
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC ĐÃ ĐƯỢC CÔNG BỐ
LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN............................................................................ 151
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................ 152


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
BLTTHS

Bộ Luật tố tụng hình sự


CQTHTT

Cơ quan tiến hành tố tụng

ĐTV

Điều tra viên

HĐXX

Hội đồng xét xử

KSV

Kiểm sát viên

NBBT

Người bị buộc tội

NBC

Người bào chữa

PLTTHS

Pháp luật tố tụng hình sự

QBC


Quyền bào chữa

QCN

Quyền con người

TAND

Tòa án nhân dân

TANDTC

Tòa án nhân dân tối cao

THTT

Tiến hành tố tụng

TNHS

Trách nhiệm hình sự

TTHS

Tố tụng hình sự

VAHS

Vụ án hình sự


VKS

Viện kiểm sát

VKSND

Viện kiểm sát nhân dân

VKSNDTC

Viện kiểm sát nhân dân tối cao


DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU ĐỒ
Trang
Bảng 3.1:

Số lượng Luật sư chính thức

168

Bảng 3.2:

Số lượng Người tập sự hành nghề Luật sư

168

Bảng 3.3:


Độ tuổi của Luật sư

168

Bảng 3.4:

Số năm hành nghề của Luật sư

169

Bảng 3.5:

Trình độ học vấn của Luật sư

169

Bảng 3.6:

Địa bàn hoạt động của Luật sư

169

Bảng 3.7:

So sánh số lượng vụ án hình sự tại Thành phố Hồ Chí
Minh với thành phố Hà Nội, thành phố Đà Nẵng giai
2009-2018.
đoạn

Biểu đồ 3.1:


170

Thống kê kết quả thực hiện nhiệm vụ chuyên môn của
ngành Tòa án nhân dân hai cấp Thành phố Hồ Chí Minh
từ năm 2009 đến năm 2018.

171

Biểu đồ 3.2:

Số vụ án đã được thụ lý, giải quyết và số bị cáo

171

Biểu đồ 3.3:

Số vụ án và Luật sư tham gia bào chữa theo yêu cầu
của khách hàng

172

Biểu đồ 3.4:

Số vụ án và Luật sư tham gia bào chữa chỉ định

172

Biểu đồ 3.5:


Số lượng Luật sư Thành phố Hồ Chí Minh phát triển
qua 10 năm (Giai đoạn 2009-2018)

Biểu đồ 3.6:

173

So sánh vi phạm kỷ luật, quy tắc đạo đức của Liên đoàn
Luật sư Việt Nam, Đoàn Luật sư Thành phốHồ Chí Minh
giai đoạn 2009-2018

Bảng 4.1:

173

Bảng thống kê số lượng Luật sư tăng trong các năm
từ năm 2009 – năm 2018

174


MỞ ĐẦU
1.

Tính cấp thiết của đề tài
Để bảo đảm quyền con người, quyền công dân và quyền bào chữa của

người bị buộc tội (NBBT), Nước ta đã ký hầu hết các Công ước quốc tế về quyền con
người trong đó có quyền bào chữa cho NBBT theo pháp luật tố tụng hình sự (PLTTHS).
Cùng với đó, Nghị quyết 08-NQ/TW ngày 02-01-2002 [4], Nghị quyết 48-NQ/TW ngày

24- 05-2005 [5], Nghị quyết 49-NQ/TW ngày 02-06-2005 [6] đã định hướng chiến lược
xây dựng và hoàn thiện hệ thống PLTTHS về cải cách tư pháp trong đó coi trọng việc
bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
bị hại, đương sự. Hiến pháp 2013 ghi nhận những quy định mới bảo đảm quyền
con người, quyền công dân và quyền bào chữa của người bị buộc tội. Chủ trương
đảm bảo quyền bào chữa cho NBBT, nâng cao vị thế, vai trò của người bào chữa, cơ
chế bảo đảm các quyền của người bào chữa (NBC) là nền tảng cho việc bảo đảm dân
chủ hóa hoạt động tố tụng hình sự (TTHS), tạo thế độc lập, bình đẳng với các chủ thể
có chức năng buộc tội. Điều này có nghĩa ở đâu có việc buộc tội thì ở đó quyền bào
chữa phải được thực hiện và tôn trọng; bảo đảm Tòa án thực sự là hiện thân của
công lý, khách quan, vô tư trong quá trình xét xử để con người thực sự được sống
trong sự “bảo hộ công dân” của pháp luật [34]. Mặt khác, Hiến pháp đã có những quy
định chặt chẽ, cụ thể nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của NBBT, về những
nguyên tắc áp dụng nhằm bảo vệ con người trước “vòng xoáy” TTHS mà cơ quan,
người có thẩm quyền tiến hành tố tụng thực hiện khi khởi tố, điều tra, truy tố, xét
xử. Một trong những quyền đó là: “Người bị bắt, tạm giữ, tạm giam, khởi tố, điều tra,
truy tố, xét xử có quyền tự bào chữa, nhờ Luật sư hoặc người khác bào chữa” [84, tr
24]. Quyền bào chữa (QBC) là cơ sở pháp lý cần thiết để NBC bào chữa, bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp cho NBBT. Bảo đảm quyền bào chữa của NBBT không những là
một nguyên tắc quan trọng của PLTTHS mà còn là một quy định được ghi nhận trong
5 bản Hiến pháp từ Hiến pháp 1946, 1959, 1980, 1992 đến 2013. Một trong các chủ
thể có thể thực hiện quyền bào chữa cho NBBT, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho
bị hại, đương sự theo BLTTHS, đó là Luật sư.
Giai đoạn điều tra, giai đoạn có tính quyết định của quá trình tiến hành tố
tụng, vì người bị tạm giữ, bị can chỉ là đối tượng bị “tình nghi phạm tội”, nếu thiếu
thận trọng thì khoảng cách giữa không phạm tội và phạm tội hoặc giữa lỗi và tội dễ
bị xóa nhòa [137]. Đặc điểm nổi bật trong giai đoạn điều tra là i) người có thẩm quyền
1



THTT (Điều tra viên) là người nắm quyền chủ động; họ có xu hướng “quy, kết tội”; ii)
người bị tình nghi phạm tội, là người yếu thế, bị động, thường có tâm lý hoang
mang, dao động,
không ổn định trong lời khai (dễ có lời khai khác nhau); iii) Luật sư trong giai đoạn này

1


chính là “bác sĩ pháp lý”, tiếp cận người bị buộc tội với tư cách người bào chữa cho
NBBT, người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho bị hại, đương sự; có trách nhiệm giải
thích cho NBBT về những quyền được pháp luật bảo đảm, chuẩn bị tâm lý để từ đó
giúp cho người bị “tình nghi phạm tội” bình tĩnh, sáng suốt trong quá trình khai báo;
xem xét sự việc một cách trung thực, khách quan tránh oan sai cho người bị “tình
nghi phạm tội”, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự.
Thực trạng đó đòi hỏi sự tham gia của Luật sư trong giai đoạn điều tra VAHS
là rất quan trọng, nhằm tìm kiếm chứng cứ gỡ tội, những tình tiết giảm nhẹ trách
nhiệm hình sự cho người bị buộc tội; bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị hại,
đương sự trong việc đưa ra đề nghị hình phạt, thu thập tài liệu, chứng cứ đưa ra
yêu cầu bồi thường thiệt hại bao gồm thiệt hại về vật chất, tinh thần, tài sản bị xâm
phạm…; đồng thời góp phần hạn chế vi phạm tố tụng trong hoạt động điều tra như
bức cung, nhục hình, làm sáng tỏ sự thật khách quan của vụ án, giúp việc điều tra
được nhanh chóng, chính xác, không làm oan người vô tội, không bỏ lọt tội phạm.
Tuy nhiên, qua nghiên cứu các quy định của BLTTHS và thực tiễn hoạt động tố tụng
cho thấy quy định pháp luật TTHS về địa vị pháp lý của Luật sư trong giai đoạn điều
tra VAHS còn mang tính hình thức, thiếu cơ chế bảo đảm thực hiện việc tham gia tố
tụng của Luật sư. Nhiều trường hợp Luật sư bị cản trở, làm khó, chậm trễ trong
việc cấp văn bản thông báo người bào chữa, không được gặp gỡ NBBT, không được
tham gia hỏi cung và tham gia các hoạt động điều tra khác dẫn đến hệ quả Luật sư
dường như bị gạt ra khỏi hoạt động tố tụng trong giai đoạn điều tra VAHS; không bảo
vệ được quyền, lợi ích hợp pháp cho người bị buộc tội, bị hại, đương sự. Nhiều cơ

quan, người có thẩm quyền THTT chưa nhận thức được vai trò của Luật sư, tôn trọng
Luật sư, coi thường các quy định của PL TTHS dẫn đến oan, sai, bỏ lọt tội phạm và sự
thật của VAHS chưa được làm sáng tỏ.
Việc xác định đúng đắn địa vị pháp lý của Luật sư trong TTHS góp phần quan
trọng hiệu quả hoạt động TTHS của cải cách tư pháp. Khi Luật sư tham gia tố tụng thì
pháp luật TTHS phải “luật hóa” về quyền và nghĩa vụ; những quy định này tạo thành
địa vị pháp lý của Luật sư trong TTHS. Mặt khác việc Luật sư tham gia sớm vào giai
đoạn điều tra VAHS “…vai trò của Luật sư trong các vụ án oan, sai đều ở thời điểm mà
người bị oan đang phải “chấp hành án”, có nghĩa những giai đoạn đầu của tố tụng, Luật
sư chưa thực sự được nhìn nhận và tôn trọng tương xứng với vai trò là “người chiến
sĩ dấn thân vì công lý” cũng như trong việc phòng, chống án oan, sai”[167] sẽ góp
phần cùng với các cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng tìm ra sự thật
2


khách quan của VAHS, góp phần khắc phục oan, sai.
Là thành phố lớn nhất Việt Nam đồng thời cũng là đầu tàu kinh tế, với những
điều kiện tự nhiên thuận lợi, Thành phố Hồ Chí Minh hiện là nơi thu hút lao động trên

2


khắp mọi miền đất nước, trong đó lao động hoạt động trong lĩnh vực pháp lý nói
chung và Luật sư nói riêng chiếm số lượng đông đảo nhất cả nước (Theo số liệu thống
kê của Đoàn Luật sư Thành phố Hồ Chí Minh: tính đến tháng 11-2018, Thành phố
Hồ Chí Minh có tổng số 8.066 Luật sư, trong đó có 5.527 Luật sư chính thức và 2.539
tập sự hành nghề Luật sư; nữ chiếm tỷ lệ 40%. Là thành phố có dân số đông nhất
8.611.100 người tính đến năm 2017 [132, tr 24] như vậy 1 Luật sư/1.558 người dân.
Việc gia tăng tội phạm hình sự, trong đó số lượng các VAHS tại Thành phố Hồ Chí
Minh giải quyết hằng năm luôn chiếm tỷ lệ cao so với các địa phương khác [104]

những năm gần đây, khiến người tham gia tố tụng ngày càng đông, dẫn đến nhu cầu
nhờ Luật sư tại Thành phố Hồ Chí Minh ngày càng lớn.
Thời gian qua, có nhiều công trình liên quan đến việc nghiên cứu về địa vị
pháp lý của Luật sư trong các giai đoạn tố tụng nhưng chưa có công trình nào nghiên
cứu một cách tách bạch, từng khía cạnh, riêng lẻ về chủ thể mang tính chuyên nghiệp
thực hiện quyền bào chữa như Luật sư; tách bạch riêng trong giai đoạn điều tra
VAHS trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh. Nghiên cứu một cách toàn diện những vấn
đề về cơ sở lý luận; thực trạng pháp luật quy định; thực tiễn thực hiện địa vị pháp lý
của Luật sư trong giai đoạn điều tra VAHS theo PLTTHS Việt Nam hiện nay nhằm đề
xuất các giải pháp nâng cao địa vị pháp lý của Luật sư trong giai đoạn điều tra VAHS
theo PLTTHS Việt Nam hiện nay có ý nghĩa không chỉ về mặt lý luận, thực tiễn mà
còn góp phần hoàn thiện PLTTHS Việt Nam; thay đổi nhận thức cơ quan, người có
thẩm quyền THTT về vai trò, vị trí của Luật sư.
Đây là lý do mà nghiên cứu sinh chọn đề tài “Địa vị pháp lý của Luật sư trong
giai đoạn điều tra vụ án hình sự theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực
tiễn Thành phố Hồ Chí Minh” để thực hiện nghiên cứu.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
2.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của luận án là xác lập luận cứ khoa học; khảo sát thực
trạng về địa vị pháp lý của Luật sư trong giai đoạn điều tra VAHS (từ thực tiễn Thành
phố Hồ Chí Minh) nhằm hoàn thiện chế định về Luật sư trong tố tụng hình sự, nâng
cao hiệu quả hoạt động của Luật sư trong việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình
nhằm bảo vệ quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Thứ nhất, phân tích, luận giải các vấn đề lý luận về địa vị pháp lý của Luật sư
trong giai đoạn điều tra VAHS theo PLTTHS Việt Nam, làm rõ khái niệm, bản chất,
3


chủ thể, quyền và nghĩa vụ của Luật sư trong giai đoạn điều tra VAHS theo PLTTHS

Việt Nam; các cơ chế đảm bảo thực hiện địa vị pháp lý của Luật sư, các yếu tố tác động

4


đến việc thực hiện địa vị pháp lý của Luật sư trong giai đoạn điều tra VAHS theo pháp
luật TTHS Việt Nam.
Thứ hai, phân tích quy định của PLTTHS Việt Nam về địa vị pháp lý của Luật sư
trong giai đoạn điều tra VAHS.
Thứ ba, phân tích, đánh giá thực trạng về thực hiện quyền và nghĩa vụ của Luật
sư trong giai đoạn điều tra VAHS theo PLTTHS Việt Nam từ thực tiễn Thành phố Hồ
Chí Minh xác định nguyên nhân những hạn chế, bất cập làm cơ sở cho việc đề ra
những giải pháp thực hiện.
Thứ tư, xây dựng và thực hiện hệ thống các giải pháp nâng cao hiệu quả địa vị
pháp lý của Luật sư trong giai đoạn điều tra VAHS theo PLTTHS Việt Nam.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án là những vấn đề lý luận, quy định của
pháp luật, thực tiễn thực hiện quy định của pháp luật về địa vị pháp lý của Luật sư
trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự tại Thành phố Hồ Chí Minh.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Luận án nghiên cứu “Địa vị pháp lý của Luật sư trong giai đoạn điều tra
VAHS theo pháp luật TTHS Việt Nam từ thực tiễn Thành phố Hồ Chí Minh” dưới khía
cạnh quyền gắn liền với nghĩa vụ của NBC trong giai đoạn điều tra VAHS theo
PLTTHS Việt Nam, tập trung vào nhóm chủ thể duy nhất là Luật sư vì Luật sư gắn bó
mật thiết, chuyên nghiệp trong hoạt động nghề nghiệp, đạt hiệu quả cao nhất so
với người bào chữa khác.
- Phạm vi không gian: Nghiên cứu địa vị pháp lý của Luật sư trong giai đoạn
điều tra vụ án hình sự (trừ các vụ án xâm phạm môi trường và an ninh quốc gia)
thuộc thẩm quyền điều tra của Cơ quan Cảnh sát điều tra 24 Quận, Huyện, Cơ quan

Cảnh sát điều tra Công an Thành phố Hồ Chí Minh; Cơ quan Cảnh sát điều tra Bộ Công
an C01, C03; Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao; Cơ quan điều tra
hình sự Bộ Quốc phòng từ thực tiễn Thành phố Hồ Chí Minh. Luận án tập trung
nghiên cứu chủ yếu địa vị pháp lý của Luật sư trong giai đoạn điều tra với tư cách là
người bào chữa và một số vấn đề có liên quan đến địa vị pháp lý của Luật sư với tư
cách là người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị hại, đương sự.
- Phạm vi về thời gian: Luận án nghiên cứu thực tiễn thực hiện quy định của
pháp luật TTHS về địa vị pháp lý của Luật sư tại Thành phố Hồ Chí Minh trong 10 năm
từ năm 2009 đến năm 2018 (gồm BLTTHS năm 2003 và BLTTHS năm 2015).
5


4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
4.1. Phương pháp luận
Luận án tiến hành nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận biện chứng duy
vật của triết học Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Để giải quyết các nhiệm vụ của luận án, tác giả sử dụng các phương pháp
nghiên cứu cụ thể sau:
- Phương pháp điều tra xã hội học: Để làm rõ tình hình, thực trạng quy định
địa vị pháp lý của Luật sư cũng như các nội dung khác liên quan đến địa vị pháp lý
của Luật sư trong giai đoạn điều tra VAHS, tác giả tiến hành điều tra, khảo sát tại
Thành phố Hồ Chí Minh để đánh giá thực trạng thông qua các câu hỏi điều tra xã hội
học bằng các bảng hỏi.
- Phương pháp thống kê hình sự: Thông qua khảo sát thực tiễn, tác giả
có những số liệu và để đánh giá được thực trạng cần thiết phải sử dụng thống kê hình
sự để phân tích địa vị pháp lý của Luật sư trong giai đoạn điều tra VAHS.
- Phương pháp tổng kết kinh nghiệm: Kinh nghiệm, lịch sử, quá trình thực hiện
quy định địa vị pháp lý của Luật sư trong giai đoạn điều tra VAHS là nguồn tư liệu
quan trọng cho việc giải quyết nhiệm vụ của luận án. Việc sử dụng phương pháp tổng

kết kinh nghiệm góp phần làm cho luận án gắn kết với thực tiễn và có giá trị khoa học.
- Phương pháp tọa đàm trao đổi với các chuyên gia: Trong quá trình thực
hiện luận án, góp phần đưa ra những nhận xét, đánh giá khoa học, toàn diện và các
giải pháp có giá trị, cần thiết phải có sự tham khảo kiến thức, kinh nghiệm của các
chuyên gia lý luận và thực tiễn về TTHS. Tác giả đã sử dụng phương pháp tọa đàm,
trao đổi với các chuyên gia TTHS cũng như các Luật sư, Luật gia, nhằm củng cố thêm
các căn cứ cho các luận giải trong luận án.
- Phương pháp lựa chọn án điển hình: Trong luận án có những nội dung tác giả
không có điều kiện điều tra, khảo sát trong phạm vi toàn quốc, do đó tác giả đã sử
dụng phương pháp chọn thực tiễn Thành phố Hồ Chí Minh để khảo sát, từ đó có
thể phân tích, kết luận các nội dung liên quan.
- Phương pháp tổng hợp, phân tích, so sánh: Để có thể sử dụng được số liệu,
tài liệu đã thu thập được, cần thiết phải sử dụng phương pháp tổng hợp, so sánh
số liệu nhằm sử dụng kết quả đó chứng minh cho những luận giải, kết luận trong luận
án.
- Phương pháp lịch sử: phân tích lịch sử, nguyên nhân hình thành các quy
6


định pháp luật và các vụ việc trong lịch sử có liên quan đến các quy định pháp luật để
từ đó có thể hiểu được nội dung và mục đích hình thành các quy định đó.

7


5. Những điểm mới của luận án
- Làm sáng tỏ cơ sở lý luận địa vị pháp lý của Luật sư, như xây dựng khái niệm
địa vị pháp lý của Luật sư, chỉ ra đặc điểm và ý nghĩa, nội dung địa vị pháp lý của Luật
sư trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự.
- Làm rõ những bất cập trong các quy định của pháp luật tố tụng hình sự

và pháp luật về Luật sư ảnh hưởng đến địa vị pháp lý của Luật sư.
- Làm rõ thực tiễn thực hiện quy định của pháp luật tố tụng hình sự về địa
vị pháp lý của Luật sư trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự; nguyên nhân của những
bất cập, hạn chế trong việc thi hành các quy định của PLTTHS về địa vị pháp lý của
Luật sư trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự từ thực tiễn Thành phố Hồ Chí Minh.
- Đề xuất các giải pháp thực hiện PLTTHS theo hướng mở rộng cho Luật sư
nhiều quyền và cơ hội tham gia vào quá trình tố tụng trong sự bình đẳng với người
có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Điều này có ý nghĩa rất quan trọng đối với việc bảo
đảm thực hiện, nâng cao chất lượng bào chữa của Luật sư nói chung và bảo vệ quyền,
lợi ích hợp pháp của người bị buộc tội nói riêng, đặc biệt tác giả mong muốn kiến nghị
đến cơ quan thẩm quyền văn bản hướng dẫn luật quy định tại khoản 1 điều 79
BLTTHS năm 2015: “phải báo trước một thời gian hợp lý cho người bào chữa” [86,
tr83] để thực hiện thống nhất trong phạm vi cả nước.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
Kết quả nghiên cứu của luận án có thể bổ sung cơ sở lý luận về địa vị pháp lý
của người bào chữa, của Luật sư trong giai đoạn điều tra VAHS nói riêng.
Với những trình bày, phân tích cơ sở lý luận về địa vị pháp lý của Luật sư; những
cơ chế bảo đảm thực hiện địa vị pháp lý của Luật sư trong giai đoạn điều tra vụ án hình
sự theo pháp luật TTHS Việt Nam, luận án sẽ là nguồn tư liệu có ý nghĩa để các cơ quan
Nhà nước có thẩm quyền, các nhà làm luật tham khảo, nghiên cứu, xem xét hoàn thiện
BLTTHS 2015, Luật Luật sư hiện hành; kiến nghị các giải pháp bao gồm ban hành những
văn bản dưới luật về pháp luật tố tụng hình sự. Luận án cũng là tài liệu nghiên cứu, tham
khảo hữu ích cho các nhà khoa học, các nhà làm luật, giảng viên, Luật sư, Luật gia, người
bào chữa khác; hoặc sử dụng làm tài liệu giảng dạy tại cơ sở đào tạo các chức danh tư
pháp.
7. Kết cấu của luận án: Kết cấu nội dung chính của luận án bao gồm:
Chương 1. Tổng quan tình hình nghiên cứu.
Chương 2. Những vấn đề lý luận và quy định của pháp luật tố tụng hình sự về
địa vị pháp lý của Luật sư trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự.
Chương 3. Thực trạng địa vị pháp lý của Luật sư trong giai đoạn điều tra vụ án

8


hình sự tại Thành phố Hồ Chí Minh.
Chương 4. Yêu cầu, giải pháp bảo đảm thực hiện đúng quy định của pháp luật
và nâng cao địa vị pháp lý của Luật sư trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự.

9


Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
1.1. Tình hình nghiên cứu ở nước ngoài
1.1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu các vấn đề liên quan đến đề tài ở
nước ngoài.
1.1.1.1. Các công trình nghiên cứu về người bào chữa, quyền có người bào
chữa của người bị buộc tội trong tố tụng hình sự.
- Cuốn sách“Brownlie’s document on the human rights” [184], tạm dịch Tài
liệu của Brownlie’s về quyền con người của tác giả Ian Brownlie - Giáo sư người Anh
viết năm 2010. Ian Brownlie cho rằng đây là văn kiện tổng hợp bao quát các nội dung
cốt lõi, các nguyên tắc về quyền con người (QCN); cuốn sách có đề dẫn, chú thích và
mục lục chi tiết, rõ ràng; nội dung về những văn kiện chuẩn xác và minh bạch, rất quan
trọng về QCN, được thông qua bởi Liên Hợp Quốc và các bên liên quan, bởi những tổ
chức trong khu vực và những người am hiểu về luật pháp là tài liệu không thể thiếu
cho việc nghiên cứu, tham khảo về QCN.
- Cuốn sách “Toward an international criminal procedure” [189], tạm dịch
Hướng đến một thủ tục hình sự quốc tế của tác giả Christoph Saffeling năm 2003, Giáo
sư người Đức viết với nội dung so sánh, phân tích những quy định bảo đảm các
chuẩn mực quốc tế về QCN của NBBT nói chung và quyền bào chữa nói riêng, đặc biệt
cuốn sách đề cập đến nội dung tạo hành lang pháp lý về xét xử công bằng và điều

kiện cần thiết để Luật sư trợ giúp NBBT thực hiện quyền bào chữa của họ như việc
kiểm tra chéo nhân chứng, giả định vô tội, nguyên tắc tìm lỗi của bị cáo và sự thương
lượng các thủ tục tố tụng.
- Bài viết “Evolution of U. S.Criminal Law” [183], tạm dịch Sự tiến hóa của
Luật hình sự Hoa Kỳ của James B.Jacobs, Warren.E.Burger (Hoa Kỳ) – Giáo sư
Trường Đại học Tổng hợp New York, Giám đốc Trung tâm nghiên cứu tội phạm và
công lý tại Khoa luật, Đại học tổng hợp New York, đăng trên Tạp chí điện tử của Bộ
Ngoại giao Hoa Kỳ số 1 tập 6, tháng 7/2001. Bài viết giải thích cấu trúc và cơ sở để xây
dựng thủ tục TTHS là Hiến pháp Hoa Kỳ, bao gồm 10 điều bổ sung dựa trên bản Tuyên
ngôn nhân quyền. Hiến pháp đảm bảo cho tất cả mọi công dân đang sinh sống tại
Hoa Kỳ có quyền tự do và những quyền cơ bản. Với tinh thần chủ đạo đó, trong giới
hạn của Luật hình sự Hoa Kỳ, các bị can được coi là không có tội. Các bị can không phải
chứng minh sự vô tội của mình, Luật phải chứng minh được họ có tội; Quyền có Luật
1
0


sư bắt đầu được thực hiện khi những người bị tình nghi trở thành bị cáo, có nghĩa là
bắt đầu
các thủ tục xét xử với mục đích bảo đảm cho tất cả các bị can đều có Luật sư bào
chữa,

1
1


nếu bị can không có tiền thuê Luật sư, Tòa án sẽ chỉ định cho họ một Luật sư bảo vệ
khi tiến hành phiên tòa đầu tiên; Hiến pháp bắt buộc rằng, trong nguyên tắc tìm lỗi
của bị cáo, cơ quan điều tra (có thể là Bồi thẩm đoàn hoặc Thẩm phán) yêu cầu cơ
quan khởi tố phải đưa ra được đầy đủ những chứng cứ đã được chứng minh rõ ràng

chứ không chỉ ở mức nghi ngờ, điều này là biểu hiện cụ thể của nguyên tắc “bị can
không bị coi là có tội”. Luật sư có quyền khai thác các nhân chứng của họ nhằm thẩm
tra về những nhân chứng của phía bên kia để thẩm tra chéo (Exammination cross).
Một số nghiên cứu được viết dưới góc độ so sánh và hầu hết mang tính mô
tả pháp luật TTHS các nước; không ít các nghiên cứu có liên quan đến quyền tố tụng
của người bị buộc tội được tiếp cận ở góc độ pháp luật quốc tế bảo đảm quyền con
người. Nhìn chung, những nghiên cứu trên đã cung cấp cho tác giả một lượng kiến
thức nền tảng về tố tụng công bằng; về QBC, quyền có NBC của NBBT trong TTHS
quốc tế và một số quốc gia trên thế giới, đặc biệt là Hoa Kỳ. Vì vậy, việc nghiên cứu
toàn diện về QBC và quyền có NBC của NBBT cũng như các cơ chế pháp lý bảo đảm
quyền trong sự so sánh và đối chiếu với pháp luật nước ngoài thực sự cần thiết và có ý
nghĩa.
1.1.1.2. Các công trình nghiên cứu về địa vị pháp lý của Luật sư trong giai
đoạn điều tra; về hệ thống pháp luật các nước; về mô hình tố tụng
- Liên quan đến vấn đề hoạt động bào chữa của Luật sư trong giai đoạn điều
tra, cuốn sách “Law and legal system of the Russian Federation” (tạm dịch “Luật
pháp và hệ thống pháp luật Liên bang Nga”) [178] của Giáo sư William Burnham, xuất
bản lần đầu vào năm 1999, tái bản lần thứ 5 năm 2012. Giáo sư có nhiều năm kinh
nghiệm với hệ thống pháp luật Liên bang Nga, nội dung tập trung vào nhân quyền,
thủ tục Tòa án, Luật hình sự và thủ tục tố tụng hình sự, Luật dân sự, thương mại và
thuế. Các chương bao gồm các khía cạnh quan trọng của hệ thống pháp luật Liên
bang Nga, bao gồm các nguồn luật, hệ thống tư pháp, Luật hiến pháp, quyền cá
nhân, Luật dân sự và thương mại, thủ tục dân sự, Luật quốc tế tư nhân, Luật đầu tư
nước ngoài, thủ tục hình sự, Luật hành chính và luật thuế. Cuốn sách bao gồm những
thay đổi lớn trong luật pháp Liên bang Nga kể từ ấn bản trước đó, bao gồm sự phụ
thuộc nhiều vào tiền lệ tư pháp, tăng sự độc lập của các Điều tra viên hình sự từ các
Công tố viên, xử lý việc lạm dụng hệ thống pháp luật của các quan chức tham
nhũng và những sơ hở trong hệ thống thuế. Lần tái bản mới biên soạn cuộc đấu
tranh liên tục của Tòa án Nhân quyền châu Âu và các Luật sư hoạt động của Nga
nhằm thúc đẩy luật pháp Liên bang Nga hướng tới các tiêu chuẩn quốc tế.

8


Theo đó, QBC được bắt đầu khi một người bị bắt giữ hoặc “khi có bất kỳ biện
pháp tố tụng có tính cưỡng bức nào khác hoặc có hành vi tố tụng khác xảy ra xâm
phạm các quyền tự do của một người bị tình nghi là phạm một tội”. Tác giả chỉ rõ “thời

9


điểm thực sự bị bắt” theo tố tụng hình sự Liên bang Nga là khi người đó “thực tế bị
tước quyền tự do di chuyển”. Trong giai đoạn này, Luật sư được quyền tham gia vào
hai hoạt động điều tra: i) khi xét hỏi người bị tình nghi hoặc bị can; ii) trong các hoạt
động điều tra khác được thực hiện có sự tham gia của người bị tình nghi, bị can,
hoạt động điều tra được thực hiện theo yêu cầu của người bị tình nghi, bị can. Cuốn
sách đề cập đến vấn đề thu thập chứng cứ như việc điều tra độc lập của NBC là
một trong những điểm mới nhất của Luật tố tụng hình sự Liên bang Nga năm 2001.
Cần tiếp thu và tiếp tục nghiên cứu.
- “Basic principles on the role of lawyers” [149], tạm dịch Các nguyên tắc cơ
bản về vai trò của Luật sư, được thông qua tại Đại hội lần thứ VIII của Liên Hợp Quốc
về phòng chống tội phạm và đối xử với người phạm tội, tổ chức tại Havana (Cu Ba), từ
27-08 đến 07-09-1990. Các nguyên tắc trên chỉ rõ tất cả mọi người có quyền kêu gọi sự
hỗ trợ của Luật sư mà họ chọn để bảo vệ quyền lợi cho họ trong suốt giai đoạn tố
tụng hình sự; Chính phủ và Hiệp hội Luật sư thúc đẩy chương trình thông báo cho
công chúng về các quyền và nghĩa vụ theo luật pháp và vai trò quan trọng của Luật sư
trong việc bảo vệ các quyền tự do cơ bản cho họ; Chính phủ đảm bảo rằng tất cả mọi
người được thông báo ngay lập tức bởi người có thẩm quyền tố tụng và họ có quyền
lựa chọn Luật sư khi bị bắt giữ, tạm giam hoặc khi bị buộc tội; họ được cung cấp trợ
giúp pháp lý, không trả tiền nếu họ không đủ tiền để trả cho dịch vụ này; Chính phủ
đảm bảo rằng tất cả những người bị bắt giữ, giam giữ có hoặc hay không có tội sẽ

được quyền mời Luật sư không trễ hơn 48 giờ kể từ thời điểm bắt giữ, giam giữ; tất
cả những người bị bắt, giam giữ, cầm tù đều được cung cấp đầy đủ cơ hội, thời
gian, giao tiếp và tham khảo Luật sư, không bị kiểm duyệt hoặc giám sát chỉ trong
tầm nhìn. Những nội dung trên cần tiếp tục nghiên cứu.
- Hội thảo quốc tế về BLTTHS năm 2003 và quyền của Luật sư bào chữa năm
2012, tác giả Tian Wen Chang - chuyên gia Trung Quốc công bố bài viết “Suy nghĩ và
đánh giá tổng thể về bản dự thảo sửa đổi Luật tố tụng hình sự Trung Quốc”[185]. Bài
viết đề cập đến những khó khăn trong công tác xây dựng Luật nhằm bảo đảm về
mặt pháp lý và tạo bình diện mở rộng cho sự tham gia TTHS của Luật sư. Bởi lẽ, bào
chữa trong VAHS là lĩnh vực hành nghề quan trọng, có những đóng góp đáng kể trong
việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị cáo, bảo vệ sự công bằng trong tư pháp
và thúc đẩy xây dựng hệ thống PLTTHS của Trung Quốc. Tác giả đề cập đến nội dung
kiến nghị hoàn thiện TTHS của Trung Quốc. Trong đó thực hiện quy chế thẩm vấn
chéo; tăng cường QBC, tạo sự cân bằng giữa cơ quan tố tụng và người bào chữa, đảm
9


bảo cho người bào chữa tham gia xét xử một cách hiệu quả và thực chất; đề phòng
trường hợp
Cơ quan kiểm sát lạm dụng quyền truy tố, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của

1
0


người bào chữa; thực hiện tính trung lập của Tòa án, tăng quyền tham dự và
quyền quyết định của cơ quan tố tụng và người bào chữa.
- Sách “Outline of the U.S. Legal system, Congressional Quarterly, Inc, 2001”
[186], tạm dịch Khái quát hệ thống pháp luật Hoa Kỳ của tác giả Michael Jay Friedman
(Hoa Kỳ) - là tài liệu đáng quan tâm nghiên cứu vì cuốn sách này đã phác họa bức tranh

toàn cảnh hệ thống pháp luật Hoa Kỳ; về các Thẩm phán, Luật sư, Bồi thẩm đoàn; về
thủ tục TTHS và dân sự; về Tòa án tối cao, các Tòa sơ thẩm và phúc thẩm cấp bang và
liên bang. Đặc biệt, cuốn sách đề cập đến hoạt động và vai trò của Luật sư trong việc
thương lượng lời khai (còn gọi là mặc cả thú tội), khi mà đổi lấy việc nhận tội, bị cáo
được áp dụng pháp luật cả về nội dung và hình thức theo hướng có lợi hơn. Hoạt
động này không có ở Việt Nam nhưng cũng có thể nghiên cứu để rõ hơn mức độ
chủ động của Luật sư trong TTHS.
- “Body of Principles for the protection of All Persons under Any Form of
Detention or Imprisonment” [150], tạm dịch Khung nguyên tắc bảo hộ người bị giam
giữ hoặc phạt tù dưới mọi hình thức. Đây là Nghị quyết số 43/173 ngày 09-12-1998 của
Đại hội đồng Liên Hợp Quốc theo đó Liên Hợp Quốc đề ra các nguyên tắc nhằm bảo vệ
con người chống lại sự bức cung, nhục hình, được thông báo về việc bị bắt giữ thể
hiện tại: Nguyên tắc 10: Bất cứ ai bị bắt giữ sẽ được thông báo tại thời điểm bắt giữ lý
do bắt giữ anh ta và sẽ được thông báo ngay lập tức về bất kỳ cáo buộc nào chống lại
anh ta. Nguyên tắc 11: Một người không bị giam giữ mà không được cơ quan tư pháp
hoặc cơ quan có thẩm quyền giải quyết ngay một cơ hội hiệu quả. Người bị giam giữ
có quyền tự bảo vệ hoặc được Luật sư hỗ trợ theo quy định của pháp luật; Một người
bị giam giữ và Luật sư của anh ta, nếu có, sẽ nhận được thông tin liên lạc nhanh chóng
và đầy đủ về bất kỳ lệnh giam giữ nào, cùng với những lý do đó; Một cơ quan tư pháp
hoặc cơ quan khác sẽ được trao quyền xem xét khi thích hợp việc tiếp tục giam giữ.
Nguyên tắc 21: Nghiêm cấm lợi dụng quá mức của tình trạng của một người bị giam
giữ hoặc bị cầm tù vì mục đích buộc anh phải thú nhận, tự trách mình hoặc để làm
chứng chống lại bất kỳ người nào khác; Không có người bị giam giữ trong khi bị
thẩm vấn sẽ bị bạo lực, đe dọa hoặc phương pháp thẩm vấn làm suy giảm khả năng
quyết định hoặc phán xét của mình. Một người sẽ không bị tạm giữ nếu không có cơ
hội cho họ nghe quan tòa hoặc người có thẩm quyền thông báo về việc họ bị bắt
giữ; Một người bị bắt, tạm giữ có quyền tự bào chữa hoặc được hỗ trợ bởi Luật sư
theo quy định của pháp luật.
- Sách “Nghiên cứu về tổ chức và hoạt động của hệ thống tư pháp Trung Quốc,
10



Indonesia, Nhật Bản, Hàn Quốc và Nga” [151] do Liên hợp quốc thực hiện năm 2010
đã làm rõ cơ cấu tổ chức cơ quan tư pháp hình sự, quy định về QBC, tạo điều kiện
để
Luật sư tham gia bào chữa của 5 quốc gia chọn lọc. Trong đó, các vấn đề Luật sư được

11


×