Tải bản đầy đủ (.docx) (40 trang)

Tiểu luận kỹ năng lãnh đạo phong cách lãnh đạo lý quang diệu và bài học cho các nhà lãnh đạo tương lai

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (262.27 KB, 40 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
KHOA QUẢN TRỊ KINH DOANH
═════000═════

TIỂU LUẬN KỸ NĂNG LÃNH ĐẠO
PHONG CÁCH LÃNH ĐẠO ĐỘC ĐOÁN CỦA LÝ QUANG DIỆU
VÀ BÀI HỌC CHO CÁC NHÀ LÃNH ĐẠO TƯƠNG LAI

Thành viên nhóm 6:
Hoàng Như Huyền – 121 221 0064
Trương Đức Anh – 121 221 0019
Trần Lê Ngọc Hải – 121 221 0044
Nguyễn Hải Long– 121 221 0091
Nguyễn Hữu Tâm – 121 221 0128
Giảng viên hướng dẫn: ThS. Hoàng Anh Duy

Hà Nội – 05/2015


MỤC LỤC


BẢNG ĐÁNH GIÁ QUÁ TRÌNH LÀM VIỆC NHÓM

ST

Tên

Vị trí

Đánh giá



Điểm

T
Phân công rõ ràng, luôn có trách
1

Hoàng Như Huyền

Trưởng nhóm

nhiệm, hoàn thành việc đúng hạn,
nhiệt tình, giữ được tinh thần làm việc

9

nhóm.
Hoàn thành việc đúng thời hạn, có
trách nhiệm, hỗ trợ trưởng nhóm và
2

Trương Đức Anh

Thành viên

có góp ý chỉnh sửa bài, chủ động

9

trong công việc nhóm, phụ trách

chính phần video.
Hoàn thành việc đúng thời hạn, có
3

Nguyễn Hải Long

Thành viên

trách nhiệm, phụ trách chính phần

9

slides.
4

Nguyễn Hữu Tâm

Thành viên

5

Trần Lê Ngọc Hải

Thành viên

Hoàn thành việc đúng thời hạn, có
trách nhiệm.
Có tinh thần làm việc nhóm, hoàn
thành bài đúng thời hạn.


8.5

8.5


4

LỜI MỞ ĐẦU
Từ trước đến nay lãnh đạo luôn đóng vai trò rất quan trọng trong khoa học về tổ
chức - nhân sự, nhà lãnh đạo là người gây ảnh hưởng và dẫn đắt hành vi của cá nhân
hay nhóm người nhằm đạt được mục tiêu của tổ chức.
Trên thế giới hiện nay có 3 phong cách chủ yếu được các nhà lãnh đạo áp dụng
trong việc gây ảnh hưởng lên người khác là độc đoán, dân chủ và tự do. Trong vô số
bài nghiên cứu về phong cách lãnh đạo thì Lý Quang Diệu nổi lên như một hình mẫu
tiêu biểu về phong cách lãnh đạo độc đoán trong thời đại mới, nhờ ông mà Singapore
chuyển mình từ một đất nước nghèo nàn, lạc hậu, không có tài nguyên trở thành một
quốc gia phát triển với thu nhập bình quân đầu người vào hàng cao nhất thế giới. Vậy
phong cách lãnh đạo độc đoán của Lý Quang Diệu có biểu hiện cụ thể ra sao và đã tác
động như thế nào để Singapore trở thành “con rồng Châu Á”? Điều đáng học hỏi từ
phong cách của ông là gì? Xuất phát từ mong muốn giải đáp những vấn đề trên, nhóm
đã xây dựng tiểu luận với đề tài: “Phong cách lãnh đạo độc đoán của Lý Quang Diệu
và bài học cho các lãnh đạo của tương lai”. Bài tiểu luận của nhóm có cấu trúc 4 phần:
Phần I. Cơ sở lý luận về phong cách lãnh đạo
Phần II. Giới thiệu về Lý Quang Diệu
Phần III. Phân tích phong cách lãnh đạo của Lý Quang Diệu
Phần IV. Giải pháp cho những khuyết điểm trong phong cách lãnh đạo của
Lý Quang Diệu và bài học rút ra
Do hiểu biết còn hạn hẹp và giới hạn về thời gian nên bài tiểu luận của nhóm
không thể tránh khỏi những thiếu sót. Rất mong ThS. Hoàng Anh Duy – người đã giúp
đỡ nhóm hoàn thành tiểu luận này – có thể tiếp tục góp ý để chúng em có thể hoàn

thiện hơn nữa bài tiểu luận của mình.
Chúng em xin chân thành cảm ơn thầy.


5

NỘI DUNG

I.

Cơ sở lý luận về phong cách lãnh đạo
1. Một số khái niệm liên quan
1.1.
Lãnh đạo và phong cách lãnh đạo
1.1.1. Lãnh đạo
Lãnh đạo là quá trình gây ảnh hưởng đến hoạt động của một cá nhân hoặc một
nhóm, nhằm đạt được mục đích trong những điều kiện cụ thể nhất định. Lãnh đạo là
khả năng lôi cuốn người khác đi theo mình, là biết tạo ra mối ràng buộc giữa người và
công việc bằng cách quan tâm cả hai. Ngoài ra lãnh đạo còn là khả năng thuyết phục và
gây ảnh hưởng lên người khác để hoàn thành những mục tiêu mong muốn. Nói cách
khác, lãnh đạo thiên về khía cạnh nhân bản và nhắm đến “người” để nối kết họ thành
một đội ngũ và động viên họ tiến tới mục tiêu mong muốn.
Có hai loại lãnh đạo là lãnh đạo chính thức và lãnh đạo không chính thức. Lãnh
đạo chính thức là người lãnh đạo có thực quyền. Người lãnh đạo có thực quyền là
người lãnh đạo đồng thời đóng vai trò quản trị viên trong một tổ chức, được trao ban
quyền hạn và chức năng hành xử trên người khác để thi hành một công tác theo hoạch
định. Người lãnh đạo không chính thức hay còn gọi là lãnh đạo tự nhiên, là người lãnh
đạo do thiên phú với phong cách lôi cuốn người khác. Tuy họ không có quyền hạn
chính thức để sai khiến, nhưng lời nói của họ có giá trị, được người khác lắng nghe và
thực hiện. Những người lãnh đạo tự nhiên này thường được người khác ngưỡng mộ

như một chứng nhân gương mẫu về cách tổ chức và thực hiện đối với đời sống cá nhân
cũng như xã hội.
1.1.2. Các học thuyết về lãnh đạo

Việc đi sâu tìm hiểu các học thuyết về lãnh đạo sẽ giúp chúng ta hiểu rõ hơn và
sâu hơn về bản chất của lãnh đạo. Hiện thời, trên thế giới đang tồn tại 5 học thuyết lãnh
đạo. Đó là, học thuyết về lãnh đạo dựa trên cơ sở tố chất (the traitbased leadership
theory), học thuyết về lãnh đạo dựa trên cơ sở hành vi (the behavior-based leadership


6

theory), học thuyết về lãnh đạo dựa trên cơ sở quyền lực và sự ảnh hưởng (the powerinfluence leadership theory), học thuyết về lãnh đạo theo tình huống (the situational
leadership theory), và học thuyết về lãnh đạo dựa trên cơ sở tích hợp (the integrative
leadership theory). Sau đây là các nội dung cụ thể của một số học thuyết chủ đạo về
lãnh đạo.
(i) Học thuyết về lãnh đạo dựa trên cơ sở tố chất (the trait-based leadership
theory). Học thuyết về lãnh đạo dựa trên cơ sở tố chất là học thuyết về lãnh đạo ra đời
sớm nhất. Học thuyết về lãnh đạo dựa trên cơ sở tố chất cho rằng lãnh đạo 12 phải là
những người có những tố chất siêu phàm, phải có những giá trị vượt trội so với đông
đảo những người còn lại; và chính những tố chất siêu phàm và giá trị vượt trội vốn có
do tạo hóa ban tặng đó đã giúp họ trở nên xuất chúng và trở thành những người đứng
đầu một quốc gia, một bộ tộc, một tôn giáo hay một tổ chức nào đó (Yukl & Van Fleet,
1992). Các học giả và các nhà nghiên cứu về lãnh đạo của giai đoạn này (1930s-1940s)
đã tiến hành nghiên cứu và đã nhận ra rằng tố chất vượt trội, giá trị vượt trội như vô
cùng mạnh mẽ, vô cùng quyết đoán, vô cùng mưu lược, có tầm nhìn chiến lược hơn
người là những nhân tố cơ bản, chính yếu để giúp một ai đó trở thành lãnh đạo. Chính
vì lẽ đó, các nhà lãnh đạo trong thời kỳ này là những người có quyền lực vô biên và họ
thường điều hành cấp dưới của họ thông qua quyền lực vô biên đó. Hiện thân của các
nhà lãnh đạo trong thời kỳ này là những người đứng đầu các quốc gia, các tướng lĩnh,

các chủ doanh nghiệp, chủ trang trại. Họ là những người đứng mũi chịu sào, những
người cầm cân nảy mực trong mọi hoạt động của xã hội, cộng đồng, và tổ chức. Họ
nghĩ ra việc và cầm tay chỉ việc cho các cấp dưới của mình, còn những người cấp dưới
chỉ biết thực thi công việc được giao một cách thụ động. Phong cách lãnh đạo, điều
hành này về thực chất là điều hành thông qua mệnh lệnh và thuần tuý định hướng công
việc - the task-based approach (sẽ được trình bày rõ ở phần lãnh đạo hiệu quả). Bên
cạnh những yếu tố thuộc về tố chất, các học giả như Bass (1990), Hosking & Morley
(1988), và Yukl & Van Fleet (1992) cũng cho rằng kỹ năng, kinh nghiệm sống cũng
như trận mạc là những nhân tố vô cùng quan trọng cùng bổ trợ cho các tố chất vượt trội
vốn có để giúp cho các nhà lãnh đạo chèo lái con thuyền của mình.


7

(ii) Học thuyết về lãnh đạo dựa trên cơ sở hành vi (the behavior-based
leadership theory). Học thuyết về lãnh đạo dựa trên cơ sở hành vi ra đời từ những năm
1950s sau khi các học giả, các nhà nghiên cứu cũng như các nhà hoạt động thực tiễn
bắt đầu cảm nhận được những nhược điểm, hạn chế của học thuyết về lãnh đạo dựa
trên cơ sở tố chất. Học thuyết về lãnh đạo dựa trên cơ sở 13 hành vi cho rằng bất cứ
một ai mà bằng hành động, ứng xử (behavior) của mình làm cho người khác làm theo
được ý định của mình thì người đó mới thực sự là lãnh đạo.
Thật vậy, cùng với sự phát triển của kinh tế-xã hội, đời sống kinh tế của người
dân không ngừng được cải thiện, dân trí không ngừng được nâng cao. Sự phát triển
không ngừng của kinh tế, xã hội, dân trí đã không ngừng tạo đà và phát triển nền dân
chủ mà ở đó mọi người đều được tự do, mọi người đều được bình quyền, bình đẳng. Tự
do, bình quyền, bình đẳng là những yếu tố có tính “trái chiều” với cơ chế tập quyền,
mệnh lệnh. Vì vậy, cần thiết phải có một học thuyết mới về lãnh đạo để đáp ứng yêu
cầu đó của thực tiễn - học thuyết đó là học thuyết về lãnh đạo dựa trên cơ sở tố chất.
Các học giả Yukl & Van Fleet (1992), Wall & Lepsinger (1990) đã tiến hành các nghiên
cứu của mình và chỉ ra rằng thành công của công tác lãnh đạo không chỉ phụ thuộc vào

các tố chất vượt trội do tạo hóa ban tặng của các nhà lãnh đạo mà còn phụ thuộc rất
nhiều vào các yếu tố thuộc về con người như động viên khuyến khích, gây ảnh hưởng,
khai thác yếu tố tâm lý, yếu tố tinh thần.
(iii) Học thuyết về lãnh đạo dựa trên cơ sở quyền lực và sự ảnh hưởng (the
power-influence leadership theory).Gây ảnh hưởng và quyền lực là hai trong số các
nhân tố quyết định năng lực lãnh đạo. Như đã đề cập ở trên, gây ảnh hưởng là một
năng lực tối quan trọng và không thể thiếu đối với bất cứ một nhà lãnh đạo nào. Gây
ảnh hưởng là quá trình tác động nhằm thu phục cấp dưới trên cơ sở sử dụng một cách
hợp lý, đồng bộ các biện pháp kích thích. Vì vậy, gây ảnh hưởng không chỉ giúp các
nhà lãnh đạo tạo sự gắn kết, tập hợp lực lượng xung quanh mình, mà còn giúp các nhà
lãnh đạo tự hoàn thiện hình ảnh của chính bản thân mình (Bradford & Cohen, 1984).
Để gây được ảnh hưởng đối với cấp dưới, các nhà lãnh đạo vẫn phải có quyền lực


8

(power). Vậy, về bản chất quyền lực là gì? Biểu hiện cụ thể của quyền lực là gì? Quyền
lực thể hiện quyền uy của một nhà lãnh đạo đối với cấp dưới của mình. Quyền lực
chính là khả năng gây ảnh hưởng đối với cấp dưới (Mintzberg, 1983; Pfeffer, 1992).
Nói một cách chung nhất, quyền lực chính là khả năng tác động của một cá nhân nào
đó vào những người còn lại. Bởi vậy, quyền lực và khả năng gây ảnh hưởng có mối
quan hệ qua lại chặt chẽ, khăng khít với nhau. Các nghiên cứu về quyền lực và gây ảnh
hưởng đã chỉ ra rằng các nhà lãnh đạo đã sử dụng quyền lực để gây ảnh hưởng và
ngược lại các nhà lãnh đạo đã kết hợp các biện pháp, kỹ thuật gây ảnh hưởng để nâng
tầm quyền uy của mình. Thực tế đã chứng minh, cấp dưới nể trọng cấp trên của mình
có thể vì các tố chất vượt trội của họ, cũng có thể vì những đức tính đáng kính của họ
Bởi vậy, học giả Northouse (1997) cho rằng quyền uy của lãnh được hun đúc bởi chính
các mối quan hệ qua lại của họ với cấp dưới. Giống vậy, French & Raven (1959) cho
rằng quyền uy không thể được tạo lập thông qua một mối quan hệ cụ thể nào đó, mà
phải được vun đắp với mọi người trong một thời gian dài.

Các thủ thuật gây ảnh hưởng cũng hết sức đa dạng và phong phú. Các nhà lãnh
đạo có thể gây ảnh hưởng thông qua sử dụng vật chất, các nhà lãnh đạo cũng có thể
khai thác yếu tố tinh thần. Các nhà lãnh đạo cũng có thể sử dụng biện pháp trực tiếp
hay gián tiếp; chính thống hay phi chính thống. Tuy nhiên, sử dụng biện pháp nào, cho
đối tượng nào, và trong tình huống nào là cả một sự cân nhắc và là cả một nghệ thuật.
Có một số loại quyền lực phổ biến có thể thống kê ra đây: Quyền lực do chức vụ,
quyền lực do đãi ngộ, quyền lực do sự trừng phạt, quyền lực do sự kính trọng, quyền
lực do năng lực chuyên môn, quyền lực do việc nắm giữ thông tin mang lại.
1.1.3.

Phong cách lãnh đạo

Phong cách lãnh đạo là những phương pháp hoặc cách thức nhà lãnh đạo thường
dùng để gây ảnh huởng đến đối tượng bị lãnh đạo.
Xét trên phương diện cá nhân, phong cách lãnh đạo chính là cách thức làm việc
của nhà lãnh đạo. Phong cách lãnh đạo của một cá nhân là dạng hành vi của người đó
thể hiện các nỗ lực ảnh huởng tới họat động của những người khác.


9

Xét trên phương diện tổng thể, phong cách lãnh đạo là hệ thống các dấu hiệu đặc
trưng của họat động và quản lý của nhà lãnh đạo, được quy định bởi đặc điểm nhân
cách của họ.

1.2.

Phong cách lãnh đạo độc đoán
1.2.1. Đặc trưng


Phong cách lãnh đạo độc đoán còn được gọi là phong cách lãnh đạo chuyên
quyền, phong cách lãnh đạo theo hành chính xử phạt, phong cách lãnh đạo theo chỉ thị,
phong cách lãnh đạo cương quyết. Ở đây nhà lãnh đạo sẽ áp đặt nhân viên; các nhân
viên nhận lệnh và thi hành mệnh lệnh, nhà lãnh đạo sẽ tập trung hết quyền lực vào tay
của mình.
Biểu hiện của những nhà lãnh đạo độc đoán là họ thường áp đặt công việc với sự
kiểm soát và giám sát chặt chẽ. Nhà lãnh đạo độc đoán thường lấy mình làm thước đo
giá trị, họ không quan tâm đến ý kiến của người khác dù là đồng đội hay nhân viên mà
chỉ hoàn toàn dựa vào kiến thức và kinh nghiệm của chính mình. Các nhà lãnh đạo độc
đoán thường nói chính xác những gì họ muốn các nhân viên của mình phải làm và làm
ra sao mà không kèm theo bất kỳ lời khuyên hay chỉ dẫn nào.
1.2.2. Ưu điểm và hạn chế

Phong cách lãnh đạo độc đoán có 3 ưu điểm chính như sau:
-

Thứ nhất, được nhà lãnh đạo sử dụng thành công trong một tập thể mới thành lập, chưa
thiết lập được nguyên tắc hoạt động… hoặc trong các tập thể đang mất phương hướng

-

hoạt động, không khí trong tổ chức là gây hấn…
Thứ hai, sự thành công của tổ chức phụ thuộc vào vai trò cá nhân của nhà quản trị. Nếu

-

nhà quản trị giỏi sẽ mang lại nhiều thành công cho tổ chức.
Thứ ba, trong các trường hợp khẩn cấp thì sự độc đoán chuyên quyền của lãnh đạo đôi
khi mang lại những hiệu quả bất ngờ.
Ngược lại, phong cách lãnh đạo độc đoán cũng bộc lộ nhiều nhược điểm cần

được khắc phục, trong đó những hạn chế lớn nhất của phong cách này gồm có:


10
-

Thứ nhất, người lãnh đạo không quan tâm đến suy nghĩ cũng như ý kiến của nhân viên

-

nên không tận dụng được sự sáng tạo của nhân viên dưới quyền.
Thứ hai, quyết định của người lãnh đạo chuyên quyền thường ít được cấp dưới chấp

-

nhận, đồng tình và làm theo, thậm chí còn dẫn đến sự chống đối của cấp dưới.
Thứ ba, với phong cách này, nhân viên ít thích lãnh đạo, hiệu quả làm việc cao hơn khi

-

có mặt lãnh đạo, thấp khi không có mặt lãnh đạo.
Thứ tư, không khí trong tổ chức phụ thuộc vào định hướng cá nhân.
1.2.3. Trường hợp áp dụng
Phong cách lãnh đạo độc đoán rất thích hợp khi có một mệnh lệnh từ cấp trên mô
tả những gì cần phải làm và phải làm như thế nào. Phong cách quản lí này cũng thích
hợp trong trường hợp các nhân viên còn hạn chế về kinh nghiệm hoặc thiếu những kĩ
năng cần thiết để hoàn thành công việc. Cần độc đoán với những người ưa chống đối,
những người không có tính tự chủ, thiếu nghị lực và kém tính sáng tạo.

2.


Các yếu tố ảnh hưởng đến việc hình thành phong cách lãnh đạo
Mỗi phong cách lãnh đạo có những ưu, nhược điểm riêng và việc lựa chọn phong
cách lãnh đạo phù hợp là rất quan trọng đối với nhà lãnh đạo trong quản lí, điều hành
công việc.
Xét về bản thân nhà lãnh đạo, việc hình thành phong cách có thể phụ thuộc vào:
tuổi tác, tính cách, kinh nghiệm, trình độ, năng lực, trạng thái tâm lí, nghề nghiệp, vị trí
công tác, đặc điểm ngành nghề và mục tiêu của bản thân họ.
Xét tới các yếu tố tác động từ bên ngoài, phong cách của nhà lãnh đạo dần được
định hình theo thời gian do: hoàn cảnh lãnh đạo, các tình huống quản trị, văn hóa quản
lí của đối tượng, mối quan hệ với nhân viên và giữa các nhân viên, mức độ sức ép công
việc và năng lực làm việc của nhân viên.
Từ đó có thể thấy phong cách lãnh đạo được hình thành từ kết quả của mối quan
hệ giữa tính cách cá nhân với môi trường và được biểu hiện bằng công thức: Phong
cách lãnh đạo = Cá tính x Môi truờng.

3.

Những nhà lãnh đạo tiêu biểu có phong cách lãnh đạo độc đoán


11

Chủ tịch Mao Trạch Đông:
Mao Trạch Đông đã lãnh đạo nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa cho đến năm
1976. Ông đã dẫn đầu Đảng Cộng sản Trung Quốc giành chiến thắng trong cuộc nội
chiến . Mao Trạch Đông đã được ghi nhận như là người anh hùng của nhân dân Trung
Quốc cho tới tận ngày hôm nay. Chủ tịch Mao đã sử dụng một số phương pháp lãnh
đạo theo chủ nghĩa Mác và ý tưởng từ Đảng cộng sản Nga. Tuy nhiên, rất nhiều chính
sách của ông đã gây ra cái chết của hàng triệu người Trung Quốc.

Porfirio Diaz:
Jose de la Cruz Porfirio Diaz Mori là một vị tướng Mexico, chính trị gia, nhà độc
tài, và Tổng thống cai trị Mexico với một bàn tay sắt bạo lực trong giai đoạn 18761911. Trong thời gian cầm quyền ông được coi là Porfiriato. Porfirio Diar đã có những
đóng góp tích cực vào sự tiến bộ của nền kinh tế Mexico trong thời gian ông tại nhiệm.
Nhưng những lợi ích từ việc ông làm không được nhiều người biết đến. Tuy
nhiên có hàng triệu người đã phải lao động như nô lệ trong suốt thời gian đó. Nền kinh
tế Mexico đã đi vào suy thoái trong những năm đầu của thế kỷ 20, một số lượng lớn
thợ mỏ đã đình công. Đây là khởi đầu cho sự kết thúc của triều đại Porfirio Diaz với tư
cách một nhà lãnh đạo.
Fidel Castro:
Fidel Castro là một chính trị gia, nhà lãnh đạo cách mạng, và một luật sư Cuba.
Ông đã có đóng góp lớn trong cuộc Cách mạng Cuba. Ông đã thách thức Mỹ trong
nhiều thập kỷ. Hầu hết người dân Cuba xem Fidel như con quái vật đã phá hủy Cuba.
Một số người khác xem ông như một người nhìn xa trông rộng bảo vệ đất nước tránh
khỏi chủ nghĩa tư bản.
Adolf Hitler:
Adolf Hitler là người gây ra cuộc tàn sát bi thảm nhất trong Thế chiến II. Nhân
loại sẽ không bao giờ quên cuộc thảm sát đẫm máu lấy đi hàng triệu mạng người Do
Thái của Hitler. Việc làm của ông cũng trực tiếp dẫn đến cuộc chiến tranh bạo lực nhất
trong lịch sử thế giới.
Pol Pot:
Pol Pot thường được biết đến với cái tên Saloth Sar. Pot đã tạo ra trại lao động và
các trang trại để nhốt người dân nếu họ không thực hiện theo chỉ thị của mình. Trong
suốt thời gian đương nhiệm, ông đã ép buộc rất nhiều người dân phải đào mộ chôn cất


12

lượng lớn người. Đó là những người bị chôn sống hoặc bị đánh đến chết để tiết kiệm
đạn. Pol Pot bị người Việt Nam lật đổ vào năm 1977, khi dám ngang nhiên đánh phá

biên giới Việt Nam. Người ta ước tính rằng một phần tư dân số Campuchia đã bị giết
trong thời gian Pol Pot trị vì.
Joseph Stalin:
Một sự thật ít được biết đến về Joseph Stalin đó là ông đã từng là một tên cướp
ngân hàng. Chính quyền cộng sản ban hành luật mới chống cướp ngân hàng, đó là lý
do Stalin từ chức và đi cướp ngân hàng để chứng minh bộ luật đó không có tác dụng.
Trong vụ cướp ngân hàng này, bốn mươi người đã bị sát hại. Stalin đã lãnh đạo Liên
Xô trong những năm 1922 đến 1956. Trong thời gian này, ông đã một phần gây ra nạn
chết đói của người dân nước mình tại các trại lao động.
Benito Mussolini:
Benito Mussolini đã bắt đầu sự nghiệp chính trị từ khi ông trở thành Thủ tướng
của Italy vào năm 1922. Ông đã lãnh đạo Italy lên đến đỉnh quyền lực và giành được
nhiều đất đai hơn kể từ thời đế chế La Mã. Ông giữ danh hiệu “Ngài Benito Mussolini,
đứng đầu Chính phủ và người sáng lập đế quốc”. Khi Mussolini muốn nghỉ hưu, Hitler
đe dọa và nói rằng nếu ông không trở về Ý và cố gắng khôi phục chủ nghĩa phát xít,
Đức quốc xã sẽ tiêu diệt một số thành phố Ý. Mussolini buộc phải đồng ý. Năm 1945,
ông đã bị quân cộng sản nổi dậy giết chết. Xương của ông bị treo lộn ngược ở Milan.
Vladimir Lenin:
Vladimir Lenin luôn tin tưởng vào những ý tưởng bắt nguồn từ chủ nghĩa Mác và
chủ nghĩa cộng sản. Ông xem đó là lực lượng giải phóng. Ông cũng tin tưởng vào
phong trào nữ quyền. Lenin đã ra lệnh “khủng bố đỏ” đối với những người phản đối
lãnh đạo và nhanh chóng xây dựng các trại lao động. Tỷ lệ tử vong tại các trại lao động
rất cao, nơi đây cũng xảy ra hàng loạt vụ hành quyết tại đây.
General Franco:
Franco đã từng là một quân nhân. Tây Ban Nha đã trải qua một cuộc cách mạng
và một chế độ độc tài mới dưới thời Francisco Franco trong cuộc chiến tranh Thế giới
thứ II khi Hitler tiêu diệt người Do Thái. Ông đã làm bạn với một số người tồi tệ nhất
trong nền chính trị châu Âu, nhưng Franco chưa bao giờ tham gia vào Thế chiến II.
Ông không hiếu chiến tham gia chống lại các quốc gia đồng minh.
Idi Amin:



13

Idi Amin là một nhà độc tài Uganda, đứng trong hàng ngũ của trung đoàn thuộc
địa của Anh và cuối cùng trở thành chỉ huy của toàn bộ quân đội Uganda. Ông nắm
quyền kiểm soát một phần nhỏ trung tâm các quốc gia châu Phi và sau đó tự tuyên bố
mình là tổng thống. Ông đã gây ra các vụ vi phạm nhân quyền, giết người và cũng là
người gửi thư tình cho Nữ hoàng Elizabeth.
Nhận xét chung: Tuy cùng là phong cách lãnh đạo độc đoán nhưng biểu hiện
phong cách này ở mỗi nhà lãnh đạo lại rất đa dạng bởi tình hình từng quốc gia là khác
nhau. Trong thời điểm hiện tại, chúng ta có thể nhìn nhận rằng ảnh hưởng của phong
cách lãnh đạo độc đoán của 10 vị kể trên tới đất nước của họ trong tương lai có vẻ như
tích cực ở một số vị như Mao Trạch Đông, và tiêu cực ở một số trường hợp khác như
Polpot hay Idi Amin… nhưng nhóm làm đề tài tin rằng trong thời điểm đó, những nhà
lãnh đạo này đều sử dụng những gì mà họ cho là tốt nhất đối với quốc gia của mình
dựa trên lý tưởng của họ. Do đó ta có thể thấy việc áp dụng phong cách lãnh đạo độc
đoán như thế nào cho phù hợp với hoàn cảnh là rất quan trọng, và đến thời điểm hiện
tại thì Lý Quang Diệu đã làm rất tốt điều đó.
II.

Giới thiệu về Lý Quang Diệu
1. Khái quát về tiểu sử, vai trò của Lý Quang Diệu đối với thành tựu của Singapore
Ông Lý Quang Diệu sinh ngày 16 tháng 9 năm 1923 trong một gia đình gốc Hoa
giàu có đã định cư tại Singapore từ thế kỷ 19. Sau thế chiến II, ông Lý Quang Diệu
theo học ngành luật ở ĐH Fitzwilliam tại Cambridge, Anh. Năm 1949, ông trở thành
luật sư nhưng về Singapore để xây dựng sự nghiệp. Tại đây ông trở thành người tư vấn
luật cho các hoạt động thương mại và các tổ chức liên đoàn sinh viên.
Năm 1954, Singapore là thuộc địa của Anh, nằm dưới quyền quản lý của một
thống đốc và hội đồng lập pháp được chỉ định. Ông Lý Quang Diệu khi ấy muốn thay

đổi cấu trúc quản trị của đất nước. Tháng 11 năm 1954, ông thành lập Đảng Nhân dân
hành động (PAP) và trở thành tổng thư ký PAP.


14

Năm 1955, một hiến pháp mới được đưa ra ở Singapore và trong cuộc bầu cử sau
đó, PAP giành 3 ghế ở hội đồng lập pháp.
Năm 1956 ông Lý Quang Diệu đến London cùng phái đoàn đòi quyền tự trị cho
Singapore.
Năm 1958, ông giúp thương thuyết đưa Singapore trở thành một chính phủ độc
lập (ngoại trừ các vấn đề về quốc phòng và ngoại giao).
Tháng 6 năm 1959, tổng tuyển cử diễn ra. Đảng PAP của ông Lý Quang Diệu
giành được 43 trong tổng số 51 ghế trong hội đồng lập pháp, Singapore giành quyền tự
trị trong mọi lĩnh vực của đất nước ngoại trừ quốc phòng và ngoại giao, chấm dứt
quãng thời gian là thuộc địa của Anh từ năm 1819.
Sau khi lên nắm quyền, ông Lý Quang Diệu thực hiện các chính sách phát triển
đô thị, xây nhà, cải tổ kinh tế, công nghiệp hóa… Ông kêu gọi sáp nhập Singapore vào
Malaysia và chấm dứt chế độ thuộc địa của Anh. Trưng cầu dân ý năm 1962 cho kết
quả 70% dân Singapore ủng hộ sáp nhập vào Malaysia. Năm 1963, Singapore gia nhập
Liên bang Malaysia.
Ngày 7 tháng 8 năm 1965, do căng thẳng giữa người gốc Hoa và người Malay
dẫn tới bạo động tại Singapore. Maylaysia quyết định trục xuất Singapore ra khỏi liên
bang. Ông Lý Quang Diệu ký thỏa thuận rời Malaysia. Ông Lý Quang Diệu phải đối
mặt với thách thức lớn bởi một Singapore rời Malaysia trở nên đơn độc trong khi
không có tài nguyên và năng lực quốc phòng hạn chế.
Singapore cần một nền kinh tế mạnh để tồn tại với tư cách quốc gia độc lập. Ông
Lý Quang Diệu thực hiện chương trình đưa Singapore trở thành một nhà xuất khẩu lớn
và khuyến khích đầu tư nước ngoài. Singapore cũng tìm kiếm sự công nhận quốc tế khi
gia nhập Liên Hiệp Quốc và Khối Thịnh vượng chung.

Thập niên 1980, Singapore đạt mức tăng trưởng cao, nâng cấp các ngành công
nghệ cao, khánh thành sân bay quốc tế Changi. Các chính sách của ông Lý Quang Diệu


15

đã đưa cảng Singapore trở thành một trong những hải cảng nhộn nhịp nhất thế giới.
Singapore trở thành trung tâm giao thông quan trọng của khu vực và là trong tâm du
lịch lớn.
Tháng 11 năm 1990, ông Lý Quang Diệu trao lại ghế thủ tướng cho ông Ngô Tác
Đống nhưng vẫn tiếp tục ở lại nội các với vị trí Bộ trưởng Cao cấp.
Tháng 8 năm 2004 Ngô Tác Đống rút lui và bàn giao chức vụ thủ tướng cho Lý
Hiển Long, con trai đầu của Lý Quang Diệu. Ông Lý đảm vụ chức vụ mới là Bộ trưởng
Cố vấn trong giai đoạn từ năm 2004 đến khi qua đời.
Ngày 23 tháng 3 năm 2015, ông Lý Quang Diệu qua đời ở tuổi 91 tại Bệnh viện
đa khoa Singapore để lại niềm tiếc thương vô bờ cho nhân dân Singapore cũng như
cộng đồng quốc tế.
2. Các yếu tố giúp hình thành nên phong cách lãnh đạo của Lý Quang Diệu
Có học vấn cao
Có rất nhiều yếu tố giúp ông Lý Quang Diệu trở thành một chính khách lỗi lạc và
học vấn là một trong những yếu tố ấy.
Dù sinh ra trong một gia đình gốc Hoa, ông nói tiếng Anh và được học tại các
trường Anh nổi tiếng ở Singapore. Là người thông minh, ông luôn là một học sinh, sinh
viên xuất sắc, thường xuyên đứng đầu tại các kỳ thi và được trao nhiều học bổng danh
giá.
Ông đã được nhận một học bổng vào học kinh tế, văn chương Anh và toán tại
Raffles College – nay là Đại học quốc gia Singapore. Đây cũng là nơi ông gặp bà Kha
Ngọc Chi, người vợ tương lai của ông và nhiều đồng nghiệp, cộng sự của ông sau đó.
Việc học của ông bị gián đoạn trong thời kỳ Nhật chiếm đóng Singapore nhưng
năm 1946, ông đã sang Anh vào học tại trường kinh tế London và sau đó chuyển tới

trường Fitzwilliam, thuộc đại học Cambridge. Tại đây ông đạt những thành tích cao và
được trao tấm bằng hạng ưu ngành luật vào năm 1949.


16

Trong số những người lập quốc hay thế hệ lãnh đạo đầu tiên của các quốc gia hậu
thuộc địa, trong đó có Việt Nam, hiếm có ai được đào tạo bài bản, học vấn cao, và có
điều kiện tiếp xúc nhiều với giới trí thức, học hỏi được những tiến bộ – đặc biệt liên
quan đến chính trị, luật pháp – của các nước phương Tây như ông.
Được học cao, được đào tạo bài bản tại những trường có uy tín của Anh là một lý
do quan trọng tại sao ông Lý Quang Diệu vượt trội các nhà lãnh đạo ở các quốc gia hậu
thuộc địa cùng thời với ông hay thậm chí sau ông, về nhiều mặt – đặc biệt về nhận
thức, tầm nhìn.
Nhìn xa trông rộng
Khi nói về ông Lý Quang Diệu, giới quan sát, nghiên cứu đều cho rằng ông là
một người vừa khôn ngoan, nhạy bén, thức thời, vừa rất thực dụng.
Chẳng hạn, dù Singapore cũng từng bị thuộc địa và ông luôn muốn hòn đảo này
thoát khỏi sự phụ thuộc, cai trị của Anh, ông không chỉ không phủ nhận mà còn biết
tiếp thu, áp dụng những tiến bộ – đặc biệt về kinh tế, công nghệ – của Anh và các nước
phương Tây khác.
Mặc dù phần lớn người Singapore – và chính bản thân ông cũng là một – người
gốc Hoa, ông không chọn tiếng Hoa mà là tiếng Anh để làm ngôn ngữ chính cho đảo
quốc này. Quyết định đó không chỉ giúp người dân Singapore dễ dàng tiếp xúc với các
nước phát triển như Anh, Mỹ và học hỏi, tiếp nhận tri thức, công nghệ cao của phương
Tây mà còn bắc cầu để những tập đoàn lớn trên thế giới đến với hòn đảo nhỏ này.
Là một trí thức, ông Lý Quang Diệu, rất coi trọng giáo dục, tri thức, trọng dụng
người hiền tài. Ông chú tâm phát triển, trọng dụng nhân tài ở trong nước và luôn tìm
cách thu hút chất xám, người tài từ các nước.
Hơn nữa, là một người hiểu biết rộng, thông minh ông Diệu không giáo điều, máy

móc. Trái lại, ông rất thực dụng. Thay vì dựa vào một chủ thuyết nào đó để giúp
Singapore tồn tại, phát triển, ông nhìn thẳng vào chính những điểm yếu, thế mạnh của


17

Singapore và bối cảnh chính trị khu vực và cố phát huy, tận dụng tất cả những điểm đó,
biến chúng thành cơ hội, thế mạnh cho đất nước mình.
Một điểm nổi bật khác, đáng trân trọng nữa nơi ông mà không phải nhà lãnh đạo
nào cũng có đó là trung thực, mẫu mực, coi trọng luật pháp. Chính điều này đã giúp
Singapore trở thành một quốc gia châu Á minh bạch nhất và luôn nằm trong 10 nước ít
tham nhũng nhất thế giới. Có thể việc ông theo học ngành luật và tốt nghiệp xuất sắc
về ngành này từ một trường đại học danh tiếng cũng tác động rất lớn đến tính cách này
của ông.
Ông Lý Quang Diệu có nhiều tính cách, phẩm chất khác giúp ông trở thành một
chính trị gia lỗi lạc. Nhưng nhãn quan biết nhìn xa, trông rộng của ông là một yếu tố
quan trọng giúp ông làm nên bao điều ‘thần kỳ’ cho Singapore.
Từ một nước nghèo, kém phát triển, thiếu tài nguyên, lại phải đối diện nhiều bất
ổn xã hội, chỉ trong một thời gian ngắn Singapore đã trở thành một quốc gia giàu có,
văn minh, ổn định, bỏ xa tất cả các nước trong khu vực.
Chẳng hạn, theo số liệu của Ngân hàng Thế giới, vào năm 1960 – một năm sau
khi ông lên nắm giữ chức Thủ tướng Singapore tự trị – ước tính thu nhập bình quân
đầu người của Singapore là 395 USD. Con số đó ở miền Nam Việt Nam là 223 USD và
miền Bắc Việt Nam là 74 USD.
Nhưng năm 2013, thu nhập bình quân đầu người ở Singapore lên tới 55,182 USD
trong khi ấy ở Việt Nam chỉ là 1,910 USD.

3. Đánh giá về phẩm chất và năng lực lãnh đạo của Lý Quang Diệu
Lý Quang Diệu nhận được sự kính trọng của nhiều người Singapore, đặc biệt là
những người lớn tuổi, họ luôn nhớ đến khả năng lãnh đạo của ông trong thời kỳ độc lập

và tách rời khỏi Malaysia. Ông được quốc tế nhiều lần vinh danh như huân chương
Mặt trời mọc năm 1967, giải thưởng Woodrow Wilson cho dịch vụ công do Trung tâm


18

Học giả Quốc tế Woodrow Wilson trao tặng. Tổng thống Obama gọi ông Lý là “người
giúp thúc đẩy các phép màu kinh tế Châu Á” và “Huyền thoại của Châu Á trong thế kỷ
20 và 21”. Sau khi ông qua đời, “Thủ tướng chính phủ đã tuyên bố thời gian Quốc tang
kể từ ngày 23/3 đến 29/3… Như một dấu hiệu của sự tôn trọng những năm cuối đời của
ông Lý Quang Diệu, những lá cờ trên tất cả các tòa nhà chính phủ sẽ được treo rủ từ
hôm nay cho đến chủ nhật” (Nguồn: Thông báo của văn phòng thủ tướng Singapore về
việc tổ chức quốc tang ông Lý Quang Diệu).
Trong suốt cuộc đời mình với vai trò là một chính khách, ông Lý Quang Diệu
được nhận xét là một nhà lãnh đạo tài ba, độc đoán nhưng linh hoạt. Một số biểu hiện
nổi bật làm nên nét riêng biệt trong phong cách lãnh đạo mà người ta thấy ở ông đó là:
thẳng thắn, vì dân và theo tiêu chuẩn đạo đức cao. Chính những phẩm chất tốt đẹp
đáng quý trọng ấy kết hợp với đặc trưng đến từ phong cách độc đoán đã giúp Lý Quang
Diệu đặt nền móng dẫn dắt Singapore trở thành một trong số ít các trung tâm của Châu
Á như ngày hôm nay.

III.

Phân tích phong cách lãnh đạo của Lý Quang Diệu
1. Những đặc trưng trong phong cách lãnh đạo của Lý Quang Diệu
Cố Thủ tướng Singapore Lý Quang Diệu nổi tiếng là người làm nhiều hơn nói,
phong cách lãnh đạo của ông có thể được nhận thấy qua cách ông tác động lên tất cả
các khía cạnh của đất nước Singapore và đời sống của những người dân ở đây. Bởi vậy
nhóm đã lựa chọn tìm hiểu phong cách lãnh đạo của ông Lý Quang Diệu dựa trên
cách tiếp cận theo hành vi, vì dựa vào các hành vi để tìm ra phong cách lãnh đạo rất

phù hợp với một vị chính khách tích cực tham gia vào nhiều hoạt động như ông.
Dựa trên nghiên cứu từ Đại học Iowa của Kurt Lewin, dễ dàng nhận thấy Lý
Quang Diệu là nhà lãnh đạo có phong cách độc đoán. Bảng sau đây phân tích phong
cách chuyên quyền của Lý Quang Diệu thông qua sự tóm lược về hành vi của ông
trong khoảng thời gian đương nhiệm:


19

S
T
T

Tiêu chí

1

Ra quyết định (Decision
Making)

2

Quyền lực (Power)

3

Kiểm soát (Supervise)

Biểu hiện của phong cách độc đoán ở Lý
Quang Diệu (Autocratic)

Ra quyết định đơn phương
Lý Quang Diệu đã tự mình đề ra các quyết sách
mà hầu hết không để tâm đến sự đồng thuận hay
không của số đông, dù luôn tham khảo ý kiến của
người dân nhưng bản thân ông vẫn là người ra
quyết định cuối cùng. Ông từng nhiều lần bất chấp
sự phản đối của một bộ phận dân chúng, nghiệp
đoàn, các phe đối lập... và tự ra quyết định dựa
trên phân tích cá nhân.
Tập trung quyền lực
Trong khoảng thời gian đương nhiệm, ông Lý là
người đứng đầu nhà nước Singapore, mọi quyết
sách đều cần có sự đồng ý của ông. Ông đứng đầu
PAP - Đảng cầm quyền tại Singapore, về cơ bản
Singapore vẫn luôn do đảng phái của ông Lý chi
phối và thống trị từ khi PAP được thành lập đến
nay (1959-2015).
Kiểm soát chặt chẽ
Ở thời kỳ tại chức của mình, ông Lý Quang Diệu
tiến hành kiểm soát rất chặt chẽ truyền thông
trong nước và hạn chế tự do dân sự, siết chặt các
quy định và đảm bảo sự tuân thủ pháp luật tuyệt
đối của người dân, ông cũng nổi tiếng trong việc
can thiệp quá sâu vào lối sống của người dân. Tất
cả nhữngbiểu hiện đó của Lý Quang Diệu đều
nhằm mục đích kiểm soát nghiêm ngặt cả ý thức
và hành động của công dân trong nước, hướng tới
mục tiêu phát triển quốc gia bền vững.



20

4

Yêu cầu (Requirement)

Chuyên quyền, yêu cầu sự phục tùng
Ông Lý luôn đòi hỏi sự phục tùng tuyệt đối ở
những người dưới quyền và sự tuân thủ nghiêm
ngặt từ phía người dân đối với những quyết sách
mà ông đã đưa ra. Yêu cầu do ông đưa ra hầu như
được tuân thủ một cách tuyệt đối, bởi dựa trên hệ
thống pháp luật nghiêm ngặt, những người chống
lại mệnh lệnh hay vi phạm quy định do ông đưa ra
đều phải chịu mức phạt rất nặng. Điều này được
thể hiện rất rõ trong việc các quy định rất nhỏ nhặt
tại Singapore như không được hút thuốc và nhai
kẹo cao su, không ăn uống khi đi trên các phương
tiện công cộng, không được di chuyển bên phải...
đều được người dân tuyệt đối thực hiện và đã dần
trở thành thói quen của mỗi người dân ở đây.

Biểu hiện của phong cách lãnh đạo độc đoán ở Lý Quang Diệu
Ông đã dùng quyền lực của mình tác động vào mọi khía cạnh cuộc sống của
1.1.



người dân nước Singapore:
Để hạn chế gia tăng dân số, ông quy định phụ nữ sinh con thứ ba trở đi sẽ được hưởng

thời gian nghỉ thai sản ngắn hơn, đồng thời phải chi trả mức viện phí cao hơn và quyền
giảm trừ thuế của họ cũng bị ảnh hưởng. Đặc biệt, chính phủ nước này còn thưởng
5.000 SGD cho bất cứ cặp vợ chồng nào chấp nhận triệt sản sau đứa con thứ hai. Họ
cũng sẽ được ưu tiên đăng ký mua nhà ở giá thấp và con cái của họ được chọn trường



dễ dàng hơn.
Về quản lý trật tự xã hội, những hành vi như xả rác, hút thuốc hay khạc nhổ nơi công

cộng đều bị phạt tiền.
• Ông Lý cũng là nhà lãnh đạo Singapore đầu tiên tuyên chiến với thuốc lá. Trong những
tuần lễ “Không Thuốc lá”, bảng quảng cáo điện tử ở các trung tâm thương mại đều
phải hiển thị các thông điệp kêu gọi ngừng hút thuốc. Cùng với nhiều biện pháp
nghiêm khắc, tỉ lệ người dùng thuốc lá trong dân số nước này đã giảm từ 23% xuống
chỉ còn khoảng 13%.
• Một đạo luật khác được ông Lý ban hành chính là việc người lao động phải tiết kiệm
1/4 số tiền lương nhận được mỗi tháng. Khoản tiền này sẽ chỉ được rút ra khi họ đến 55
tuổi. Trong thời gian đó, Quỹ Tiết kiệm Trung ương do Chính phủ quản lý sẽ dùng số


21

tiền này để xây dựng đường sá, trường học, bệnh viện và các cơ sở quan trọng khác
phục vụ cộng đồng.
Những quan điểm, biểu hiện độc đoán của Lý Quang Diệu trong thời kỳ
Singapore đổi mới:


Hơn 50 năm trước, khi Singapore đang trong thời kỳ đầu độc lập, khi đó đất nước

Singapore chưa chắc chắn về sự tồn vong kinh tế và gặp muôn vàn khó khăn. Lý
Quang Diệu với một tầm nhìn rằng hình ảnh Singapore sẽ không lẫn vào các nước Thế
giới thứ 3 và ông đã ra một quyết định táo bạo: trồng nhiều cây cối để phủ xanh đảo
quốc. Ông đã cử người đi khắp nơi, đến các vùng xích đạo, vùng nhiệt đới, vùng cận
nhiệt đới, để tìm những giống cây hoặc dây leo mới. Họ đến châu Phi, vùng Caribbean,
châu Mỹ và mang về một số giống cây mới. Thủ tướng lập quốc của Singapore chọn
thời điểm trồng cây vào mùa hè, mùa hạn hán, để nhấn mạnh tầm quan trọng của chiến

dịch phủ xanh cả nước.
• Vào những năm đầu tiên lên nắm quyền Thủ tướng của Singapore, đất nước này đang
lâm vào tình cảnh túng quẫn, và đương nhiên cái ăn là thứ đầu tiên mà một người mẹ
trong nhà phải tính tới. Nền kinh tế của Singapore lúc bấy giờ lệ thuộc chủ yếu vào các
căn cứ quân sự sắp đóng cửa của Anh. Chiến thuật cơ bản của Lý Quang Diệu ngay từ
đầu là ra sức "mời gọi" các công ty nước ngoài đến mở các xưởng nhỏ ở Singapore, dù
thường là họ trả những đồng lương rẻ mạt. Giữa thời điểm các nước đang phát triển ra
sức dèm pha đế quốc kinh tế, nhà lãnh đạo Singapore trả thảm đỏ mời các "tên đế
quốc" đó vào Singapore. Đã từng có thời gian học luật và hành nghề luật sư bảo vệ
quyền lợi của nghiệp đoàn, Lý Quang Diệu lúc này kìm hãm nghiệp đoàn không
thương tiếc vì sợ họ làm cản bước các nhà đầu tư. Vào 1976, ông bị một nghiệp đoàn
rất hùng mạnh thách thức. Lý Quang Diệu lúc đó đã đưa ra câu trả lời rất dứt khoát: bắt
luôn 15 lãnh đạo nghiệp đoàn, xóa sổ nghiệp đoàn và tuyên bố các công nhân biểu tình
đã tự sa thải họ.
• Về trao quyền lực chính trị cho quần chúng: Vì Lý Quang Diệu rất coi trọng kiến thức
và chuyên môn của các nhà lãnh đạo, ông là người đại diện của dân chủ vì thế ông luôn
cho rằng để có một chính quyền tốt, thì người dân cũng phải có trình độ để đảm nhiệm


22

được các vị chí cao trong nhà nước. Lý Quang Diệu đã quan sát trong 40 năm với một

hế thống nghèo nàn của chính phủ nhưng với những người có kiến thức, sự hiểu biết
rộng lớn, đất nước đó vẫn phát triển nhanh chóng. Thực tế, với sự độc tài của Lý
Quang Diệu, ông trấn áp những người đối lập, tìm mọi cách để ngăn chặn sự phát triển
của xã hội dân sự, ưu tiên cho những thành phần ưu tú, để cho gia đình ông nắm giữ
những chức vụ cao cấp trong bộ máy chính quyền cũng như trong các lĩnh vực kinh tế,
có những chủ trương khắc nghiệt trong chính trị.
• "Khi người ta nói "Hãy hỏi mọi người đi", thì đó chỉ là chuyện trẻ con vớ vẩn.. Người
ta nói người dân có thể nghĩ cho bản thân mình ư? Các bạn có thực sự tin là một
người không qua nổi bậc tiểu học biết được những hậu quả từ sự lựa chọn của anh ta,
khi anh ta dùng bản năng để trả lời những câu hỏi về ngôn ngữ, văn hóa và tôn giá?...
Chúng tôi sẽ chết đói, chúng tôi sẽ có xung đột sắc tộc. Chúng tôi sẽ bị chia năm xẻ
bảy". (Trích cuốn "Lee Kuan Yew: The Man and His Ideas", 1998)
• Về đối thủ và những người chỉ trích: “Do phong cách và cách phản ứng của tôi như
vậy, không ai nghi ngờ về việc nếu anh đấu với tôi, tôi sẽ dùng tới quả đấm sắt và dồn
anh vào ngõ cụt… Nếu anh nghĩ anh có thể khiến tôi đau hơn những gì tôi có thể làm
với anh, hãy thử xem. Không còn cách nào khác ngoài cách này để có thể lãnh đạo
một xã hội người Hoa”. (Trích cuốn "Lee Kuan Yew: The Man and His Ideas", 1998)
• Về can thiệp vào đời sống riêng tư của người dân: “Tôi thường bị chỉ trích là can thiệp
vào đời sống riêng tư của người dân. Vâng, nhưng nếu tôi không làm vậy, thì chúng ta
không thể có ngày hôm nay. Và tôi không hề hối tiếc một chút nào cả khi nói rằng,
chúng ta không thể đạt được tiến bộ kinh tế nếu không can thiệp vào những vấn đề rất
riêng tư như láng giềng của anh là ai, anh sống ra sao, anh gây tiếng ồn gì, anh khạc
nhổ thế nào, hay anh dùng ngôn ngữ nào... Chúng tôi quyết định điều gì là đúng.
Đừng bao giờ bận tâm chuyện mọi người nghĩ gì”. (Ông Lý Quang Diệu phát biểu trên
tờ Straits Times, 1987)
• Về đạo Hồi: “Tôi nghĩ rằng mọi chuyện đã diễn ra êm đẹp cho tới khi xuất hiện làn
sóng người theo đạo Hồi tới đây. Nếu bạn hỏi về quan điểm của tôi, thì tôi nói là các
cộng đồng khác hòa nhập dễ dàng hơn về kết bạn, kết hôn so với người Hồi giáo. Hôm
nay, tôi muốn nói là chúng tôi có thể hòa nhập tất cả các tôn giáo và sắc tộc, trừ người



23

theo đạo Hồi”. (Trích cuốn “Lee Kuan Yew: Hard Truths to Keep Singapore Going”,
2011. Về sau, ông Lý Quang Diệu đã rút lại câu nói này)
• Về tự do báo chí: Lý Quang Diệu luôn cho rằng tự do báo chí và tự do ngôn luận phải
nhường quyền cho những lợi ích thiết yêu, toàn vẹn của đất nước. Ông cho rằng chúng
là công cụ đắc lực của một chính phủ ưu việt nhất.“Chúng tôi cho phép các nhà báo
người Mỹ tới Singapore để đưa tin về Singapore cho người dân nước họ biết… Nhưng
chúng tôi không thể cho phép họ chiếm vai trò ở Singapore như truyền thông Mỹ có ở
Mỹ. Đó là vai trò giám sát, đối nghịch và thẩm tra chính quyền”.
Nét riêng trong phong cách lãnh đạo độc đoán của Lý Quang Diệu
Có thể nói Lý Quang Diệu là một trong số rất ít những nhà độc tài thành công và
1.2.

được ngưỡng mộ trên thế giới trong thế kỷ 20. Một trong những minh chứng rõ nét
nhất đó là ông nắm quyền Thủ tướng trong suốt năm 1959 đến 1990, kéo dài hơn 30
năm. Không có một Thủ tướng nào được tại vị lâu hơn ông. Kể cả sau khi ông thoái vị
thì với chức bộ trưởng danh dự (senior ministor) và người hướng dẫn các bộ trưởng
khác (minister mentor), ông tiếp tục có ảnh hưởng lớn trong việc định hướng phát triển
cho Singpaore. Sự độc đoán trong các chính sách của ông trong những ngày đầu làm
Thủ tướng đã giúp Singapore được cả thế giới nhìn nhận là một đảo quốc thịnh vượng,
an toàn và sạch sẽ. Các tập đoàn đa quốc gia đều có mặt tại đây. Và nếu không có một
nhà lãnh đạo như Lý Quang Diệu, Singapore sẽ phải mất nhiều thời gian hơn để đạt
được những thành tựu như bây giờ.
Mặc dù sự độc tài của ông được thể hiện rất rõ trong việc ông trấn áp những
người đối lập mình, đề ra các chính sách ngăn chặn sự phát triển của xã hội dân sự để
ưu tiên cho những thành phần ưu tú nắm giữ những chức vụ quan trọng trong quốc hội
cũng như nhà nước Singapore. Đặc biệt là những chủ trương có phần hà khắc của mình
để bảo vệ một Singapore trong sạch, không tội phạm, không tham nhũng, luôn lành

manh. Tuy nhiên phần lớn những người dân tại quốc đảo này vẫn luôn hài lòng với
những quyết định có phần độc tài đó của ông. Họ luôn hiểu được nguyên nhân của sự
độc tài là từ mong muốn của ông để giúp Singapore ngày một lớn mạnh, có một hệ
thống quản trị tốt và hữu hiệu, đẩy nhanh quá trình hiện đại hóa đất nước


24

Nếu xem xét một cách kỹ lưỡng, không ít những người kiệt suất có tính cách
cứng rắn, độc đoán, mang lại cảm giác cho những người khác về một sự độc tài, nhưng
nếu xem xét kỹ thì Lý Quang Diệu hoàn toàn không phải như vậy. Điểm đặc biệt trong
sự độc đoán của ông thể hiện rõ ở ba khía cạnh. Thứ nhất, xét về sứ mệnh, Lý Quang
Diệu và hệ thống chính trị Singapore luôn duy lý, thẳng thắn, thực tế và luôn lấy thành
công thực tế làm thước đo cho mình. Triết lý của ông nhấn mạnh đến sự khắc nghiệt
của đời sống, rằng khả năng của côn người là hữu hạn, và con người chỉ có thể xây
dựng được một xã hội tốt đẹp bằng phẩm giá và sự chăm chỉ. Thứ hai, xét về tinh thần
tôn trọng tri thức và pháp luật, ông đã hướng đất nước Singapore thành một đất nước
có hệ thống giáo dục và nghiên cứu hàng đầu thế giới, nơi những con người tài năng
nhất được trọng dụng. Thực tế chứng minh rằng Singapore là một đất nước nổi tiếng
minh bạch và có một hệ thống tư pháp hoàn hảo. Cuối cùng, xét về năng lực phê phán,
một nhà độc tài sẽ thường tự lừa dối và huyễn hoặc, bóp méo hiện thực, không khách
quan mặc dù đang ngập chân trong sự thối nát. Lý Quang Diệu hoàn toàn ngược lại,
ông luôn khâm phục người Mỹ và hệ thống chính trị Anh-Mỹ. Nhưng ông cũng cho
rằng, có sự khác biệt nhất định về văn hóa giữa Anh-Mỹ và Đông Á, và vì thế,
Singapore không thể rập khuôn hệ thống khác mà thành công được. Nếu ai đó cho rằng
Lý Quang Diệu độc tài thì hãy xem ông đã nói gì "Các bạn có thể lên mạng, có thể
đăng tải quan điểm của mình, xuất bản tạp chí hay tờ báo của mình, không có gì cản
trở các bạn. Nhưng nếu bạn bôi nhọ bất cứ điều gì, chúng tôi sẽ kiện bạn. Bất cứ điều
gì sai sự thật và làm mất danh dự, chúng tôi sẽ khởi kiện."
1.2.1. Sự thẳng thắn

Các chuyên gia và những người từng tiếp xúc với ông Lý Quang Diệu thường
mô tả ông là một nhà lãnh đạo có phong cách rất phương Tây dù ông xuất thân từ một
gia đình gốc Hoa. Ông không bao giờ vòng vo tam quốc mà luôn thẳng thắn, trực tiếp,
nghĩ gì nói nấy. Ví dụ, khi đất nước Singapore mới thành lập còn gặp nhiều khó khăn,
ông Lý Quang Diệu cương quyết không phụ thuộc vào viện trợ nước ngoài. Ngày 9-91967 khi nói chuyện với các công nhân Singapore, ông Lý Quang Diệu thẳng thừng


25

cảnh báo: “Thế giới không nợ gì chúng ta cả. Chúng ta không thể sống bằng chén cơm
ăn mày”.
Khi giải thích với người dân lý do các quan chức chính phủ phải hưởng mức
lương cao, ông Lý Quang Diệu nói một cách rất đơn giản “Mức lương thấp chỉ thu hút
những kẻ đạo đức giả, miệng hô to khẩu hiệu rằng muốn phục vụ nhân dân, nhưng khi
lên nắm quyền thì lập tức thể hiện rõ bản chất và phá hoại đất nước”. Mục tiêu của ông
là đảm bảo xây dựng một chính phủ trong sạch và trung thực.
Có lần một nhà báo hỏi ông Lý Quang Diệu rằng ông nghĩ gì khi bị chỉ trích là
can thiệp quá sâu vào cuộc sống riêng tư của người dân Singapore. Ông trả lời một
cách quyết liệt: “Nếu tôi không làm như thế thì chúng tôi đã không có ngày hôm nay,
đã không thể tiến bộ về kinh tế. Tôi nói như vậy mà chẳng có gì hối tiếc cả”. Ông
khẳng định thêm: “Nếu chúng tôi không can thiệp vào những vấn đề cá nhân như hàng
xóm của bạn là ai, bạn sống thế nào, bạn gây ồn ra sao, nhổ bậy hay ăn nói như thế
nào… Chúng tôi quyết định điều gì là đúng và không cần biết người dân nghĩ gì”. Ông
Lý Quang Diệu từng tự hào nói: “Tôi từng bị buộc nhiều tội, nhưng kể cả kẻ thù tồi tệ
nhất cũng chưa bao giờ buộc tội tôi là không dám nói thẳng suy nghĩ của mình”.
Không ít người cảm thấy bị sốc vì sự thẳng thắn của ông Lý Quang Diệu.
Nhưng học giả Smedinghoff và đa số chuyên gia đều cho rằng phẩm chất đó đã giúp
ông Lý Quang Diệu giành được niềm tin của người dân Singapore. Họ hiểu rằng họ có
thể tin tưởng vào vị thủ tướng đầu tiên của đất nước. “Có bao nhiêu nhà lãnh đạo đủ
dũng khí để nói ra rõ ràng những suy nghĩ của mình như vậy?” - học giả Smedinghoff

đặt câu hỏi.
1.2.2.

Nhà lãnh đạo vì dân

Giáo sư Andrew Dubrin thuộc Viện Công nghệ Rochester (Mỹ), một chuyên gia
về tổ chức và quản trị, đánh giá ông Lý Quang Diệu là hình mẫu của thủ tướng phục vụ
nhân dân.


×