Tải bản đầy đủ (.docx) (91 trang)

NGHIÊN cứu đặc điểm DỊCH tễ học lâm SÀNG của HO gà ở TRẺ dưới 3 THÁNG TUỔI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.32 MB, 91 trang )

B GIO DC V O TO
TRNG I HC Y H NI

B Y T

PHAN TH THY NGN

Nghiên cứu đặc điểm dịch tễ học lâm sàng
của ho Gà ở trẻ dới 3 tháng tuổi
Chuyờn ngnh: Nhi khoa
Mó s: 60720135

LUN VN THC S Y HC
Ging viờn hng dn khoa hc:
GS.TS.

PHM NHT AN
H NI -2018

B GIO DC V O TO

B Y T


TRNG I HC Y H NI

PHAN TH THY NGN

Nghiên cứu đặc điểm dịch tễ học lâm sàng
của ho Gà ở trẻ dới 3 tháng tuổi
Chuyờn ngnh: Nhi khoa


Mó s: 8720106

LUN VN THC S Y HC

Ngi hng dn khoa hc:
GS.TS. PHM NHT AN

H NI -2018


LỜI CẢM ƠN
Lời đầu tiên tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành đến tất cả các thầy cô,
anh chị bác sỹ tại các bệnh viện, những bệnh nhân trong quá trình học và làm
việc tại bệnh viện là những người thầy đã tận tình giảng dạy, chỉ bảo và giúp
đỡ tôi thực hiện nghiên cứu và số liệu trong suốt thời gian học tập và nghiên
cứu tại Trường Đại học Y Hà Nội.
Với tất cả lòng kính trọng và biết ơn tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến
GS. TS. Phạm Nhật An – giảng viên Bộ môn Nhi trường Đại học Y Hà Nội là
người thầy đã nhiệt tình, tận tâm giảng dạy, truyền đạt kiến thức, kinh nghiệm
chuyên môn, lòng yêu nghề, động viên và giúp đỡ cho tôi trong suốt quá trình
thực hiện và hoàn thiện luận văn này.
Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành tới các Giáo sư, Phó giáo sư, Tiến sĩ
trong hội đồng thông qua đề cương và hội đồng chấm luận văn tốt nghiệp đã
cho tôi nhiều chỉ dẫn quý báu để đề tài đi tới đích.
Tôi xin chân thành cảm ơn, Ban giám hiệu trường Đại học Y Hà Nội, Bộ
môn Nhi trường Đại học Y Hà Nội, Ban giám đốc Bệnh viện Nhi Trung
Ương, Khoa Truyền Nhiễm bệnh viện Nhi Trung ương đã quan tâm giúp đỡ
và tạo điều kiện cho tôi trong suốt quá trình nghiên cứu, học tập tại nhà
trường và bệnh viện. Cảm ơn các anh chị, bạn bè đồng nghiệp đã đóng góp
nhiều ý kiến, động viên, giúp đỡ tôi trong quá trình học tập và hoàn thành

luận văn này.
Cuối cùng tôi xin gửi tặng luận văn này tới bố mẹ tôi và người bạn đã
luôn yêu thương, động viên, giúp đỡ, hy sinh để chấp cánh cho ước mơ của
tôi, là động lực cho sự phấn đấu nỗ lực của tôi ngày hôm nay.
Hà Nội, ngày 9 tháng 9 năm 2018
Tác giả
Phan Thị Thúy Ngân


LỜI CAM ĐOAN

Tôi là Phan Thị Thúy Ngân, học viên BSNT khóa 41, chuyên ngành
Nhi khoa - Trường Đại học Y Hà Nội, xin cam đoan:
1. Đây là luận văn do bản thân tôi thực hiện dưới sự hướng dẫn của
GS.TS. Phạm Nhật An
2. Công trình này không trùng lặp với bất cứ nghiên cứu nào đã được
công bố ở Việt Nam.
3. Các số liệu và thông tin nghiên cứu là hoàn toàn trung thực, chính
xác và khách quan, được sự xác nhận của cơ sở nghiên cứu.
Tôi xin chịu hoàn toàn trách nhiệm về những cam kết này.
Hà Nội, ngày 9 tháng 9 năm 2018
Tác giả luận văn

Phan Thị Thúy Ngân


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
CDC
DPT
DtaP/Tdap

ELISA
FHA
PCR
PT
TCT
WHO

Centers for disease control and prevention
Trung tâm kiểm soát và phòng ngừa dịch bệnh Hoa Kì
Diphtheria - Pertussis - Tetanus
Bạch hầu - ho gà - uốn ván
Diphtheria - Tetanus - acellular Pertussis
Bạch hầu - uốn ván - ho gà vô bào
Enzym-Linked Immunisorbent-Assay
Xét nghiệm hấp thụ miễn dịch liên kết Enzyme
filamentous hemagglutinin
Sợi ngưng kết hồng cầu
Polymerase Chain Reaction
Phản ứng khuếch đại gen
Pertussis toxin
Độc tố ho gà
Tracheal cytotoxin
Chất gây độc tế bào khí quản
World health organization
Tổ chức y tế thế giới


MỤC LỤC
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC



DANH MỤC BẢNG


DANH MỤC BIỂU ĐỒ


DANH MỤC HÌNH

DANH MỤC SƠ ĐỒ


10

ĐẶT VẤN ĐỀ

Ho gà là bệnh nhiễm trùng đường hô hấp cấp gây ra bởi vi khuẩn
Bordetella pertussis. Mặc dù đã có vắc xin tiêm phòng nhưng ho gà vẫn là một
căn nguyên gây nhiễm trùng đường hô hấp thường gặp ở trẻ nhỏ, chưa được
kiểm soát hoàn toàn gây nhiều biến chứng, thậm chí tử vong ở trẻ nhỏ [1] [2].
Theo ước tính của Tổ chức Y tế thế giới (WHO) năm 2008 có khoảng
16.000.000 ca mắc ho gà trên toàn thế giới, 95% số ca mắc xảy ra ở các nước
đang phát triển và khoảng 195.000 trẻ tử vong do mắc ho gà [3]. Năm 2013
theo ước tính của nghiên cứu đo lường gánh nặng bệnh tật toàn cầu, tỷ lệ tử
vong ở trẻ nhỏ dưới một tuổi do ho gà xấp xỉ 400/1000000 trẻ đẻ sống - một
con số thực sự đáng báo động [4]. Theo số liệu báo cáo năm 2014 của Trung
tâm Kiểm soát và Phòng ngừa dịch bệnh Hoa Kì (CDC) có 32971 ca bệnh ho
gà được báo cáo, tăng hơn 15% so với năm 2013, xu hướng mắc gia tăng ở
nhóm trẻ vị thành niên và trẻ nhỏ dưới 3 tháng tuổi, phần lớn số ca tử vong

xảy ra ở trẻ nhỏ dưới 3 tháng tuổi – nhóm trẻ chưa được tiêm phòng vắc xin
hoặc chưa tiêm đủ mũi vắc xin có nguy cơ cao mắc biến chứng nặng [2] [5].
Tại Việt Nam, chương trình tiêm chủng mở rộng bắt đầu thực hiện tiêm
phòng ba liều vắc xin Bạch hầu – Ho gà – Uốn ván (DPT) cho trẻ nhỏ dưới 1
tuổi từ năm 1984. Trải qua hơn 30 năm tỷ lệ bao phủ vắc xin DPT đã đạt trên
90%. Liên tục từ năm 2006 - 2012 không có ca nào tử vong do mắc ho gà [6].
Tuy nhiên theo thống kê của Cục Y tế dự phòng Việt Nam trong ba tháng đầu
năm 2017 cả nước ghi nhận có 83 trường hợp mắc ho gà, 5 ca tử vong tại các
tỉnh phía Bắc, trong đó Hà Nội có số ca mắc cao nhất. 80% số ca mắc là trẻ
nhỏ dưới 3 tháng tuổi [7]. Tại Việt Nam chưa có nghiên cứu nào tìm hiểu về
đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng của ho gà ở trẻ dưới 3 tháng tuổi nhằm mục
đích chẩn đoán và điều trị sớm, giảm thiểu tỉ lệ biến chứng. Giả thuyết được


11
nêu ra là phải chăng do mẹ không có miễn dịch với ho gà nên trẻ không có
khả năng nhận được kháng thể bảo vệ truyền qua rau thai? Nhiều nghiên
cứu chỉ ra nguồn chủ yếu lây nhiễm ho gà cho trẻ là các thành viên trong
gia đình thậm chí từ những người không có triệu chứng ho, trong đó mẹ là
nguồn lây chính: Bisgard (35%) [8], de Greeff (67%) [9]. Vì vậy cần định
lượng nồng độ kháng thể kháng ho gà trong máu mẹ ở trẻ nhỏ dưới 3 tháng
tuổi để xác định chính xác nồng độ kháng thể ho gà trong máu mẹ, tỷ lệ bà
mẹ nhiễm vi khuẩn ho gà, từ đó xác định chiến lược điều trị dự phòng hiệu
quả cho trẻ nhỏ.
Đứng trước tình hình thực tế nêu trên, chúng tôi tiến hành nghiên cứu:
“Nghiên cứu đặc điểm dịch tễ học lâm sàng của ho gà ở trẻ dưới 3 tháng
tuổi” với 2 mục tiêu sau:
1. Mô tả đặc điểm dịch tễ học lâm sàng của ho gà ở trẻ dưới 3 tháng tuổi
tại bệnh viện Nhi Trung ương.
2. Nhận xét mối liên quan giữa kháng thể kháng ho gà trong huyết thanh

mẹ với mắc ho gà ở trẻ dưới 3 tháng tuổi.


12
Chương 1

TỔNG QUAN
1.1 Vi khuẩn ho gà
1.1.1 Đặc điểm vi khuẩn ho gà
Trực khuẩn ho gà (Bordetella pertussis) thuộc giống Bordetella, họ
Alcaligenaceae là 1 giống cầu trực khuẩn gram âm, hiếu khí, kích thước
nhỏ. Năm 1906, vi khuẩn Bordertella pertussis lần đầu được phân lập bởi
Bordet và Gengou từ mẫu đờm của một bệnh nhi mắc bệnh ho gà. Năm
1923, Bergey và cộng sự đặt tên cho vi khuẩn ho gà là Haemophilus
pertussis (Haemophilus: ưa máu, per: trầm trọng, tusiss: ho) do vi khuẩn
này cần môi trường máu trong phòng thí nghiệm mới mọc lên được. Tuy
nhiên không giống với Haemophilus, Bordetella pertussis không cần yếu tố
tăng trưởng X (haematin) và V (niconitamide adenine dinucleotides). Năm
1952, Moreno Lopez chuyển chúng sang giống Bordetella do Bordet lần
đầu tiên phân lập được.
Giống Bordetella gồm 7 chủng: B. pertussis, B. parapertussis,
B. bronchiseptica (3 tác nhân gây bệnh quan trọng ở người), B.avium,
B.hinzii, B.holmessii và B. trematum. Trong đó B. pertussis là nguyên nhân
quan trọng nhất gây bệnh ho gà ở người [10].
1.1.2 Hình thái học
B. pertussis hình cầu trực khuẩn nhỏ, kích thước 0,2-0,5 x 0,5-1 µm. Bắt
màu gram âm, thường đậm hơn ở 2 cực.
B. pertussis không có lông, chúng có các sợi ngưng kết hồng cầu (FHA:
filamentous hemagglutinin) chứa protein, trông giống như các pili. FHA giúp
cho vi khuẩn bám vào tế bào lông chuyển của biểu mô đường hô hấp [11].



13

Hình 1.1: Hình ảnh vi khuẩn ho gà nhuộm màu trên kính hiển vi điện tử
1.1.3 Nuôi cấy
B. pertussis là 1 vi khuẩn khó nuôi cấy. Khi mới phân lập, chúng không
mọc trên môi trường dinh dưỡng thông thường. Chúng mọc chậm trên môi
trường Bordet-Gengou (môi trường không có pepton, có khoai tây, glycerol
và máu) và hiếu khí tuyệt đối. Nhiệt độ thích hợp nhất là 37 độ C. Sau 3-6
ngày, B. pertussis mọc thành những khuẩn lạc nhỏ, hình vòm, mặt nhẵn bóng
và sáng như một giọt thủy ngân [11].
1.1.4 Tính chất hóa sinh
B. pertussis đề kháng yếu với các yếu tố ngoại cảnh (nhiệt độ, hóa chất,
tia cực tím), ra khỏi cơ thể, chúng chết rất nhanh [11].
1.1.5 Độc lực của vi khuẩn.
Vi khuẩn ho gà chứa khoảng 3121 protein, trong đó có rất nhiều kháng
nguyên và các chất có hoạt tính sinh học. Các chủng Bordetella đều mang các


14
gen độc lực và có một kháng nguyên O chung nhưng chỉ B. pertussis biểu
hiện một protein độc lực mạnh - độc tố ho gà (PT: pertussis toxin).

Hình 1.2: Sơ đồ cấu trúc vi khuẩn ho gà [12]
Bordetella pertussis khi hít vào đường hô hấp sẽ bám vào biểu mô của
đường hô hấp. Sự gắn kết giữa vi khuẩn ho gà với tế bào nhung mao đường
hô hấp nhờ các sợi ngưng kết hồng cầu (FHA), một số sợi ngưng kết kháng
nguyên agglutinogens (FIM2, FIM3) và độc tố ho gà (PT). Vi khuẩn ho gà tồn
tại được ở biểu mô đường hô hấp do chất gây độc tế bào khí quản (TCT

tracheal cytotoxin) làm liệt các tế bào lông chuyển và suy giảm chức năng tế
bào bạch cầu do độc tố ho gà PT cùng với độc tố adenylate cyclase.


15

Hình 1.3: Cơ chế tác dụng của độc tố PT [12]
PT là một độc tố nội tế bào, bao gồm 6 tiểu đơn vị: một tiểu đơn vị A
chịu trách nhiệm về tác dụng sinh học và pentamer B gắn trực tiếp tiểu đơn vị
A vào bào tương. Khi vào tế bào PT được vận chuyển từ bộ máy golgi đến
lưới nội sinh chất. Tại lưới nội sinh chất, pentamar B gắn vào ATP và tách
khỏi tiểu đơn vị A. Tiểu đơn vị A được vận chuyển vào tế bào chất nhờ
exosome tới màng tế bào và gắn vào protein G làm thay đổi khả năng điều
chỉnh nhiều enzym của protein G gây ra ức chế sản xuất AMP vòng. Kết quả
gây ức chế sản sinh cytokin và ức chế sự hồi phục của các tế bào miễn dịch ở
vị trí nhiễm trùng. Ngoài ra, PT là một độc tố quan trọng liên quan đến tử
vong ở trẻ nhỏ do gây tăng bạch cầu lympho trong bệnh ho gà [12].


16
Bảng 1.1: Vai trò các thành phần vi khuẩn Bordetella pertussis
trong bệnh sinh và miễn dịch [10]
Thành phần
Vị trí
Độc tố ho gà
Ngoài tế bào
Pertussis toxin (PT)

Hoạt tính sinh học
Kích thích quá trình bám dính vào biểu mô

đường hô hấp
Nhạy cảm với histamine (histamine
sensitizing factor – HSF)
Kích thích tăng lympho bào (lymphocytosis
promoting factor – LPF)
Tăng bài tiết insulin
Nguyên nhân gây phân chia tế bào Lympho T
Kích thích sản xuất interleukin-4 và IgE
Ức chế chức năng thực bào của bạch cầu
Gây tổn thương tế bào trứng ở chuột đồng
Trung Quốc

Filamentous
hemagglutinin
(FHA)

Bề mặt tế bào

Kích thích quá trình bám dính vào biểu mô
đường hô hấp
Gây kết dính hồng cầu

Pertactin (PRN)

Ngoài màng tế Kích thích quá trình bám dính vào biểu mô
bào
đường hô hấp

Agglutinogen(FIM) Các lông mao trên Kích thích quá trình bám dính vào biểu mô
bề mặt tế bào

đường hô hấp
Độc tố Adenylate
cyclase (AC)

Bào tương

Ức chế chức năng thực bào của bạch cầu
Gây chết theo chương trình (apoptosis) trong
các đại thực bào; xúc tác quá trình tạo ra AMPc
Gây tan máu trong ống nghiệm

Tracheal cytotoxin
(TCT)

Ngoài tế bào
Giống
Peptidoglycan

Kích thích tổng hợp interleukin-1 và nitric oxide
Gây ứ máu tại các lông mao, tổn thương tế
bào biểu mô tiết nhày của khí quản chuột, hoại
tử khí quản chuột.


17
1.2 Dịch tễ học
1.2.1 Tình hình bệnh ho gà
Ho gà là một nguyên nhân gây nhiễm khuẩn đường hô hấp quan trọng ở
trẻ nhỏ trên toàn thế giới thậm chí ở cả những quốc gia có tỷ lệ bao phủ vắc
xin cao (biểu đồ 1.1). Ước tính của WHO năm 2008 có khoảng 16 triệu ca

mắc ho gà trên toàn thế giới, 95% thuộc các quốc gia đang phát triển và
khoảng 195000 ca tử vong [3]. Gần đây, theo ước tính của nghiên cứu đo lường
gánh nặng bệnh tật toàn cầu năm 2013, tỷ lệ tử vong ở trẻ nhỏ dưới một tuổi do
ho gà xấp xỉ 400/1000000 trẻ đẻ sống - một con số thực sự báo động [4]

Tỷ lệ
Số ca

tiêm

mắc

chủng

Số ca mắc

Tỷ lệ
bao phủ

WHO ước tính

Biểu đồ 1.1: Số ca mắc ho gà hàng năm và tỷ lệ bao phủ DTP3 giai đoạn
1980-2015 [3]
Theo số liệu báo cáo năm 2014 của CDC có tới 32971 ca bệnh ho gà
được báo cáo, tăng hơn 15% so với 28639 ca được báo cáo năm 2013, xu
hướng mắc gia tăng ở nhóm trẻ vị thành niên và trẻ nhỏ dưới 3 tháng tuổi và
phần lớn số ca tử vong do ho gà xảy ra ở trẻ nhỏ dưới 3 tháng tuổi – nhóm trẻ
chưa được tiêm phòng vắc xin hoặc chưa tiêm đủ mũi vắc xin có nguy cơ cao
mắc biến chứng nặng [5]. Các báo cáo tình hình tử vong do ho gà ở thời kì



18
trước khi có vắc xin cũng cung cấp các bằng chứng gián tiếp cho thấy có
kháng thể chống ho gà từ mẹ truyền sang có thể bảo vệ con chống lại bệnh ho
gà trong thời gian ngắn, bằng chứng là số ca tử vong do ho gà ở trẻ sơ sinh
chỉ bằng 1/3 số ca tử vong ở trẻ 1 tháng - 3 tháng tuổi do ho gà. Sau khi tiến
hành tiêm vắc xin ho gà số ca tử vong do ho gà ở nhóm tuổi trên 3 tháng giảm
rõ rệt, tuy nhiên tỷ lệ nhóm trẻ dưới 3 tháng tuổi vẫn chiếm tỷ lệ tử vong cao
nhất (bảng 1.2). Nhìn chung trong cả 2 thời kì, tỷ lệ tử vong do ho gà chủ yếu
gặp ở nhóm trẻ dưới 3 tháng tuổi. Trong thời kì chưa có vắc xin, khoảng 3050% bà mẹ mang thai có kháng thể kháng ho gà trong máu nhưng với nồng
độ antiPT IgG rất thấp (<10 IU/ml), có thể đây là lí do tỷ lệ mắc bệnh và tỷ lệ
tử vong do ho gà ở nhóm trẻ dưới 1 tuổi rất cao [13] [14].
Bảng 1.2: Tử vong do ho gà ở trẻ nhỏ dưới 1 tuổi tại Mỹ trong 2 giai đoạn
1938-1940 và 1990-1999 [13]
Tuổi (tháng)
0
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11

1938-1940
n

396
1166
1061
791
646
515
502
458
447
417
361
363

1990-1999
%
5,6
16,4
14,9
11,1
9,1
7,2
7,0
6,4
6,3
5,9
5,1
5,1

n
35

33
12
4
3
2
1
3
0
0
0
0

%
38
34,8
13
4,4
3,3
2,2
1,1
3,3
0
0
0
0

Tại Việt Nam, khi chưa thực hiện chương trình tiêm chủng mở rộng,
bệnh ho gà thường xảy ra và phát triển thành dịch ở nhiều địa phương đặc biệt
nghiêm trọng ở miền núi nơi có trình độ kinh tế xã hội phát triển thấp. Dịch
có tính chu kì khoảng 3-5 năm. Chương trình tiêm chủng mở rộng bắt đầu



19
thực hiện tiêm phòng ba liều vắc xin Bạch hầu –Ho gà – Uốn ván (DPT) cho
trẻ nhỏ dưới 1 tuổi từ năm 1984 khi tỷ lệ mắc ho gà là 4,1/100000 dân. Từ đó
đến nay đã trải qua hơn 30 năm tỷ lệ bao phủ vắc xin DPT đã đạt trên 90%, và
từ năm 2011 Việt Nam đã thực hiện theo khuyến cáo của WHO triển khai
tiêm nhắc lại mũi DPT cho trẻ 18 tháng trên phạm vi toàn quốc thì số ca mắc
và tử vong trên toàn quốc liên tục giảm từ năm 1984. Trong 5 năm (20072012) nước ta đã khống chế được tỷ lệ mắc ho gà xuống còn dưới
0,32/100000 dân và đặc biệt từ năm 2009 tỷ lệ ho gà giảm xuống còn
0,1/100000 với 81 ca mắc tản phát, giảm 28,6% so với năm 2008 (biểu đồ
1.2). Liên tục từ năm 2006 -2012 không có ca nào tử vong do mắc ho gà (biểu
đồ 1.3) [6]. Đó là những thành tựu đáng kể của việc kiểm soát dịch bệnh ho
gà thông qua chương trình tiêm chủng mở rộng của nước ta.

Biểu đồ 1.2: Tỷ lệ DPT3 và tỷ lệ mắc ho gà tại Việt Nam 1984-2012 [6].
Biểu đồ 1.3: Số ca mắc ho gà tại Việt Nam giai đoạn 2005-2012 [6]
Tuy nhiên theo thống kê của Cục Y tế dự phòng Việt Nam 3 tháng đầu
năm 2017 cả nước ghi nhận có 83 trường hợp mắc ho gà, 5 ca tử vong tại các


20
tỉnh phía Bắc, trong đó Hà Nội có số ca mắc cao nhất. 80% số ca mắc là trẻ
nhỏ dưới 3 tháng tuổi và phần lớn rơi vào nhóm trẻ dưới 2 tháng tuổi chưa
tiêm phòng ho gà, do đó kháng thể kháng ho gà của trẻ hoàn toàn phụ thuộc
vào lượng kháng thể mẹ truyền cho trong quá trình mang thai [7].
1.2.2 Người cảm thụ
Từ trước đến nay, ho gà được coi là căn bệnh của trẻ em. Trước khi sử
dụng vắc xin 95% các trường hợp ho gà ghi nhận được ở trẻ em dưới 10 tuổi,
chỉ khoảng 7,5% xảy ra ở trẻ <1 tuổi [15].

Tuy nhiên theo thống kê của CDC trong giai đoạn 1990-2015 tỷ lệ mắc
ho gà ở nhóm trẻ dưới 1 tuổi ngày càng gia tăng (biểu đồ 1.4). Hiện tại tỷ lệ
mắc bệnh ho gà của nhóm trẻ nhỏ dưới 1 tuổi vượt quá tỉ lệ mắc của tất cả các
nhóm tuổi khác. Trẻ nhỏ dưới 1 tuổi có nguy cơ mắc bệnh nặng và tử vong
cao nhất. Cũng theo CDC phần lớn các trưởng hợp tử vong xảy ra ở trẻ nhỏ
chưa tiêm phòng vắc xin hoặc chưa được tiêm chủng đầy đủ [5].

Tỷ
lệ
mắc


21
Biểu đồ 1.4: Tỷ lệ các ca ho gà được báo cáo theo lứa tuổi tại Mỹ
từ năm 1990-2015 [5].
1.2.3 Nguồn lây truyền
Trong 1 nghiên cứu tại 4 quốc gia tham gia chương trình nghiên cứu tăng
cường giám sát ho gà từ năm 1999-2002 báo cáo có 774 trẻ nhỏ dưới 1 tuổi
mắc ho gà. Nghiên cứu tiến hành phỏng vấn được 616/774 (80%) bố mẹ hoặc
người chăm sóc trẻ để tìm ra nguồn lây nhiễm. Trong đó có 264/616 (43%) ca
xác định được nguồn lây nhiễm hoặc nghi ngờ. Các thành viên trong gia đình
hoặc tiếp xúc gần với trẻ là nguồn lây nhiễm nghi ngờ trong 159/212 (75%)
số ca ho gà từ 0-3 tháng tuổi và 38/52 (73%) số ca ho gà từ 4-11 tháng tuổi.
Mẹ là nguồn lây nhiễm trong 75/212 (35%) số ca ho gà ở trẻ 0-3 tháng tuổi và
9/52 (17%) số ca 4-11 tháng tuổi. Trong 264 ca xác định được nguồn lây
nhiễm, bố chiếm 15%, anh chị em ruột chiếm 20%, bạn bè – hàng xóm chiếm
24%, người tiếp xúc với trẻ trong ngày chiếm 2%. Phân nhóm độ tuổi của
nguồn lây nhiễm cho thấy 17% tuổi 0-4 tuổi, 7% 5-9 tuổi, 20% 10-19 tuổi,
21% 20-29 tuổi và 35% trên 30 tuổi [8].
Qua đó ta có thể thấy để tìm được nguồn lây nhiễm ho gà ở trẻ nhỏ rất

khó, chỉ khoảng 40% số ca tìm được nguồn lây nhiễm. Những ca không xác
định được nguồn lây nhiễm có thể do phơi nhiễm với người ho gà nhẹ hoặc
không biết mắc ho gà với các cơn ho rất nhẹ, thậm chí không có triệu chứng
ho là thách thức chẩn đoán cho nhân viên y tế vì triệu chứng không điển
hình. Tuy nhiên vì có đến 75% số ca ho gà dưới 3 tháng tuổi tìm được nguồn
lây là các thành viên trong gia đình nên đứng trước 1 đứa trẻ có triệu chứng
nghi ngờ ho gà ta cần khai thác tiền sử ho của các thành viên trong gia đình,
tiến hành chẩn đoán và điều trị dự phòng cho những người tiếp xúc gần với
bệnh nhân.


22
1.2.4 Đường lây truyền
Ho gà là một bệnh rất dễ lây từ người sang người. Bệnh lây qua đường
tiếp xúc bằng các chất tiết đường hô hấp và lây qua đường hô hấp ở một
khoảng cách gần tỷ lệ lây nhiễm có thể tới 100%. Y văn không ghi nhận
những trường hợp người mang vi khuẩn ho gà mạn tính. Do đó sau khi tiếp
xúc với nguồn phơi nhiễm như trong các đồ dùng gia đình, vật dụng ở nơi
chăm sóc trẻ tỷ lệ nhiễm ho gà xác định trên cận lâm sàng hoặc có biểu hiện
bệnh nhẹ lên tới 50% ở những người có miễn dịch đầy đủ hoặc có miễn dịch
tự nhiên [16].
1.3 Cơ chế sinh bệnh
B. pertussis xâm nhập vào biểu mô đường hô hấp của người, chúng
bám vào các tế bào lông chuyển bằng sợi ngưng kết hồng cầu, FIM2, FIM 3
và pertactin nhưng không xâm nhập vào máu. Thương tổn xảy ra chủ yếu ở
phế quản và các tiểu phế quản. Tại chỗ bám, chúng tiết ra độc tố khí quản,
adenylate cyclase gây phá hủy hệ thống nhung mao ở lớp thượng bì, tế bào bị
hoại tử gây viêm cấp tính đường hô hấp, và niêm mạc bị kích thích tăng tiết
nhầy tạo điều kiện cho sự hấp thụ độc tố PT. Độc tố PT tác động lên biểu mô
phế quản làm tăng nhạy cảm với histamin, tăng tế bào lympho, tăng tiết

insulin. Sự giải phóng histamine từ các tổ chức bị tổn thương tác động lên
niêm mạc vốn đã nhạy cảm với histamin gây kích thích cực độ đường hô hấp,
dẫn đến những cơn ho không tự kìm chế được. Đường hô hấp bị tổn thương
dẫn đến bội nhiễm các vi khuẩn khác, có thể gây viêm phổi, làm cho bệnh trở
nên trầm trọng hơn.
Độc tố ho gà một mặt kích thích trực tiếp vào các thụ cảm thần kinh
của niêm mạc đường hô hấp gây ra cơn ho điển hình, mặt khác tác động lên
hệ thần kinh trung ương. Tại đây, độc tố ảnh hưởng trực tiếp đến trung khu hô
hấp ở hành tủy, gây ra những biểu hiện rối loạn hô hấp, nặng có thể ngừng


23
thở. Độc tố còn có thể gây ra những ổ hưng phấn ở trung khu hô hấp, kết quả
là tạo ra những cơn ho phản xạ kéo dài. Sự lan truyền của độc tố ở hệ thần
kinh trung ương có thể dẫn tới biểu hiện viêm não. Ngoài ra, độc tố ho gà còn
gây nên hiện tượng tăng lympho bào điển hình ở máu ngoại vi.
Những đảo Langerhans của tụy được hoạt hóa làm tăng sản xuất
insulin, gây ra hạ đường huyết. Tổn thương não đôi khi gặp trong ho gà
nặng, có thể liên quan đến tình trạng hạ đường huyết hơn là tình trạng thiếu
oxy não trong cơn ho [16] [17].
1.4 Mối liên quan giữa kháng thể chống ho gà trong huyết thanh mẹ với
việc mắc ho gà ở trẻ nhỏ dưới 3 tháng tuổi.
1.4.1 Sự truyền kháng thể chống ho gà từ mẹ sang con trong quá trình
mang thai và khả năng bảo vệ.
Mọi kháng thể lớp IgG đều được vận chuyển từ mẹ sang thai nhi qua
bánh rau chủ yếu trong 3 tháng cuối của thời kì thai nghén một cách tích cực
và hiệu quả. Sự truyền kháng thể từ mẹ sang con cung cấp cho trẻ sơ sinh khả
năng bảo vệ khỏi một số bệnh và giảm mức độ nghiêm trọng của bệnh nếu
mắc phụ thuộc vào lượng truyền kháng thể của mẹ qua nhau thai.
Y văn đã mô tả hiện tượng truyền kháng thể kháng ho gà từ mẹ sang

con nhưng hiệu quả tương đối thấp, chỉ 2-12% cặp mẹ con có nồng độ kháng
thể trong máu con cao hơn máu mẹ. Y văn cũng cho thấy có sự tương quan
trực tiếp giữa nồng độ kháng thể ở những cặp mẹ con mà nồng độ kháng thể
của con rất cao khi được sinh ra từ những bà mẹ đã mắc bệnh ho gà hoặc đã
được tiêm phòng ho gà [18] [19].
Các kháng thể đặc hiệu chống ho gà được truyền thụ động từ mẹ sang
con trong quá trình mang thai. Hiệu quả của sự truyền kháng thể này phụ thuộc
vào nhiều yếu tố: sự toàn vẹn của nhau thai, nồng độ antiPT IgG máu mẹ, loại
vắc xin, thời điểm mẹ tiêm vắc xin và IgG thuộc phân nhóm nào. Nồng độ


24
kháng thể chống ho gà (antiPT IgG) >20 IU/ml được cho là có khả năng bảo vệ
trẻ sơ sinh khỏi bệnh ho gà [18]. Do đó một nghiên cứu của tác giả
Smallenburg và cộng sự trên 2790 trẻ được đánh giá nồng độ antiPT IgG khi
sinh, 5 ngày, 1 tháng và 2 tháng tuổi nhằm mục đích xác định bao nhiêu trẻ sơ
sinh được sinh được bảo vệ khỏi bệnh ho gà bởi kháng thể kháng ho gà, mức
độ bảo vệ và thời gian bảo vệ được duy trì trong bao lâu. Kết quả cho thấy chỉ
3,7% trẻ sinh ra có nồng độ antiPT IgG >30 IU/ml trong máu cuống rốn. Điều
đó có nghĩa là >95% trẻ sinh ra có nồng độ antiPT IgG trong máu không đủ bảo
vệ cơ thể khỏi bệnh ho gà. Ở nhóm trẻ có nồng độ antiPT IgG >30 IU/ml này
nồng độ antiPT IgG sau 5 ngày, 1 tháng và 2 tháng là 40,6; 20,7 và 16,7
IU/ml. Sự suy giảm nống độ kháng thể kháng ho gà khi trẻ 2 tháng tuổi
không còn đủ để bảo vệ trẻ. Do đó bắt đầu từ 2 tháng trẻ cần được tiêm
phòng lần đầu tiên để bảo vệ cơ thể khỏi bệnh ho gà [20].
Một số thử nghiệm lâm sàng cho thấy ở người có nồng độ kháng thể cao
có ít khả năng bị bệnh ho gà hơn. Do đó một hướng đi được đặt ra là cung cấp
antiPT IgG ở mức độ cao hơn cho trẻ khi sinh bằng cách nâng cao nồng độ
antiPT IgG trong máu mẹ bằng cách tiêm phòng cho mẹ trong quá trình mang
thai. Điều này giúp bảo vệ trẻ sơ sinh từ khi sinh ra cho đến khi được tiêm

chủng và có khả năng bảo vệ cơ thể hoàn thiện.
Năm 2015, tác giả Vũ Ngọc Hà đã tiến hành nghiên cứu trên 107 phụ nữ
mang thai 20-32 tuần trong đó có 55 phụ nữ được tiêm vắc xin ho gà vô bào
và 52 phụ nữ mang thai không tiêm vắc xin ho gà vô bào, con của 2 nhóm bà
mẹ này đều được tiêm vắc xin ho gà vào cuối tháng 2, 3 và 4 tháng tuổi đã
đưa ra kết luận việc tiêm vắc xin ho gà vô bào cho phụ nữ mang thai tạo ra
nồng độ kháng thể kháng ho gà ở mức cao trong máu mẹ khi sinh và tương
quan thuận với nồng độ kháng thể kháng ho gà trong máu cuống rốn của trẻ.
Con của những phụ nữ mang thai được tiêm vắc xin ho gà có nồng độ kháng


25
thể kháng ho gà trong máu cao hơn rõ rệt khi so sánh với nhóm trẻ là con của
những phụ nữ mang thai không được tiêm vắc xin ho gà vô bào. Tuy nhiên
nhóm trẻ này lại có đáp ứng miễn dịch sau tiêm vắc xin ho gà không tốt bằng
nhóm trẻ của mẹ không được tiêm vắc xin. Tuy nhiên cả 2 nhóm bệnh và
chứng của tác giả khi theo dõi dọc sau khi kết thúc mũi tiêm thứ 3 không có
trẻ nào ghi nhận mắc ho gà, do vậy vẫn chưa thể kết luận được hiệu quả của
việc tiêm phòng vắc xin ho gà cho mẹ nhằm bảo vệ con chống bệnh ho gà
trước khi được tiêm vắc xin phòng ho gà [21].
1.4.2 Hiệu quả bảo vệ của vắc xin ho gà.
Khả năng bảo vệ của vắc xin ho gà toàn tế bào sau tiêm chủng không
tồn tại vĩnh viễn mà giảm dần theo thời gian. Nghiên cứu của tác giả
Schwartz năm 2016 đã chứng minh được khả năng bảo vệ của vắc xin ho gà
giảm khoảng 10% mỗi năm, tỷ lệ ca nhiễm ho gà tăng 2% mỗi năm, cụ thể
sau lần tiêm phòng cuối cùng, khả năng bảo vệ của vắc xin ho gà giảm dần
lần lượt là 80% sau 15-364 ngày, 84% sau 1-3 năm, 62% sau 4-7 năm, 41%
sau 8 năm hoặc nhiều năm sau tiêm chủng (biểu đồ 1.5) [22].



×